Tải bản đầy đủ (.docx) (67 trang)

Thực trạng xuất khẩu lao động của Việt nam sang các nước Đông và Đông nam Á cùng một số kiến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.36 KB, 67 trang )

ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
****************
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài :
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT
NAM SANG CÁC NƯỚC ĐÔNG VÀ ĐÔNG NAM Á CÙNG
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Giáo viên hướng dẫn : Cô Vũ Thị Hiền
Sinh viên thực hiện : Kim Ngọc Huyền
Lớp : Trung I – K38E
HÀ NỘI – 2003
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Chương I – Khái quát về xuất khẩu lao động và tình hình xuất khẩu lao
động tại Việt Nam.
I – Khái quát về xuất khẩu lao động.
1, Khái niệm
2, Nguyên nhân hình thành và phát triển xuất khẩu lao động
II – Tình hình xuất khẩu lao động tại Việt Nam.
1, Sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu lao động tại Việt Nam
2, Tình hình xuất khẩu lao động tại Việt Nam
III - Vị trí, vai trò của khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á đối với hoạt
động xuất khẩu lao động nước ta.
1, Các thị trường xuất khẩu lao động hiện nay của nước ta
2, Vị trí, vai trò của khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á đối với hoạt động
xuất khẩu lao động nước ta
Chương II - Thực trạng xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường
các nước Đông và Đông Nam Á.
I – Vài nét về thị trường các nước Đông và Đông Nam Á
1, Thị trường Nhật Bản


2, Thị trường Hàn Quốc
3, Thị trường Đài Loan
4, Thị trường Malaysia
5, Thị trường Lào
II - Thực trạng xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường các nước Đông
và Đông Nam Á
1, Tình hình chung
2, Thực trạng xuất khẩu lao động nước ta với từng thị trường trong khu vực các
nước Đông và Đông Nam Á
III – Đánh giá về hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trường
các nước Đông và Đông Nam Á.
1, Thành tựu đạt được
2, Tồn tại và nguyên nhân
Chương III - Triển vọng của khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á
cùng một số kiến nghị giải pháp.
I - Triển vọng của thị trường các nước Đông và Đông Nam Á.
1, Thị trường Nhật Bản
2, Thị trường Hàn Quốc
3, Thị trường Đài Loan
4, Thị trường Malaysia
5, Thị trường Lào
II - Một số kiến nghị giải pháp.
1, Về phía Nhà nước
2, Về phía các doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
KẾT LUẬN
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ TÌNH HÌNH
XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG TẠI VIỆT NAM
I – Khái quát về xuất khẩu lao động
Để thuận tiện cho quá trình nghiên cứu, trước hết em xin được đề cập các

khái niệm liên quan đến hoạt động xuất khẩu lao động.
1, Khái niệm :
1.1 Lao động : Là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm
thay đổi những vật thể tự nhiên, để phù hợp với lợi ích của mình. Lao động là sự
vận động của sức lao động, là quá trình kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản
xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Thành quả do con người tạo ra trong quá trình lao động để nuôi sống bản
thân họ, gia đình họ và đảm bảo sự tồn tại của xã hội. Lao động có năng suất,
chất lượng đem lại hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước.
Vì vậy lao động có một vị trí vô cùng quan trọng và không thể thiếu được trong
bất kỳ một chế độ xã hội nào, một quốc gia nào. Mỗi con người đến độ tuổi lao
động, có khả năng lao động đều mong muốn và có quyền được lao động để nuôi
sống bản thân, giúp đỡ gia đình và làm giàu cho xã hội.
1.2 Sức lao động : Là tổng hợp thể lực và trí lực của con người trong quá
trình tạo ra của cải xã hội, phản ánh khả năng lao động của con người, là điều
kiện đầu tiên cần thiết trong quá trình lao động xã hội.
1.3 Nguồn lao động : Là một bộ phận của dân cư bao gồm những người
trong độ tuổi lao động, không kể số người mất khả năng lao động và những
người ngoài độ tuổi lao động (trên hoặc dưới tuổi lao động) nhưng thực tế có
tham gia lao động. (Nước ta độ tuổi lao động quy định từ 15-55 đối với nữ và
15-60 đối với nam).
1.4 Thị trường lao động : Thị trường là một phạm trù riêng của kinh tế
hàng hoá. Thị trường là nơi diễn ra trao đổi hàng hoá dịch vụ. Nội dung của thị
trường được biểu hiện qua hai nhân tố có quan hệ mật thiết với nhau : cung và
cầu hàng hoá.
Thị trường lao động là một lĩnh vực của nền kinh tế mà ở đó diễn ra quá
trình mua bán, trao đổi, thuê mướn sức lao động. Ở nơi nào có nhu cầu sử dụng
lao động và có nguồn cung cấp lao động thì ở đó sẽ hình thành nên thị trường
lao động. Đối tượng tham gia thị trường lao động gồm những người lao động và
người sử dụng lao động. Giá cả sức lao động chinh là tiền công mà người sử

dụng lao động trả cho người lao động.

Khi cung và cầu lao động gặp nhau và hoạt động mua bán, trao đổi hay
thuê mướn sức lao động diễn ra trong phạm vi biên giới một quốc gia thì ta có
thị trường lao động nội địa, khi diễn ra ngoài biên giới quốc gia một nước thì ta
có thị trường lao động quốc tế.
1.5 Xuất khẩu sức lao động : Là hoạt động trao đổi, mua bán hay thuê
mướn hàng hoá sức lao động giữa chính phủ một quốc gia hay tổ chức, cá nhân
cung ứng sức lao động của nước đó với chính phủ, tổ chức, cá nhân sử dung sức
lao động nước ngoài trên cơ sở hiệp định hay hợp đồng cung ứng lao động.
Như vậy. khi hoạt động xuất khẩu lao động được thực hiện sẽ có sự di
chuyển lao động có thời hạn và có kế hoạch từ một nước sang một nước khác.
Trong hành vi trao đổi này, nước đưa lao động đi được coi là nước xuất khẩu lao
động, nước tiếp nhận sức lao động được coi là nước nhập khẩu lao động. Trên
thực tế có trường hợp xuất hiện vai trò của nước thứ ba làm nhiệm vụ trung
gian, môi giới hoặc kinh doanh.
Đặc trưng cơ bản của hoạt động xuất khẩu lao động, khác so với các loại
hàng hoá khác xuất phát từ tính đặc thù của loại hàng hoá này. Sức lao động là
một loại hàng hoá đặc biệt vì con người là chủ thể lao động, có tư duy và khả
năng làm chủ bản thân. Cho nên trong hiệp đinh hay hợp đồng cung ứng lao
động, ngoài những điều khoản quy định như đối với các loại hàng hoá bình
thường còn phải có những điều khoản đề cập đến đời sống chính trị, văn hoá,
tinh thần, sinh hoạt của người lao động. Những điều này bị chi phối phong tục,
tập quán, tôn giáo, văn hoá của các quốc gia tham gia vào lĩnh vực này.
Có hai hình thức xuất khẩu lao động là :
- Đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài (LHQ dùng khái
niệm di dân quốc tế) : là hình thức đầu tư lao động sống ra nước ngoài nhằm thu
hút thu nhập quốc dân từ nước ngoài về cho đất nước.
- Xuất khẩu lao động tại chỗ: Theo luật Đầu tư nước ngoài của nước ta, là
hình thức đầu tư lao động sống ở trong nước để thực hiện giá trị sức lao động

cho mình đối với nước ngoài.
Trong nội dung khoá luận này, em chỉ xin đề cập đến hình thức
xuất khẩu lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
2, Nguyên nhân hình thành và phát triển xuất khẩu lao động
Trong tác phẩm "Phép biện chứng tự nhiên", F. Ăng - ghen viết : "Con
người sống lan rộng ra tất cả những nơi nào có thể được và người là loại động
vật duy nhất làm được điều đó một cách độc lập, tự chủ". Ngay từ buổi bình
minh của loài người đã xuất hiện sự di chuyển của nguồn lao động đến những
miền đất tốt đẹp hơn. Như vậy, sự di cư lao động quốc tế thể hiện tính tất yếu và
tác dụng tiến bộ của lịch sử. Chính sự phân bố không đồng đều về dân cư, về
điều kiện tự nhiên (tài nguyên, khí hậu) và sự bùng nổ dân số trên thế giới đã
hình thành luồng di cư lao động ở những nước kinh tế chậm phát triển di cư đến
những nước có đời sống kinh tế khá hơn, lao động ở nước nghèo tài nguyên di
chuyển đến những nước có điều kiện thiên nhiên thuận lợi, dân cư ở nước có
mật độ cao di chuyển đến những nước có mật độ dan cư thấp. Như vậy việc di
chuyển lao động trước hết là một hiện tương khách quan trong quá trình làm
việc của bản thân người lao động.
Ngoài ra, xuất khẩu lao động còn bị chi phối bởi các yếu tố chủ quan khác
như : chính sách của quốc gia, ý chí của nhà nước, của các tổ chức cung ứng và
tiếp nhận lao động
Phân tích cụ thể, ta thấy có những nguyên nhân sau đây :
Thứ nhất, do có sự mất cân đối vê số lượng lao động, khi nguồn lao động
một nước không đáp ứng đủ hoặc vượt quá nhu cầu sử dụng trong nước.
Sự dư thừa lao động, vượt quá nhu cầu sử dụng trong nước của một nước
có thể là do nước dó có tỷ lệ phát triển dân số cao nền sản xuất trong nước lạc
hậu, kém phát triển nên nhu cầu sử dụng thấp hoặc do nước đó có sự chuyển đổi
cơ chế kinh tế mà trong giai đọan chuyển tiếp nền kinh tế chưa thể phù hợp ngay
với cơ chế mới nên đã giảm sút nghiêm trọng, sản xuất bấp bênh, số lao động
dôi thừa tăng nhanh.
Trong khi đó, nhiều nước có nền kinh tế phát triển nhanh, nhu cầu sử

