Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Báo cáo khoa học: Thử đưa ra cách giải thích về sắc thái riêng trong một số cách xưng hô của người Việt Nam bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.13 KB, 16 trang )

-1-

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
*****

TÊN HỌC VIÊN:
NGUYỄN ĐOÀN BẢO TUYỀN

LỚP CAO HỌC VĂN HÓA 2001-2004

BÁO CÁO KHOA HỌC
Tên đề tài:

THỬ ĐƯA RA CÁCH GIẢI THÍCH
VỀ SẮC THÁI RIÊNG TRONG MỘT SỐ
CÁCH XƯNG HÔ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM BỘ

TP. HỒ CHÍ MINH 11 - 2013


-2-

The Summary
of the Scientific Report
Topic:
The suggesting explanation of the particular nuance in some ways of the
Southern Vietnamese people ‘s appellation
INTRODUCTION:
Introduce generally the basic specific characteristics in the field of Vietnamese
‘s communication.


The particular nuance of the Southern Vietnamese ‘s appellation in the
communicative field is an interesting subject which needs studying and researching
with the point of cultural views.
CONTENT:
Present some ways of the Southern Vietnamese’s appellation. Introduce the
explanation of its formation basis, existence and development .
1/ The personal pronouns relating to the mother.
2/ The personal pronouns relating to the father.
3/ The use of many personal pronouns showing the difference between the father
and mother relation.
4/ The personal pronoun “tui” of the Southern Vietnamese people.
CONCLUSION:
The conclusion of the formation basis, the existent and the development of the
Southern Vietnamese ‘s appellation from the suggesting basis in the content.
Suggestion: The problem presented in this scientific report and some other
problems concerning with the particular nuance in the Southern Vietnamese ‘s
appellation require the cultural scientists to research in order to form the complete
scientific work.


-3-

BẢN TÓM TẮT

BÁO CÁO KHOA HỌC
Tên đề tài:
Thử đưa ra cách giải thích về sắc thái riêng
trong một số cách xưng hô của người Việt Nam Bộ
PHẦN MỞ ĐẦU:
Giới thiệu khái quát các đặc trưng cơ bản trong lĩnh vực giao tiếp của người

Việt Nam.
Sắc thái riêng trong cách xưng hô của người Việt Nam Bộ thuộc lĩnh vực giao
tiếp là một vấn đề hấp dẫn cần được tìm hiểu và nghiên cứu dưới góc độ văn hóa.
PHẦN NỘI DUNG:
Trình bày một số cách xưng hô của người Việt Nam Bộ. Đưa ra cách giải
thích về cơ sở hình thành, tồn tại và phát triển của những cách xưng hô này.
1/ Cách xưng hô thiên về những từ chỉ quan hệ bên mẹ.
2/ Cách xưng hô thiên về những từ chỉ bậc dưới cha mẹ.
3/ Sử dụng nhiều từ xưng hô để phân biệt rõ quan hệ bên cha, quan hệ bên mẹ.
4/ Về từ xưng hô “tui” của người Việt Nam Bộ.
PHẦN KẾT LUẬN:
Từ những luận cứ được nêu trong phần nội dung, đi đến kết luận về những cơ
sở hình thành, tồn tại và phát triển các sắc thái riêng trong cách xưng hô của người
Việt Nam Bộ.
Đề nghị: Vấn đề được đặt ra trong bài báo cáo khoa học này và một số vấn đề
khác có liên quan về sắc thái riêng trong cách xưng hô của người Việt Nam Bộ cần
được giới khoa học trong ngành văn hóa học nghiên cứu bằng một cơng trình
nghiên cứu khoa học hoàn chỉnh.


-4-

PHẦN MỞ ĐẦU
Xét dưới góc độ cấu trúc của hệ thống văn hóa, giao tiếp là một vấn đề thuộc
tầm vi mô, liên quan đến cuộc sống của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Giao tiếp
cùng với phong tục, tín ngưỡng và các loại hình nghệ thuật đều là những lĩnh vực
thuộc bộ phận tổ chức đời sống cá nhân trong thành tố văn hóa tổ chức cộng đồng –
một trong bốn thành tố của mỗi hệ thống văn hóa. Những lĩnh vực này có tác dụng
làm cho cuộc sống mỗi cá nhân được tổ chức quy củ hơn, đồng thời cũng phong
phú hơn, “người” hơn.(1)

Trong đời sống sinh hoạt cộng đồng, các cá nhân đều có nhu cầu giao tiếp với
mọi người xung quanh, hình thức giao tiếp chủ yếu bằng ngôn từ. Bản chất con
người chỉ bộc lộ ra trong giao tiếp. Là cư dân nông nghiệp, cần sống phụ thuộc lẫn
nhau, nên người Việt Nam rất coi trọng việc gìn giữ các mối quan hệ tốt với mọi
thành viên trong cộng đồng. Chính tính cộng đồng đã khiến người Việt Nam đặc
biệt coi trọng việc giao tiếp nhằm tạo ra quan hệ, củng cố tình thân.
Về quan hệ giao tiếp, nguồn gốc văn hóa nơng nghiệp với các đặc điểm trọng
tình: lấy tình cảm (lấy sự yêu sự ghét) làm nguyên tắc ứng xử. Trong cuộc sống,
người Việt Nam sống có lý có tình nhưng vẫn thiên về tình hơn. Người Việt Nam
ln nhắc nhở nhau coi trọng tình cảm hơn mọi thứ trên đời, khơng riêng gì trong
gia đình mà cả ngồi xã hội.
Đối với đối tượng giao tiếp, người Việt Nam có thói quen ưa tìm hiểu, quan
sát, đánh giá... Tuổi tác, quê quán, trình độ học vấn, địa vị xã hội, tình trạng gia
đình là những vấn đề người Việt Nam thường quan tâm. Do tính cộng đồng nên
người Việt Nam tự thấy có trách nhiệm phải quan tâm đến người khác, mà muốn
quan tâm thì cần biết rõ hồn cảnh. Mặt khác, do phân biệt chi li các quan hệ xã hội,
mỗi cặp giao tiếp có những cách xưng hơ riêng, nên nếu khơng có đầy đủ thơng tin
thì khơng thể nào lựa chọn từ xưng hơ cho thích hợp. Tính cộng đồng cũng khiến
cho người Việt Nam trong giao tiếp rất coi trọng danh dự, ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng
sự hịa thuận.
Chính vì vậy, người Việt Nam có một hệ thống nghi thức lời nói rất phong
phú. Trước hết, đó là sự phong phú trong hệ thống xưng hơ tiếng Việt: ngoài các đại
từ nhân xưng với số lượng rất phong phú do có nhiều biến thể, cịn sử dụng một số
lượng lớn các danh từ chỉ quan hệ họ hàng (anh – em, bà – cháu, cháu – chú,...) để
thay thế cho đại từ, và những danh từ thân tộc này có xu hướng lấn át các đại từ
nhân xưng. Hệ thống xưng hô này thể hiện các đặc điểm của văn hóa nơng nghiệp
Việt Nam: trọng tình cảm, tính cộng đồng cao và tính tơn ti kỹ lưỡng. (2)
Vùng đất Nam Bộ mới có tuổi đời chừng hơn 300 năm, nhưng văn hóa Nam
Bộ đã định hình rõ những đặc trưng vùng của mình. Với sắc thái đặc thù khó lẫn
trong diện mạo các vùng văn hóa ở nước ta, vừa rất riêng, mà vẫn giữ được tính

