Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

CÚM AH5N1 và CÔNG NGHỆ sản XUẤT VACCINE h5n1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.55 KB, 15 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
Trường Đại Học Khoa Học
TIỂU LUẬN HỌC PHẦN
Công nghệ sinh học hiện đại
Chủ đề: “CÚM A/H5N1 VÀ CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT
VACCINE H5N1”
Thái nguyên 9/2014
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 2
1: Đặt Vấn Đề 2
2:Căn Cứ Khoa Học 3
2.1 Cúm A H5N1 3
5: Kết Luận 14
6: Tài Liệu Tham Khảo 15
1: Đặt Vấn Đề
Cúm A là bệnh nhiễm trùng đường hô hấp cấp tính do virus cúm A chủng
H1N1, H5N1 và H7N9 gây nên. Người mang virus cúm A có khả năng truyền
virus cho những người xung quanh trong thời gian 1 ngày trước tới 7 ngày sau,
kể từ khi có triệu chứng của bệnh. Bệnh lây lan càng mạnh, càng nhanh khi có
sự tiếp xúc trực tiếp với người bệnh, đặc biệt ở nơi tập trung đông người như
trường học, nhà trẻ Hiện nay chưa có vắcxin đặc hiệu phòng chống cúm A.
Trong đó cúm A H5N1 là một phân nhóm có khả năng gây nhiễm cao của
virus cúm gia cầm. Chủng virus này lần đầu tiên được phát hiện xâm nhiễm trên
người tạiHồng Kông năm 1997. Chín nhóm virus cũng là tác nhân gây dịch cúm
trên gia cầm ở Hông Kông lúc đó. Tên gọi phân nhóm H5N1 là liên quan đến
loại protein kháng nguyên trên vỏ virus: protein hemagglutinin nhóm 5 (H5)
và neuraminidase nhóm 1 (N1).
Trước sự nguy hiểm của virus này, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã cảnh báo
trong thời gian tới có thể vi-rút cúm gia cầm biến chủng, thành chủng mới có
độc lực cao, lây truyền từ người sang người, ước tính khoảng 1-40 triệu người tử
vong. Cùng với các nhà khoa học trên thế giới, vào giữa năm 2004 một nhóm


nhà khoa học của Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương (NIHE) đã bắt tay vào
nghiên cứu sản xuất vắc-xin H5N1.
Đến thời điểm này, khi mà quá trình nghiên cứu vắc-xin H5N1 đã trải qua hàng
trăm cuộc thử nghiệm với những kết quả đáng mừng. Một vài năm không phải là
dài đối với một công trình nghiên cứu nhưng chính sự nguy hiểm của vi-rút
H5N1 đã thôi thúc các nhà khoa học phải nghiên cứu tìm hiểu về “ cúm A
H5N1 và công nghệ sản xuất vaccine ngừa cúm A H5N1”
2:Căn Cứ Khoa Học
2.1 Cúm A H5N1
Cúm gia cầm là bệnh truyền nhiễm cấp tính của gia cầm, do nhóm virus cúm A,
thuộc họ Orthomyxoviridae gây ra, có khả năng lan truyền từ động vật sang
người. Nhóm virus cúm A có 16 phân type HA (H1 - H16) và 9 phân type NA
(N1 - N9) có khả năng tái tổ hợp để tạo nên hàng trăm phân type khác nhau về
độc tính và khả năng gây bệnh. H5N1 thể độc lực cao (HPAI) vẫn đang là mối
đe dọa cho chăn nuôi và sức khỏe cộng đồng.