dụng lao động lớn trong khi tốc độ tăng dân số lại quá thấp nên đã xảy ra hiện
tượng thiếu lao động.
Thứ hai, do có sự mất cân đối về cơ cấu ngành nghề nhất định mà trong
nước không có hoặc không đủ. Ví dụ : ở một số nước phát triển rất thiếu lao
động trong các ngành nặng nhọc, độc hại còn ở nước nghèo lại thiếu các chuyên
gia, cán bộ kỹ thuật có trình độ cao.
Trình độ phát triển kinh tế và tiến bộ khoa học kỹ thuật của mỗi quốc gia
không thể giải quyết hết sự mất cân bằng này, đòi hỏi phải có sự trao đổi lao
động với các quốc gia khác. Hành vi trao đổi này dẫn đến sự ra đời và phát triển
của xuất khẩu lao động.
Thứ ba, do có sự chênh lệch giá cả sức lao động trong nước và sức lao
động nước ngoài. Nhiều nước mặc dù không dư thừa lao động cũng tiến hành
xuất khẩu lao động vì có lợi cho cán cân thanh toán do họ có được những hợp
đồng xuất khẩu lao động có giá cao và bù lại họ nhập khẩu lao động tự những
nước có giá cả thấp hơn. Điều này lý giải vì sao có những nước vừa nhập khẩu
lại vừa xuất khẩu lao động như : Cuba, Malaysia, Bungari
Thứ tư, do có sự chênh lệch về mức thu nhập và mức sống giữa người lao
động trong nước và người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Vì lý do này mà
nhiều người dù không thuộc đội quân thất nghiệp nhưng vẫn muốn đi xuất khẩu
lao động để tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống bản thân và gia đình.
Thứ năm, do xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, lực lượng sản xuất
phát triển, nền sản xuất lớn không thể bó hẹp trong phạm vi biên giới quốc gia
mà mở rộng ra nhiều nước, việc sử dụng lao động mang tính quốc tế. Hơn nữa,
việc tăng cường xuất khẩu công nghệ, bao thầu công trình quốc tế sẽ tất yếu kèm
theo việc phát triển xuất khẩu lao động
II – Tình hình xuất khẩu lao động tại Việt Nam
1, Sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu lao động tại Việt Nam
Cùng với việc giải quyết việc làm trong nước, hoạt động xuất khẩu lao
động có vị trí quan trọng. Nó là hoạt động đặc thù nhằm đạt kết quả tổng hợp về
kinh tế xã hội. Nhà nước ta đã xác định : "Đưa lao động đi làm việc có thời hạn

ở nước ngoài là một hướng giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao
động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho ngân sách và góp phần tăng cường quan hệ
hợp tác kinh tế - văn hoá, khoa học kỹ thuật giữa Việt Nam với các nước sử
dụng lao động Việt Nam.
a, Xuất phát từ vấn đề kinh tế.
Các nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu thị trường lao động khu vực và
quốc tế đều nhận thấy một điều nổi bật, rõ ràng là: Một số nước công nghiệp
phát triển cao như Nhật Bản, Hàn Quốc, Italia lẫn một số nước mới phát triển
như Thailand, Malaisia, Philipine ngay từ đầu, khi nền kinh tế còn chưa phát
triển đều biết sử dụng một phương tiện đầy hiệu quả, đó là xuất khẩu lao động.
Theo thống kê của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), khoản thu nhập của người
lao đông của nước ngoài mỗi năm đạt tới 65,5 USD, trong khi đó hàng năm tổng
các khoản viện trợ chính thức (ODA) chỉ đạt mức 51 tỷ USD. Người đi làm việc
ở nước ngoài thường có mức thu nhập bình quân cao hơn trong nước từ 6 đến 10
lần. Chênh lệch về thu nhập là nguyên nhân khiến nhiều nước tận dụng mọi thời
cơ đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tại Việt Nam cùng với việc chuyển
sang nền kinh tế thị trường, trong hơn 10 năm (1991 - hết tháng 6/2003) theo cơ
chế mới đã đưa được gần 250.000 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài, đem lại thu nhập hàng năm 1 -1,5 tỷ USD. Tuy còn khiêm tốn trên thị
trường lao động thế giới nhưng về mặt kinh tế đã góp phần đáng kể làm tăng
trưởng ngân sách quốc gia, tăng thu nhập cho người lao động và góp phần giải
quyết việc làm trong nước giữa hoàn cảnh nước ta còn đang chắt chiu từng đồng
ngoại tệ mạnh. Có thể sử dụng một so sánh : Để có được 800 triệu USD do xuất
khẩu hàng dệt may chúng ta phải đầu tư rất nhiều cơ sở vật chất, xây dựng nhà
máy, trang bị máy móc thiết bị, đảm bảo cơ sở hạ tầng Nhưng với gần 20.000
lao động xuất khẩu hàng năm, chúng ta thu được lượng ngoại tệ gần gấp đôi mà
số vốn đầu tư lại ít hơn nhiều lần.
Về lâu dài xuất khẩu lao động nước ta có khả năng đóng góp cao cho thu
nhập quốc dân khi phạm vi xuất khẩu lao động được mở rộng, số lượng người
đưa đi lớn, ngành nghề hình thức đa dạng, chính sách và thủ tục đưa lao động đi

thông thoáng.
b, Xuất phát từ vấn đề dân số và giải quyết việc làm
Sự gia tăng dân số, lao động ở Việt Nam là yêu cầu bức xúc phải phát
triển xuất khẩu lao động.
Sự phát triển dân số, lao động đối với Việt Nam hiện nay là một trong
những vấn đề kinh tế, xã hội phức tạp và gay gắt chẳng những trong giai đoạn
hiện nay mà còn trong những năm tới. Trong dân số có lực lượng lao động - yếu
tố quyết định của sản xuất, đồng thời dân số lại là lực lượng tiêu dùng của cải
vật chất và tinh thần của xã hội. Mối quan hệ này được cụ thể hoá thành quan hệ
giữa dân số và phát triển là nội dung quan trọng của chiến lược kinh tế xã hội.
Với tốc độ tăng dân số ở mức trên dưới 2% như hiện nay tạo nên áp lực
đối với đời sống và việc làm. Hàng năm, Việt Nam phải tạo ra hơn 1 triệu việc
làm mới, khoảng gần 8 triệu lao động thiếu việc làm, hàng chục vạn bộ đội phục
viên, lao động dôi dư ở khu vực Nhà nước Trong những năm qua, nhờ chính
sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã đạt được những
thành tựu đáng kể, trong đó có việc giải quyết việc làm trong nước; tuy nhiên so
với số lượng lao động cần giải quyết việc làm hàng năm cũng chỉ đạt 35% nhu
cầu. Chính vì vậy, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động là một trong những
giải pháp vô cùng quan trọng, không chỉ trước mắt mà còn có ý nghĩa chiến lược
lâu dài.
Nhu cầu việc làm càng ngày càng lớn mà khả năng giải quyết còn rất hạn
chế trong khi tiềm năng phát triển kinh tế, tạo việc làm lớn song lại chưa được
khai thác và phát huy, chưa gắn được lao động với tiềm năng đất đai và tài
nguyên.
Mâu thuẫn giữa lao động và việc làm càng gay gắt khi đổi mới cơ cấu
kinh tế, tổ chức lại lao động cho phù hợp với cơ cấu mới của nền kinh tế tất yếu
dẫn đến việc đẩy lao động tách khỏi việc làm cho một bộ phận lớn lao động trở
nên dư thừa, trước hết ở khu vực Nhà nước, các hợp tác xã tiểu thủ công
nghiệp Trong các năm qua, lao động khu vực Nhà nước dư thừa khoảng 30%-
50%, tương đương 1 triệu người. Mâu thuẫn trong bản thân vấn đề việc làm vừa

