Tải bản đầy đủ (.docx) (67 trang)

TẠO lập và sử DỤNG vốn CHO NGƯỜI NGHÈO tại VIỆT NAM, THỰC TRẠNG và GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (432.12 KB, 67 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
CƠ SỞ THANH HÓA- KHOA KINH TẾ
d &c

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI:
TẠO LẬP VÀ SỬ DỤNG VỐN CHO NGƯỜI NGHÈO TẠI
VIỆT NAM, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Giảng viên HD: TH.S.NGUYỄN THỊ PHƯƠNG
Lớp: DHTN5TH
Sinh viên TH: NHÓM 09
STT HỌ VÀ TÊN MSSV
1 NguyễnThị Lan Anh 09023703
2 Hoàng Thị Hằng 09023583
3 Lê Thị Huyền 09018483
Thanh Hóa, tháng 07 năm 2013
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TH.S. Nguyễn Thị Phương
LỜI CẢM ƠN
Chúng em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới giảng viên hướng dẫn Th.S. Nguyễn Thị
Phương người đã luôn ở bên cạnh và tận tình giúp đỡ chúng em trong suốt quá trình
nghiên cứu chuyên đề tốt nghiệp của chúng em.
Chúng em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trường Đại học Công
nghiệp Tp.Hồ Chí Minh,đặc biệt là các thầy cô giáo khoa Tài chính-Ngân hàng, những
người đã tận tình hướng dẫn Chúng em hoàn thành chuyên đề này
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hóa, ngày 01 tháng 07 năm 2013
Thực hiện: Nhóm 09
Nhóm 09 - Lớp: DHTN5TH
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TH.S. Nguyễn Thị Phương


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN


















Thanh Hóa, ngày … tháng … năm 2013
Giảng viên
Nhóm 09 - Lớp: DHTN5TH
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TH.S. Nguyễn Thị Phương
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TT TỪ VIẾT TẮT DIỄN GIẢI
1 GDP Thu nhập quốc dân bình quân đầu người
2 CT Chương trình
3 PQLI Chỉ tiêu chất lượng cuộc sống
4 HDI Chỉ số phát triển của con người
5 UNDP Chương trình phát triển liên hợp quốc.

6 ODC Tổ chức hội đồng phát triển Hải ngoại
7 XĐGN Chương trình xóa đói giảm nghèo
8 WB Ngân hàng thế giới
9 ODA Vốn viện trợ phát triển chính thức
10 FDI Vốn đầu tư trực tiếp
11 BAAC Ngân hàng nông nghiệp Thái Lan
12 NSNN Ngân sách nhà nước
Nhóm 09 - Lớp: DHTN5TH
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TH.S. Nguyễn Thị Phương
MỤC LỤC
Nhóm 09 - Lớp: DHTN5TH
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TH.S. Nguyễn Thị Phương
LỜI NÓI ĐẦU
Đói nghèo là một vấn đề xã hội mang tính toàn cầu, mục tiêu xoá đói giảm nghèo
không chỉ có ở nước ta mà còn nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
Nghèo đói không chỉ làm cho hàng triệu người không có cơ hội được hưởng thụ
thành quả văn minh tiến bộ của loài người mà còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng về
vấn đề kinh tế xã hội đối với sự phát triển, sự tàn phá môi trường sinh thái. Vấn đề nghèo
đói không được giải quyết thì không một mục tiêu nào mà cộng đồng quốc tế cũng như
quốc gia định ra như tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống, hoà bình ổn định, đảm bảo
các quyền con người được thực hiện. Đặc biệt ở nước ta, quá trình chuyển sang kinh tế
thị trường với xuất phát điểm nghèo nàn và lạc hậu thì tình trạng đói nghèo càng không
thể tránh khỏi. Theo số liệu thống kê mới nhất, hiện nay cả nước có khoảng trên 2 triệu
hộ nghèo đói chiếm 11% tổng số hộ trong cả nước. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nghèo
đói nhưng phải kể hơn cả là thiếu vốn và kỹ thuật làm ăn.
Vốn cho người nghèo đang là một nghị sự nóng hổi trên diễn đàn kinh tế. Giải
quyết vốn cho người nghèo để thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo đã được Đảng và
Nhà nước hết sức quan tâm.
Trong các năm qua, tuy đã có nhiều biện pháp hỗ trợ vốn cho người nghèo nhưng
thực trạng mà đánh giá vốn chuyển tải đến người nghèo chưa được là bao nhiêu và hiệu

quả sử dụng chưa cao. Tuy vậy nhìn tổng thể và trước những yêu cầu đặt ra thì quả thực
còn nhiều mặt cần được đề cập để đi đến đưa ra những giải pháp cơ bản, lâu dài cho việc
hỗ trợ vốn làm ăn tới người nghèo ở nước ta.
Sau một thời gian tham khảo ý kiến của thầy cô giáo cùng với ý thức mong muốn
góp phần tích cực vào phát triển kinh tế của đất nước. Em mạnh dạn lựa chọn đề tài "Tạo
lập và sử dụng vốn cho người nghèo tại Việt Nam, thực trạng - giải pháp". Là vô cùng
cần thiết.
1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở phân tích những vấn đề cơ bản: kinh tế thị trường và tính tất yếu nghèo
đói trong nền kinh tế, vốn cho người nghèo và các kênh hỗ trợ vốn cho người nghèo về
mặt lý luận cũng như thực tiễn ở nước ta thời gian vừa qua. Trên cơ sở đó đưa ra các giải
pháp về vốn hỗ trợ người nghèo ở nước ta hiện nay.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Nhóm 09 - Lớp: DHTN5TH Trang 6
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TH.S. Nguyễn Thị Phương
Đề tài lấy vấn đề về vốn và sự vận động của vốn cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo ở
nước ta làm đối tượng nghiên cứu.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu kết hợp với phương pháp
phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh, xử lý hệ thống mô hình hoá, thực chứng và các
phương pháp khác của nghiên cứu khoa học kinh tế.
4. Kết cấu đề tài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được trình trong 3 chương.
Chương 1 - Kinh tế thị trường và các kênh hỗ trợ vốn cho người nghèo ở nước ta.
Chương 2 - Thực trạng việc tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ cho người nghèo ở nước
ta trong thời gian vừa qua.
Chương 3 - Một số giải pháp tạo lập và sử dụng vốn hỗ trợ người nghèo trong giai
đoạn hiện nay.
Nhóm 09 - Lớp: DHTN5TH Trang 7
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TH.S. Nguyễn Thị Phương