Virus cúm A (còn gọi là virus cúm gia cầm, virus cúm gà) có tên khoa học là
Avian Influenza (AI), Các hạt virus cúm A (virion) có hình cầu hoặc hình khối
đa diện, đường kính 80 -120 nm, đôi khi cũng có dạng hình sợi, khối lượng phân
tử khoảng 250 triệu Da. Phân tích thành phần hóa học một virion có chứa
khoảng 0,8 - 1,1% RNA; 70 - 75% là protein; 20 - 24% lipid và 5 - 8% là
carbonhydrate (Murphy, 1996). Hạt virus có cấu tạo đơn giản gồm vỏ (capsid),
vỏ bọc ngoài (envelope) và lõi là RNA sợi đơn âm - negative single strand
(Murphy, Webster, 1996. Vỏ virus có chức năng bao bọc và bảo vệ vật chất di
truyền RNA của virus, bản chất cấu tạo là màng lipid kép, có nguồn gốc từ
màng tế bào nhiễm được đặc hiệu hóa gắn các protein màng của virus. Trên bề
mặt có khoảng 500 “gai mấu” nhô ra và phân bố dày đặc, mỗi gai mấu dài
khoảng 10 - 14 nm có đường kính 4 - 6 nm, đó là những kháng nguyên bề mặt
vỏ virus, bản chất cấu tạo là glycoprotein gồm: HA, NA, MA (matrix) và các
dấu ấn khác của virus (Bender et al., 1999; Zhou et al., 2007). Vật chất di truyền
(còn gọi là hệ gen) của virus cúm A là RNA sợi đơn âm (viết tắt là (-) ssRNA),

gồm 8 phân đoạn riêng biệt (HA, NA, M, NS, NP, PA, PB1 và PB2) nối với
nhau thành một sợi duy nhất bên trong vỏ virus, mã hóa cho 11 protein tương
ứng của virus, trong đó phân đoạn M mã hóa cho 2 protein là M1 và M2; phân
đoạn NS mã hóa cho 2 protein là NS và NEP, phân đoạn PB1 mã hóa cho 2
protein là PB1 và PB1-F2 (Ito et al., 1998; Conenello et al., 2007)
Vì bản chất của virut cúm là lipoprotein nên virut cúm có sức đề kháng yếu, dễ
bị bất hoạt bởi bức xạ mặt trời, tia tử ngoại, dễ bị tiêu diệt ở nhiệt độ 560C và
các chất hòa tan lipid như ether, beta-propiolacton, formol, chloramine, cresyl,
cồn… Tuy nhiên, virut cúm có thể tồn tại hàng giờ ở ngoại cảnh, đặc biệt khi
thời tiết lạnh và độ ẩm thấp. Bệnh cúm nguy hiểm là do tính lây lan nhanh và
gây thành dịch. Bệnh có thể xảy ra dưới nhiều mức độ khác nhau: đại dịch, dịch
nhỏ địa phương và các trường hợp tản phát. Trong các vụ dịch cúm hàng năm,
5-15% dân số bị nhiễm khuẩn đường hô hấp trên. Bệnh nặng và tử vong xảy ra
chủ yếu ở những nhóm người có nguy cơ cao như trẻ em, người cao tuổi và
người mắc bệnh mạn tính.
2.2Triệu chứng bệnh Cúm A(H5N1)
Cúm gia cầm (còn gọi là cúm gà) là bệnh do virus cúm A H5N1 gây ra. Bệnh
có diễn biến nhanh, tỷ lệ tử vong cao. Nếu được phát hiện sớm, điều trị kịp thời
có thể cứu sống bệnh nhân, do vậy cần đặc biệt lưu ý khi ở vùng có nhiều gia
cầm (gà, vịt, ngan, ngỗng) chết, lại xuất hiện những người có biểu hiện ho, sốt
cao, đau đầu, đau mỏi người
Bệnh nhân sốt thành cơn hay sốt liên tục cả ngày. Nhiệt độ có thể lên tới 40-
41độ c; có những trường hợp chỉ sốt nhẹ 38- 38,5độ c, những trường hợp này thường
xảy ra ở những bệnh nhân sức đề kháng giảm nhiều như: suy giảm miễn dịch, người
già, trẻ nhỏ, có các bệnh mạn tính kèm theo; Biểu hiện da nóng, đỏ xuất hiện ở
những bệnh nhân sốt cao, khi có suy hô hấp có tím môi, đầu chi; Bệnh nhân thường
có cảm giác đau đầu, đau mỏi người, có thể thấy đau quanh hốc mắt. Trường hợp
nặng bệnh nhân có thể có rối loạn ý thức.