(1)

Trần Ngọc Thêm – Tìm về Bản sắc văn hóa Việt Nam – NXB Thành phố Hồ Chí Minh
– 2001, tr. 233.
(2)

Trần Ngọc Thêm – Sách đã dẫn (Sđd), tr. 277-286.


-5-

thống nhất của văn hóa Việt Nam. Trong những đặc trưng riêng của vùng đất này,
điều mà mọi người dễ nhận thấy nhất qua lĩnh vực giao tiếp là cách xưng hô của
người Việt Nam Bộ. Cách xưng hô của người Việt ở đây vẫn giữ được đầy đủ các
đặc điểm giao tiếp của người Việt Nam nói chung, nhưng đồng thời cũng biểu hiện
rõ nét sắc thái đặc thù của vùng đất mới.
Sắc thái riêng ở cách xưng hô trong lĩnh vực giao tiếp là một vấn đề rất hấp
dẫn nhưng cũng không kém phần phức tạp. Các nghiên cứu từ trước đến nay về văn
hóa Nam Bộ đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, trong đó có đề cập đến phương ngữ
Nam Bộ. Tuy nhiên chưa có cách lý giải nào được đưa ra thật đầy đủ để làm sáng tỏ
vấn đề đáng quan tâm mà chúng tôi vừa nêu.
Trong bài báo cáo khoa học này, chúng tôi mạnh dạn đưa ra một số cách giải
thích. Luận cứ tập trung chủ yếu vào điều kiện môi trường xã hội – lịch sử đã hình
thành và vẫn đang tiếp tục tồn tại trong suốt hơn 300 năm qua trên vùng đất Nam
Bộ. Rất mong được sự góp ý, chỉ dẫn nhiệt tình của các nhà nghiên cứu khoa học và
những ai quan tâm đến văn hóa vùng đất Nam Bộ của chúng ta.

PHẦN NỘI DUNG



-6-

I/ CÁCH XƯNG HÔ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM BỘ THIÊN VỀ NHỮNG TỪ
CHỈ QUAN HỆ BÊN MẸ:
Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra trong cách xưng hô của người Việt Nam Bộ
khi muốn thể hiện tình thân mật và kính trọng đối với những người chưa quen hoặc
chưa rõ mối quan hệ nhưng có tuổi tác lớn hơn, thì thường thiên về những từ chỉ
quan hệ bên mẹ:




Đối với người phụ nữ lớn hơn mình một cấp thì thường gọi bằng dì và xưng
con hoặc tui. Nếu biết rõ thứ thì gọi đúng thứ. Nếu khơng biết rõ thứ thì
thường gọi bằng dì Hai để tăng thêm phần kính trọng. Với người phụ nữ
lớn hơn mình hai cấp thì gọi bằng bà, bà Hai hoặc gọi đúng thứ. Khi thể
hiện tình thân mật và kính trọng hơn nữa thì gọi là ngoại, bà ngoại và xưng
là con (không nên gọi thứ như bà Ba, bà Tư,… nếu không biết rõ thứ, ở
những trường hợp này không nên xưng tui vì như vậy là vơ phép). Kiêng
gọi bà nội, vì gọi vậy là khơng kính trọng.
Đối với nam giới lớn hơn một cấp thì thường gọi bằng bác, chú, cậu và tự
xưng con hoặc tui. Nếu biết rõ thứ thì gọi đúng thứ. Nếu khơng biết rõ thứ
thì thường gọi bác Hai, chú Hai, cậu Hai để tăng thêm phần kính trọng
(điều đáng lưu ý là thiên về những từ chỉ bậc dưới của cha mẹ như chú, cậu
thường được sử dụng nhiều hơn). Đối với nam giới lớn hơn mình hai cấp,
thì gọi bằng ơng, ơng Hai hoặc gọi đúng thứ. Để thể hiện tình thân mật và
kính trọng hơn nữa thì gọi là ngoại, ơng ngoại và xưng là con (không nên
gọi thứ như ông Năm, ông Sáu,… nếu không biết rõ thứ và cũng không nên
xưng tui vì như vậy là vơ phép). Kiêng gọi ơng nội, vì gọi vậy là khơng
kính trọng.