là vấn đề kinh tế xã hội cơ bản lâu dài có tính chiến lược, lại vừa là vấn đề cấp
bách trước mắt như đối tượng thanh niên mới lớn, lao động thôi việc từ khu vực
Nhà nước, bộ đội xuất ngũ, gia đình chính sách xã hội Không giải quyết được
vấn đề việc làm thì sẽ nảy sinh các vấn đề xã hội trầm trọng dẫn đến mất an toàn
xã hội, thậm chí mất ổn định chính trị.
Chính từ những mâu thuẫn trên chúng ta thấy việc phát triển xuất khẩu lao
động như là một trong các hướng giải quyết việc làm, có tầm quan trọng to lớn
và cần thiết đối với đất nước ta hiện nay.
c, Xuất phát từ vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Xuất khẩu lao động mang lại một nguồn ngoại tệ mạnh cho đất nước góp
phần tăng nguồn vốn đầu tư cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc sẽ học tập được tác
phong làm việc công nghiệp sản xuất lớn, thái độ đúng đắn trong công việc
cùng với một tay nghề vững chắc khi về nước họ sẽ là nguồn nhân lực đáng quý
tham gia vào công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Người Việt Nam ra nước ngoài lao động tốt sẽ góp phần tăng thêm uy tín,
vị thế của nước ta trên trường quốc tế, tăng cường sự hiểu biết và góp phần thúc
đẩy quan hệ hơp tác giữa Việt Nam và các nước trên thế giới. Đó là điều quan
trọng không thể thiếu được nếu muốn tiến hành thành công sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
d, Lợi thế của lao động xuất khẩu Việt Nam.
Thứ nhất, xuất khẩu lao động đã trở thành chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước. Đại hội VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định : "Phải đẩy
mạnh xuất khẩu lao động", hoạt động xuất khẩu lao động trong những năm gần
đây đã được sự quan tâm chú ý của các ngành, các cấp và các tầng lớp dân cư
trong xã hội.
Thứ hai, nguồn lao động nước ta dồi dào, theo thống kê số lượng người
trong độ tuổi lao động tính đến tháng 7/2002 là 40.694.360 người, mỗi năm bình
quân có thêm hơn 1 triệu người bổ sung vào lực lượng lao động đó.
Thứ ba, cơ cấu dân số nước ta thuộc loại trẻ, đại bộ phận (53%) ở độ tuổi

dưới 30, dưới 40 là 78%, chỉ có 22% dân số ở độ tuổi trên 40.
Thứ tư, giá nhân công Việt Nam rẻ hơn nhiều so với nhiều nước trong
khu vực và trên thế giới, có sức cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế.
Thứ năm, Việt Nam đang không ngừng tiến xa hơn trên con đường hội
nhập với thế giới, trong khi thị trường lao động quốc tế cũng không ngừng tăng
trưởng và đa dạng. Đây là cơ hội quan trọng để Việt Nam tham gia và phát huy
lợi thế của mình trong lĩnh vực xuất khẩu lao động.
2. Tình hình xuất khẩu lao động ở Việt Nam
Việt Nam bắt đầu đưa chuyên gia và lao động đi làm việc có thời hạn ở
nước ngoài từ năm 1980. Từ đó đến nay, cùng với sự đổi mới về cơ chế quản lý
kinh tế chung của đất nước, cơ chế xuất khẩu lao động của ta cũng đã qua nhiều
lần thay đổi, phù hợp với tình hình phát triển của đất nước và quan hệ quốc tế
của ta trong từng thời kỳ. Đánh giá chung, có thể nói công tác xuất khẩu lao
động của ta đã đạt được những yêu cầu cơ bản trong mục tiêu đặt ra và góp phần
tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam có thể chia thành hai thời kỳ.
a, Thời kỳ hợp tác lao động quốc tế theo cơ chế bao cấp (1980-1990).
Thời kỳ này, lao động Việt Nam chủ yếu được đưa sang các nước xã hội
chủ nghĩa Đông Âu, gồm : Liên Xô (cũ), Cộng hoà dân chủ Đức (cũ), Tiệp Khắc
(cũ) và Bungari. Một bộ phận công nhân xây dựng với số lượng đáng kể được
đưa đi làm việc ở Irăc, Liby, Angiêri cùng với một số chuyên gia trong các lĩnh
vực y tế, giáo dục và nông nghiệp sang làm việc tại nhưng nước Châu Phi khác
(Ăng - gô - la, Mô - zăm – bich, Công – gô, Y- ê –men, Madagasca ).
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, khi đó nước ta là thành viên của Hội
đồng tương trợ kinh tế (SEV) nên hoạt động xuất khẩu lao động mang tính chất
hợp tác lao động, giúp đỡ lẫn nhau : bạn cần lao động để bù đắp sự thiếu hụt lao
động trong phát triển kinh tế đất nước; ta cần bạn giúp đào tạo và nâng cao tay
nghề cho người lao động và giải quyết việc làm cho bộ phận lao động này. Nền
kinh tế nước ta, đặc biệt là kinh tế đối ngoại, liên kết chặt chẽ với các nước
thành viên khác của SEV, cơ chế quản lý kinh tế của ta cũng tương tự như cơ

chế quản lý của các nước đó mang tính quản lý tập trung, bao cấp.
Các nước như Irăc, Liby và các nước Châu Phi đón nhận lao động và
chuyên gia của Việt Nam cũng đều có cơ chế quản lý tương tự.
Vì vậy, cũng như các quan hệ kinh tế khác, quan hệ hợp tác sử dụng lao
động giữa ta và các nước nay đều thông qua các Hiệp định chính phủ, thpả thuận
giữa ngành với ngành. Trong bối cảnh đó, cơ chế hợp tác sử dụng lao động và
chuyên gia theo mô hình nhà nước trực tiếp ký kết và tổ chức thực hiện đưa
người lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài.
Số lượng lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
trong thời kỳ này là gần 300.000 người, trong đó đi lao động ở 4 nước xã hội
chủ nghĩa (Liên Xô cũ, Cộng hoà dân chủ Đức cũ, Tiệp Khắc cũ và Bungari) là
261.605 người; đi làm chuyên gia ở các nước Châu Phi là 7.200 người, đi làm
công nhân xây dựng ở Trung Đông khoảng 18.000 người, ngoài ra còn có
23.713 thực tập sinh và học sinh học nghề tại các nước Đông Âu đã chuyển sang
lao động trong những năm 80.
Bảng 1. Số lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
(1980-1990)
LAO ĐỘNG PHÂN CHIA THEO KHU VỰC VÀ
NGÀNH NGHỀ
SỐ LƯỢNG
(người)
Tổng số 288.106
Bao gồm :
* Chuyên gia
* Lao động
Chia theo khu vực :
* Đi các nước XHCN
* Đi các nước ngoài XHCN
Chia theo ngành nghề :
* Cơ khí

* Công nghiệp nhẹ
* Hoá chất
* Công nghiệp thực phẩm
* Xây dựng và sản xuất vật liệu XD
* Nông, lâm nghiệp
* Các ngành khác
7.200
280.906
261.605
19.301
71.077
117.432
8.329
3.542
64.247
6.160
10.119
( Nguồn : Bản tin Việc làm ngoài nước - Số 6/1999)
Như vậy, hơn 10 năm hợp tác lao động với nước ngoài (1980 -1990) ta đã
thu được những kết quả đáng kể, song cũng còn một số tồn tại do hoàn cảnh lịch
sử lúc bấy giờ, do sự thiếu kinh nghiệm cũng như chưa có nghiệp vụ chuyên
môn và đầy đủ cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động này. Nhưng chính từ đây
chúng ta đã rút ra được những bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu để phát
triển hoạt động xuất khẩu lao động cho giai đoạn sau.
b, Thời kỳ xuất khẩu lao động theo cơ chế thị trường (1991 – 6/2003)
Cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, các nước xã hội chủ
nghĩa Đông Âu tiếp nhận lao động của ta đều xảy ra những biến động chính trị
lớn, dẫn đến sự thay đổi về thể chế chính trị và cơ chế kinh tế; ở nhiều nước
Châu Phi có chuyên gia ta làm việc cũng có khủng hoảng kinh tế, chính trị; ở
Irăc xảy ra chiến tranh. Vì vậy, phần lớn các nước này không còn nhu cầu nhận