2.3 Mức độ nguy hiểm đối với sức khoẻ con người khi bị nhiễm virus cúm
A/H5N1?

- Virus cúm A/H5N1 có khả năng lây nhiễm rất cao. Lần đầu tiên tìm thấy qua
vụ dịch cúm ở Hồng Kông vào năm 1997. Virus cúm A/H5N1 được phát tán
môi trường bên ngoài qua nước bọt, dịch mũi, phân và trong các tế bào niêm
mạc ruột non của một số loài chim di cư. Virus có thể gây đột biến gien mạnh
và trở thành những chủng virus có độc tính rất cao.
- Một người bị mắc bệnh cúm gia cầm thường có liên quan đến tiếp xúc, chăm
sóc thủy cầm, gia cầm, chim cảnh. Hoặc liên quan đến các khâu giết mổ, ăn thịt
hoặc các sản phẩm chế biến từ thịt gia cầm, thủy cầm bị bệnh.
- Tại Việt Nam, các ca mắc cúm gia cầm H5N1 xuất hiện đầu tiên vào năm
2003, tính từ 2004 đến 2013 có 35 cas mắc cúm A/H5N1 và tử vong 29 cas.
Chủng virus cúm này đã biến đổi thành một chủng có độc lực mạnh, tỷ lệ tử
vong cao, có thời điểm đến 100%. Nguy hiểm nhất của bệnh cúm gia cầm là
khi lây sang người có thể gây viêm phổi cấp tính, tổn thương đa tạng, tỷ lệ tử
vong cao.
2.4 nguyên tắc sản xuất vaccine cúm A H5N1
Sản xuất vacxin cúm gia cầm là một công việc phức tạp, đòi hỏi kỹ thuật cao và
điều kiện sản xuất nghiêm ngặt. Hiệu quả của vacxin phụ thuộc rất nhiều vào
chất lượng giống virut, đặc biệt tính tương đồng của chủng virut vacxin với
chủng virut gây bệnh và hàm lượng protein HA chứa trong liều vacxin. Người ta
đã chứng minh được nếu trình tự các axit amin giữa chủng vacxin và chủng gây
bệnh giống nhau khoảng 87% là có mối tương quan rất rõ đến hiệu quả phòng
bệnh.
Hiện nay vacxin cúm gia cầm H5N1 được sản xuất dùng công nghệ nuôi cấy
virut trên phôi gà 10 – 11 ngày tuổi. Việc xác định được nồng độ virut gây
nhiễm, nhiệt độ nuôi cấy, thời gian thu hoạch thích hợp để có thể thu được dịch
niệu mô với hiệu giá virut cao và ổn định là yếu tố quyết định đến thành công
và đảm bảo tính kinh tế khi sản xuất vacxin cúm gia cầm.
Để sản xuất được vacxin cúm gia cầm vô hoạt nhũ dầu có chất lượng, ngoài các
yếu tố về giống virut, điều kiện nuôi cấy thích hợp, thì việc nghiên cứu có được
một công thức nhũ ổn định cũng là một yếu tố mang tính quyết định đến chất

lượng của sản phẩm và đáp ứng được yêu cầu khi sản xuất ở qui mô công
nghiệp.
Theo dõi tính ổn định của nhũ dầu trong thời gian bảo quản cho thấy vacxin
không có hiện tượng chuyển màu, không tách pha nước. Các chỉ tiêu về tính ổn
định, độ nhớt vẫn đạt yêu cầu như kiểm tra ở thời điểm sau khi sản xuất. Tuy
nhiên khi bảo quản ở điều kiện lạnh trong thời gian dài, quan sát thấy có một
lớp dầu tách ra từ 0,1-0,3 mm trên bề mặt vacxin và trong một số trường hợp có
thể hình thành một lớp cặn ở dưới đáy lọ vacxin. Hiện tượng này đã được kiểm
tra và xác nhận không ảnh hưởng đến chất lượng của vacxin.
