Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU ĐÔ THỊ HÓA VÀ QUẢN LÝ ĐÔ THỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 18 trang )

1

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
ĐÔ THỊ HÓA VÀ QUẢN LÝ ĐÔ THỊ
ĐÔ THỊ HÓA
I-KHÁI NIỆM:
- Đô thị hóa là sự mở rộng của đô thị,
tính theo tỉ lệ phần trăm giữa số dân đô
thị hay diện tích đô thị trên tổng số dân
hay diện tích của một vùng hay khu vực.
Nó cũng có thể tính theo tỉ lệ gia tăng
của hai yếu tố đó theo thời gian. Nếu
tính theo cách đầu thì nó còn được gọi là
mức độ đô thị hóa; còn theo cách thứ
hai, nó có tên là tốc độ đô thị hóa.
- Đô thị hóa là quá trình phát triển
rộng rãi lối sống thị thành thể hiện qua
các mặt dân số, mật độ dân số, chất
lượng cuộc sống,










- Các nước phát triển (như tại châu Âu, Mĩ hay Úc) thường có mức độ đô thị
hóa cao hơn nhiều (trên 80%) so với các nước đang phát triển (như Việt Nam hay


Yokohama

2

Trung Quốc) (khoảng 30%). Đô thị các nước phát triển phần lớn đã ổn định nên
tốc độ đô thị hóa thấp hơn nhiều so với trường hợp các nước đang phát triển.
- Sự tăng trưởng của đô thị được tính trên cơ sở sự gia tăng của đô thị so với
kích thước (về dân số và diện tích) ban đầu của đô thị. Do đó, sự tăng trưởng của
đô thị khác tốc độ đô thị hóa (vốn là chỉ số chỉ sự gia tăng theo các giai đoạn thời
gian xác định như 1 năm hay 5 năm).

- Theo khái niệm của ngành địa lý, đô thị hóa đồng nghĩa với sự gia tăng không
gian hoặc mật độ dân cư hoặc thương mại hoặc các hoạt động khác trong khu vực
theo thời gian. Các quá trình đô thị hóa có thể bao gồm:
 Sự mở rộng tự nhiên của dân cư hiện có. Thông thường quá trình này
không phải là tác nhân mạnh vì mức độ tăng trưởng dân cư tự nhiên của thành phố
thường thấp hơn nông thôn.
 Sự chuyển dịch dân cư từ nông thôn ra thành thị, hoặc như là sự nhập cư
đến đô thị.
 Sự kết hợp của các yếu tố
trên.
- Đô thị hóa có các tác động không
nhỏ đến sinh thái và kinh tế khu vực.
Đô thị học sinh thái cũng quan sát thấy
dưới tác động đô thị hóa, tâm lí và lối
sống của người dân thay đổi. Sự gia
tăng quá mức của không gian đô thị so
với thông thường được gọi là "sự bành
trướng đô thị" (urban sprawl), thông
thường để chỉ những khu đô thị rộng

3

lớn mật độ thấp phát triển xung quanh thậm chí vượt ngoài ranh giới đô thị. Những
người chống đối xu thế đô thị hóa cho rằng nó làm gia tăng khoảng cách giao
thông, tăng chi phí đầu tư hạ tầng kĩ thuật và có tác động xấu đến sự phân hóa xã
hội do cư dân ngoại ô sẽ không quan tâm đến các khó khăn của khu vực trong đô
thị.
 Đô thị hóa có ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
 Đô thị hóa cũng tác động mạnh lên sự phát triển kinh tế xã hội của vùng và
cả nước.
 Đô thị là nơi tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động.
 Các thành phố thị xã là nơi tiêu thụ sản phẩm hàng hóa lớn và đa dạng, là
nơi sử dụng lực lượng lao động có chất lượng cao, cơ sở kỹ thuật hạ tầng cơ sở
hiện đại có sức hút đầu tư mạnh trong nước và nước ngoài.