tiếp lao động và chuyên gia Việt Nam, hoặc nếu có nhu cầu thì cũng không nhận
lao động và chuyên gia theo cơ chế như trước đây nữa. Đồng thời, cơ chế quản
lý kinh tế cua nước ta thời kỳ này đang từng bước đổi mới chuyển dần sang nền
kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Trước tình hình đó, nếu chúng ta
không đổi mới cơ chế xuất khẩu thì sẽ không đưa được lao động sang làm việc
tại các khu vực mới, trong lúc ở khu vực truyền thống ta có nguy cơ phải đưa về
nước hàng loạt lao động và chuyên gia khi vẫn chưa chuẩn bị được các điều kiện
tiếp nhận và bố trí việc làm, gây khó khăn và mất ổn định cho tình hình trong
nước. Thực tiến khách quan và chủ quan đặt ra yêu cầu bức bách là phải đổi mới
cơ chế xuất khẩu lao động và chuyên gia cho phù hợp với bối cảnh trong nước
và quốc tế.
Một cơ chế mới về hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia được hình
thành, trong đó phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng kinh
doanh dịch vụ xuất khẩu lao động. Nhà nước thống nhất quản lý xuất khẩu lao
động bằng các chính sách và quy định pháp lý. Các tổ chức kinh tế thực hiện
hoạt động kinh doanh dịch vụ xuất khẩu lao động thông qua các hợp đồng cung
ứng lao động ký với bên nước ngoài.
Trong thời gian đầu chuyển đổi sang cơ chế mới, do các doanh nghiệp
mới thoát ra khỏi sự bao cấp của Nhà nước nên gặp nhiều khó khăn, bỡ ngỡ
trong việc tìm kiếm thị trường lao động ngoài nước; đôi khi thậm chí trông chờ,
ỷ lại vào sự hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước, chưa có sự chủ động trong việc
khai thác hợp đồng. Các thị trường chủ yếu tiếp nhận lao động của ta lâu nay do
những bíên động về chính trị, kinh tế, xã hội đã không còn khả năng tiếp nhận
lao động Việt Nam như trước đây. Đối với thị trường mới, ta còn chưa quen,
thiếu nhiều thông tin, kinh nghiệm và kiến thức. Hơn nữa, quan hệ đối ngoại
trong môi trường quốc tế những năm đầu thập niên 90 (1991 -1993) chưa thuận
lợi đối với ta. Trong tình hình đó, chỉ có một số ít doanh nghiệp là ký hợp đồng
đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài với số lượng nhỏ, khoảng hơn 5000 lao
động cho cả 3 năm này.
Những năm sau đó, các doanh nghiệp đã bước đầu có sự chủ động trong

nghiên cứu, tiếp thị và học tập kinh nghiệm từ các nước có truyền thống xuất
khẩu lao động và từng bước hoà nhập thị trường lao động quốc tế. Cho đến nay,
chúng ta đã tiếp cận và thâm nhập được vào thị trường lao động thuộc trên 40
nước và khu vực trên thế giới như khu vực Đông và Đông Nam Á, Trung Đông,
Bắc Phi; ngoài ra ta đang từng bước mở rộng thị trường lao động đến một số đảo
Nam Thái Bình Dương và khu vực Bắc Mỹ.
Số lượng lao động Việt Nam được đưa đi làm việc ở nước ngoài tăng
nhanh qua các năm kể từ năm 1994, có giảm đáng kể vào năm 1998 do ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á nhưng lại đặc biệt tăng
mạnh từ thời điểm năm 1999 trở lại đây. Trong vòng hơn 12 năm qua, Việt Nam
có xấp xỉ 1/4 triệu người đi xuất khẩu lao động. Đặc biệt trong 6 tháng đầu năm
2003 ta đã đưa được 43.000 người đi xuất khẩu lao động, gần bằng con số
46.122 người của cả năm 2002. Dự kiến trong năm nay ta sẽ đưa được 5 vạn lao
động và chuyên gia ra nước ngoài làm việc.
Bảng 2. Số liệu lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
(1991 - 06/2003)
Năm Số lượng (người)
1991 1.022
1992 816
1993 3.960
1994 9.230
1995 10.050
1996 12.660
1997 18.470
1998 12.240
1999 21.810
2000 31.500
2001 37.000
2002 46.122
06/2003 43.000

Tổng số 247.880
( Nguồn : Số liệu lưu trữ của Cục quản lý lao động với nước ngoài )
Thời kỳ này, số lượng người đi xuất khẩu lao động tăng mạnh qua từng
năm cho thấy sự đi lên về chất lượng cũng như nhận thức của người lao động, sự
cố gắng của Nhà nước cùng với sự vươn lên của các doanh nghiệp xuất khẩu lao
động. Hiện có gần 200 doanh nghiệp đã được Bộ Lao động – Thương binh và
Xã hội cấp giấy phép hoạt động xuất khẩu lao động và đa phần các doanh
nghiệp này hoạt động khá hiệu quả. Các doanh nghiệp lớn như : VINACONEX,
LOD, VIETRACIMEX, SIMCO, SOVILACO bình quân hàng năm đưa được
1000 – 2000 lao động ra nước ngoài làm việc. Ngành nghề xuất khẩu lao động
cũng rất đa dạng, có đến trên 30 ngành nghề thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như
: xây dựng, cơ khí, giúp việc gia đình và khán hộ công, điện tử, dệt may, chế
biến thuỷ sản, dịch vụ, vận tải biển, đánh bắt chế biến hải sản, chuyên gia y tế,
giáo dục, nông nghiệp, tin học v.v Số lao động nữ hiện nay chiếm khoảng hơn
25%, tập trung chiếm ưu thế ở các lĩnh vực : dệt, may (69%), điện tử (80%),
chăm sóc người bệnh và giúp việc gia đình (94%). Xuất khẩu lao động của Việt
Nam đang không ngừng vươn lên ngang tầm các nước có truyền thống xuất
khẩu lao động ở Châu Á như Philippines, Malaysia, Thái Lan, Indonesia,
Bangladesh Tuy nhiên, cần nhận thấy đây vẫn chỉ là những bước đi khởi đầu
để tạo đà cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam tiếp tục phấn đấu,
mở rộng thêm thị trường lao động và tăng số lượng cũng như chất lượng lao
động xuất khẩu trong thời gian tới.
Trong giai đoạn qua, bên cạnh việc góp phần giải quyết vấn đề việc làm
trong nước, xuất khẩu lao động còn mang lại hiệu quả kinh tế đáng kể cho đất
nước. Lao động đi làm việc ở nước ngoài có thu nhập bằng ngoại tệ có khả năng
chuyển đổi thành ngoại tệ mạnh. Nguồn ngoại tệ này rất cần thiết để xây dựng
đất nước. Mức thu nhập của người lao động làm việc ở nước ngoài thường cao
hơn từ 6 – 10 lần thu nhập của người làm việc trong nước. Mức thu nhập ròng
hàng tháng (kể cả làm thêm giờ, sau khi đã trừ đi chi phí sinh hoạt ngoài nước)
bình quân đầu người khoảng 350USD/người. Như vậy, với gần 250.000 lao

động đã đưa đi, trung bình mỗi hợp đồng làm việc là là 2 năm thì tổng số tiền
được chuyển về cho đất nước ước tính khoảng 2,8 tỷ USD. Chỉ tính riêng trong
năm 2001, tổng số tiền lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài dưới nhiều
hình thức khác nhau gửi về nước đã đạt 1,3 tỷ USD. Đó là khoản thu lớn góp
phần tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, phục vụ thiết thực cho công cuộc
công nghiệp hoá - hiện đại hoá nước nhà.
Tuy nhiên cần nhận thấy hoạt động xuất khẩu lao động của nước ta cũng
còn nhiều bất cập, nhiều tồn tại cần khắc phục. Đầu tiên phải kể đến công tác
quản lý xuất khẩu lao động chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu thực tế. Chưa
tạo được sự phối hợp đồng bộ giữa các doanh nghiệp xuất khẩu lao động với các
cơ quan chức năng trong việc quản lý và chỉ đạo triển khai thực hiện các hợp
đồng lao động. Việc tuyển chọn và làm thủ tục cho lao động dù đã có sự cải
thiện nhiều trong những năm qua nhưng hiện vẫn còn qua rất nhiều khâu trung
gian nên người lao động phải mất nhiều thời gian và chi phí bất hợp lý. Cá biệt
vẫn có tình trạng lừa đảo, thu tiền bất chính từ người lao động. Thêm vào đó,
công tác đào tạo chuẩn bị nguồn lao động trước khi đi cũng như quản lý lao
động tại nước đến chưa được sự quan tâm đúng mức từ phía doanh nghiệp, lao
động trình độ tay nghề, trình độ ngoại ngữ còn yếu, ý thức chấp hành nội quy và
pháp luật nước sở tại rất kém, dẫn đến tình trạng tỷ lệ lao động phá hợp đồng, bỏ
trốn ra ngoài làm việc hay bị trả về nước do không đạt yêu cầu còn cao. Đây là
những vấn đề bức thiết mà chúng ta cần phải khắc phục và phải khắc phục
nhanh để hoạt động xuất khẩu lao động của nước ta thực sự đạt đến hiệu quả
kinh tế - xã hội tương xứng với tiềm năng và cơ hội của mình.
III – Vị trí, vai trò của khu vực thị trường các nước Đông và Đông Nam Á đối
với hoạt động xuất khẩu lao động nước ta.
1, Các thị trường xuất khẩu lao động hiện nay của nước ta.
Bước sang thời kỳ xuất khẩu lao động theo cơ chế thị trường, chúng ta đã
mất hầu hết các thị trường hợp tác lao động truyền thống trước đây, song bằng
nỗ lực của chính mình, ta đã tiếp cận mở thêm và phát triển được nhiều thị
trường xuất khẩu lao động mới. Trong vòng hơn 10 năm qua, ngành xuất khẩu