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ TẠO LẬP VÀ SỬ DỤNG VỐN TRONG NỀN
KINH TẾ
1.1. KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ NHỮNG ƯU ĐIỂM, NHƯỢC ĐIỂM
Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá đã phát triển tới trình độ cao, khi mà các
quan hệ tiền tệ, giá cả, thị trường trở thành yếu tố chủ đạo cấu thành cơ chế vận hành của
nền kinh tế và kể cả xã hội; ở đây quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá được vận động
tự do bởi thống trị của nguyên tắc tự do cạnh tranh.
Có thể nói kinh tế thị trường là sản phẩm cao cấp của sự tiến hoá lịch sử nhân loại.
Quả thật trong lịch sử phát triển kinh tế, kinh tế thị trường đã phát huy đến mức cao nhất
mọi tiềm năng, tiền vốn, công nghệ để sản xuất một cách có hiệu quả cao. Với tư cách đó,
nó chứa đựng nhiều ưu điểm so với các hình thái và tổ chức kinh tế trước nó. Phải kể đến
là các ưu điểm sau.
Một là: Kinh tế thị trường với điều kiện tồn tại các chủ thể kinh tế độc lập là tạo khả
năng chủ động lựa chọn mô hình sản xuất kinh doanh khả dĩ, nếu xét tổng quát nền kinh
tế lâu dài thì đây là yếu tố nội sinh thúc đẩy hiệu quả kinh tế toàn xã hội và từng cá nhân
tăng lên.
Hai là: Kinh tế thị trường với điều kiện trình độ phân công lao động xã hội tăng lên,
theo đó làm tăng trình độ xã hội hoá nền sản xuất và thúc đẩy hiệu quả sản xuất tăng lên
Ba là: Kinh tế thị trường với mục đích tối thượng là lợi nhuận trong mọi hoạt động
kinh tế, theo đó tự nó đã thúc đẩy sản xuất mạnh mẽ so với các nền kinh tế trước đó. Bởi
vì để giải quyết được 3 vấn đề (sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai)
trong sản xuất của nền kinh tế thị trường, buộc từng chủ thể kinh tế phải tăng cường cải
tiến kỹ thuật, công nghệ sản xuất phải thoả mãn nhu cầu của xã hội
Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm trên, kinh tế thị trường tuyệt nhiên không phải
là một công cụ vạn năng để giải quyết hữu hiệu tất cả mọi vấn đề của nền kinh tế, mà
kinh tế thị trường luôn hàm chứa trong đó không ít khuyết tật, cụ thể là:
Thứ nhất: Kinh tế thị trường khi mà mục đích tối thượng là lợi nhuận, thì các chủ
thể kinh tế chỉ quan tâm tới hiệu quả sản xuất thuần tuý như "người dùng chanh chỉ biết
vắt hết nước" thì có thể gây ra một hậu quả nghiêm trọng đối với tiến trình phương pháp

Nhóm 09 - Lớp: DHTN5TH Trang 8
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TH.S. Nguyễn Thị Phương
kinh tế, xã hội lâu dài. Điều này đã được minh chứng rõ khi con người khai thác tài
nguyên, chặt cây, phá rừng đến một mức như huỷ diệt thì sự trả giá là không nhỏ tý nào
từ môi trường sinh thái cân bằng cho sự phát triển đã trở thành môi trường đang bị huỷ
diệt.
Thứ hai: Sự cạnh tranh tự do vốn có của nền kinh tế thị trường sẽ dẫn đến độc
quyền và chính sự độc quyền là nguyên nhân lũng đoạn nền kinh tế theo hướng thu lợi
riêng quá mức trên những tổn hại chung của xã hội. Cạnh tranh tự do (hơn nữa là tự phát)
là nguồn gốc tự nhiên, trực tiếp của tình trạng phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng xã
hội
Đối với nước ta nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường đã tạo điều kiện cho
một số doanh nghiệp và cá nhân có tiền vốn kỹ thuật làm ăn có hiệu quả, được khuyến
khích làm giàu chính đáng, tuy nhiên, cạnh tranh nảy sinh trong cơ chế thị trường có thể
dẫn đến những hậu quả xấu, nếu không có sự điều tiết của Nhà nước, cạnh tranh sẽ dẫn
đến tìm mọi mánh khoé làm ăn theo hướng "mạnh được, yếu thua" thậm chí "cá lớn nuốt
cá bé" từ đó dẫn đến kinh doanh trốn thuế, mua bán ép giá, lừa gạt, triệt tiêu lẫn nhau
đều làm cho thị trường tăng rối loạn. Cạnh tranh như thế, một số giàu lên nhanh chóng,
song cũng không ít người rơi vào làm ăn thua lỗ, phá sản cơ nghiệp làm cho nền kinh tế
bị kìm hãm và thất nghiệp, phân hoá thu nhập và giàu nghèo cũng có nguồn gốc từ đây.
Như vậy, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường luôn tồn tại hai thái cực: một
bên là tích cực đã thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, một bên là tiêu cực sẽ kìm hãm phát
triển kinh tế xã hội và phân hoá đời sống các tâng lớp dân cư. Để thúc đẩy mặt tích cực,
đồng thời hạn chế mặt tiêu cực thì đòi hỏi phải có vai trò điều tiết của Nhà nước.
1.2. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC ĐIỀU TIẾT NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
Như trên đã phân tích, về thực chất, cơ chế thị trường tự nó không đủ khả năng điều
chỉnh, khắc phục những khuyết tật do nó gây ra. Đó là lý do cần phải có sự can thiệp của
Nhà nước vào quá trình vận hành của hệ thống thị trường trong mọi giai đoạn phát triển
của nó. Đương nhiên sự can thiệp của Nhà nước phải có một định hướng rõ ràng, hơn
nữa được thể hiện trên các chức năng nhất định. Chúng ta có thể nhìn nhận chức năng

của Nhà nước thông qua các vấn đề sau
Một là: Với các công cụ chính sách, Nhà nước thực hiện điều tiết các quá trình kinh
tế vĩ mô, tạo lập môi trường vĩ mô cho phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội. Thuộc hệ
Nhóm 09 - Lớp: DHTN5TH Trang 9
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TH.S. Nguyễn Thị Phương
công cụ chính sách này như: chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, chính sách đầu tư,
chính sách phát triển nông thôn, chính sách xoá đói giảm nghèo
Hai là: Nhà nước tạo tập và duy trì một hành lang pháp lý để điều chỉnh các hoạt
động sản xuất kinh doanh. Thực hiện chức năng này Nhà nước có thể hạn chế những tiêu
cực trong hoạt động kinh tế xã hội do cạnh tranh hoặc độc quyền gây ra.
Ba là: Với tư cách là bộ máy quyền lực tập trung để điều chỉnh sự phát triển của xã
hội thì Nhà nước không thể không có chức năng định hướng kinh tế để hướng hoạt động
thị trường vào cơ cấu kinh tế và mục tiêu theo hướng đã chọn. Bởi vì chỉ có sự can thiệp
của Nhà nước thông qua các định hướng phát triển và có giải pháp để thực hiện chúng thì
nền kinh tế mới có thể phát triển đạt hiệu quả cao và lâu bền.
Bốn là: Nhà nước có chức năng điều tiết và phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng
xã hội. Đây không chỉ là chức năng kinh tế mà cả chức năng xã hội của Nhà nước. Điều
này được lý giải bởi: bên cạnh những vấn đề kinh tế, nền kinh tế thị trường còn phát sinh
nhiều vấn đề xã hội to lớn cần được giải quyết như tình trạng phân hoá giàu nghèo, bất
bình đẳng về tài sản, thu nhập mà còn có kéo theo phân hoá xã hội như học vấn, văn hoá,
lối sống, tệ nạn xã hội nếu không có sự hạn chế bằng điều tiết của Nhà nước thì nó
ngày một gia tăng hơn. Chỉ có Nhà nước, với tư cách là cơ quan quyền lực tối cao của xã
hội mới đủ khả năng điều chỉnh thông qua sử dụng các công cụ chính sách của mình. Tuy
nhiên sự tác động của Nhà nước có hiệu quả đến mức độ nào còn tuỳ thuộc vào tính hữu
hiệu của các công cụ, chính sách đã đề ra. Song trong điều kiện nền kinh tế thị trường thì
tác động của Nhà nước để đạt tới sự bình đẳng và công bằng tuyệt đối là khó có được. Tỷ
lệ đói nghèo gia tăng hay giảm xuống phụ thuộc nhiều yếu tố, song chỉ có kết quả khi có
sự can thiệp mạnh mẽ của nhà nước.
1.3. SỰ TỒN TẠI KHÁCH QUAN CỦA ĐÓI NGHÈO VÀ NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN NGHÈO ĐÓI.
1.3.1. Sự tồn tại khách quan của nghèo đói trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.