3: Tình hình sản xuất vaccine cúm A H5N1 trong nước và quốc tế
Các chủng virus cường độc A/H5N1 sau 1996, qua thời gian tiến hóa, có xu
hướng biến đổi nội gen nhằm tăng tính gây bệnh, và thay đổi thành phần nội gen
kháng nguyên làm mất tương quan miễn dịch giữa chúng và các chủng vaccine
được tạo ra. Do vậy, vấn đề này phải được hết sức chú ý trong chiến lược kiến
tạo vaccine, cũng như sử dụng vaccine được tạo ra (Horimoto, Kawaoka, 2006).
Trong tự nhiên, “lệch kháng nguyên” và “glycosyl hóa” là các hiện tượng xảy ra
liên tục theo thời gian, còn “trộn kháng nguyên” tái tổ hợp subtype
Hemagglutinin (HA) và Neuraminidase (NA) thường định kỳ xảy ra giữa các loài
mắc nhằm tạo nên các biến thể virus cúm mới mà hệ miễn dịch của cơ thể vật chủ
không có khả năng nhận dạng đáp ứng và kịp hình thành miễn dịch. H5N1 sử dụng
thụ thể sialic xâm nhập tế bào (Yamada et al., 2006). Hemagglutinin cùng với protein
enzyme neuraminidase, được xác định là protein có vai trò kháng nguyên và độc lực,
(Scholtissek et al., 2002; Wagner et al., 2002 ; Keawcharoen et al., 2005) và các
protein kháng nguyên có nguồn gen từ các chủng H5N1 của Việt Nam, cũng được
nghiên cứu sản xuất bằng kỹ thuật tái tổ hợp và sử dụng với các mục đích khác nhau
trong đó có thử nghiệm làm kháng nguyên kích thích miễn dịch và chẩn đoán
(Nguyễn Tiến Minh et al., 2004; Simmons et al., 2007).
Đối với bệnh truyền nhiễm, vaccine được coi là biện pháp có tính chiến
lược, nhằm ngăn chặn lây lan, tạo bảo hộ miễn dịch (Subbarao, Luke, 2007).
Đối với dịch cúm A/H5N1 ở gia cầm và dự phòng dịch cúm trên người, nghiên

cứu phát triển vaccine không những ngăn ngừa làm giảm được bệnh ở gia cầm,
mà còn khống chế nguồn truyền lây của loại virus nguy hiểm này sang
người(Horimoto, Kawaoka, 2001; OIE, 2005; Subbarao, Luke, 2007). Kháng thể
đặc hiệu có thể được cơ thể sinh ra do kích thích của kháng nguyên trong
vaccine, và đó là các kháng thể kháng HA, NA, MA và nhiều loại hình khác của
virus đương nhiễm, góp phần vô hiệu hóa virus cúm đúng đối tượng khi chúng
xâm nhập vào. Có nhiều loại kháng thể, nhưng trước hết chỉ kháng thể kháng
HA(H5) có vai trò tiên quyết quan trọng trong quá trình trung hòa virus cho bảo
hộ miễn dịch. Các vaccine phòng bệnh hiện nay dựa trên cơ sở hai loại chính:
vaccine truyền thống và vaccine thế hệ mới (Subarao, Luke, 2007; Capua,
Alexander, 2008).
Vaccine truyền thống: bao gồm vaccine vô hoạt đồng chủng và dị
chủng. Vaccine vô hoạt đồng chủng (homologous vaccine), đó là các loại
vaccine được sản xuất chứa cùng những chủng virus cúm gà giống như
chủng gây bệnh trên thực địa (Swayne, Suarez, 2000). Vaccine vô hoạt dị
chủng (heterologous vaccine) là vaccine sử dụng các chủng virus có kháng
nguyên HA giống chủng virus trên thực địa, nhưng có kháng nguyên NA dị
chủng.