lao động nước ta đã đưa lao động Việt Nam đi làm việc tại trên 30 thị trường
thuộc nhiều khu vực khác nhau trên thế giới.
Các thị trường tiếp nhận lao động chủ yếu của nước ta hiện nay có thể
phân thành bốn khu vực thị trường bao gồm : khu vực thị trường Trung Đông,
khu vực thị trường Châu Phi, khu vực thị trường trên biển và khu vực thị trường
Đông và Đông Nam Á.
a, Khu vực thị trường Trung Đông :
Trung Đông là một trong những khu vực thu hút số lượng lao động lớn
nhất trên thế giới thường xuyên có khoảng 9 -10 triệu lao động ngoại quốc làm
việc tại các thị trường này) với các ngành nghề đa dạng : xây dựng,
dầu khí, cơ khí, dệt may, giúp việc gia đình và chuyên gia các ngành. Khu vực
này có điều kiện làm việc rất khó khăn, khí hậu và môi trường sinh hoạt rất khắc
nghiệt, công việc chủ yếu làm ngoài trời nắng nóng, tiền lương thấp (100 – 150
USD/tháng đối với lao động tay nghề thấp và 200 – 300 USD/tháng đối với
công nhân kỹ thuật, kỹ sư, cán bộ quản lý) nhưng phải chịu nhiều loại thuế,
phong tục tập quán đạo Hồi nghiêm ngặt.
Thời gian vừa qua, một số doanh nghiệp Việt Nam đã đưa lao động xây
dựng, dệt may sang Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) với số lượng
không nhiều (tổng cộng khoảng gần 2000 người). Ngoài ra, một vài doanh
nghiệp khác đã nhận thầu công trình xây dựng ở Kuwait cũng đã đưa lao động
sang đây nhưng do chưa có kinh nghiệm tổ chức thi công và quản lý lao động ở
nước ngoài nên hoạt động chưa có mấy hiệu quả.
Tổng số lao động ta đã đưa sang thị trường Trung Đông từ năm 1991 –
2001 là 2.927 người, nhưng từ đầu năm 2002 đến nay ta không có thêm lao động
nào tại thị trường này.
b, Khu vực thị trường Châu Phi :
Ở Châu Phi có một số quốc gia có nhu cầu nhận lao động nước ngoài. Tuy
nhiên, trong những năm gần đây, ta chủ yếu chỉ đưa lao động sang Libya. Đây là
thị trường tiếp nhận lao động tương đối ổn định của ta. Cho đến nay, bằng hình
thức cung ứng trực tiếp và cung ứng qua nước thứ ba, ta đã đưa được trên

10.000 lượt lao động sang Libya làm việc trong lĩnh vực xây dựng. Song do mức
lương ở đây không cao (150 -200 USD/tháng), điều kiện làm việc và sinh hoạt
lại hết sức khắc nghiệt nên thị trường gần đây không tỏ ra hấp dẫn người lao
động.
Ngoài ra, tại một số nước Châu Phi khác tuy có tỷ lệ lao động cao nhưng
vẫn có nhu cầu nhận nhiều lao động nước ngoài cho các công trình xây dựng.
Các doanh nghiệp ta có khả năng đưa được số lượng lớn lao động thông qua các
công ty quốc tế thắng thầu ở khu vực này.
Bên cạnh đó, ta còn đưa một số chuyên gia nông nghiệp, y tế và giáo dục
sang các nước như Angola, Mozambique nhưng với số lượng không nhiều và
không thường xuyên.
c, Khu vực thị trường trên biển :
Hiện nay, nhu cầu của thị trường thế giới đối với lao động trên biển còn
rất lớn. Trong thời gian qua, ta đã đưa được trên 26 nghìn lượt sĩ quan, thuyền
viên tàu vận tải, thuỷ thủ đánh bắt cá đi làm việc trên biển. Trong đó hiện có trên
2.000 người đang làm việc trong các đội tàu của Hàn Quốc, Nhật Bản, Na Uy,
Đài Loan, Singapore và các nước khác. Tuy nhiên trên thực tế lao động của ta
vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của các chủ tàu cả về số lượng và chất lượng.
d, Khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á :
Đây là khu vực thị trường chính mà em muốn đề cập đến trong khoá luận
tốt nghiệp này. Khu vực này chính xác hơn có thể chia thành hai nhóm thị
trường nhỏ hơn là : nhóm thị trường Đông Á (bao gồm Hàn Quốc, Nhật Bản,
Đài Loan) và nhóm thị trường Đông Nam Á (bao gồm Lào và Malaysia). Vượt
trên các khu vực thị trường đã kể trên, Đông và Đông Nam Á là khu vực thị
trường tiếp nhận lao động đi xuất khẩu chủ yếu nhất của nước ta hiện nay. Khu
vực này đồng thời cũng bao gồm những thị trường tiếp nhận lao động có quy mô
lớn nhất ở Châu Á với tổng số lao động nước ngoài đi theo con đường hợp pháp
lên đến trên 2.000.000 người, chưa kể hàng triệu lao động nước ngoài nhập cư
bất hợp pháp khác. Không chỉ lớn mạnh về số lượng lao động nước ngoài tiếp
nhận hàng năm, khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á còn rất đa dạng về

ngành nghề tiếp nhận lao động nước ngoài (gồm hầu hết các lĩnh vực của nền
kinh tế), hình thức tiếp nhận (hợp dồng tu nghiệp sinh hoặc lao động), trình độ
lao động (lao động phổ thông, công nhân kỹ thuật, chuyên gia)
2, Vị trí, vai trò của khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á đối với hoạt động
xuất khẩu lao động nước ta.
Có thể nói không ngần ngại rằng khu vực Đông và Đông Nam Á là khu
vực thị trường xuất khẩu lao động có tầm quan trọng bậc nhất đối với nước ta
hiện nay và theo dự báo của các chuyên gia trong lĩnh vực xuất khẩu lao động,
khu vực thị trường này vẫn tiếp tục giữ vai trò chủ chốt cả trong những năm tới
đây.
Thứ nhất, khu vực thị trường Đông và Đông Nam Á là khu vực thị
trường tiếp nhận lao động đi xuất khẩu chủ yếu nhất của nước ta hiện nay. Ta có
thể dễ dàng nhận thấy điều này khi xem Bảng 3 thống kê về số lượng người Việt
Nam đi xuất khẩu lao động theo từng khu vực thị trường trong thời gian qua
dưới đây.
Bảng 3. Số người đi xuất khẩu lao động theo từng khu vực thị trường
(1991 – 6/2003)
Khu vực thị trường Số lượng (người) Tỷ lệ (%)
Đông và Đông Nam Á 193.540 78,08
Trên biển 26.563 10,72
Châu Phi 12.695 5,12
Trung Đông 2.927 1,18
Các thị trường khác 12.156 4,9
Tổng số 247.880 100
(Nguồn : Tổng hợp số liệu báo cáo Cục Quản lý lao động với nước ngoài)
Số lao động Việt Nam đã và đang làm việc tại các thị trường thuộc khu
vực này chiếm đến 78,08% trong tổng số 247.880 lao động ta đã đưa đi làm việc
ở nước ngoài trong vòng hơn 10 năm qua; trong khi đó, các khu vực thị trường
khác nhiều nhất cũng chỉ chiếm đến trên dưới 10%. Có thể thấy rõ đây là khu
vực thị trường tập trung lao động đi xuất khẩu số một của nước ta hiện nay.

Là khu vực thị trường có nhiều lao động Việt Nam sinh sống và làm việc
nhất, đây cũng đồng thời là khu vực cung cấp nguồn kiều hối lớn nhất của ta.
Năm 2002, lao động Việt Nam tại các thị trường này chuyển về nước khoảng 1,2
tỷ USD, chiếm 80% trong tổng số 1,5 tỷ USD kiều hối mà ta nhận được trong cả
năm.
Thứ hai, khu vực thị trường này tiếp nhận lao động của ta với cơ cấu rất
đa dạng, bao gồm cả lao động phổ thông, công nhân kỹ thuật và chuyên gia
trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế. Chính khu vực thị trường này đã giữ
vai trò chủ yếu tạo nên tính đa dạng trong lĩnh vực xuất khẩu lao động của ta.
Trong số lao động Việt Nam đưa sang các nước Đông và Đông Nam Á,
lượng lao động phổ thông chiếm tỷ lệ cao, lên đến 70%, chủ yếu là lao động tại
các vùng nông thôn. Trong bối cảnh tình trạng thất nghiệp ở nông thôn Việt
Nam còn tương đối phổ biến như hiện nay, như vậy khu vực thị trường Đông và
Đông Nam Á đã góp phần quan trọng để giải quyết vấn đề trên thông qua con
đường xuất khẩu lao động. Nhiều lao động phổ thông qua quá trình làm việc tại
đây, ngoài việc có được thu nhập đáng kể còn có điều kiện học hỏi để trở thành
lao động có nghề.
Thứ ba, trong số các khu vực thị trường xuất khẩu lao động của Việt
Nam, khu vực Đông và Đông Nam Á có điều kiện gần gũi nhất về địa lý, điều
kiện tự nhiên, nền văn hoá cũng như phong tục tập quán với ta. Đó là những
điều kiện vô cùng thuận lợi cho việc đưa lao động của ta sang làm việc tại
những thị trường này. Sự gần gũi về địa lý làm cho các chi phí đi lại, liên lạc của
lao động cũng như của doanh nghiệp xuất khẩu lao động thấp hơn rất nhiều so
với các khu vực thị trường khác. Trong khi sự gần gũi về điều kiện tự nhiên, nền
văn hoá, phong tục tập quán lại khiến giới chủ sử dụng dễ dàng chấp nhận lao
động Việt Nam vào làm việc, hai bên dễ dàng tìm được tiếng nói chung trong
công việc cũng như trong sinh hoạt hàng ngày. Lao động Việt Nam có được
nhiều thuận lợi hơn so với các khu vực thị trường khác trong việc hoà nhập vào
đời sống kinh tế xã hội của nước sở tại. Đây là một trong những nguyên nhân
quan trọng để Đông và Đông Nam Á trở thành khu vực thị trường xuất khẩu lao