Lưu ý: Ở Nam Bộ, những cách gọi cha, bà nội, ông nội, ông cố nội, bà cố nội
đối với những người không xứng đáng với những cách xưng hơ ấy thì chỉ có ý
nghĩa coi thường họ, hoặc khơng có thiện cảm, thậm chí ác cảm đối với họ mà thôi.
Cha nội, thằng chả, con mẻ càng là những cách gọi khinh thường.
Trong cách xưng hô của người Nam Bộ đối với người chưa quen hoặc chưa rõ
mối quan hệ có độ tuổi ngang hàng nhưng ít tuổi hơn mình hoặc nhỏ hơn mình một
cấp cũng xuất hiện trường hợp tương tự:
 Nếu người gọi là nam và người được gọi cũng là nam thì thường gọi bằng
chú, cậu hoặc chú Hai, cậu Hai (hiểu là chú em, cậu em). Nếu người được
gọi là nữ thì thường gọi là cơ, dì hoặc cơ Hai (hiểu là cơ em, dì em), khơng
gọi dì Hai (vì dì Hai là từ thường chỉ để gọi những người lớn hơn mình
một bậc). Và đều xưng là tui hay qua.
 Nếu người gọi là nữõ và người được gọi là nam thì thường gọi bằng chú,
cậu hoặc chú Hai, cậu Hai (hiểu là chú em, cậu em). Nếu người được gọi
cũng là nữ thì thường gọi là cơ, dì hoặc cơ Hai (hiểu là cơ em, dì em), cũng
khơng gọi dì Hai vì nghĩa như trên. Và đều xưng là tui.
Lưu ý: Ở những trường hợp giao tiếp trên, nếu gọi là cậu, cậu Hai, dì (thiên về
quan hệ bên mẹ) thì thường thể hiện tình thân mật hơn là gọi chú, chú Hai, cô, cô


-7-

Hai, thím, thím Hai (thiên về quan hệ bên cha). Ở Nam Bộ khơng có trường hợp gọi
người nhỏ tuổi hơn mình bằng bác (là cách gọi thay cho con ở Bắc Bộ).
Trong các gia đình Nam Bộ, đối với con, cháu trong nhà đều gọi bằng con chứ
không phân biệt là gọi là con hay cháu. Có thể gọi bằng “thằng hoặc con + thứ”
(thằng Hai, con Tư,…) hay “thằng (con) + tên” (thằng Hiền, con Lành,…).
Ở bên ngoài gia đình, đối với người nhỏ tuổi hơn mình từ một cấp trở lên, khi
thật thân mật thì gọi bằng con, nếu gọi bằng cháu thì mức độ thân mật ít hơn một

chút. Và ngược lại, khi xưng hô với người lớn hơn mình từ một cấp trở lên, thật
thân mật thì xưng là con, nếu xưng là cháu thì mức độ thân mật cũng giảm đi.
Giải thích:
- Điều kiện môi trường sống của lưu dân thời mới khai phá và kể cả thời sau
này, người trôi dạt từ phương xa đến thường là nam giới. Gia chủ là người đã đến
khai phá trước, cơ ngơi thường có phần đã tạm ổn định.
Cha mẹ già có con trai, thì nhiều con trai của họ cũng đã tiếp tục ra đi chinh
phục những vùng đất mới gần xa để tự lập nghiệp (trên bước đường khai phá, người
lưu dân thường chọn nơi đất rộng người thưa, họ bỏ công khai phá càng nhiều đất
đai càng tốt); hoặc các con trai của họ, sau khi lập gia đình đã ra sinh sống làm ăn
riêng, chung quanh nhà cha mẹ mình. Thường thì trong nhà gia chủ còn lại những
người con trai chưa lập gia đình, hoặc đã lập gia đình nhưng chưa ra ở riêng, và các
con gái chưa gả chồng.
Trường hợp gia chủ khơng có con trai, hoặc có con trai, nhưng vì một lý do
nào đó nên những người con ấy đã ra đi sinh sống ở nơi khác (vì chống đối nhà cầm
quyền, vì chiến tranh, loạn lạc, trốn sưu thuế phải bỏ làng ra đi…) thì họ sống với
con gái của mình, nhiều khi họ tạm thời phải cưu mang cả gia đình con gái sau khi
đã gả chồng, vì chàng rể từ phương xa đến, khơng có họ hàng hoặc chưa đủ sức tự
tạo lập cơ ngơi riêng cho vợ con. Nhiều người chấp nhận cho vợ chồng con gái, con
rể cùng sống chung với mình để tiếp tay xây dựng, gìn giữ cơ ngơi trong lúc tuổi họ
đã về chiều.
Điều đáng để chúng ta lưu ý là môi trường lịch sử – xã hội của vùng đất Nam
Bộ thời khai hoang mở đất, tức hoàn cảnh sống mới, đã khơi dậy một cách tự nhiên
tinh thần tương thân tương ái, đùm bọc lẫn nhau trong bao lớp người lưu dân. Chính
những chủ nhân vùng đất này (có thể bản thân người khai phá, hay lớp hậu duệ của
họ) cũng đã từng nếm trải những bước thăng trầm, gian truân vất vả, từng gặt hái
những thất bại chua cay, đụng độ với cường quyền bạo ngược trên bước đường tha
phương cầu thực. Đã từng chạm trán với đói rét, họ vứt bỏ cái nghèo khổ lại phía
sau, để đi tìm một sự đổi đời, và khi ước vọng đã đạt, họ không thể không nghĩ đến
chuyện cưu mang những người đồng cảnh ngộ. Ý thức trọng nghĩa khinh tài cũng từ

đó mà ra. Họ ln đem tấm lòng của kẻ tha phương đến trước giúp đỡ, đùm bọc
những người đến sau:
Rồng chầu ngoài Huế,
Ngựa tế Đồng Nai,
Nước sơng trong chảy lộn sơng ngồi,
Thương người xa xứ lạc loại tới đây.


-8-

Người Việt Nam Bộ thương người đến sau, mà không cần phân biệt thân hay
sơ, không cần truy nguyên gốc gác. Bởi vì, họ hết sức nhạy cảm với những nỗi khổ
đau, bức xúc, cần được đùm bọc, yêu thương của những người “cùng hội cùng
thuyền” trên bước đường tha phương tìm đất sống.
Đến đây thì ở lại đây,
Chừng nào bén rễ xanh cây mới về.
Câu ca dao đầy tình nhân ái ấy, là một lời mời mọc chân tình, bộc trực không
phải là chuyện đãi đưa lấy lệ. Ở nơi đất rộng người thưa, miếng ăn kiếm được có
phần dễ dàng, con người cần có bạn bè để hịa đồng, chia sẻ. Đã có khơng ít những
anh khóa sinh, thầy đồ lận đận trên đường khoa cử bất thành, theo gót đồn người
lưu tán vào Nam, và được q trọng nhờ dạy chữ nghĩa cho con cái nông dân. Rồi
trong sự đùm bọc, cưu mang của dân chúng, “các thầy” đã “bén rễ xanh cây” và trở
thành công dân của đất mới(3).
Có thể nói, đất Nam Bộ là nơi tồn tại trường hợp người con trai sẵn sàng ưng
thuận và được gia đình cha mẹ vợ cho ở rể nhiều nhất so với các vùng khác trên cả
nước ta. Khởi đầu từ hồn cảnh một mình tha phương đi lập nghiệp của nhiều lớp
cha ông thuở trước, nên vùng đất này đã sản sinh ra quan niệm mới về vợ chồng,
khác với quan niệm “Thuyền theo lái gái theo chồng” (Xuất giá tùng phu) của Nho
giáo. Hẳn nhiều người không khỏi bất ngờ trước câu tục ngữ của vùng đất này:
Nước theo sông, chồng theo vợ.