Nghèo đói là một hiện tượng phổ biến của nền kinh tế thị trường và tồn tại khách
quan đối với mỗi quốc gia trong quá trình phát triển. Cho dù phát triển là một thách thức
cấp bách trước loài người và nhờ phát triển có thể tạo ra những cơ hội tăng trưởng, song
hiện nay vẫn còn có 8.52triệu người đang sống ở mức nghèo khổ. Đặc biệt đối với nước
ta quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường với xuất phát điểm nghèo nàn lạc hậu thì
tình trạng đói nghèo càng không thể tránh khỏi, đến nay nước ta còn khoảng trên 2,13
triệu hộ thuộc diện nghèo đói và chiếm 9,6% tổng số dân trong cả nước. So với bình quân
Nhóm 09 - Lớp: DHTN5TH Trang 10
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TH.S. Nguyễn Thị Phương
thế giới có tỷ lệ nghèo đói tập trung ở nông thôn trên 70% thì ở nước ta điều đó lại càng
cao hơn chiếm khoảng 90% .
Mặc dù từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đến nay nhất là từ sau khi có nghị
quyết 10, hộ nông dân được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ đã thúc đẩy sản xuất nông
nghiệp đạt được kết quả cao hơn hẳn những thời kỳ trước đó. Nhờ vậy đời sống người
nông dân và kinh tế nông thôn nước ta dần đi vào thế ổn định và phát triển. Tuy nhiên
thừa nhận và khuyến khích các hộ phát triển sản xuất hàng hoá, tất yếu dẫn đến phát triển
không đồng đều giữa các hộ mà trước đây bị che đậy mờ đi bởi cơ chế tập trung bao cấp.
Tình trạng đói nghèo không chỉ còn là cá biệt mà đã trở thành hiện tượng phổ biến và có
xu hướng gia tăng ở nông thôn và các vùng khó khăn. Ngay cả những vùng đô thị, tình
trạng thất nghiệp do thiếu vốn và thiếu điều kiện làm ăn đã và đang làm phát sinh một bộ
phận hộ gia đình nghèo túng. Khoảng chênh lệch thu nhập giữa các phân tầng xã hội
ngày một nới rộng. Cùng với công cuộc đổi mới, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước
mạnh" do Đảng ta khởi xướng, một bộ phận dân cư vươn lên làm ăn có hiệu quả trong cơ
chế thị trường và trở nên giàu có. Song bên cạnh đó không ít người do nhiều nguyên
nhân đã chấp nhận vào ngưỡng nghèo đó. Mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta là liên tục
phấn đấu đưa toàn xã hội đến "công bằng văn minh", vì vậy Nhà nước đã và đang tập
trung chỉ đạo thực hiện bằng nhiều biện pháp tác động khác nhau để những vùng nghèo,
dân cư có đời sống khó khăn vươn lên đạt tới sự công bằng nhất định trong xã hội. Song
sự tác động của Nhà nước không bao giờ cũng đạt được như mong muốn. Tình trạng
nghèo đói ở nước ta vẫn tồn tại, thậm chí đã trở thành hiện tượng xã hội gay gắt.

Đã đến lúc các quốc gia, hơn nữa toàn thế giới coi giải quyết vấn đề nghèo đói như
một chiến lược toàn cầu. Bước vào thiên niên kỷ mới, đói nghèo vẫn là một trong những
thách thức lớn nhất của nhân loại. Hướng tới tương lai, cộng đồng quốc tế tiếp tục cam
kết thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, phấn đấu đến năm 2015 giảm 1/2 số người
nghèo trên thế giới. Hội nghị cũng kêu gọi cộng đồng quốc tế đẩy mạnh chiến dịch "tấn
công vào đói nghèo" và khuyến nghị các quốc gia cần có chiến lược toàn diện về xoá đói
giảm nghèo. Đặc biệt tại hội nghị thiên niên kỷ đầu tháng 9/2000 của Liên Hợp quốc tại
Oasinhtơn (Mỹ), một lần nữa khẳng định chống đói nghèo là một trong những mục tiêu
ưu tiên của cộng đồng quốc tế trong thế kỷ XXI. Tại hội nghị này, chủ tịch Trần Đức
Lương, trưởng đoàn đại biểu Việt Nam đã đề nghị lấy thập niên đầu tiên của thế kỳ XXI
Nhóm 09 - Lớp: DHTN5TH Trang 11
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TH.S. Nguyễn Thị Phương
làm thập niên dành ưu tiên cho xoá đói giảm nghèo trên phạm vi toàn thế giới và đã được
hội nghị đồng tình cao
Như vậy rõ ràng, giải quyết vấn đề nghèo đói ở nước ta không chỉ là đòi hỏi về mặt
xã hội (bao gồm chính trị, xã hội, đạo đức) mà còn đòi hỏi của vấn đề kinh tế. Bởi vì nền
kinh tế không thể tăng trưởng một cách bền vững, mỗi khi trong xã hội vẫn tồn tại lớp
người nghèo đói khá đông.
1.3.2. Những nguyên nhân dẫn đến đói nghèo.
Để có những giải pháp xoá đói giảm nghèo hữu hiệu thì trước hết phải tìm hiểu
nguyên nhân dẫn đến nghèo đói. Nếu xét về nguồn gốc thì nghèo đói do nhiều nguyên
nhân dẫn đến, có nguyên nhân tác động trực tiếp nhưng cũng có nguyên nhân chỉ là tác
nhân gián tiếp gây ra nghèo đói mà thôi. Trong "chuỗi" nguyên nhân gây ra nghèo đói
phải kể đến các nguyên nhân sau:
1.3.2.1. Nguyên nhân do thiếu vốn, thiếu kiến thức và kỹ thuật làm ăn
Vốn, kỹ thuật và kiến thức làm ăn là chìa khoá để người nghèo vượt khỏi ngưỡng
nghèo đói. Do không đáp ứng đủ vốn nhiều người rơi vào thế luẩn quẩn, làm không đủ ăn
phải đi làm thuê, vay nặng lãi, bán lúa non mong đảm bảo cuộc sống tối thiểu hàng ngày
nhưng nguy cơ nghèo đói vẫn thường xuyên đe doạ họ. Mặt khác do thiếu kiến thức làm
ăn nên họ chậm đổi mới tư duy làm ăn, bảo thủ với phương pháp sản xuất kém hiệu quả.

Thiếu kiến thức và kỹ thuật làm ăn là một lực cản lớn nhất hạn chế tăng thu nhập và cải
thiện đời sống của hộ gia đình nghèo.
1.3.2.2. Nguyên nhân do sinh đẻ nhiều nhưng đất đai canh tác lại ít
Mặc dù đã có cuộc vận động thực hiện chương trình sinh đẻ có kế hoạch nhưng
nhìn chung ở vùng nông thôn, miền núi, vùng dân tộc tỷ lệ sinh đẻ giảm xuống không
đáng kể, thậm chí có nơi không giảm và tiếp tục gia tăng. Sinh đẻ nhiều dẫn đến trong
một hộ gia đình người làm thì ít mà người ăn theo thì nhiều do đó thu nhập bình quân
thấp, đời sống khó khăn lại càng khó khăn hơn. Mặt khác diện tích đất canh tác có hạn,
hệ số sử dụng đất ở các vùng núi, vùng thiên tai không được nâng lên sản lượng thu
hoạch bình quân có xu hướng giảm xuống thì điều tất yếu sẽ dẫn đến nghèo đói.
1.3.2.3. Nguyên nhân do thiếu việc làm.
Thiếu việc làm bao giờ cũng là yếu tố tiềm ẩn dẫn đến nghèo đói. Đặc biệt đối với
các vùng đô thị thì thất nghiệp là đồng hành với sự nghèo đói. Nói như vậy không có
nghĩa là tình trạng thiếu việc làm trở thành căn nguyên nghèo đói không xảy ra ở nông
Nhóm 09 - Lớp: DHTN5TH Trang 12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TH.S. Nguyễn Thị Phương
thôn. Mà thiếu việc làm theo mùa và không đủ công ăn việc làm cho nông dân đang luôn
là mối đe doạ một bộ phận hộ gia đình sản xuất nông nghiệp tụt xuống bờ vực nghèo đói.
Bởi vậy tạo ra việc làm mới bằng các nghề phụ ở nông thôn nếu được giải quyết sẽ làm
tăng thu nhập cho dân cư và tất yếu là sẽ giảm được nghèo đói.
Đối với nước ta nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng XHCN hay giả định một định hướng hoàn mỹ hơn nhiều thì
khuyết tật của cơ chế thị trường, tự nó không thể mất đi được, thậm chí vẫn thể hiện rất
gay gắt. Ngay trên thị trường sức lao động, nếu như trước đây con người sinh ra hầu như
đã được đảm bảo về việc làm, thì ngày nay muốn có việc làm phải qua cạnh tranh. Những
người không có khả năng cạnh tranh do sức khoẻ, tàn tật, già yếu, thiếu kiến thức thì
chắc chắn sẽ rơi vào tình trạng không có lối thoát và những người "gặt hái" chiến bại
trong cạnh tranh cũng phải chịu đựng cuộc sống bếp bênh, nghèo đói. Sự tồn tại của thất
nghiệp, nhất là trong lứa tuổi thanh niên không những là nguyên nhân gây nghèo đói cho
gia đình mà còn có thể gây nhiều tiêu cực cho xã hội.