động chủ chốt của nước ta.
Thứ tư, khu vực thị trường này tập trung những quốc gia có trình độ khoa
học kỹ thuật vào loại phát triển nhất trong khu vực và trên thế giới. Nhật Bản,
Hàn Quốc, Đài Loan là những con rồng Châu Á với nền kinh tế có hàm lượng
khoa học công nghệ cao, Malaysia cũng có nền khoa học kỹ thuật rất phát triển.
Xuất khẩu lao động sang những thị trường là cơ hội quan trong cho phép lao
động ta tiếp cận với những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất.
Thứ năm, đây đồng thời là khu vực thị trường xuất khẩu lao động rất có
triển vọng trong tương lai. Một mặt, triển vọng thể hiện rõ ở nhu cầu lao động
nước ngoài còn rất lớn của những thị trường mà ta đã đưa lao động sang làm
việc. Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Lào và đặc biệt là Malaysia - thị trường
mới mở gần đây đều có nhu câu rất lớn về lao động nước ngoài mà lượng lao
động đã tiếp nhận mới chỉ đáp ứng được một phần. Hơn nữa, với đà phát triển
kinh tế của những nước trên, dự báo nhu cầu này còn tăng lên nhiều trong thời
gian tới.
Ngoài ra, triển vọng còn thể hiện ở một số thị trường tiếp nhận lao động
nước ngoài có tiếng khác trong khu vực Đông và Đông Nam Á như Singapore
hay Bruney. Tuy trước mắt những thị trường này vẫn chưa chính thức tiếp nhận
lao động của ta (trừ một số ít y tá sang Singapore) song chính phủ ta đang nỗ lực
tiến hành nhiều hoạt động tích cực nhằm xúc tiến tiếp cận tìm cách đưa lao động
của ta sang đây.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM SANG THỊ
TRƯỜNG CÁC NƯỚC ĐÔNG VÀ ĐÔNG NAM Á
I – Vài nét về thị trường các nước Đông và Đông Nam Á
1, Thị trường Nhật Bản :
Nhật Bản là một quốc đảo với diện tích 377.682 km2, dân số 127.100.000
người, nền kinh tế đứng thứ ba trên thế giới. Với dân số có tỷ lệ người già đã
quá tuổi lao động chiếm đến 30% dân số và một nền kinh tế phát triển như vậy,
nhu cầu về lao động nước ngoài của Nhật Bản là rất lớn. Tuy nhiên, Nhật Bản

lại được các chuyên gia quốc tế nghiên cứu về xuất khẩu lao động coi là một
nước có chính sách đóng cửa với lao động nước ngoài. Trong Luật kiểm tra về
người nhập cư và di tản của Nhật Bản được phê chuẩn năm 1990 đã quy định
không được tuyển dụng lao động người nước ngoài không nghề vào Nhật Bản,
chỉ cho phép tuyển dụng những chuyên gia có trình độ và những lao động đặc
biệt lành nghề từ các quốc gia khác. Song cũng từ đầu những năm 90, Nhật Bản
đã đưa ra chính sách tiếp nhận lao động từ các nước đang phát triển sang Nhật
Bản tu nghiệp nâng cao tay nghề theo "Chương trình tu nghiệp và thực tập kỹ
thuật" tại các xí nghiệp vừa và nhỏ với số lượng hàng năm khoảng 50.000
người, người lao động được gọi là "tu nghiệp sinh". Theo quan điểm của các nhà
hoạch định chính sách Nhật Bản, đây là một biện pháp chuyển giao công nghệ
cho các nước đang phát triển, cũng là giảm số lượng lao động nước ngoài bất
hợp pháp tại đây, đồng thời đáp ứng nhu cầu lao động của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ đang thiếu lao động trầm trọng. Đối với các nước xuất khẩu lao động,
đây cũng là một biện pháp được hoan nghênh vì nó mở ra một kênh để đưa lao
động sang Nhật Bản. Tuy người lao động chỉ được hưởng quy chế tu nghiệp
sinh (ít quyền lợi hơn so với quy chế các lao động thông thường tại Nhật Bản)
và hưởng trợ cấp tu nghiệp, nhưng mức thu nhập này vẫn cao hơn nhiều so với
mức lương của người lao động ở nhiều thị trường khác, thông thường đạt 670 –
780 USD/ tháng.
Nhật Bản tiếp nhận tu nghiệp sinh trong các ngành công nghiệp, nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và cả các ngành thủ công truyền thống. Theo
quy định, tu nghiệp sinh nước ngoài phải là người lao động đang làm việc trong
các doanh nghiệp của nước phái cử có nghề chuyên môn sẽ tu nghiệp tại Nhật
Bản. Họ được doanh nghiệp cử đi cam kết sẽ sẽ tiếp nhận lại làm việc sau khi
hết hạn tu nghiệp. Thời hạn tu nghiệp tại Nhật Bản từ 2 – 3 năm, tuỳ theo từng
ngành nghề. Trong năm đầu tiên, tu nghiệp sinh vừa học lý thuyết vừa được đào
tạo thực hành trong sản xuất, hưởng quy chế trợ cấp tu nghiệp. Từ năm 1994
đến nay, chính sách đối với lao động nước ngoài của Nhật Bản được mở rộng
thêm một bước : Sau khi kết thúc giai đoạn 1, tu nghiệp sinh phải qua kỳ thi sát

hạch tay nghề để chuyển qua giai đoạn 2, nếu đạt, tu nghiệp sinh sẽ được hưởng
quy chế nhận tiền công theo công việc gần giống lao động thông thường.
Tham gia vào chương trình này của Nhật Bản có rất nhiều nước Châu Á,
chủ yếu là Trung Quốc, Thái Lan, Philippnines, Indonesia, Việt Nam, Malaysia,
Đài Loan và một số nước khác. Hiện có tổng cộng gần 320.000 tu nghiệp sinh
người nước ngoài hiện đang làm việc tại Nhật Bản, trong đó, Trung Quốc là
nước có số lượng tu nghiệp sinh lớn nhất với 123.117 người, chiếm đến trên
40% tổng số tu nghiệp sinh nước ngoài tại Nhật Bản.
Nhật Bản bắt đầu tiếp nhận tu nghiệp sinh của Việt Nam từ năm 1992, là
một trong những thị trường xuất khẩu lao động sớm nhất của nước ta tại khu vực
Đông và Đông Nam Á. Thị trường Nhật Bản tương đối khó tính, chỉ tiếp nhận
lao động có nghề, lao động phải có trình độ tiếng Nhật cơ sở, đặc biệt yêu cầu
rất cao về tính kỷ luật của lao động; thêm vào đó thủ tục xin visa nhập cảnh rất
phức tạp và tốn nhiều thời gian, chi phí cho các khâu trung gian, đặt cọc rất
cao (từ 8.000 – 10.000 USD). Do vậy, việc đưa tu nghiệp sinh Việt Nam sang
làm việc tại Nhật Bản cần có sự nỗ lực rất cao cả từ phía người lao động và
doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
Tuy nhiên, ở thị trường Nhật Bản cũng giống như ở thị trường Hàn Quốc,
phát sinh vấn đề tu nghiệp sinh nước ngoài tự ý bỏ hợp đồng, đi làm việc tại
doanh nghiệp khác có mức lương cao hơn và tu nghiệp sinh các nước sau khi hết
thời hạn làm việc không chịu về nước, trốn ở lại Nhật Bản làm việc bất hợp
pháp. Hiện tượng này tạo nên rất nhiều phức tạp về mặt xã hội ở Nhật Bản. Tỷ
lệ tu nghiệp sinh nước ngoài bỏ hợp đồng và trốn ở lại làm việc cao là vấn đề
đau đầu của cả giới chức Nhật Bản lẫn các nước phái cử. Áp dụng các biện pháp
hữu hiệu để giảm được tỷ lệ này chính là một trong những vấn đề mấu chốt để
nâng cao sức cạnh tranh của lao động nước ta tại thị trường này.
2, Thị trường Hàn Quốc :
Hàn Quốc nằm ở khu vực Đông Á mà chính xác hơn là ở Đông Bắc Á,
diện tích 99.600 km2, dân số 48.800.000 người. Hàn Quốc là một nước công
nghiệp phát triển với nền công nghệ điện tử cao dựa trên hàm lượng cao về khoa