Vaccine thế hệ mới hay vaccine công nghệ gen: là loại vaccine được sản
xuất dựa trên sử dụng kỹ thuật gen loại bỏ các vùng “gen độc” đang được
nghiên cứu và đưa vào sử dụng phổ biến, bao gồm:
- Vaccine tái tổ hợp có vector đậu gia cầm dẫn truyền: sử dụng virus đậu
gia cầm làm vector tái tổ hợp song gen H5 và N1 phòng chống virus type H5N1
và H7N1 (Qiao et al., 2006). Ví dụ, hãng Merial của Pháp sản xuất vaccine
TrovacAIV-H5 lấy nguồn gen H5 từ chủng A/Turkey/Ireland/83 (H5N2), sử
dụng được cho gia cầm lúc 1 ngày tuổi.
- Vaccine dưới nhóm chứa protein kháng nguyên NA, HA tái tổ hợp và tách
chiết làm vaccine (Peyre et al., 2008; Prel et al., 2008).
- Vaccine tái tổ hợp có vector dẫn truyền: sử dụng adenovirushoặc
Newcastle virus hoặc virus đậu chim làm vector dẫn truyền, lắp ghép gen kháng

nguyên H5 vào hệ gen của adenovirus, tạo nên virus tái tổ hợp làm
vaccine phòng chống virus cúm A/H5N1 (Hoelscheret al., 2006; Gao et
al., 2006; Römer-Oberdörfer et al., 2008).
- Vaccine DNA: sản phẩm DNA plasmid tái tổ hợp chứa gen HA, NA, NP,
M2 đơn lẻ hoặc đa gen (Kodihalli et al., 1999; Keawcharoen et al., 2005).
- Vaccine nhược độc virus cúm nhân tạo: đượcsản xuất bằng kỹ thuật di
truyền ngược, đó là việc lắp ghép virus cúm nhân tạo chứa đầy đủ hệ gen, trong
đó các gen kháng nguyên H5 có vùng "độc" đã được biến đổi bằng kỹ thuật gen
(Liu et al., 2003; Tian et al., 2005). Có 3 loại vaccine đã được Tổ chức Y tế thế
giới (WHO) công nhận về độ an toàn và khuyến cáo đưa vào chương trình sản
xuất vaccine trên thế giới hiện nay, đó là NIBRG-14 (NIBSC), VN/04xPR8-rg
(SJCRH) và VNH5N1-PR8/CDC-rg (CDC). Hai chủng cúm A/H5N1 cung cấp
nguồn gen H5 và N1 là A/Vietnam/1194/2004(H5N1) hoặc
A/Vietnam/1203/2004(H5N1) (Nicolson et al., 2005). Trung Quốc cũng là nước
sản xuất nhiều giống virus vaccine chống cúm, ví dụ, Viện Nghiên cứu Thú y
Harbin (Cáp - Nhĩ - Tân) đã thành công trong việc tạo giống vaccine vô hoạt
nhũ dầu đơn chủng lấy nguồn gen H5 và N2 từ chủng A/Turkey/England/N-
28/73(H5N2), loại subtype H5N2 có độc lực yếu; hay giống vaccine vô hoạt nhũ
dầu đơn chủng lấy nguồn gen H5 và N1 từ chủng
A/Goose/Guangdong/1996(H5N1), loại có độc lực yếu (Tian et al., 2005;
Qiao et al., 2006). Các loại vaccine này đã được nhập và sử dụng tại Việt Nam
từ năm 2006 cho đến nay.