Người con trai trên đất Nam Bộ luôn sẵn sàng theo về bên vợ, nên họ chẳng tỏ
ra gượng gạo, lấp lửng hay e dè chút nào khi bng lời tỏ tình hết sức thật thà, chân
chất:
Tàu Nam Vang chạy ngang cồn cát,
Xuồng câu tơm đậu sát mé nga(4).
Thấy em có một mẹ già,
Muốn vơ hoạn dưỡng có mà được khơng?
- Ở Nam Bộ, thường thì người con gái đã có chồng, sống riêng, nhưng khi sinh
con so thường được nuôi tại nhà bà ngoại, có khi đến thơi nơi hoặc sau đó nữa.
Con so nhà má, con rạ nhà chồng.
Cũng có khơng ít trường hợp, khi sinh con rạ rồi mà vẫn được nhà bà ngoại
ni dưỡng chăm sóc. Điều đó giải thích vì sao có câu tục ngữ trên và vì sao tình
cảm cũng như quan hệ giữa những đứa bé với bên ngoại (bà ngoại, ơng ngoại, cậu,
dì) rất thân thiết.
Con chim se sẻ nó đẻ cột đình.
Bà ngoại đẻ má, má đẻ mình em ơi!
Những đứa trẻ sinh ra trên vùng đất này, ngay từ đầu đã gắn bó nhiều hơn, sâu
đậm hơn với gia đình, họ hàng bên ngoại. Còn bên nội, lắm lúc bọn trẻ chẳng biết
đâu mà lần, vì người cha khơng ít trường hợp là dân tứ chiếng chính gốc:
(3)

Thạch Phương – Phần Tổng luận (trong Văn hóa dân gian người Việt Nam Bộ) – NXB
Khoa học xã hội – Hà Nội, 1992, tr. 249-262.
(4)

Nga, đế là những loại cỏ lau, thường mọc dày đặc ở những bải bùn ven mé sơng – (Chú
thích của học viên – xin viết tắt HV).


-9-


Anh về Bình Định thăm cha,
Phú Yên thăm mẹ, Khánh Hòa thăm em.
Câu ca dao ấy, phần nào đã chỉ rõ bước đường tha phương, Nam tiến của lớp
người lưu dân thuở trước. (Có thể người lưu dân trong bài ca dao có q cha ở Bình
Định, người cha lần xuống đất Phú Yên lập nghiệp, cưới vợ, sinh con. Về sau
những người con lại lần hồi vào đất Khánh Hịa sinh sống, trong đó – người lưu dân
trong bài ca dao, với vai trò là người anh lớn – lại tiếp tục theo đoàn người khẩn
hoang vào tận vùng đất Nam Bộ).
- Trong tập quán của người Việt và nhiều dân tộc châu Á khác, quan hệ huyết
thống được lấy làm trọng là quan hệ “nội tộc”. Nội tộc được tính theo quan hệ bên
cha. Theo quan niệm này, điều quan trọng nhất trong quan hệ máu mủ không phải ở
sự gần gũi hay xa cách giữa các thế hệ mà là ở quan hệ “nội tộc”. Tên họ, gốc gác
của một con người đều được căn cứ từ họ tộc, quê quán người cha, kể cả danh dự
tốt hay xấu mà dòng họ bên cha “truyền” lại cho họ. Điều này được phong tục tập
quán và cả luật pháp các xã hội trước đây thừa nhận, đặc biệt ở những nước chịu
ảnh hưởng bởi truyền thống Nho giáo, trong đó có Việt Nam. Do quan hệ huyết
thống nội tộc được lấy làm trọng nên giao tiếp ứng xử trong phạm vi gia đình, gia
tộc và kể cả đối với giao tiếp ứng xử ngoài xã hội, người Việt ln có tâm lý coi
trọng bên cha, họ nội. Chính vì coi trọng quan hệ nội tộc, nên khi xảy ra mâu thuẫn,
người ta hay mang dòng họ bên nội của nhau ra mà chửi, nói xấu... Tương tự như
người Việt ở những vùng khác, người Việt Nam Bộ không thốt khỏi tâm lý và
hành vi ứng xử đó.
Ở Nam Bộ, kể cả khi than vãn, khi tỏ ý không hài lòng, họ cũng thường sử
dụng cụm từ: Nội ơi…!, làm thấy bà nội…, quá tổ, quá cha, tổ cha, thấy bà, thấy tổ,
thấy bà cố tổ, thấy ông cố nội, … Luôn cả lúc mắng yêu bọn trẻû: Tổ cha bây…!
Tuy nhiên, không giống với người Việt ở những vùng khác trong lời ăn tiếng
nói, người Việt Nam Bộ thích diễn đạt cụ thể, với đường nét rõ ràng, khơng thích
dùng nhiều chữ nghĩa trừu tượng, khơng thích cách nói vịng vo, quanh co, úp úp
mở mở chứa ngầm ẩn ý bên trong. Phong cách diễn đạt Nam Bộ có gốc rễ từ cuộc

sống trong ngót 300 năm qua của cộng đồng người Việt trên vùng đất này. Dân tứ
chiếng gặp nhau, nói bằng thứ ngơn ngữ cụ thể khơng bị nguy cơ hiểu lầm, làm tổn
hại đến tình đồn kết, thân ái. Người Việt Nam Bộ ít sử dụng thành ngữ, tục ngữ khi
chuyện trò so với người Việt ở miền Bắc và miền Trung. Đó cũng là lý do vì sao
thành ngữ, tục ngữ ở đây ít về số lượng và nếu có thì biểu thị tồn những điều cụ
thể về nội dung(5). Chẳng hạn:
Aên như xáng múc, làm như lục bình trơi.
n như rồng cuốn, uống như rồng leo, làm như mèo mửa.
Tới đâu là nhà, ngả đâu là giường.
Môi trường sống của vùng đất mới đối với người lưu dân thật xa lạ nghiệt ngã.
Thực tế cuộc sống càng dạy cho họ sâu sắc tinh thần đồn kết để đối phó với bao
thiên tai, địch họa. Muốn đồn kết thì trước hết cần phải thật sự hiểu nhau, có hiểu
(5)

Hồ Lê – Phương ngữ Nam Bộ (trong Văn hóa dân gian người Việt Nam Bộ) – NXB
Khoa học xã hội – Hà Nội, 1992, tr. 227-247.