học và công nghệ. Nền kinh tế Hàn Quốc đạt tỷ lệ tăng trưởng cao bắt đầu từ
thập niên 60 và trong vòng 25 năm kể từ năm 1967 đến 1991, giá trị GNP của
Hàn Quốc đã tăng 7,3 lần.
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế cao, nhu cầu sử dụng lao động cũng ngày
một tăng mạnh. Hơn thế nữa mức tiền lương của người lao động Hàn Quốc cũng
tăng cao nhanh chóng. Những điều này đã khiến cho lao động Hàn Quốc có sự
lựa chọn chỗ làm việc. Họ từ chối làm việc ở những chỗ lương thấp hoặc trong
những ngành thuộc khu vực 3D (dangerous, dificult, dirty – nguy hiểm, khó
khăn và độc hại) mà chuyển sang các ngành dịch vụ, văn phòng hay kỹ thuật
cao. Tình hình đó đã khiến Hàn Quốc phải đối phó với sự mất cân đối về cung
và cầu lao động, tỷ lệ thất nghiệp ở Hàn Quốc dù rất cao nhưng những công việc
có mức lương thấp hoặc thuộc khu vực 3D nói trên thì vẫn rất thiếu nhân công.
Để bù đắp sự thiếu hụt đó, Hàn Quốc buộc phải nhập khẩu lao động nước ngoài.
Tháng 11/1993, chính phủ Hàn Quốc đã triển khai hệ thống tu nghiệp sinh công
nghiệp, cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực sản
xuất tiếp nhận người nước ngoài với danh nghĩa tu nghiệp sinh. Năm 1996, chủ
trương này đã được mở rộng ra các lĩnh vực đánh cá, nông nghiệp và xây dựng.
Chương trình tu nghiệp sinh của Hàn Quốc có nhiều điểm giống với
chương trình này tại Nhật Bản. Nhưng khác với Nhật Bản - các chủ sử dụng
trực tiếp tuyển chọn và tiếp nhận lao động - tại Hàn Quốc, chính phủ giao cho 4
hiệp hội bao gồm Hiệp hội các doanh nghiệp vừa và nhỏ Hàn Quốc (KFSB),
Hiệp hội xây dựng Hàn Quốc (CAK), Hiệp hội các tổ hợp nông nghiệp Hàn
Quốc, Hiệp hội các tổ hợp ngư nghiệp Hàn Quốc, đứng ra làm đầu mối tiếp nhận
tu nghiệp sinh nước ngoài về giao cho các doanh nghiệp. Chi tiêu tu nghiệp sinh
nước ngoài được phép tiếp nhận được phân bổ cho các doanh nghiệp theo từng
khu vực ngành nghề với phần lớn chỉ tiêu thuộc về KFSB. Ví dụ như : năm
2003, Hàn Quốc chủ trương tiếp nhận 145.500 tu nghiệp sinh nước ngoài, trong
đó khu vực các doanh nghiệp sản xuất vừa và nhỏ được tiếp nhận 130.000
người, ngành đánh bắt cá : 3.000 người, nông nghiệp : 5.000 người và xây dựng
7.500 người.

Thời hạn làm việc của tu nghiệp sinh tại Hàn Quốc là 3 năm, trong đó thời
gian học việc là 1 năm. Từ 17/7/2002, Cục phát triển nhân lực Hàn Quốc
(HRDS) quy định : hết năm thứ nhất nếu tu nghiệp sinh qua khoá học kéo dài 3
ngày tại các trung tâm của HRDS sẽ được gia hạn visa 2 năm, chuyển qua chế
độ lao động (được hưởng lương và bảo hiểm như người lao động thông thường),
nếu làm việc tốt họ còn có thể được gia hạn hợp đồng thêm 1 năm. Trước đây,
sau giai đoan học nghề, tu nghiệp sinh nước ngoài vẫn phải trải qua kỳ sát hạch
để được cấp giấy phép lao động 2 năm. Nhưng từ năm 2000 – 2002, có đến
23,2% thí sinh tham dự kỳ thi sát hạch này không đỗ, nhiều người đã trốn khỏi
hợp đồng, ở lại bất hợp pháp ở Hàn Quốc. Chính sách mới đưa ra một mặt để
bảo vệ quyền lợi của người lao động nước ngoài, mặt khác cũng để phần nào
ngăn ngừa tình trạng tu nghiệp sinh trốn bỏ hợp đồng vốn đã quá nghiêm trọng ở
Hàn Quốc.
Về thu nhập của tu nghiệp sinh kỹ thuật tại Hàn Quốc, trong thời kỳ đầu,
KFSB quy định mức lương cho tu nghiệp sinh nước ngoài theo từng quốc tịch
(cao nhất là tu nghiệp sinh Trung Quốc, sau đó đến Phillipines, Việt Nam đứng
thứ 3). Nhưng sau này, do nhiều vấn đề phát sinh, chính phủ Hàn Quốc quy định
cho mọi tu nghiệp sinh nước ngoài được hưởng mức lương tối thiểu của Hàn
Quốc. Mức lương tối thiểu này thường xuyên được điều chỉnh qua từng thời kỳ,
hiện nay vào khoảng 480 USD/tháng. Khi chuyển qua chế độ lao động, lương
bình quân của người lao động có thể đạt từ 600 – 700 USD/tháng, trên thực tế
người lao động còn có mức thu nhập cao hơn thế nhiều do có thời gian làm thêm
giờ.
Chương trình tu nghiệp sinh kỹ thuật thực hiện từ năm 1993 đến nay với
tổng chỉ tiêu 130.000 người được phân bổ cho các quốc gia phái cử. Hiện nay có
tất cả 15 nước Châu Á tham gia vào chương trình này của Hàn Quốc, trong đó
nước có số lượng tu nghiệp sinh lớn nhất là Trung Quốc với chỉ tiêu 30.790
người, chiếm 23,7%; thứ hai là Indonesia với chỉ tiêu 22.480 người, chiếm
17,3%; Việt Nam đứng thứ 3 với chỉ tiêu 18.770 người chiếm 14,4%.
Vấn đề nổi cộm nhất với thị trường Hàn Quốc hiện nay là tình trạng lao

động bất hợp pháp. Số lao động bất hợp pháp này - bao gồm những lao động
nước ngoài nhập cư bất hợp pháp vào Hàn Quốc và các tu nghiệp sinh, lao động
trong khuôn khổ Chương trình tu nghiệp sinh kỹ thuật bỏ hợp đồng trốn ra ngoài
tìm việc làm có thu nhập cao hơn trở thành lao động nước ngoài bất hợp pháp –
đã gia tăng đến con số báo động. Theo công bố của chính phủ Hàn Quốc, đến
cuối tháng 10/2002, trong số 603.294 người nước ngoài sinh sống ở Hàn Quốc
thì đã có đến 287.639 người là lao động bất hợp pháp (chiếm 47,7%). Tỷ lệ tu
nghiệp sinh nước ngoài tự ý phá hợp đồng, trốn ra ngoài làm việc trung bình vào
khoảng 56%, trong đó cao nhất là Bangladesh : 78,60%, thứ hai là Myanmar :
72,90% và Việt Nam – đứng thứ ba với 59,25%.
Việt Nam tham gia vào Chương trình tu nghiệp sinh sinh kỹ thuật của
Hàn Quốc ngay từ thời kỳ đầu. Thị trường Hàn Quốc không khó tính như thị
trường Nhật Bản. Tiêu chuẩn đối với lao động đi làm việc tại Hàn Quốc là có
sức khoẻ tốt và chăm chỉ làm việc. Phía Hàn Quốc chỉ yêu cầu tuyển lao động
phổ thông, không cần có nghề, do vậy đây là một thị trường đầy tiềm năng với
lao động Việt Nam. Tuy nhiên, muốn duy trì và tiếp tục phát triển thị trường này
thì chúng ta nhất định cần phải giải quyết dứt điểm tình trạng tu nghiệp sinh Việt
Nam bỏ hợp đồng ra ngoài làm việc bất hợp pháp và bỏ trốn không chịu về nước
sau khi đã kết thúc thời hạn hợp đồng.
3, Thị trường Đài Loan :
Đài Loan nằm cách bờ biển Đông Nam lục địa Trung Hoa khoảng 150
km, ngăn cách với lục địa Trung Hoa bởi eo biển Đài Loan. Đài Loan bao gồm
64 đảo lớn nhỏ thuộc quần đảo Bành Hồ và trên 20 đảo khác với tổng diện tích
trên 53.960 km2. Đài Loan cách Philippnes 350 km và Nhật Bản 1090 km, dân
số có trên 22 triệu người. Thủ phủ Đài Bắc là nơi có mật độ dân số cao nhất, tiếp
sau đó là thành phố Cao Hùng ở phía Nam. Gần 60% dân số Đài Loan tập trung
ở 4 thành phố lớn : Đài Bắc, Cao Hùng, Đài Trung và Đài Nam. Đó cũng là
những địa phương tiếp nhận lao động nước ngoài chủ yếu, đa phần lao động
nước ngoài tập trung tại 4 thành phố này và các khu vực phụ cận.
Từ năm 1989, do sức ép của vệc nâng lương trong nước cũng như cần tiến