Vaccine thế hệ mới chủng NIBRG-14: Chủng NIBRG-14 là giống virus
vaccine nhược độc (attenuated vaccine) thế hệ mới, thuộc loại hình vaccine được
xóa gen bằng công nghệ gen (gene-deletion vaccines), được lắp ráp nhân tạo bằng
kỹ thuật di truyền ngược (reverse genetics –based technology) và thích ứng nhân
lên khi nuôi cấy trên phôi gà (Marsh, Tannock, 2005).Phương pháp di truyền
ngược được sử dụng để tạo ra chủng virus nhân tạo nhược độc làm vaccine, cụ thể
hệ gen của chủng nhân tạo NIBRG-14 này được tái tổ hợp gen trên cơ sở sử dụng
chủng gốc PR8/34 (A/Puerto Rico/8/34/Mount Sinai(H1N1)) cung cấp 6 gen

khung là PA, PB1, PB2, NP, MA, NS làm nền, còn các gen kháng nguyên
HA(H5) và NA(N1) được lấy từ chủng cúm cường độc gây bệnh phân lập năm
2004 tại Việt Nam (A/Vietnam/1194/2004(H5N1)) (Tian et al., 2005). Bằng thao
tác kỹ thuật gen, gen H5 đã bị đột biến làm mất hẳn 4 amino acid RRRL, cùng
với một số đột biến điểm ở các bộ mã ở hai đầu của vùng “độc”, làm thay đổi 3
amino acid tại vùng gây độc. Như vậy về mặt miễn dịch học, mặc dù virus được
xử lý làm mất độc tính gây bệnh nhưng vẫn giữ nguyên bản chất đặc tính kháng
nguyên bề mặt giống hệt như virus cúm A/H5N1 đã lấy mẫu ban đầu, do vậy, có
khả năng tạo kháng thể kháng lại kháng nguyên bề mặt loại virus H5N1 gây bệnh
trong tự nhiên (Doherty et al., 2006; Peyre et al., 2008).
4. Quy trình sản xuất vaccine cúm A H5N1
Bước 1: Thu nhận mẫu bệnh và thông tin tình hình dịch tễ bệnh cúm:
Công đoạn này được tiến hành thường xuyên trong năm bởi các nhân viên
y tế, nhân viên giám sát hoặc Trung tâm cúm quốc gia (National Influenza
Centres - NICs). Mục đích của công đoạn này để cung cấp dữ liệu cho việc chọn
lựa chủng virus ứng cử làm vaccine.
Bước 2: Chẩn đoán, phân lập virus và các phân tích sơ bộ:
Công đoạn này được thực hiện trong vòng vài giờ đến 3 tuần bởi các nhân
viên của NICs và những phòng thí nghiệm cúm quốc gia khác.
Trước tiên virus cần được phân lập trong tế bào phôi trứng gà hoặc tế bào
MDCK. Sau đó xác định virus thuộc type cúm nào (A B, C, ). Nếu là type cúm
A, thì sẽ tiếp tục thực hiện thử nghiệm xác định virus thuộc phân type HA và
NA nào của cúm type A. Dựa vào đặc điểm kháng nguyên hoặc sự phân bố theo
thời gian và vùng địa lý của virus gây nhiễm, NICs sẽ chọn lựa mẫu virus và gửi
đến 1 trong 4 Trung tâm hợp tác với tổ chức Y tế thế giới (WHO Collaborating
Centres - WHO CCs) đặt ở Atlanta, London, Melbourne hoặc Tokyo.
Đối với virus H5N1 và những virus thuộc cúm type A khác mà có tiềm năng gây
đại dịch cúm thì NICs hoặc những phòng thí nhgiệm cúm quốc gia khác còn tiến
hành chẩn đoán sơ bộ bằng PCR và giải trình tự. Các kết quả này sau đó cũng
được gửi lại cho WHO CCs.

Bước 3: Sản xuất kháng huyết thanh chồn sương:
Công đoạn này mất 3- 5 tuần được thực hiện bởi WHO CCs ở Atlanta,
London, Melbourne, Memphis và Tokyo. Mục đích của công đoạn này là sản
xuất kháng thể ở chồn sương nhằm xác định mối tương quan về tính kháng
nguyên của virus (antigenic distance) để chọn lựa virus ứng cử làm vaccine.
Bước 4: Phân tích đặc điểm di truyền và kháng nguyên:
Công đoạn này mất 1-3 tuần và được thực hiện bởi WHO CCs ở Atlanta,
London, Melbourne, Memphis và Tokyo.
Mỗi năm, WHO CCs xây dựng thường xuyên thử nghiệm HI
(haemagglutination inhibition) sử dụng kháng huyết thanh sản xuất ở chồn
sương của hơn 5000 chủng virus cúm và sau đó giải trình tự để xác định phân
type. Với phân tích này sẽ cho cái nhìn toàn diện về đặc điểm kháng nguyên và
di truyền của virus đang gây dịch.