II-TÌNH HÌNH ĐÔ THỊ
HÓA Ở VIỆT NAM:
Bước vào thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội
nhập kinh tế quốc tế và trước
các tác động của tiến trình
toàn cầu hóa, tốc độ đô thị
hoá đang diễn ra khá nhanh,
làm biến đổi bộ mặt kinh tế -
xã hội của đất nước. Trong
tiến trình đó, văn hóa đô thị
4

Việt Nam đang có những thay đổi theo hướng hiện đại.
1. Đô thị hóa - kết quả tất yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa:

Theo kết quả nghiên cứu, trước năm 1990, các đô thị ở Việt Nam phát triển
chậm, số dân đô thị chỉ chiếm 7,4% (năm 1930), 10,96% (năm 1955) và 19,79%
(năm 1989); quy mô đô thị nhỏ bé và tính chất không thuần nhất.
Từ năm 1990 đến nay, do tác động của quá trình phân công lao động giữa các
vùng, các ngành nghề trong nước, đặc biệt giữa nông nghiệp, công nghiệp và dịch
vụ, khu vực đô thị đã có sự tăng trưởng đáng kể, nhất là ở các trung tâm kinh tế -
xã hội lớn của đất nước như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các đô thị trung
tâm vùng như Hải Phòng, Hạ Long, Đà Nẵng…
Hiện nay, cả nước có 673 đô thị, trong đó có 5 thành phố trực thuộc trung ương,
trên 30 thành phố trực thuộc tỉnh, 60 thị xã và trên 500 thị trấn. Bước đầu đã hình
thành các chuỗi đô thị trung tâm quốc gia và khu vực: các đô thị trung tâm quốc
gia gồm Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế; các đô thị
trung tâm vùng liên tỉnh gồm các thành phố loại hai như Cần Thơ, Biên Hoà, Vũng
Tàu, Buôn Mê Thuột, Nha Trang, Vinh, Nam Định, Thái Nguyên, Việt Trì, Hạ
Long và Hoà Bình; các đô thị trung tâm tỉnh gồm các thành phố, thị xã giữ chức
năng trung tâm hành chính - chính trị, kinh tế,văn hóa, du lịch - dịch vụ, đầu mối
giao thông; các đô thị trung tâm huyện; đô thị trung tâm cụm các khu dân cư nông
thôn và các đô thị mới.
Nhìn chung, các đô thị ở nước ta đang phát triển nhanh cả về số lượng, chất
lượng và đảm nhiệm được vai trò trung tâm phát triển công nhiệp, tiểu thủ công
nghiệp, chuyển giao công nghệ, thương mại - du lịch - dịch vụ, trung tâm phát triển
văn hóa, giáo dục, nâng cao dân trí và phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo quốc
phòng, an ninh và đóng góp vào ngân sách nhà nước.
2. Những tồn tại trong quá trình đô thị hóa ở Việt Nam hiện nay:
Một là, cơ sở kinh tế - kỹ thuật, động lực phát triển đô thị còn yếu; tốc độ tăng
trưởng kinh tế chậm hơn so với tỷ lệ tăng dân số đô thị; tỷ lệ dân số trong độ tuổi
lao động không có việc làm ở khu vực thành thị còn cao. Dự báo, đến năm 2020,
dân số khu vực đô thị sẽ vào khoảng 46 triệu, chiếm 45% dân số cả nước. Trong
khi vấn đề lao động, việc làm ở đô thị chưa được giải quyết, thì tình trạng đô thị
hóa nhanh đã đẩy một bộ phận lao động dư thừa từ nông thôn ra thành thị, tạo

thêm gánh nặng cho khu vực đô thị. Hiện nay, dân cư nông thôn đang tự di cư vào
thành thị để kiếm sống mà nhà nước chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn.
Thành phố Hồ Chí Minh có trên 2 triệu người nhập cư; ở Hà Nội, trong những năm
gần đây, trung bình mỗi năm có khoảng 60.000 người nhập cư vào Thành phố. Sự
5

xâm nhập của các giá trị văn hóa nông thôn vào đô thị đã và đang tạo ra sự pha
trộn phức tạp về văn hóa đô thị.
Hai là, tình trạng sử dụng đất nông nghiệp vào mục đích xây dựng đô thị thiếu
kế hoạch có thể dẫn đến nguy cơ về an ninh lương thực quốc gia. Dự báo đến năm
2020, diện tích đô thị vào khoảng 460.000 ha, chiếm 1,4 % diện tích đất tự nhiên
cả nước. Mục tiêu đảm bảo 40 triệu tấn lương thực cho 100 triệu dân khó có thể
đạt được.
Ba là, sự chênh lệch về văn
hóa và mức sống giữa các tầng
lớp cư dân đô thị ngày càng
lớn, dẫn đến sự mất cân bằng
trong sinh thái đô thị, nhất là
giữa dân số và việc làm, giữa
dân số và thu nhập, giữa dân
số và kết cấu hạ tầng… Cơ chế
thị trường đã làm cho dân cư
đô thị nước ta bị phân hóa sâu
sắc, một bộ phận dân cư giàu
lên nhanh chóng bên cạnh tầng
lớp nghèo, lang thang cơ nhỡ, sống tạm bợ trong các khu nhà ổ chuột, thiếu các
điều kiện tối thiểu, không có cơ hội được hưởng đầy đủ các chính sách an sinh xã
hội. Một kết quả nghiên cứu vấn đề nghèo đô thị ở Thành phố Hồ Chí Minh cho
thấy: mức sống của người nghèo thấp hơn người giàu 7 lần. Do thu nhập thấp, các
hộ nghèo phải dành 80% thu nhập chi cho bữa ăn hằng ngày (nhưng vẫn không