- 10 -

rõ nhau mới có thể sống hết mình vì nhau, lo cho nhau, xả thân cứu giúp nhau, dám
hy sinh vì nghĩa lớn, chứ khơng phải chỉ biết sống cho riêng mình. Mơi trường đầy
thử thách ln ln cần những hành động dũng cảm, kịp thời, cần làm nhiều hơn
nói, và hễ làm là làm thật sự, làm tới nơi tới chốn. “Nói một là một, hai là hai”,
“Nói như rựa chém xuống đất” là những điều mà người dân khai hoang thuộc nằm
lòng, là sự kinh tởm với những hành động bội phản(6).
Con cua không sợ, anh sợ con cịng.
Dao phai khơng sợ, sợ gái hai lịng hại anh.
Hễ làm người chớ ở hai lịng,
Đã vì nước phải theo một phía.

“Nói một đàng làm một nẻo”, “Lá mặt lá trái”, “n ở hai lịng” là những
tính cách đối kháng kịch liệt với nhu cầu sinh tồn của lưu dân, bởi đó là tính cách
của những kẻ “khơn lỏi”. Vì vậy, u tính thật thà, ghét thói giả dối, yêu người
trung, ghét kẻ nịnh… là những tình cảm mãnh liệt của người dân Nam Bộ ngay từ
buổi đầu mở cõi. Chính vì lẽ đó mà họ ln cần phân biệt đâu là phải trái cho thật
rạch ròi, đặc biệt là trong quan hệ giao tiếp.
Cho nên trong cách xưng hô của người Việt Nam Bộ, những cách gọi cha, bà
nội, ông nội, ông cố nội, bà cố nội dễ bị xem là cách nói “hai mặt”. Vì đối với
những người không xứng đáng với những cách xưng hô ấy thì chỉ có ý nghĩa là coi
thường họ, hoặc khơng có thiện cảm, thậm chí ác cảm đối với họ mà thôi. Cha nội,
thằng chả, càng là những cách gọi khinh thường. Vì vậy, trong cách xưng hơ với
người lớn tuổi, người Việt Nam Bộ kiêng gọi ông nội, bà nội để tránh bị hiểu lầm.
Bên cạnh đó, tình cảm của người Việt Nam Bộ như trên đã nói, ln sâu đậm, gắn
bó với bên ngoại, do đó cách gọi “ngoại” được xem là cởi mở, thân mật luôn được
người lớn tuổi sẵn lịng, vui vẻ đón nhận.
II/ CÁCH XƯNG HÔ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM BỘ THIÊN VỀ NHỮNG TỪ
CHỈ BẬC DƯỚI CHA MẸ:
Một đặc điểm nữa cũng rất dễ nhận thấy trong cách xưng hô của người Việt
Nam Bộ là thường gọi người ngoài bằng những từ chỉ bậc dưới cha mẹ: chú, cậu…(
7)
.
Người Việt Nam Bộ cũng khơng q giữ kẽ trong khi nói năng, trao đổi ý
kiến. Ai tuổi tác đáng kêu bằng bác thì gọi là bác, ai tuổi đáng kêu chú thì gọi ngay
là chú, tuổi đáng con cháu thì gọi thẳng là con là cháu, không câu nệ, khách sáo mà
gọi chệch đi, hay gọi thay cho con mình… Vì những cách gọi giữ kẽ, khách sáo ấy
rất dễ bị hiểu lầm, lắm lúc bị cho là thiếu chân thật, tạo cảm giác xa cách, không
thân mật với người đối thoại.
(6)

Hồ Lê – Phong tục tập quán của người Việt ở Nam Bộ (trong Văn hóa dân gian người

Việt Nam Bộ) – NXB Khoa học xã hội – Hà Nội, 1992, tr. 105.
(7)

Nguyễn Kim Thản – Về tiếng nói vùng đồng bằng sơng Cửu Long (trong Mấy đặc điểm
văn hóa đồng bằng sơng Cửu Long) – Viện Văn hóa, 1984, tr. 142-155.


- 11 -

Đặc biệt, cách xưng hô này cũng được sử dụng khi gọi chung cho một cộng
đồng người khác: chú Ba Tàu, chú Chệch, anh Ba,… (khi nói đến cộng đồng người
Hoa), anh Bảy Chà (Chà tức gọi tắt của từ Chà Và (để chỉ đảo Java), khi nói đến
cộng đồng người Chăm Islam, người Ấn Độ), chú Huế (chỉ chung cho người Việt
miền Trung, miền Bắc),…
Giải thích:
Theo chúng tôi, ở đây không hẳn là việc hạ thấp người ngồi, cách gọi đó xuất
phát từ thực tiễn cuộc sống trên vùng đất Nam Bộ. Lớp người lưu dân đi khai hoang
mở đất đến sau hoặc những người làm “ruộng dạo” rày đây mai đó thường là lớp
trai trẻ, tráng niên, có sức khỏe, hiếm khi là người già cả. Vì vậy, so với người đến
trước họ thường nhỏ tuổi hơn, có khi ít kinh nghiệm hơn, nên trong q trình giao
tiếp tiếp xúc với lớp trẻ ít tuổi hơn tại chỗ thì đa phần họ chỉ đáng bậc chú, cậu hay
anh mà thôi… Cách xưng hô được cho là rạch rịi, thẳng thắn lại khơng có gì phiền
phức như vậy, lâu ngày thành nếp quen của người Việt Nam Bộ khi tiếp xúc với
người ngoài, trừ những trường hợp đáng bậc trưởng thượng thì vẫn được gọi là ơng,
là bác.
III/ NGƯỜI VIỆT NAM BỘ SỬ DỤNG NHIỀU TỪ XƯNG HÔ ĐỂ PHÂN
BIỆT RÕ QUAN HỆ BÊN CHA, QUAN HỆ BÊN MẸ:
Giao tiếp trong phạm vi gia đình, họ tộc của người Việt Nam nói chung, tính
tơn ti thứ bậc hết sức được coi trọng. Tính tơn ti thứ bậc không phụ thuộc vào tuổi
tác mà phụ thuộc vào vai vế trong quan hệ huyết tộc. “Vai” trong quan hệ huyết tộc