Tình trạng thiếu việc làm đang là thách thức cho mọi quốc gia trong việc thực hiện
mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Ở nước ta để thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo do
Đảng ta khởi xướng thì giải quyết việc làm đang là vấn đề kinh tế xã hội luôn nằm trong
chương trình nghị sự của chính phủ.
1.3.2.4. Nguyên nhân từ sức khoẻ.
Sức khoẻ yếu và do đó thiếu sức lao động với tình trạng đói nghèo thường có mối
quan hệ tỷ lệ thuận. Nghèo nàn đói rách làm cho sức khoẻ suy giảm, ngược lại sức khoẻ
yếu và thiếu sức lao động là nguyên nhân của sự nghèo khổ. Một khi con người không đủ
sức lao động, thường dẫn đến khó khăn trong cuộc sống và tất yếu nghèo đói sẽ diễn ra.
Đến lượt nó khi nghèo đói đã ngự trị thì không thể cải thiện được sức khoẻ tốt hơn. Cái
vòng luẩn quẩn giữa sức khoẻ và nghèo đói đòi hỏi phải giải quyết cả hai vấn đề là: giảm
nghèo đói và cải thiện sức khoẻ. Để cải thiện được sức khoẻ của cộng động đặc biệt là
đối với người có thu nhập thấp, gia đình khó khăn thì mạng lưới y tế và Bảo hiểm xã hội
có vai trò quyết định.
1.3.2.5. Nguyên nhân do hạ tầng cơ sở nông thôn được cải thiện chậm.
Do hậu quả chiến tranh kéo dài, thiên tai liên tiếp xảy ra ở nhiều vùng nên phần lớn
đường xá nông thôn bị tàn phá và xuống cấp, trong khi đó nguồn kinh phí luôn thiếu vì
vậy giao thông nông thôn nhiều nơi vẫn đang trong tình trạng khó khăn, không có khả
Nhóm 09 - Lớp: DHTN5TH Trang 13
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TH.S. Nguyễn Thị Phương
năng để tu bổ hoặc làm mới.
Nhiều cơ sở dịch vụ nông nghiệp trước đây do hợp tác xã nông nghiệp đảm nhận
cung cấp. Song vị trí hợp tác xác nông nghiệp ngày nay đã và đang hạn chế khả năng này
bởi nguồn vốn tạo lập của hợp tác xã rất khó khăn. Nhìn chung hợp tác nông nghiệp ngày
này là thiếu kinh phí và thường không đủ khả năng cung cấp các dịch vụ nông nghiệp cho
dù họ có thu phí. Hạ tầng cơ sở nông thôn đặc biệt quan trọng với các vùng khí hậu khắc
nghiệt, thiên tai thường xuyên xảy ra. Do trạm bơm và kênh mương thuỷ lợi chưa đáp
ứng được, nên một số vùng lụt, mất mùa xảy ra thường xuyên.
1.3.2.6. Nguyên nhân do có người trong gia đình mắc tệ nạn xã hội.
Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực

đáng kể thì những mặt tiêu cực cũng ngày càng rõ nét. Một trong những mặt tiêu cực đó
là số người mắc tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng như nghiện hút, cờ bạc, rượu chè bên
cạnh đó là tình trạng thương mại hoá tràn lan xâm nhập vào lĩnh vực y tế, văn hoá, giáo
dục làm cho đời sống xã hội có những biểu hiện xuống cấp, đạo đức xa sút, tâm lý hưởng
thụ tăng lên Đó là những thói hư tật xấu luôn tiềm tàng và phát sinh đối với những
người lười nhác lao động, ăn tiêu không có kế hoạch, không có ý thức vươn lên. Vì vậy
nếu họ xuất thân trong gia đình khó khăn nghèo túng thì gia đình đó ngày càng khó khăn
hơn, còn nếu họ xuất thân trong gia đình khá giả thì gia đình họ ngày càng đi xuống. Đó
chính là con đường dẫn đến phá sản cơ nghiệp, chấp nhận cảnh bần cùng đói rách. Đau
đớn hơn nó là sự huỷ hoại ghê gớm đạo đức, nhân văn của con người và gây ám ảnh sự
sợ hãi cho toàn xã hội.
1.3.2.7. Một số nguyên nhân khác.
Hậu quả của cuộc chiến tranh lâu dài đã làm cho hàng triệu gia đình ít nhiều phải
lâm vào cảnh đói nghèo, bệnh tật (chất độc mầu da cam, bom mìn dưới đất )
Do ở nơi xa xôi, hẻo lánh, rừng sâu, núi cao, đảo xa thường không có đường ô tô và
các phương tiện giao thông thuận tiện cho việc giao lưu kinh tế, văn hoá, xã hội. Mặt
khác do không có hoặc thiếu, chậm thông tin về các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá,
xã hội (Kể cả ở địa phương, khu vực, quốc gia và quốc tế). Trong khi đó, phong tục tập
quán và những hủ tục lạc hậu còn khá nghiêm trọng.
Trình độ dân trí, trình độ văn hoá thấp, số người chưa biết chữ còn nhiều, hạn chế
khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật, cách làm ăn mới.
Các cơ chế và chính sách đối với người nghèo chưa đồng bộ, còn chồng chéo với
Nhóm 09 - Lớp: DHTN5TH Trang 14
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TH.S. Nguyễn Thị Phương
chính sách xoá đói giảm nghèo, đặc biệt là chưa thực hiện được chính sách xã hội hoá
trong việc thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo.
Từ những nguyên nhân trên cho thấy việc xoá đói giảm nghèo không chỉ tiến hành
riêng rẽ một hai giải pháp nào đó mà phải xử lý đồng thời tất cả các giải pháp trọng tâm,
trọng điểm.
1.4. KHÁI NHIỆM VÀ NHỮNG CHUẨN MỰC VỀ ĐÓI NGHÈO