đủ), chỉ còn 20% dành cho học hành, chữa bệnh, đi lại; gần 20% trẻ em trong độ
tuổi không được đến trường, cũng gần bằng số đó là con của các hộ nghèo phải bỏ
học, số trẻ em suy dinh dưỡng chiếm 38,8%. Các vấn đề này tác động tiêu cực đến
tư tưởng, đạo đức, lối sống, tình cảm và tâm lý dân cư đô thị, từ đó có thể dẫn đến
các phức tạp xã hội. Sự mất cân bằng này cần phải được khắc phục bằng các chính
sách về quản lý đô thị của các ngành chức năng và chính quyền các đô thị.
6



Bốn là, hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị Việt Nam còn rất yếu kém, lạc hậu,
không đảm bảo các tiêu chuẩn đô thị hiện đại thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, nhất là hệ thống cấp thoát nước, giao thông đô thị và vấn đề nhà ở. Mạng lưới
giao thông đô thị chưa phát triển, gây trở ngại cho sự giao thương giữa các địa
phương; tỷ lệ đất dành cho giao thông, nhất là giao thông tĩnh ở các đô thị nước ta
vào loại thấp nhất thế giới, chưa đạt 5%. Giao thông công cộng chưa phát triển, chỉ
chiếm 2-3% nhu cầu vận tải công cộng; xe máy chiếm tỷ trọng lớn, gây ô nhiễm
không khí, tiếng ồn và nguyên nhân chính gây tắc nghẽn giao thông. Việc cung cấp
nước sạch mới bảo đảm được cho khoảng 50% số dân đô thị. Hệ thống thoát nước
cũ kỹ, lạc hậu thường xuyên gây ra tình trạng úng lụt vào mùa mưa bão và rất mất
vệ sinh do nước thải chưa được xử lý.







7


Năm là, quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa đang thúc đẩy nhanh tình trạng
ô nhiễm môi trường, nhất là ở các thành phố lớn và các khu công nghiệp, khu chế
xuất. Các đô thị hàng ngày thải ra khoảng 900 tấn rác, riêng rác thải y tế chiếm 250
tấn. Việc thu gom mới đạt khoảng 60% và hình thức xử lý chủ yếu là chôn cất nên
gây ô nhiễm trầm trọng nguồn nước, mặt đất và không khí. Ở Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh, mức độ ô nhiễm môi trường đã vượt ngưỡng cho phép nhiều
lần. Còn có khá nhiều nhà máy, xí nghiệp, làng nghề gây ô nhiễm nằm ở trung tâm
thành phố, thị xã và xen kẽ giữa các khu đô thị.
Sáu là, tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội đang có chiều hướng gia tăng, trật
tự đô thị chưa được đảm bảo. Theo thống kê của các cơ quan bảo vệ pháp luật, tỷ
lệ tội phạm xảy ra ở khu vực thành thị trung bình hàng năm ở vào khoảng 70-75%
so với cả nước, riêng 4 thành phố lớn (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và Thành phố
Hồ Chí Minh) chiếm 45-50%. Trật tự và văn minh đô thị chưa được lập lại, tình
trạng lấn chiếm lòng đường, vỉa hè, vệ sinh công cộng còn rất phổ biến. Và cuối
cùng là, nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa, không gian văn hóa đô
thị bị phá vỡ. Tất cả các vấn đề trên đang tác động làm biến đổi văn hóa đô thị.
Nguyên nhân chính của tình trạng trên là do công tác quản lý nhà nước về đô thị và
quản lý nhà nước về văn hóa của ta còn yếu kém, bất cập.
3. Một số đặc điểm của văn hóa đô thị ở nước ta:
Khác với văn hóa nông thôn, đặc trưng của văn hóa đô thị là sự tập trung dân cư
phi nông nghiệp, hình thành những quần thể kiến trúc theo kiểu bàn cờ.
Ở thành thị, quan hệ cư trú - ứng xử kết cấu giản đơn hơn ở nông thôn: gia đình
- đường phố - xã hội (thông thường ở nông thôn Việt Nam, quan hệ cư trú - ứng xử
kết cấu theo kiểu: gia đình - họ tộc - láng giềng - làng xóm - xã hội). Điều đó có
nghĩa là: người thành thị khi bước chân ra khỏi nhà đã hoà mình với xã hội rồi.
Ở nông thôn, mỗi gia đình có thể tự túc được lương thực, thực phẩm, còn ở
thành phố, con người phải phụ thuộc vào dịch vụ… Nhu cầu tiêu dùng của người
đô thị thường cao hơn, đa dạng hơn và hướng tới sự khá giả. Vì vậy, dịch vụ công
không thể thiếu đối với cư dân đô thị. Đây có thể được xem như là một nét văn hóa
đô thị.