Ngoài phân tích đặc điểm di truyền và kháng nguyên của virus, WHO
CCs còn hợp tác với FDA (Food and Drug Administration, Mỹ), NIBSC
(National Institute of Biological Standards and Control, Anh) và TGA
(Therapeutic Goods Adminitration, Úc) tiến hành phân tích các mẫu huyết thanh
thu nhận từ người trưởng thành và một vài trẻ em được gây miễn. Mục đích của
phân tích này là nhằm xác định tính kháng nguyên của virus gần đây có thay đổi
đáng kể so với virus cũ hay không, để xác định xem liệu kháng thể tạo ra do
vaccine hiện tại có đủ chống lại virus cúm hiện thời hay không. Nói cách khác,
liệu vaccine cũ vẫn còn hiệu lực bảo vệ chống lại virus đang lưu hành ngoài
thực địa hay không.
Bước 5: Đánh giá và chọn lựa virus ứng cử làm vaccine:
Các dữ liệu về đặc điểm kháng nguyên và trình tự gene cho phép dự đoán
chủng virus cúm sẽ lưu hoành khoảng 8 tháng trong mùa cúm tới và chọn lựa
virus H5N1 triển khai làm vaccine. Ngay khi chủng virus được chọn lựa làm
vaccine thì WHO sẽ khuyến cáo trên website của WHO cho nhà sản xuất, các
viện nghiên cứu, các phòng thí nghiệm cúm quốc gia….
Bước 6: Sự tái tổ hợp virus cúm bằng kỹ thuật di truyền ngược:

Công đoạn này mất khoảng 6 tuần và được thực hiện bởi WHO CC ở
Atlanta, và Memphis, và các phòng thí nghiệm của FDA và NIBSC.
Bằng kinh nghiệm trong nhiều năm nghiên cứu các nhà khoa học thấy rằng virus
cúm A hoang dại phát triển kém trong trứng gà. Để khắc phục trở ngại này, TS
Edwin D Kilbourne của trường New York Medical College đã sáng chế ra kỹ
thuật tái tổ hợp di truyền ngược nhằm tạo ra chủng virus tái tổ hợp phát triển tốt
hơn trong trứng gà. Kỹ thuật này cho phép 6 gene (mã hóa cho các protein NP,
PA, PB1, PB2, M, NS) của virus cúm A/Puerto Rico/8/34 (thường gọi là PR8)
kết hợp với 2 gene mã hóa cho protein HA và NA (của chủng khuyến cáo làm
vaccine) đã được làm giảm độc lực tạo chủng virus mới mang đặc điểm kháng
nguyên HA và NA giống với chủng khuyến cáo làm vaccine và có thể phát triển
trong trứng nhanh kịp thời cung cấp vaccine khi có dịch xảy ra.
Với virus H5N1, bằng công nghệ di truyền ngược, người ta tạo ra chủng virus
cúm H5N1 giảm độc lực bằng cách loại bỏ vài acid amin tại vị trí phân cắt HA.
Sự tái tổ hợp HA và NA (đã loại bỏ phần gây độc) của virus H5N1 với các gene
còn lại của chủng PR8 tạo nên chủng virus giảm độc lực có thể phát triển trong
trứng gà. Sau đó, virus được giải trình tự gene, kiểm tra hình thái khuẩn lạc
(plaquing), và độ an toàn trong trứng, gà và chồn sương trước khi chủng virus
được gửi đến các viện nghiên cứu và nhà sản xuất vaccine.
Bước 7: Xác định đặc điểm kháng nguyên và di truyền của chủng tái
tổ hợp:
Công đoạn này mất khoảng 4 tuần và được tiến hành bởi WHO CCs ở
Atlanta, London, Melbourne, Memphis và Tokyo.
Virus tái tổ hợp H5N1 được tiêm cho chồn sương để sản xuất kháng huyết thanh
nhằm đảm bảo chủng virus tái tổ hợp có cùng đặc tính kháng nguyên HA và NA
của chủng hoang dại. WHO CCs và NIBSC cũng giải trình tự gene HA và NA
của chủng virus tái tổ hợp để đảm bảo rằng bấy kỳ sự thay đổi nào là không ảnh
hưởng đến các acid amin quan trọng đồi với tính kháng nguyên hay gây bệnh.