Có nhiều quan niệm khác nhau về đói nghèo. Quan niệm chung nhất cho rằng: Đói
nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không có đủ những nhu cầu cơ bản tối thiểu của
cuộc sống như ăn, mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục Tình trạng đói nghèo ở mỗi quốc gia
đều có sự khác nhau về mức độ và số lượng, thay đổi theo không gian và thời gian.
Người nghèo của quốc gia này có thể có mức sống cao hơn mức sống trung bình của
quốc gia khác. Bởi vậy nhìn nhận và tổ chức thực hiện vấn đề xoá đói giảm nghèo một
cách đầy đủ và có căn cứ cần tham khảo khái niệm, chỉ tiêu, chuẩn mực đánh giá đói
nghèo của thế giới.
1.4.1. Khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá nghèo đói của thế giới
1.4.1.1. Khái niệm đói nghèo của thế giới
Thế giới thường dùng khái niệm nghèo khổ mà không dùng khái niệm đói nghèo
như ở Việt Nam và nhận định nghèo khổ theo 4 khía cạnh là thời gian, không gian, giới
và môi trường.
Về thời gian: Phần lớn người nghèo khổ có mức sống dưới mức "chuẩn" trong một
thời gian dài. Cũng có người nghèo khổ "tình thế" chẳng hạn như những người thất
nghiệp, những người mới nghèo do suy thoái kinh tế hoặc do thiên tai, tệ nạn xã hội, rủi
ro.
Về không gian: Nghèo đói diễn ra chủ yếu ở nông thôn nơi có 3/4 dân số sinh sống.
Tuy nhiên tình trạng đói nghèo ở thành thị, trước hết là ở các nước đang phát triển cũng
có xu hướng gia tăng.
Về giới: Người nghèo là phụ nữ đông hơn nam giới. Nhiều hộ gia đình nghèo nhất
do phụ nữ là chủ hộ. Trong các hộ nghèo đói do đàn ông làm chủ thì phụ nữ khổ hơn nam
giới.
Về môi trường: Phần lớn người thuộc diện đói nghèo đều sống ở những vùng sinh
thái khắc nghiệt mà ở đó tình trạng đói nghèo và sự xuống cấp về môi trường đều đang
ngày càng trầm trọng thêm.
Nhóm 09 - Lớp: DHTN5TH Trang 15
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TH.S. Nguyễn Thị Phương
Từ nhận dạng trên, Liên Hiệp Quốc đưa ra hai khái niệm chính về đói nghèo như
sau:

Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng những nhu
cầu cơ bản tối thiểu để duy trì cuộc sống.
Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng đầy đủ
những nhu cầu cơ bản tối thiểu. Nhu cầu cơ bản tối thiểu cho cuộc sống là những đảm
bảo ở mức tối thiểu về ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục Ngoài những đảm bảo trên, cũng có ý
kiến cho rằng, nhu cầu tối thiểu bao gồm có quyền được tham gia vào các quyết định của
cộng đồng.
1.4.1.2. Chỉ tiêu đánh giá đói nghèo của thế giới.
Chỉ tiêu đánh giá sự đói nghèo của một quốc gia bắt đầu từ việc vạch ra giới hạn đói
nghèo. Khi đánh giá nước giàu, nước nghèo, giới hạn đói nghèo được biểu hiện bằng chỉ
tiêu chính là thu nhập quốc dân bình quân đầu người (GDP).
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, chỉ căn cứ và chỉ tiêu thu nhập thì chưa đủ để
đánh giá. Vì vậy bên cạnh chỉ tiêu này, tổ chức hội đồng phát triển hải ngoại (ODC) đưa
ra chỉ số chất lượng vật chất của cuộc sống (PQLI). Căn cứ để đánh giá chỉ số PQLI bao
gồm 3 chỉ tiêu cơ bản đó là: tuổi thọ, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, tỷ lệ xoá mù chữ.
Gần đây tổ chức chương trình phát triển liên hợp quốc (UNDP) đưa ra thêm chỉ số
phát triển con người (HDI) bao gồm 3 chỉ tiêu sau: Tuổi thọ, tình trạng biết chữ của
người lớn, thu nhập.
Căn cứ vào 3 chỉ tiêu này UNDP đánh giá Việt Nam đứng thứ 127/187 nước trên
thế giới (Tài liệu công bố năm 2012)- nằm trong nhóm xếp loại “trung bình” về phát triển
con người. Như vậy chỉ tiêu đánh giá nước giàu, nước nghèo của các quốc gia vẫn căn cứ
vào chỉ tiêu thu nhập quốc dân bình quân đầu người là chính. Khi kết hợp với các chỉ số
PQLI hay HDI chỉ bổ sung cho việc nhìn nhận các nước giàu nghèo chính xác hơn, khách
quan hơn.
Về hộ nghèo: Giới hạn đói nghèo biểu hiện dưới hai dạng chỉ tiêu thu nhập quốc
dân bình quân tính theo đầu người nằm dưới giới hạn nghèo được coi là hộ nghèo. Quy
mô nghèo từng vùng của một quốc gia được xác định bằng tỷ lệ số hộ nghèo đói trên
tổng số hộ dân cư thuộc vùng hoặc quốc gia đó.
1.4.1.3. Chuẩn mức đói nghèo của thế giới.
Nói chung quan niệm của nhiều nước cho rằng hộ nghèo có mức thu nhập dưới 1/3

Nhóm 09 - Lớp: DHTN5TH Trang 16
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TH.S. Nguyễn Thị Phương
mức thu nhập trung bình của toàn xã hội. Với quan niệm này, hiện trên thế giới có
khoảng 900 triệu người (12,87%) năm 2012, đang sống trong tình trạng nghèo khổ tức là
sống dưới 370 USD người/năm hoặc 30,83 USD/người/tháng.
- Các nước phát triển: Lấy Mỹ làm đại diện cho các nước phát triển. Mỹ lấy chuẩn
mực một người trong hộ có thu nhập bình quân tháng dưới 71 USD là người nghèo khổ
(852 USD/năm).
- Các nước đang phát triển. Mỗi nước có một chuẩn mực khác nhau: Indonexia 6
USD/ người/ tháng, Malayxia 28 USD/người/tháng.
1.4.2 Khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá hộ đói nghèo ở Việt Nam.
1.4.2.1. Khái niệm.
Tách riêng đói và nghèo không khái nhiệm chung như thế giới.
- Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn một phần các
nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình
của cộng đồng xét trên mọi phương diện. Nghèo gồm 2 dạng:
+ Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn
các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. Nhu cầu tối thiểu là những đảm bảo ở mức
tối thiểu, những nhu cầu thiết yếu về ăn, mặc và nhu cầu sinh hoạt hàng này gồm văn
hoá, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp.
+ Cận nghèo: Là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức trung bình
của cộng đồng tại địa phương đang xét.
- Đói: Là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và
thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là những hộ dân
cư hàng năm thiếu ăn đứt bữa từ 1 đến 2 tháng, thường vay nợ của cộng đồng và thiếu
khả năng chi trả.
1.4.2.2. Chỉ tiêu đánh giá hộ nghèo của Việt Nam.
- Chỉ tiêu chính: Thu nhập bình quân 1 người một tháng (hoặc năm) được đo bằng
chỉ tiêu giá trị hay hiện vật quy đổi, thường lấy lương thực (gạo) tương ứng một giá trị
nhất định về giá cả.