Trong văn hóa đô thị, do không gian giao tiếp rộng lớn, việc sử dụng các
phương tiện giao thông là không thể thiếu và không ngừng tăng lên. Vì vậy, văn
hóa ứng xử ngoài đường phố, trên các phương tiện giao thông công cộng cũng
được coi trọng như văn hóa ứng xử trong gia đình và trong công sở. Sự phân hóa
giàu nghèo ở đô thị hiện nay đang tăng lên đã thúc đẩy việc hình thành nhân cách
của các tầng lớp dân cư đô thị, vì vậy văn hóa đô thị là một thể hỗn hợp giữa văn
8

hóa bác học, văn hóa dân gian và văn hóa đại chúng (văn hóa thị dân). Trong khi
văn hóa bác học đóng vai trò chủ yếu sản sinh ra các chuẩn mực văn hóa, văn hóa
dân gian tạo tiềm năng, môi trường nuôi dưỡng và thể hiện các chuẩn mực văn hóa
thì văn hóa thị dân dễ bị tầm thường hóa, dễ dẫn đến chỗ dung dưỡng các hành vi
phản văn hóa như mê tín dị đoan, cờ bạc, ma túy, mại dâm.
Con người ở đô thị có rất nhiều mối quan hệ, ngoài quan hệ gia đình, thân tộc,
hàng xóm, còn có quan hệ đồng nghiệp, đồng hương, bạn hàng, nhóm cùng sở
thích…Văn hóa ứng xử của người đô thị có phần thiên về quan hệ trên cơ sở luật
pháp và thị trường nhiều hơn, người đô thị sống sòng phẳng và có vẻ “lạnh lùng”
hơn.
4. Được và mất trong quá trình đô thị hóa ở nước ta:
Đô thị hóa đang làm thay đổi bộ mặt đất nước trên nhiều phương diện. Quá
trình đô thị hóa cũng đang làm thay đổi văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa đô
thị nói riêng. Quá trình thay đổi văn hóa đô thị đang diễn ra ở các khía cạnh sau:
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa đang làm thay đổi tập quán sản
xuất, kinh doanh của người đô thị theo hướng công nghiệp hóa, đa thành phần, đa
dạng dịch vụ theo kinh tế thị trường. Sự biến đổi văn hóa sản xuất, kinh doanh
đang thúc đẩy nhanh quá trình dân chủ trong lĩnh vực văn hóa, xác lập ngày càng
đầy đủ hơn các quyền và nghĩa vụ của người dân, của các nhóm cư dân đô thị
trong sáng tạo, phát huy, bảo tồn và hưởng thụ văn hóa. Người dân đô thị ngày
càng chú trọng đến chất lượng các loại hình dịch vụ văn hóa, có nhiều điều kiện để
chọn lựa cách thức hưởng thụ giá trị văn hóa. Trong tổ chức đời sống văn hóa,