Nếu đặc điểm kháng nguyên và di truyền là không thoã mãn được nhu cầu sẽ
phải tiến hành kiểm tra lại và chọn lựa lại virus ứng cử làm vaccine.

Bước 8: Đánh giá đặc tính phát triển của virus tái tổ hợp:
Công đoạn này mất khoảng 3 tuần và được thực hiện bởi các nhà sản xuất
vaccine. Trước khi virus tái tổ hợp được chọn lọc làm vaccine ứng cử, các nhà
sản xuất vaccine phải tiến hành kiểm tra đặc tính phát triển của chúng trong tế
bào nuôi cấy. Virus ứng cử là vaccine H5N1 phát triển kém hơn virus cúm A
ứng cử làm vaccine phòng cúm theo mùa hàng năm. Đây là 1 thách thức lớn cho
các nhà sản xuất nếu cần cung cấp lượng vaccine đủ lớn trong 1 thời gian thật
ngắn khi có đại dịch xảy ra.
Bước 9: Chuẩn bị các hoá chất cho vaccine bất hoạt:
Công đoạn này mất khoảng 6 tuần và được tiến hành bởi nhà sản xuất
vaccine và các phòng thí nghiệm của FDA, NIBSC và TGA.
Các hoá chất dùng cho vaccine H5N1 bất hoạt được tiến hành bởi WHO CC ở
Tokyo và các phòng thí nghiệm quốc gia ở FDA, NIBSC và TGA. Các hoá chất
này sao đó được chuẩn hoá bởi các phòng thí nghiệm của FDA, NIBSC và
TGA.
Sau tất cả những công đoạn chuẩn bị trên được hoàn tất, virus tái tổ hợp và
các hóa chất đã sẵn có được chuyển đến cho các nhà sản xuất và bắt đầu ngay
vào công việc sản xuất vaccine. Tổng cộng thời gian sản xuất vaccine H5N1 cho
người là khoảng 28-52 tuần.
5: Kết Luận
Đối phó với đại dịch cúm A H5N1 là một việc làm cấp thiết không chỉ ở việt
nam mà là vấn đề chung của toàn nhân loại. Các virus cúm gia cầm đang ngày
càng biến đổi phức tạp, trong tương lai rất có thể tạo ra các biến chủng mới. Khi
đó có thể sảy ra đại dịch. Do đó việc sản xuất và thiết kế vaccine mới chống lại
cúm gia cầm, mà xa hơn là chuẩn bị đối diện với một đại dịch cú là rất cần thiết
bởi hiện nay con người vẫn chưa thể tạo ra một vaccine chống cúm gia cầm đặc
hiệu. Cũng chính lý do đó mà việc sản xuất và xây dựng một quy trình sản xuất
vaccine cúm gia cầm cần được chú trọng phát triển hơn nữa.
6: Tài Liệu Tham Khảo
1. Lê Thanh Hòa, 2006b. Y-sinh học phân tử (quyển 1). Nhà xuất bản Y học, Hà

Nội.
2. Lê Thanh Hòa, Đinh Duy Kháng, Phan Văn Chi, Nông Văn Hải, Trương Nam
Hải, Lê Trần Bình, 2004. Virus cúm A của gia cầm và mối quan hệ lây nhiễm
động vật sang người. Tạp chí Công nghệ Sinh học 2(1): 1-18.
3. Lê Trần Bình, 2007. Báo cáo tổng kết đề tài độc lập cấp nhà nước: “Nghiên
cứu xây dựng qui trình sản xuất vaccine cúm A/H5N1 cho gia cầm” (2006 -
2007). Trung tâm Thông tin và Tư liệu Quốc gia và Bộ Khoa học và Công nghệ,
Hà Nội.
4. Nguyễn Tiến Dũng, 2008. Vài nét về virus cúm gia cầm H5N1. Tạp chí Khoa
học Kỹ thuật Thú y 14(4): 80-86. )

×