Khái nhiệm thu nhập ở đây được hiểu là thu nhập thuần tuý (tổng thu trừ đi tổng chi
phí sản xuất). Song cần nhấn mạnh chỉ tiêu thu nhập bình quân nhân khẩu tháng là chỉ
tiêu cơ bản nhất để xác định mức đói nghèo.
- Chỉ tiêu phụ: Là dinh dưỡng bữa ăn, nhà ở, mặc và các điều kiện học tập chữa
Nhóm 09 - Lớp: DHTN5TH Trang 17
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TH.S. Nguyễn Thị Phương
bệnh đi lại
1.4.2.3. Chuẩn mực xác định đói nghèo của Việt Nam
Ở nước ta, tiêu chuẩn và thước đo để xác định ranh giới nghèo đói hiên nay đang
còn nhiều ý kiến khác nhau. Tuy vậy căn cứ và thu nhập biểu hiện bằng tiền vẫn là chỉ
tiêu cơ bản để phản ánh mức sống. Bên cạnh đó do điều kiện giá cả không ổn định nên
cần phải sử dụng cả hình thức hiện vật, phổ biến là quy ra gạo làm tiêu chuẩn. Việc sử
dụng hình thức hiện vật quy ước này có tác dụng là loại bỏ được yếu tố giá cả, từ đó có
thể so sánh mức thu nhập của người dân theo thời gian và không gian đơn giản, thuận
tiện hơn. Đặc biệt là đối với người nghèo nói chung và nông dân nghèo nói riêng, chỉ tiêu
số lượng gạo bình quân một người một tháng là có ý nghĩa và rất thực tế bởi vì nhu cầu
thiết yếu đầu tiên là đảm bảo đủ gạo ăn. Chuẩn mực đói nghèo ở nước ta được quy định
tại quyết định của thủ tướng chính phủ số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011, áp dụng
cho giai đoạn 2011-2015.
- Vùng nông thôn đồng bằng trung du là hộ có thu nhập bình quân 400000/người/
tháng.
- Vùng thành thị là hộ có thu nhập bình quân 500000/người/ tháng.
1.5. CÁC KÊNH HỖ TRỢ VỐN CHO NGƯỜI NGHÈO TRONG ĐIỀU KIỆN Ở NƯỚC TA
1.5.1. Tổng quan về vốn.
1.5.1.1. Khái niệm vốn.
Trong bộ tư bản, Mác đã khái quát hoá phạm trù vốn thông qua phạm trù tư bản.
Theo Mác, tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư qua quá trình vận động của nó (T - H
- SX - H - T)
Trong điều kiện hiện nay, quan điểm của Mác cần hiểu như sau:
Thứ nhất: Tư bản là giá trị. Điều đó có nghĩa là vốn được biểu hiện bằng một lượng

giá trị nhất định.
Thứ hai: Vốn là một lượng giá trị mang lại giá trị thặng dư. Tức là chỉ lượng giá trị
nào sau quá trình đầu tư sản xuất, kinh doanh đem lại giá trị thặng dư mới được gọi là
vốn. Lượng giá trị "nằm im" và "bất động" không tạo ra giá trị thặng dư không được gọi
là vốn.
Từ sự nhận thức trên ta có thể đưa ra khái nhiệm tổng quát về vốn như sau:
Vốn là một lượng giá trị tài sản xã hội (tài sản hữu hình và tài sản vô hình) được
dùng vào đầu tư kinh doanh nhằm thu được hiệu quả kinh tế - xã hội.
Nhóm 09 - Lớp: DHTN5TH Trang 18
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TH.S. Nguyễn Thị Phương
1.5.1.2. Các đặc trưng của vốn.
Trong điều kiện hiện nay vốn có các đặc trưng sau đây.
Một là: Vốn được biểu hiện bằng một lượng giá trị thực của những tài sản hiện vật
(như nguyên nhiên vật liệu, phụ tùng ) được đưa vào sử dụng để sản xuất ra một lượng
giá trị sản phẩm khác. Trong trường hợp này ta gọi là vốn hiện vật.
Hai là: Vốn được biểu hiện bằng tiền (Tiền giấy nội tệ, ngoại tệ, tiền vàng, và các
chứng chỉ có giá trị như tiền) được đầu tư kinh doanh với mục đích sinh lời nó. Trường
hợp này ta gọi là vốn tài chính.
Ba là: Vốn không chỉ được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản hữu hình như
vốn hiện vật, tiền, nhân lực (gọi là vốn hữu hình) mà vốn còn bao gồm cả giá trị của
những tài sản vô hình chẳng hạn như chất xám, phát minh, giá trị nghệ thuật (gọi là vốn
vô hình)
Bốn là: Vốn là hàng hoá đặc biệt được đưa vào lưu thông trên thị trường vốn. Trong
quá trình lưu thông, vốn sinh lời (T-T') vì vậy vốn phải đưa vào lưu thông và cần phải tạo
môi trường cho lưu thông vốn (thị trường tiền tệ, thị trường tài chính).
Năm là: Do phương thức chu chuyển, vốn có thể chia ra hai loại khác nhau đó là
vốn ngắn hạn và vốn dài hạn. Vốn dài hạn là vốn có mục đích sử dụng trên một năm hay
còn gọi là vốn đầu tư.
1.5.2. Vốn cho người nghèo và các kênh hỗ trợ vốn cho người nghèo
1.5.2.1. Đặc điểm vốn hỗ trợ cho người nghèo.

Ngoài những đặc điểm chung của vốn thì vốn hỗ trợ cho người nghèo thể hiện rõ
các đặc điểm riêng sau:
- Vốn hỗ trợ cho người nghèo luôn gắn liền với sự rủi ro và mất vốn. Có người đã
nói "cấp vốn cho người nghèo là cấp rủi ro". Đa số người nghèo do sử dụng vốn trong
hoàn cảnh túng quẫn đã bị động nên hiệu quả sử dụng vốn thường không đạt theo ý muốn
của họ. Thậm chí do thiếu đói người nghèo đã biến vốn hỗ trợ thành vốn cứu tế tức thì
cho bản thân họ. Mặt khác, nếu rủi ro mất vốn họ thường rơi vào tình trạng "trắng tay",
nợ nần, khó tìm ra nguồn vốn để bù đắp ngoài sự đảm bảo bằng thân xác, đói rách bần
cùng.
- Vốn hỗ trợ người nghèo cho dù được thực hiện bởi một kênh nào (trợ cấp cứu tế,
cho vay, cho mượn ) đều phải thể hiện tính tài trợ của Nhà nước và cộng đồng cho họ.
Trường hợp không được cấp bằng cứu tế thì phải cho vay lãi suất thấp hơn so với thị
Nhóm 09 - Lớp: DHTN5TH Trang 19
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TH.S. Nguyễn Thị Phương
trường. Tức là vốn hỗ trợ cho người nghèo phải thực thi vị trí phi thị trường. Song rõ
ràng để Nhà nước làm được việc này là rất khó. Bởi vậy phải có trách nhiệm của cộng
đồng để tạo ra nguồn vốn đảm bảo tính khả dụng cho người nghèo. Hay nói cách khác
đặc điểm vỗn hỗ trợ cho người nghèo là nguồn vốn tổng hợp và đa dạng.
- Để hỗ trợ vốn cho người nghèo có kết quả thì không chỉ hỗ trợ vốn bằng tiền
(hoặc hiện vật quy ra tiền) mà còn hỗ trợ "vốn" kiến thức, việc làm, môi trường làm ăn và
nhiều hỗ trợ khác. Bởi vậy đặc điểm của vốn hỗ trợ người nghèo có sự vận động ăn nhịp
tổng thể các mối quan hệ kinh tế xã hội khác.
1.5.2.2. Các kênh dẫn vốn cho người nghèo
Trung tâm của bất kỳ mô hình tài chính nào trong nền kinh tế cũng đòi hỏi hoạt
động của những "kênh dẫn" mà thông qua đó, vốn của những khoản tiết kiệm sẽ chuyển
thành những khoản nợ của người sử dụng. Tuy nhiên do nhiều loại mô hình tài chính
khác nhau và đa dạng (kênh chính thức hoặc không chính thức) nên tính chất và hiệu quả
của các kênh dẫn vốn cũng khác nhau.
Vốn hỗ trợ cho người nghèo ở nước ta trong thời gian vừa qua chủ yếu từ các kênh
sau:

Thứ nhất: Hệ thống tài chính Nhà nước các cấp hỗ trợ cho người nghèo, hộ nghèo
với các nội dung sau:
Ngân sách trợ cấp hỗ trợ khắc phục thiên tai.
Ngân sách trợ cấp các vùng nghèo, xã nghèo để đầu tư hạ tầng xã hội sản xuất, trợ
giá, trợ cước cho miền núi, vùng cao cho đồng bao dân tộc nói chung trong đó có người
nghèo.
Các khoản chi khác của ngân sách Nhà nước cho các mục tiêu mà thông qua đó, tác
dụng của nó cải thiện đáng kể tình hình đói nghèo.
Thứ hai: Hệ thống kho bạc Nhà nước với 63 kho bạc tỉnh (thành phố) và trên 600
kho bạc cấp huyện, quận, thị xã thực hiện cho vay theo các chương trình của Chính phủ
(chương trình theo Nghị quyết 120/HĐBT, theo quyết định 327/CP ). Đối tượng vay vốn
của chương trình không phải là hộ nghèo mà thông qua cho vay, các dự án để thu hút lao
động và tăng thu nhập, trong đó cho một số hộ người nghèo.
Ba là: Hệ thống các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng phục vụ người
nghèo, các ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn và đô thị, các hợp tác xã tín dụng và
Nhóm 09 - Lớp: DHTN5TH Trang 20
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TH.S. Nguyễn Thị Phương
quỹ tín dụng nhân dân. Trong đó ngân hàng phục vụ người nghèo là lòng cốt hỗ trợ vốn
cho các hộ nghèo.
Thứ tư: Các đoàn thể, hiệp hội và các tổ chức xã hội với hàng trăm tổ chức theo mô
hình khác nhau. Trong đó có nhiều tổ chức hoạt động tín dụng theo quy ước riêng của
mình như quỹ xoá đói giảm nghèo của Hội liên Hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân
Việt Nam
Thứ năm: Các doanh nghiệp tài trợ vốn cho các hộ nghèo thông qua các hình thức
ứng trước vốn cho nông dân sản xuất và thu nợ bằng chính sản phẩm của họ.
Thứ sáu: Các tổ chức quốc tế Chính phủ và phi Chính phủ tài trợ thông qua các
chương trình nhân đạo, giải quyết việc làm tài trợ này bao gồm cho vay có hoàn trả và
viện trợ không hoàn lại.
Thứ bảy: Các nhóm, tổ, phường, họ tương trợ tiết kiệm trong cộng đồng dân cư tự
nguyện thành lập và hỗ trợ vốn cho nhau làm ăn theo quy định riêng. Ngoài ra còn các

hoạt động tín dụng không chính thức khác của tư nhân hoạt động ngầm.
Các tổ chức dẫn vốn nói trên có đặc trưng chung là sử dụng phương thức tài chính
tài trợ cấp phát hoặc tài chính tài trợ hoàn trả, các kênh dẫn vốn áp dụng thủ tục cho vay,
phạm vi cho vay và mức lãi suất rất khác nhau, tuỳ theo tính chất nguồn vốn và quan
điểm tổ chức thực hiện dẫn vốn. Cách tiếp cận với người nghèo và quan điểm xử lý của
các tổ chức ngoài khu vực tài chính Nhà nước và ngân hàng rất khác nhau. Có hình thức
cho vay trực tiếp đến với người nghèo, có hình thức thông qua trung gian. Nhìn chung tài
trợ vốn cho người nghèo vay vốn còn nhiều hạn chế, đang là nguyên nhân bất ổn định
trên thị trường tài chính - tín dụng ở nước ta.
Nhóm 09 - Lớp: DHTN5TH Trang 21
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TH.S. Nguyễn Thị Phương
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VIỆC TẠO LẬP VÀ SỬ DỤNG VỐN HỖ TRỢ
CHO NGƯỜI NGHÈO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
2.1. THỰC TRẠNG ĐÓI NGHÈO Ở VIỆT NAM
Với quy mô GDP bình quân đầu người năm 2012 đạt 1.540 USD/Người/ năm. Việt
Nam đã chuyển từ nhóm nước có thu nhập thấp sang nhóm thu nhập trung bình theo tiêu
chuẩn của WB. Tuy nhiên, thu nhập trung bình của người Việt Nam vẫn còn khoảng cách
khá xa so với nhiều quốc gia ASEAN và Trung Quốc, dù đã được cải thiện nhiều
Theo chuẩn nghèo mới, đến cuối năm 2012, tỷ lệ nghèo cả nước còn khoảng 10%,
giảm so với năm 2011. Riêng các huyện nghèo, tỷ lệ nghèo bình quân khoảng 45%.
Người nghèo tập trung phần lớn ở khu vực nông thôn (chiếm khoảng 90%). Một số
huyện miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, miền núi, duyên hải miền Trung, Tây Nam Bộ là
những nơi có tỷ lệ hộ nghèo cao (trên 50%).
Hiện có gần 4,8 triệu hộ nghèo và cận nghèo, chiếm 22% số hộ cả nước. Đây là
những hộ nghèo có mức thu nhập bình quân đầu người dưới 400.000 đồng/người/tháng
trở xuống ở nông thôn; và dưới 500.000 đồng/người/tháng ở thành thị căn cứ theo tiêu
chuẩn nghèo của thủ tướng chính phủ áp dụng cho giai đoạn 2011 - 2015.
Kết quả cuộc khảo sát do Tổ chức Oxfam Anh phối hợp với Action Aid quốc tế tại
Việt Nam trong giai đoạn 2007 - 2011 cho thấy: “Nghèo “kinh niên” ngày càng rõ hơn,

đặc biệt là tại các vùng dân tộc thiểu số. Những người sống ở mức cận nghèo dễ bị tái
nghèo do lạm phát cao, khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thiên tai và dịch bệnh. Đây cũng
chính là những rủi ro cả cũ và mới, là thách thức lớn đối với công cuộc xóa đói giảm
nghèo của Việt Nam”. Thực tế, 53 dân tộc thiểu số chỉ chiếm chưa tới 15% dân số quốc
gia lại chiếm tới gần 50% số người nghèo trong năm 2010. Theo Bà Valerie Kozel,
chuyên gia kinh tế cao cấp của WB: "Những thành tựu đạt được rất ấn tượng. Tuy nhiên,
tăng trưởng đang suy giảm trong những năm gần đây do các bất ổn vĩ mô và các cú sốc
từ bên ngoài, bất bình đẳng gia tăng, nghèo trong nhóm dân tộc thiểu số vẫn cao và khó
xóa bỏ"
Sự phân cực giàu nghèo có chiều hướng gia tăng. Kết quả điều tra cho thấy: Mức
chênh lệch về thu nhập khi so sánh 20% nhóm hộ có thu nhập cao nhất với 20% nhóm hộ
có thu nhập thấp nhất ở vùng nông thôn là 11 lần (năm 2000) tăng lên 15 lần (năm 2012).
Nhóm 09 - Lớp: DHTN5TH Trang 22
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TH.S. Nguyễn Thị Phương
Hệ số chênh lệch mức sống giữa dân cư thành thị và nông thôn khoảng 5 đến 9 lần, mức
thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn so với thành thị hiện nay chỉ bằng khoảng
50%.
Một số chỉ tiêu về cải thiện đời sống đạt được còn thấp so với mục tiêu đề ra, đặc
biệt là chỉ tiêu về tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Năm 2010, số trẻ em suy dinh
dưỡng vẫn còn 33%, phần lớn là thuộc các gia đình nghèo, tỷ lệ phát triển dân số ở nhóm
người nghèo cao (trên mức trung bình 1,5% của cả nước), tỷ lệ người biết chữ ở vùng
cao, vùng sâu, vùng xa mới đạt khoảng 50%, ở nông thôn chỉ khoảng 42% số hộ gia đình
được dùng nước sạch và 20% có hố xí hợp vệ sinh.
Hàng năm số người phải cứu trợ đột xuất do thiên tai, bão lụt, hạn hán, mất mùa
khoảng từ 1 - 1,2 triệu người, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Trung và miền núi phía
Bắc. Bình quân hàng năm có khoảng 20.000 - 25.000 hộ tái nghèo đói.
Ở một số vùng có những nguyên nhân dẫn đến nghèo đói rất đặc thù. Vùng miền
núi, đồng bào dân tộc thiểu số chủ yếu là do điều kiện địa lý phức tạp và khó khăn, cơ sở
hạ tầng thiếu và yếu kém, trình độ học vấn thấp, sinh đẻ nhiều, tập quán canh tác và tập
tục lạc hậu, khó tiếp cận thông tin; vùng đồng bằng sông Hồng do đông dân, thiếu đất;