người dân đô thị đã cơ bản khắc phục được tác phong sản xuất nhỏ, trì trệ, luộm
thuộm; hình thành tác phong công nghiệp hiện đại; xây dựng được ý thức chấp
hành pháp luật, ý thức công dân và ý thức cá nhân. Xã hội công dân đang manh
nha hình thành ở khu vực đô thị. Tuy nhiên, sự tác động của cách thức sản xuất
kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế cũng làm
nảy sinh nhiều vấn đề về văn hóa không phù hợp với văn hóa dân tộc như sự thẩm
lậu và lưu hành các loại hình văn hóa “trái luồng”, độc hại (sách báo, băng đĩa, sự
phát triển thái quá ngoài tầm kiểm soát của các loại hình dịch vụ văn hóa nhạy cảm
như karaoke, vũ trường, enternet, báo chí, xuất bản…). Tình trạng văn hóa đọc,
viết đang bị mai một là một ví dụ tiêu biểu về phong cách sống của cư dân đô thị
hiện đại. Có rất nhiều người không bao giờ đọc các tác phẩm văn học, tiểu thuyết
văn chương, kể cả những tác phẩm được coi là di sản văn hóa nhân loại. Vô tuyến
truyền hình, trò chơi điện tử, máy tính, truyện tranh vẫn sẽ là sự lựa chọn của học
sinh, sinh viên và thanh thiếu niên, và điều đó là rất nguy hiểm.
- Đối với cư dân đô thị, kinh tế thị trường thậm chí đã làm thay đổi thế giới
quan, nhân sinh quan, tình cảm và tâm lý của họ. Về mặt tích cực, kinh tế thị
9

trường làm thay đổi thái độ đối với lao động của người thành thị: tất cả phải vươn
ra thị trường, tất cả phải kiếm được việc làm, phải có thu nhập, không trông chờ, ỷ
lại vào sự bao cấp của nhà nước và sự bố thí của xã hội. Thái độ đối với gia đình,
bạn bè, xã hội cũng có sự thay đổi theo hướng hiện đại, đó là sự thông cảm, sẻ chia
và tôn trọng tự do cá nhân (sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật). Người
dân thành thị ngày nay đã vượt qua được tính ích kỷ, tự ti của người nông dân và
tiểu thương, vượt qua được các ràng buộc bởi lễ giáo phong kiến. Nhân cách văn
hóa người dân đô thị trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế đã và sẽ tiếp tục được hình thành theo hướng tích cực nhiều hơn, có
nhiều đặc trưng khác với nhân cách văn hóa truyền thống của người Việt Nam. Sự
khác biệt lớn nhất sẽ là sự hình thành nhân cách công dân với đặc trưng là khẳng
định cái “tôi”, cái cá nhân nhiều hơn và ít bị chi phối bởi cộng đồng. Về mặt tiêu

cực, với bản chất là cạnh tranh, kinh tế thị trường là mảnh đất màu mỡ cho sự nảy
sinh và phát triển chủ nghĩa cá nhân vị kỷ nuôi dưỡng bản năng thấp hèn của con
người. Nhiều mối quan hệ chỉ được giải quyết thông qua giá trị của đồng tiền, kể
cả quan hệ ruột thịt trong một gia đình. Một bộ phận cư dân đô thị có biểu hiện suy
thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, trong đó có cả cán bộ, công chức và thanh
niên, học sinh, sinh viên.







10

QUẢN LÝ ĐÔ THỊ
Đô thị hình thành và phát triển tất yếu nảy sinh ra vấn đề quản lý đô thị và vấn
đề quản lý đô thị (QLĐT) hiện nay đang trở thành vấn đề bức xúc đối với các đô
thị ở nước ta. TPHCM với diện tích hơn 2.000km2, dân số thường trú trên 5 triệu
người, ngoài ra còn xấp xỉ 2 triệu người tạm trú và vãng lai, là thành phố lớn nhất
nước. TPHCM đã được đô thị hóa từ lâu và hiện nay cũng đang diễn ra dữ dội, do
vậy công tác quản lý đô thị lại càng trở nên bức thiết.
1. Thực trạng:
- Thực tiễn của sự phát triển sôi động trong những năm gần đây đã tác động đến
sự nhận thức về vai trò và tầm quan trọng của công tác quản lý đô thị.
- Trong quá trình QLĐT, các cấp chính quyền ở đô thị phải luôn đương đầu giải
quyết những khó khăn do đô thị hóa gây ra như: tình trạng xây dựng hỗn loạn
không tuân thủ qui hoạch, vấn đề cấp thoát nước, thiếu cây xanh, tình trạng thiếu
nhà ở (nhà ổ chuột), nạn ùn tắc giao thông, đường sá xuống cấp, mạng lưới điện
quá tải, ô nhiễm môi trường, thiếu công ăn việc làm, thất nghiệp, nghèo đói, tệ nạn