trực tiếp chi phối đến “vai” trong giao tiếp. Thông thường, người ta xưng hô với
người khác bằng “vai” của mình. Tính tơn ti, trật tự được coi là một đặc điểm tiêu
biểu của nếp sống văn hóa gia đình, họ tộc và kể cả ngồi xã hội. Tương ứng với
nếp sống văn hóa này là cách ứng xử văn hóa có trên có dưới.
Nhiều dịng họ ở các vùng đồng bằng Bắc Bộ cịn dùng tên lót làm dấu hiệu
nhận diện quan hệ giữa các nhánh, phái, chi và để phân biệt dịng trưởng. Ở đây vị
trí người con trai có vai trị nổi bật nên có thể kéo theo cả những người ngoài quan
hệ huyết tộc trở thành quan hệ thân thuộc trong gia đình. Những con gái có vị trí
thứ yếu nên khi sinh ra, tuy có quan hệ máu mủ với những người trong nhà nhưng
đến lúc trưởng thành quan hệ ấy lại trở nên mờ nhạt vì bị chuyển vai sang một quan
hệ khác:
Dâu là con, rể là khách.
Con dâu là con mình, con gái là con người.
Từ các quan niệm trên sẽ dẫn đến một hệ luận là: Trong sơ đồ cây phổ hệ,
người đứng tên trong các nhánh, phái, chi phải là con trai. Con gái chỉ được nhắc tới
trong gia phả như là một yếu tố phụ, yếu tố gửi nhờ.
Trong khi đó, kết quả khảo cứu của các nhà xã hội học, dân tộc học và các
nhà nghiên cứu văn hóa về Nam Bộ từ trước đến nay đều đưa ra nhận định: “càng
di chuyển vào phía Nam, người Việt càng gặp nhiều hơn những nền văn hóa phi


- 12 -

Hán hóa”. So với đồng bằng sơng Hồng, và cả với miền Trung, số người Việt ở
Nam Bộ biết chữ Hán ít hơn nhiều, do đó họ khơng thành một tầng lớp quan trọng ở
thôn ấp. Hơn nữa cái học của người Nam Kỳ thuở ấy cũng không giống với lối học
nho gia cổ truyền. Các sử thần của Quốc sử quán triều Nguyễn đưa ra lời nhận xét
như sau trong quyển Đại Nam nhất thống chí: “Học trò đọc sách phần nhiều chú
trọng sáng tỏ nghĩa lý mà lại vụng về văn chương”. Từ những nhận định trên, ta
thấy rõ ràng có những cội nguồn xã hội – lịch sử đã quy định đáng kể tầm ảnh

hưởng mờ nhạt của các tín điều và quy phạm Nho giáo, tạo cơ sở tinh thần cho
những người lao động Việt đi vào lập nghiệp ở phương nam thêm can đảm xa rời
những giá trị Nho giáo cứng ngắc, và khẳng định những cách xử sự văn hóa thiết
thực so với hồn cảnh mới, mơi trường mới nơi họ sinh sống.
Trong khi ở Bắc Bộ, con trưởng là đại diện cho thế hệ các con, có quyền thừa
kế hương hỏa, có nhiệm vụ ni dưỡng cha mẹ và thờ cúng tổ tiên. Thì ở Nam Bộ,
con út có vai trị quan trọng hơn. Đương nhiên, cha mẹ già lựa chọn cuộc sống cuối
đời với con út và người con út có nhiệm vụ cúng giỗ cha mẹ. Nếu gia đình khơng có
con trai thì con gái thay thế. Việc thừa kế gia sản được chia đều cho các con cả nam
và nữ, có ưu tiên cho con út.
Ở Nam Bộ, người phụ nữ trong gia đình cũng là một trụ cột, cùng chồng con
bươn chảy, vượt hiểm thoát nguy, do đó khơng bị q phụ thuộc và lép vế như ở
nhiều vùng khác. Tại Nam Bộ, câu “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” hầu như
không bám rễ sâu được trong dân dã, mà thay vào đó là câu:
Trai mà chi, gái mà chi,
Sanh ra có ngãi có nghì là hơn.
Trong gia đình người Việt Nam Bộ, thường thì cha mẹ đối với con cái cũng
dân chủ, bình đẳng hơn. Tìm trong hàng ngàn lời ca dân gian về chủ đề khát vọng
hạnh phúc và tình yêu trai gái, không kiếm được mấy câu mang giáo huấn khô cứng
của Nho giáo. Trên mảnh đất tình yêu, quyền lực của cha mẹ cũng rất hữu hạn nếu
khơng nói là mỏng manh, không dễ “cha mẹ đặt đâu” con đã chịu “ngồi đấy”, mà
mệnh lệnh đối với tình yêu phần lớn vẫn thuộc về trái tim của đôi trai gái. Nam Bộ
là nơi tệ tảo hơn ít nhất trong cả nước.
Mặc cho cha mẹ đánh treo,
Đứt dây rớt xuống cũng theo chung tình.
Sống ở dương gian khơng bắt được tay chàng,
Thác xuống âm phủ em giở nắp hàng(8) cho anh vô.
Cá trê nấu với ruột bầu,
Thương em nên lá sầu đâu(9) đắng hoài.
Bướm vàng đậu đọt mù u,

Lấy chồng càng sớm tiếng ru càng buồn.
(8)
(9)

Hàng: từ ngữ Nam Bộ để chỉ quan tài. (HV)

Sầu đâu: một loại cây gần họ với cây xoan. Người dân đồng bằng sông Cửu Long,
thường lấy lá và bông sầu đâu trộn với khô cá, mặc dù lá rất đắng, nhưng làm nên một món
ăn đặc sản nổi tiếng gỏi sầu đâu. (HV)