vùng đồng bằng sông Cửu Long do chuyển nhượng ruộng đất nên khoảng 10 - 12% tổng
số hộ nông dân nghèo mất đất sản xuất; vùng Duyên Hải miền Trung thường xuyên bị
thiên tai, bão lụt.
2.2 TÌNH HÌNH TẠO LẬP VÀ SỬ DỤNG VỐN CHO NGƯỜI NGHÈO Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN
QUA.
2.2.1. Hỗ trợ vốn từ nguồn ngân sách Nhà nước.
Hiện nay hỗ trợ vốn từ ngân sách Nhà nước cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo bao
gồm: Vốn giải quyết việc làm (chương trình 120), vốn thực hiện chương trình phủ xanh
đất chống đồi núi trọc (chương trình 327) vốn thực hiện chương trình phát triển kinh tế
xã hội ở các xã đặc biệt khó khăn (chương trình 135), các khoản trợ cấp thiên tai và hỗ
trợ phát triển nông thôn khác trong đó nòng cốt là vốn giải quyết việc làm, vốn chương
trình 135, vốn chương trình 327, phê duyệt chính sách các xã đặc biệt thuộc vùng bãi
ngang ven biển.
Nhìn chung một số chương trình, dự án gắn với xoá đói giảm nghèo thời gian vừa
qua được lồng ghép với nhau. Các chương trình và dự án gồm một số mục tiêu hướng
vào việc nâng cao mức sống nói chung. Song nhìn tổng thể, từng chương trình và dự án
Nhóm 09 - Lớp: DHTN5TH Trang 23
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TH.S. Nguyễn Thị Phương
có một tác động nhất định đến việc hỗ trợ cho người nghèo, vùng nghèo ở nước ta
2.2.1.1. Vốn thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội ở các xã đặc biệt khó khăn (gọi tắt là
chương trình 135)
Sau 10 năm đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính
sách, chương trình, dự án và các giải pháp nhằm đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế xã
hội, giữ vững an ninh quốc phòng, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc. Bên cạnh
những chủ trương, chính sách chung của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế xã hội
vùng đồng bào dân tộc miền núi, ngày 31/07/1998, thủ tướng chính phủ đã có quyết định
135/1998/QĐ-TTg phê duyệt chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó
khăn miền núi, vùng sâu và vùng xa (gọi tắt là chương trình 135). Đây là một chương
trình được cụ thể hoá từ nội dung Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng thành một chương
trình kinh tế xã hội tổng hợp để vực dậy vùng khó khăn nhất của đất nước ta với mục tiêu

tổng quát là "Nâng cao nhanh đời sống vật chất tinh thần cho đồng bào các dân tộc ở các
xã đặc biệt khó khăn miền núi vùng sâu, vùng xa; tạo điều kiện để đưa nông thôn các
vùng này thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển, hoà nhập vào sự phát
triển chung của cả nuớc; góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc phòng".
Mục tiêu của chương trình gồm 2 giai đoạn:
Giai đoạn từ 2001-2005: Giảm tỷ lệ hộ đói nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn xuống
còn 25% vào năm 2005. Bảo đảm cung cấp cho đồng bào đủ nước sinh hoạt, thu hút trên
70% trẻ em trong độ tuổi đến trường; đại bộ phận đồng bào được bồi dưỡng, tiếp thu kinh
nghiệm sản xuất và đời sống; kiểm soát phần lớn các dịch bệnh xã hội hiểm nghèo có
đường giao thông cho xe cơ giới và đường dân sinh kinh tế đến các trung tâm cụm xã;
thúc đẩy phát triển thị trường nông thôn.
Giai đoạn từ 2006-2010: Hỗ trợ phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
nâng cao trình độ sản suất của đồng bào các dân tộc. Đào tạo cán bộ khuyến nông thôn
bản. Khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Xây dựng các mô hình sản xuất có hiệu
quả, phát triển công nghiệp chế biến bảo quản. Phát triển sản xuất: Kinh tế rừng, cây
trồng có năng suất cao, chăn nuôi gia súc, gia cầm có giá trị.
Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Làm đường
dân sinh từ thôn, bản đến trung tâm xã phù hợp với khả năng nguồn vốn, công khai định
mức hỗ trợ nhà nước. Xây dựng kiên cố hóa công trình thủy lợi: Đập, kênh, mương cấp
Nhóm 09 - Lớp: DHTN5TH Trang 24
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: TH.S. Nguyễn Thị Phương
1-2, trạm bơm, phục vụ tưới tiêu sản xuất nông nghiệp và kết hợp cấp nước sinh hoạt.
Làm hệ thống điện hạ thế đến thôn, bản; nơi ở chưa có điện lưới làm các dạng năng
lượng khác nếu điều kiện cho phép. Xây dựng các công trình cấp nước sinh hoạt cho
cộng đồng. Xây dựng nhà sinh hoạt cộng đồng thôn, bản (tùy theo phong tục tập quán) ở
nơi cấp thiết.
Đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ sở, kiến thức kĩ năng quản lý điều hành xã hội, nâng
cao năng lực cộng đồng. Đào tạo nghề cho thanh niên 16 - 25 tuổi làm việc tại các nông
lâm trường, công trường và xuất khẩu lao động.
Hỗ trợ các dịch vụ, nâng cao chất lượng giáo dục, đời sống dân cư hợp vệ sinh giảm

thiểu tác hại môi trường đến sức khỏe người dân. Tiếp cận các dịch vụ y tế, bảo hiểm và
chăm sóc sức khỏe cộng động.
Ngoài những mục tiêu trên, chương trình 135 còn có 5 nội dung chủ yếu sau:
Một là: quy hoạch bố trí dân cư ở những nơi cần thiết, từng bước tổ chức hợp lý đời
sống sinh hoạt của đồng bào các bản, làng, phum, sóc, ở những nơi không có điều kiện
nhất là các vùng biên giới hải đảo, tạo điều kiện để đồng bào nhanh chóng ổn định sản
xuất và đời sống.
Hai là: Đẩy nhanh phát triển nông, lâm nghiệp, gắn với chế biến tiêu thụ sản phẩm
để khai thác nguồn tài nguyên và sử dụng lao động tại chỗ, tạo thêm nhiều cơ hội về việc
làm tăng thu nhập, ổn định đời sống, từng bước phát triển sản xuất hàng hoá.
Ba là: Phát triển nhanh cơ sở hạ tầng nông thôn phù hợp với quy hoạch sản xuất và
bố trí lại dân cư. Trước hết là hệ thống đường giao thông; nước sinh hoạt; hệ thống điện ở
những nơi có điều kiện, kể cả thuỷ điện nhỏ.
Bốn là: Quy hoạch và xây dựng các trung tâm cụm xã, ưu tiên đầu tư xây dựng các
công trình về y tế, giáo dục, dịch vụ thương mại, cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp và
phát thanh truyền hình.
Năm là: Đào tạo cán bộ xã, bản làng, phum, sóc giúp cán bộ cơ sở nâng cao trình
độ quản lý hành chính, kinh tế để phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế xã hội tại địa
phương.
Từ mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của chuơng trình 135, 2 giai đoạn qua dưới sự chỉ
đạo của các ngành đã thu được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ. Trong 3 năm
thực hiện Chương trình, 6 tỉnh được bố trí 1.109,762 tỷ đồng để thực hiện các nhiệm vụ
Nhóm 09 - Lớp: DHTN5TH Trang 25

×