xã hội, gia tăng dân số, trật tự giao thông…
2. Nguyên nhân:
Thực trạng đó bắt nguồn từ các nguyên nhân sau đây:
+ Chưa có bề dày kinh nghiệm thực tiễn quản lý đô thị.
+ Nhiều công ty và địa phương không có chiến lược phát triển nguồn nhân
lực và có rất ít cơ chế ưu đãi, khuyến khích cán bộ giỏi. Yếu từ khâu cán bộ dẫn tới
yếu các kỹ năng về quản lý đô thị.
+ Hệ thống pháp luật chưa đủ để vận hành nền kinh tế thị trường nên nảy
sinh nhiều tiêu cực, luật pháp về đô thị chưa đủ, chưa đồng bộ, pháp chế chưa
nghiêm.
+ Cơ sở hạ tầng của đô thị lạc hậu, không đồng bộ, xuống cấp nghiêm trọng
làm phát sinh những hậu quả xấu.
+ Công tác tổ chức và QLĐT chưa khoa học, chưa đáp ứng được yêu cầu.
+ Công tác quy hoạch đô thị tiến hành chậm, chưa đồng bộ.
+ Chưa phân biệt được QLĐT và quản lý nông thôn (điều này thể hiện trong
công tác tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, trình độ cán bộ…).
11

Đô thị và nông thôn là hai loại đơn vị hành chính có nhiều đặc điểm rất khác
nhau ai cũng biết vì rất dễ nhận thấy. Vì thế nếu thiết kế một bộ máy quản lý hành
chính nhà nước cho đô thị và nông thôn giống nhau là một việc vô cùng phi lý.
Phải xuất phát từ đối tượng quản lý mà thiết kế bộ máy quản lý cho phù hợp thì
mới hợp logic.
+ Phẩm chất năng lực cán bộ còn nhiều hạn chế.
+ Các luồng di dân từ nông thôn vào các thành phố lớn ngày càng tăng nên
bộ máy chính quyền đô thị cần phân quyền và chủ động hơn trong công tác quản
lý.
+ Hiện cơ sở hạ tầng trong nước đang quá tải trước tốc độ phát triển nhanh
chóng của dân số đô thị, đáp ứng không kịp những nhu cầu cơ bản của cuộc sống
người dân đô thị.



Cơ sở hạ tầng cơ bản trong nước còn kém xa nhiều nước khác ở châu Á. Theo
một công bố của Ban tổ chức Diễn đàn, hiện còn 28 triệu người Việt Nam sống
trong đói nghèo và 30 triệu người không có nước sạch, 10 triệu người Việt Nam
chưa có nhà vệ sinh phù hợp, đặc biệt tại những vùng thuộc ĐBSCL và cộng đồng
dân cư có thu nhập thấp sống ở các vùng xa xôi hẻo lánh.
+ Tìm vốn vẫn là một trong những cái khó khi tháo gỡ những vấn đề đô thị.
12

Rất khó huy động được số tiền ước tính lên tới hàng tỷ Đô la Mỹ thông qua
Chính phủ hoặc nguồn vốn ODA. Mặc dù chính phủ khuyến khích khu vực tư nhân
tham gia vào lĩnh vực nước thải và vệ sinh, nhưng đầu tư tư nhân cũng không mặn
mà vì tỷ lệ hoàn vốn thấp và không có nhiều ưu đãi về thuế và mức phí.
+ Công tác xây mới và chỉnh trang đô thị là việc làm diễn ra hàng ngày trên
địa bàn TP Hồ Chí Minh. Song song với quá trình này là công tác giải tỏa, đền bù
và tái định cư cho người dân. Bà Lê Thị Thanh Tâm (Trung tâm Khoa học xã hội
và nhân văn) cho rằng: hiện nay, khi giải tỏa tái định cư, chúng ta thường đưa dân
vào các chung cư cao tầng với kiến trúc đẹp và kỹ thuật xây khá kiên cố. Tuy
nhiên không phải người dân nào, nhất là những người dân nghèo, được vào ở trong
những chung cư xinh đẹp này đều có thể an cư được. Hàng loạt vấn đề có thể phát
sinh như liệu họ có duy trì được việc làm, ổn định mức thu nhập, nhất là những
người buôn thúng bán bưng cũng như nhiều khoản chi khác cũng phát sinh thêm và
cao hơn như tiền gửi xe, quản lý, điện nước
Đây là một trong nhiều nguyên nhân, khiến cho các gia đình nghèo tại nhiều
chung cư cao tầng thuộc diện tái định cư mua căn hộ trả góp, sau một thời gian
sống, không thích nghi phải “sang tay” hoặc bán ngay từ đầu để đảm bảo cuộc
sống hàng ngày.
Cư dân TP Hồ Chí Minh có bộ phận không nhỏ nguồn gốc xuất phát từ nông
thôn. Vì vậy, không thể một sớm một chiều có thể thay đổi thói quen sinh hoạt của