- 13 -

Hệ thống xưng hô tiếng Việt hết sức phong phú. Tuy nhiên, chúng ta dễ dàng
nhận thấy có sự khác biệt khá rõ nét giữa cách xưng hô của người Việt Nam Bộ với
cách xưng hô của người Việt Bắc Bộ. Trong khi ở người Việt Bắc Bộ, các từ xưng
hô thiên về quan hệ nội tộc: bác, chú, cô, kể cả khi để gọi những người họ hàng
thuộc về bên mẹ, thì ở người Việt Nam Bộ các từ xưng hơ có phần đa dạng hơn về
số lượng và phân biệt thật rành rọt về mối quan hệ bên cha hay quan hệ bên mẹ:
bác, bác gái, chú, cơ, cậu, dì; kể cả dượng, thím, mợ(10). Khơng những vậy, đối với
những người có quan hệ xóm giềng, quan hệ cộng đồng sống ở quê cha thì được gọi
hay xưng hô bằng các từ chỉ quan hệ bên cha như: bác, chú, thím, cơ, dượng; cịn
những người có quan hệ xóm giềng, quan hệ cộng đồng sống ở q mẹ thì được gọi
hay xưng hơ bằng các từ chỉ quan hệ bên mẹ như: cậu, mợ, dì, dượng.
Giải thích:
Làng Nam Bộ là một đơn vị cư trú tự nhiên với cấu trúc mở chứ khơng hồn
chỉnh, trọn vẹn và khép kín trong lũy tre xanh với hệ thống “quan viên” phức tạp,
với các mối quan hệ họ tộc chằng chịt và có phân biệt đẳng cấp về phương diện
quản lý như làng ở miền Bắc. Làng ở đây thường trải dài theo kinh rạch, có khi đến
7 - 8km, thành phần dân cư thường hay biến động. Người dân sẵn sàng dời đi nơi

khác, đến những vùng đất dễ làm ăn hơn. Thậm chí cha mẹ ở lại, nhưng con cháu đi
nơi khác sinh cơ lập nghiệp. Trong điều kiện như vậy nên ở Nam Bộ không phân
biệt người mới đến ở cũng như người cũ. Kiểu quần cư ở Nam Bộ cũng khiến cho
mối quan hệ giữa gia đình này với gia đình khác, giữa gia đình với làng không chặc
chẽ, các quan hệ ấy chủ yếu dựa trên các quan hệ cá nhân với nhau mà sinh sống.
Do sống trong môi trường xã hội là nơi họ hàng thì ít mà người dưng thì nhiều, nên
trong cách xưng hơ người Việt Nam Bộ cần có sự phân biệt rạch rịi. Sự phân biệt
ấy khơng có nghĩa để phân chia ra đâu là họ nội, họ ngoại, đâu là người dưng nước
lã để rồi có những cách cư xử với mức độ chênh lệch khác nhau. Người Việt Nam
Bộ ln có thói quen phân biệt mọi thứ cho thật rạch rịi, để mọi người có thể dễ
dàng hiểu đúng về nhau, có thể thơng cảm với nhau hơn, vì cuộc sống ln địi hỏi
họ phải thường xun chung lưng đấu cật với láng giềng, với người ngoài trên bước
đường chinh phục vùng đất mới.
Các từ xưng hô phân biệt rõ quan hệ bên cha, quan hệ bên mẹ, theo người Việt
Nam Bộ, cũng tạo nên sự bình đẳng và sự kính trọng ngang nhau, vì như trên đã
nói, đối với người Việt Nam Bộ, tình cảm bên ngoại ln thắm thiết. Bên cạnh đó,
do sống trong mơi trường xã hội mà người trong các mối quan hệ thân tộc bên cha,
bên mẹ sống phân tán khắp nơi, ít có điều kiện gặp gỡ nhau thường xun, thì việc
nhận biết rõ ràng về các mối quan hệ cũng góp phần tạo nên sự hiểu biết, tạo nên
tình cảm cố kết. Việc gọi đúng từ xưng hô kể cả đối với những người có quan hệ
xóm giềng, cộng đồng nơi quê cha, quê mẹ mình sinh sống cũng là một cách thể
hiện sự hiểu biết đầy đủ của người gọi về các mối quan hệ huyết thống, gia tộc, xóm
giềng, cộng đồng của mình. Đồng thời, cũng đặt mỗi người vào đúng vị trí tơn ti thứ
bậc trong quan hệ giao tiếp, góp phần tăng thêm tình cảm gắn bó, thân thiết, ln
được coi là một đặc điểm tiêu biểu của nếp sống văn hóa gia đình và văn hóa cộng
đồng xã hội của người Việt Nam.
(10)

Lý Việt Dũng – Xưng hô tiếng Nho rắc rối sự đời – Tạp chí Xưa và nay, số 102, tháng
10-2001, tr. 36-37.



- 14 -

Di chuyển vào Nam, người Việt bắt gặp một nền văn minh phi Hán, một nền
văn hóa chịu ảnh hưởng văn minh Ấn Độ của người Khmer ở đây. Cùng đến miền
Nam với người Việt có người Hoa – chủ yếu là người vùng Quảng Đông và Phúc
Kiến – chống Mãn Thanh. Họ đến muộn hơn, là “khách trú”, là dân mới. Đám lưu
dân này, phần lớn là người lao động, ảnh hưởng Nho giáo cũng không đậm. Trong
quá trình cộng cư, gia đình người Việt Nam Bộ có sự pha trộn nhiều yếu tố của Hán
Hoa Nam và Khmer. Mặc dù vậy, về từ ngữ xưng hô thì người Việt Nam Bộ khơng
chịu ảnh hưởng của người Khmer kể cả người Chăm vì trong cách xưng hơ của hai
tộc người này khơng có những từ để phân biệt họ nội, họ ngoại. Tuy nhiên, cách
xưng hô của người Việt Nam Bộ lại chịu một phần ảnh hưởng của người Hoa vùng
Hoa Nam như: tía má là từ để gọi cha mẹ của người Hoa gốc Phúc Kiến, ba má là
từ để gọi cha mẹ của người gốc Quảng Đơng…
IV/ VỀ TỪ XƯNG HƠ “TUI” CỦA NGƯỜI VIỆT NAM BỘ:
Với thói quen của người Việt Nam nói chung, người dưới xưng hô với người
trên mà dùng đại từ nhân xưng “tơi” là thiếu kính trọng. Vì từ “tơi” mang tính
trung hịa về phong cách, biểu thị giá trị ngang bằng về quan hệ xã hội. Việc dùng
từ “tôi” sẽ làm mất đi đặc điểm về tính tơn ti và thân mật(11).
Về từ xưng hô tui của người Việt Nam Bộ: Theo nghiên cứu của các nhà ngôn
ngữ học, từ tui là kết quả của hiện tượng biến âm do thu hẹp độ mở của âm chính
trong cách phát âm của người Nam Bộ (cơm nếp  cơm níp; mai  mơi; hót 
hốt; thối  thúi;…)(12).

Giải thích:
Điều đáng lưu ý là, từ “tôi” sau khi được biến âm thành “tui”, về mặt ý nghĩa
nó vẫn là một đại từ nhân xưng, tuy nhiên nó khơng làm mất hẳn đi đặc điểm về
tính tơn ti. Chính do cách phát âm làm thu hẹp độ mở của âm chính đã tạo nên cảm

giác dịu nhẹ, “mềm” đi của âm thanh được phát ra. Vì vậy, từ tui vẫn giữ được sự
biểu thị giá trị ngang bằng về quan hệ xã hội, nhưng về mặt ý nghĩa đã có sự “giảm
nhẹ” hay tự “hạ thấp” khá nhiều việc khẳng định vị thế của người xưng hơ. Ngồi
ra, tùy theo hồn cảnh giao tiếp và tùy theo nét mặt, dáng điệu, ngữ điệu khi nói, mà
từ tui cịn làm cho tính thân mật tăng lên đáng kể, trong khi tính tơn ti vẫn được coi
trọng trong cách xưng hô của người Việt Nam Bộ.

(11)

Hữu Đạt – Văn hóa và ngơn ngữ giao tiếp của người Việt – NXB Văn hóa – Thơng tin
– Hà Nội, 2000, tr. 123.
(12)

Nguyễn Kim Thản – Về tiếng nói vùng đồng bằng sơng Cửu Long (trong Mấy đặc điểm
văn hóa đồng bằng sơng Cửu Long) – Viện Văn hóa, 1984, tr. 143.


- 15 -

PHẦN KẾT LUẬN
Từ những luận cứ vừa trình bày, phần nào có thể cho chúng ta đi đến kết luận
rằng các đặc trưng trong cách xưng hô của người Việt Nam Bộ xuất phát từ hồn
cảnh mơi trường xã hội – lịch sử suốt 300 năm qua của vùng đất này. Trong đó,
kiểu cư trú, thực tế cuộc sống của những người lưu dân đi mở đất và q trình giao
lưu, tiếp biến văn hóa giữa những người Việt từ nhiều nguồn gốc khác nhau tụ hội
về đây, giữa người Việt và những cộng đồng cư dân khác là yếu tố chính tạo nên nét
đặc thù trong lĩnh vực giao tiếp, trong cách xưng hô và từ ngữ xưng hơ của người
Việt Nam Bộ.
Ngồi những đặc trưng vừa nêu, ở lĩnh vực giao tiếp, chúng ta cịn có thể nhận
thấy những đặc trưng khác như cách gọi tên, một người sử dụng nhiều tên, xưng hô

bằng thứ bậc thay tên… của người Việt Nam Bộ. Và vùng đất Nam Bộ là nơi người
ta thích sử dụng và thường xuyên dùng biệt danh để gọi nhau nhiều hơn các vùng
khác trong cả nước.
Nội dung được chúng tơi trình bày trong bài báo cáo khoa học này, nếu được
tìm hiểu, nghiên cứu kết hợp với các đặc trưng khác vừa nêu ở trên, chắc chắn sẽ
giúp chúng ta có cách nhìn tồn diện hơn, đầy đủ hơn nữa trong việc nhìn nhận,
đánh giá các giá trị văn hóa đã và đang tồn tại trong lĩnh vực giao tiếp nói riêng và
trong cả hệ thống văn hóa nói chung của vùng đất Nam Bộ. Vì phạm vi có hạn của
bài báo cáo khoa học; đồng thời, do chưa có nhiều kinh nghiệm trong nghiên cứu,
chúng tôi rất mong được sự chỉ dẫn, góp ý, tận tình giúp đỡ của các nhà nghiên cứu
khoa học và tất cả những ai quan tâm đến việc nghiên cứu, tìm hiểu vùng đất này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


- 16 1) Đỗ Long-Trần Hiệp – Tâm lý cộng đồng làng và di sản – NXB Khoa học xã

hội – Hà Nội, 1993.
2) Hữu Đạt – Văn hóa và ngôn ngữ giáo tiếp của người Việt – NXB Văn hóa –

thơng tin – Hà Nội, 2000.
3) Lê Anh Trà (chủ biên) – Mấy đặc điểm văn hóa vùng đồng bằng sơng Cửu

Long – Viện Văn hóa – 1984.
4) Lê Trung Hoa – Họ và tên người Việt Nam – NXB Khoa học xã hội – Hà

Nội, 1992.
5) Nguyễn Văn Ái (chủ biên) – Từ điển phương ngữ Nam Bộ – NXB Thành

phố Hồ Chí Minh – 1994.

6) Phan Đại Doãn (chủ biên) – Làng xã Việt Nam - Một số vấn đề kinh tế-văn

hóa-xã hội – NXB Chính trị quốc gia – Hà Nội, 2001.
7) Sơn Nam – Cá tính miền Nam - NXB Trẻ - Tp. Hồ Chí Minh, 1998.
8) Sơn Nam – Đồng bằng sông Cửu Long nét sinh hoạt xưa - NXB Trẻ - Tp.

Hồ Chí Minh, 1997.
9) Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh – Văn hóa dân

gian người Việt Nam Bộ – NXB Khoa học xã hội – Hà Nội, 1992.
10) Trần Ngọc Thêm – Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam – NXB Thành phố Hồ

Chí Minh – 2001.
11) Tạp chí Xưa và nay số 102, tháng 10-2001 – Hội Khoa học lịch sử Việt

Nam.



×