họ. Vì thế hàng ngày chúng ta có thể chứng kiến hàng loạt hình ảnh mất mỹ quan
đô thị như xả rác ra đường, khạc nhổ nơi công cộng, vi phạm luật lệ giao thông
Tất cả những vấn đề này đã tạo không ít khó khăn trong quá trình quản lý đô thị.
Tuy vậy phần đông cư dân TP Hồ Chí Minh cũng có những đặc điểm tâm lý rất tốt
như năng động sáng tạo trong công việc, sống tình nghĩa Nhà quản lý đô thị phải
kích hoạt điểm tích cực đó.





13

GIẢI PHÁP CHO ĐÔ THỊ HÓA VÀ QUẢN LÝ ĐÔ THỊ
- Giống như mọi quốc gia đang phát triển khác, các đô thị lớn tại Việt Nam như
Hà Nội và TP.HCM luôn phải đứng trước những sức ép lớn về sự gia tăng dân số
cơ học do chúng luôn đóng vai trò là những “lực hút” về kinh tế của quốc gia, bất
chấp mọi rào cản về hành chính để siết chặt việc nhập cư vào các đô thị lớn, các
luồng di dân từ nông thôn vào các TP vẫn ngày càng tăng.
- Trong bối cảnh ấy, để có thể quản lý tốt đô thị như TP.HCM, trước hết phải
xem chuyện nhập cư từ nơi khác đến là bình thường vì không có cách nào và cũng
không có quyền để ngăn cấm. Hơn nữa, nếu thiếu vắng người nhập cư thì sự vận
hành của TP sẽ bị trục trặc ngay bởi nhiều hoạt động tại TP.HCM hiện nay, người
nhập cư đang là những “vai diễn chính” (công nhân tại các khu công nghiệp, hệ
thống thu gom rác dân lập…).
Trước thực trạng như vậy, công tác QLĐT đòi hỏi phải có những nét đặc thù
riêng:
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển đô thị
đến 2020 và các năm tiếp theo phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, phát triển bền vững, giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc. Phát triển đô thị

phải coi trọng bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa, các công trình kiến
trúc và danh lam thắng cảnh, phát triển đô thị theo kiến trúc hiện đại kết hợp với
kiến trúc truyền thống.
Thứ hai, khẩn trương hoàn thiện quy hoạch không gian văn hóa đô thị (nội đô
và ven đô) đáp ứng nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Phải tạo
ra được các thiết chế văn hóa - thông tin của Nhà nước và xã hội trong một không
gian văn hóa hợp lý. Đối với vùng ngoại ô, việc quy hoạch không gian văn hóa nên
xây dựng tập trung, ở nội đô có thể phân tán nhưng phải đảm bảo sự liên hoàn giữa
các khối kiến trúc.

14

Thứ ba, khuyến khích sáng tạo văn hóa đô thị bằng các chính sách ưu tiên đầu
tư cho sáng tác, thẩm định và quản lý hoạt động biểu diễn, triển lãm, xuất bản, báo
chí cả chuyên nghiệp và nghiệp dư. Tập trung ưu tiên đầu tư cho các hoạt động văn
hóa ở Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn, xây dựng các
thành phố này trở thành các trung tâm văn hóa quốc gia và khu vực.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa đô thị, kết
hợp với công tác phòng chống các biểu hiện và hành vi phi văn hóa, bài trừ tệ nạn
xã hội. Nhà nước cần hoàn thiện pháp luật về văn hóa. Hiện nay, hệ thống các văn
bản pháp luật về văn hóa đang phân tán (quản lý bảo tồn, phát triển các giá trị văn
hóa vật thể và phi vật thể; quản lý hoạt động văn hóa chuyên nghiệp và quần
chúng; quản lý dịch vụ văn hóa; quản lý môi trường văn hóa và xây dựng gia đình
văn hóa), chưa được quy định trong một bộ luật thống nhất. Đẩy mạnh việc phân
cấp công tác quản lý văn hóa theo hướng tăng cường cho cấp quận và phường kết
hợp công tác kiểm tra, phòng ngừa, phát hiện, xử lý các vi phạm, phòng chống tệ
nạn xã hội và chống xâm nhập các nguồn văn hóa lai căng, xa lạ với văn hóa dân
tộc.
Những người QLĐT kể cả hoạch định các chính sách vĩ mô hay các viên chức
hành chính trong bộ máy chính quyền các cấp của đô thị phải nắm vững những đặc

thù của đô thị để từ đó có những chính sách và những hành động quản lý phù hợp
và hữu hiệu. Nếu không ta sẽ đứng trên tầm nhìn của tiểu nông thay cho tầm nhìn
của thị dân để thực hiện QLĐT.
Thay đổi cách tuyển dụng nhân sự.
Một yếu tố quan trọng khác là TP phải thay đổi tư duy về nhân lực của bộ máy
hành chính, bởi nếu được phân quyền mà nhân lực kém thì cũng không mang lại
hiệu quả như mong đợi. Để quản lý và điều khiển tốt sự vận hành của đô thị thì các
nhân viên trong bộ máy công quyền phải có những phẩm chất chuyên môn vượt
trội so với ở nông thôn, vì họ phải đối diện với những vấn đề phức tạp hơn nhiều.
TP phải thay đổi tư duy về tuyển dụng nhân sự trong bộ máy hành chính theo
hướng nhân sự phải được tuyển dụng theo phẩm chất chuyên môn; sự thăng tiến
của cá nhân phải dựa trên thành tích chứ không do “quy hoạch” hay lý lịch gia
đình.
Thứ năm, đẩy mạnh đấu tranh trên mặt trận tư tưởng- văn hóa, kiên quyết phản
bác các luận điệu sai trái phản cách mạng
thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình” của
các thế lực thù địch.
Thứ sáu, cần từng bước cung cấp tới
các khu đô thị những cơ sở hạ tầng hiện đại
15

và một môi trường lành mạnh, quan tâm đến yếu tố môi trường và sử dụng hiệu
quả các tài nguyên thiên nhiên, quản lý nước thải và chất rắn.Tạo ra một môi
trường sống xanh, sạch, đẹp và an ninh- trật tự.


Thứ bảy, để công tác quản lý đô
thị ngày được nâng cao hiệu quả, xây
dựng một đô thị văn minh hiện đại
cũng như mang đậm tính nhân văn thì

bên cạnh tính chuyên nghiệp, đòi hỏi
người làm công tác quản lý cần phải
có cái tâm. Về lâu dài, cần đẩy mạnh
công tác nghiên cứu xây dựng khoa
học tâm lý quản lý, nghiên cứu tâm lý
thị dân, nghiên cứu tâm lý cán bộ quản lý, thu hút quần chúng tham gia quản lý đô
thị và xây dựng cơ chế, lắng nghe trong dư luận quần chúng để biết tâm tư nguyện
vọng của họ. Bên cạnh đó, cần đào tạo tâm lý quản lý cho cán bộ quản lý đô thị các
cấp, nhất là cán bộ trẻ, kế cận, từ đó tạo nên văn hóa quản lý đô thị theo chiều sâu.
“TP Hồ Chí Minh không thể hội nhập với thế giới, không thể phát triển thành một
trung tâm kinh tế – văn hóa lớn nếu như bộ mặt thành phố không thay đổi và việc
thay đổi đó phải xuất phát từ ý thức của mỗi người dân thành phố” – đại biểu
Nguyễn Thị Phượng Linh khẳng định. Vì vậy, công tác quản lý đô thị hiện nay
phải lấy người dân làm trọng tâm để triển khai các kế hoạch một cách khả thi.
 Phải nhận thức đầy đủ nhiệm vụ, nâng tầm quản lý đô thị theo hướng văn
minh hiện đại là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, đồng thời là trọng tâm trước mắt. Đó
không chỉ là một nhiệm vụ đơn thuần của cơ quan quản lý hành chính, mà là nhiệm
vụ của toàn Đảng, toàn dân, của nhiều cơ quan, trong đó chính quyền với hệ thống
cơ quan chức năng đóng vai trò chính.

16


Một số hình ảnh:


17











18



×