hành nhiều dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, để giải quyết tình trạng thiếu nhân
lực, chính quyền Đài Loan đã mở cửa cho phép nhận lao động nước ngoài vào
làm việc.
Không giống như Nhật Bản, Hàn Quốc tuyển dụng lao động nước ngoài
theo quy chế tu nghiệp sinh, Đài Loan có chính sách nhận lao động nước ngoài
chính thức (ký hợp đồng lao động chính thức), có hệ thống luật lệ và quy chế
tương đối rõ ràng và chặt chẽ với lao động nước ngoài. Từ đầu những năm 90,
Đài Loan đã nhận lao động từ 4 nước Thái Lan, Philippines, Malaysia và
Indonesia, đến cuối năm 1999 tiếp nhận thêm lao động Việt Nam. Khởi đầu quy
mô lao động nước ngoài bị chính quyền giới hạn khoảng 15.000 người/năm.
Những năm gần đây, con số này được nâng lên và dao động trong khoảng
240.000 đến trên dưới 300.000 người/năm. Theo số liệu của Uỷ ban lao động
Đài Loan (CLA), tính đến cuối tháng 5/2003 số lượng lao động nước ngoài làm
việc tại Đài Loan là 301.780 người, trong đó : Thái Lan : 110.782 người (chiếm
36.7%); Indonesia : 79.777 người (chiếm 26,44%); Philippines : 71.516 người
(chiếm 23,7%); Việt Nam : 36.675 người (chiếm 13,15%), Malaysia : 30 người
(chiếm xấp xỉ 1%)
Trong số lao động nước ngoài làm việc tại Đài Loan, có khoảng 140.000
lao động (chiếm 46%) làm nghề giúp việc gia đình, chủ yếu là chăm sóc người
già và trẻ em; 92.035 lao động làm việc trong các doanh nghiệp sản xuất chế tạo
(chiếm 36,8%); 47.803 người làm việc trong các dự án đầu tư lớn của nước
ngoài (chiếm 16%); 573 lao động làm việc trong các dự án xây dựng của tư nhân
(chiếm 0.2%) và 3156 lao động làm thuỷ thủ tàu cá (chiếm 1%).
Lao động nước ngoài làm việc tại Đài Loan được điều chỉnh bởi một hệ
thống luật pháp tương đối đầy đủ và thống nhất cho mọi nước có lao động đi
làm việc tại Đài Loan. Hợp đồng lao động thường có thời hạn là 2 năm, sau khi
hết hạn được gia hạn một lần và thời gian gia hạn không được quá 1 năm. Đài
Loan vẫn duy trì chế độ ngày làm việc 8h/ngày và 6 ngày/tuần, từ tháng 1/2001
là 5,5 ngày/tuần(trừ một số ngành nghề đặc thù như giúp việc gia đình và khán
hộ công). Nếu có nhu cầu làm thêm giờ thì doanh nghiệp và người lao động phải

có sự thoả thuận trên cơ sở tuân thủ các quy định của Luật lao động tiêu chuẩn
Đài Loan. Tiền lương cơ bản cho mỗi lao động là 15840 Đài tệ/tháng (khoảng
450 USD), nếu cộng thêm tiền làm thêm giờ mức lương bình quân là 20.000 Đài
tệ/tháng. Riêng trong ngành điện tử, nếu 1 ngày làm việc 12 giờ thì tiền lương
đạt 30.000 Đài tệ, nhưng cũng có trường hợp không làm thêm giờ thì tiền lương
chỉ được 15.840 Đài tệ. Đương nhiên lương cơ bản của lao động nước ngoài và
của người bản xứ là không giống nhau và cũng khác nhau khi làm ở các lĩnh vưc
khác nhau. Mức lương này có thể được điều chỉnh tuỳ thuộc vào sự phát triển
của nền kinh tế. Người lao động được tham gia bảo hiểm lao động, bảo hiểm y
tế và phải nộp thuế thu nhập (6% thu nhập chịu thuế nếu số ngày làm việc trong
năm lớn hơn 183 ngày và 20% nếu số ngày làm việc trong năm không đủ 183
ngày).
Việc cung ứng lao động nước ngoài sang Đài Loan có thể qua một trong
hai kênh sau :
Kênh thứ nhất, chủ sử dụng trực tiếp tuyển dụng người lao động nước
ngoài và trực tiếp thuê chuyên gia đến làm nhiệm vụ quản lý lao động. Đi theo
kênh này là các xí nghiệp lớn hoặc các chủ công trình bao thầu lớn và thực tế
cho thấy đi qua kênh này cũng chỉ có khoảng gần 10% số lao động nước ngoài
làm việc tai Đài Loan, với lao động Việt Nam hầu như hoàn toàn không sử dụng
kênh này.
Kênh thứ hai, các hợp đồng được ký thông qua các công ty môi giới, các
công ty có chức năng tìm kiếm các quota nhận lao động, tuyển dụng lao động
theo sự uỷ quyền của chủ sử dụng lao động và tham gia vào quá trình quản lý
lao động nước ngoài tại Đài Loan. Trên 90% số lao động nước ngoài làm việc
tại Đài Loan đã đi theo kênh này. Phí môi giới do người lao động phải chịu, mức
phí này thường khá cao. Mặc dù chính phủ Đài Loan đã quy định rõ : " Công ty
môi giới không được thu phí môi giới của người lao động nước ngoài làm việc
trong mọi lĩnh vực" nhưng trên thực tế, các công ty môi giới Đài Loan vẫn
thường thu của người lao động từ 56.000 Đài tệ (1750 USD) cho đến 90.000 Đài
tệ (2810 USD) cho mỗi hợp đồng, khoản phí môi giới này - được nguỵ trang

dưới nhiều tên gọi khác nhau để "lách luật" - thậm chí còn cao hơn thế do các
công ty cung ứng lao động nước ngoài đã không ngừng tăng cao chi phí môi
giới trả cho các công ty môi giới Đài Loan nhằm tranh giành các quota lao động.
Ngoài chi phí môi giới, người lao động còn phải chi thêm một khoản tiền phục
vụ cho công tác quản lý, mức phí này dao động trong khoảng 1500 - 1800 Đài
tệ/ tháng.
Thị trường Đài Loan cũng là một thị trường tương đối khó tính, Đài Loan
chủ yếu nhận lao động có nghề, phải biết tiếng Hoa ở mức độ cơ sở và có những
quy đinh rất ngặt nghèo về sức khoẻ. Đồng thời, đây cũng là một thị trường có
tính cạnh tranh cao. Cho đến hiện nay số lượng lao động của chúng ta tại thị
trường này vẫn đứng sau Thái Lan, Indonesia và Philippines. Những nước này
đã có mặt tại thị trường Đài Loan từ những năm 1990 -1991, trong khi nước ta
mới bắt đầu từ năm 1999. Lao động Thái Lan chiếm số lượng đông nhất trong số
lao động nước ngoài làm việc tại Đài Loan, được đánh giá là cần cù, chịu khó,
có sức khoẻ và dẻo dai. Số lao động Indonesia đứng thứ hai, chăm chỉ, nhẫn nại,
hơi yếu về tiếng Hoa nhưng bù lại có sức khoẻ và tính kỷ luật cao. Lao động
Phippines thì khá tiếng Hoa, đặc biệt là tiếng Anh, có trình độ, chuyên môn tốt,
tuy có nhược điểm là hay cãi chủ và hay xin nghỉ. Trong khi đó, các công ty
cung ứng lao động của Thái Lan và Indonesia sẵn sàng chấp nhận mức phí môi
giới cao để kéo các đơn hàng về mình. Chi phí vé máy bay của nước ta đến Đài
Loan lại cao hơn mặt bằng chung trong khu vực rất nhiều khiến các chủ sử dụng
phải tính toán, lựa chọn giữa việc tuyển mộ lao động nước ta với lao động các
nước khác để giảm tiền vé máy bay. Nói chung, những "đối thủ" của chúng ta
rất mạnh và cạnh tranh tìm được chỗ đứng trong một thị trường như vậy là một
điều hoàn toàn không dễ dàng. Tuy Philippines và Indonesia hiện nay đều đã bị
"đông kết" không được phép đưa lao động vào thị trường Đài Loan nữa nhưng
khả năng mở cửa lại với các nước cung ứng lao động này vẫn còn, nghĩa là nguy
cơ cạnh tranh với lao động Việt Nam là rất lớn. Vấn đề chủ yếu đặt ra với chúng
ta khi đưa lao động sang làm việc tại thị trường này là phải tổ chức đào tạo, giáo
dục định hướng cho người lao động thật tốt, đảm bảo trang bị đầy đủ cho người

lao động những kiến thức về công việc, ngoại ngữ (chủ yếu là tiếng Hoa) và
pháp luật, phong tục, tập quán Đài Loan nhằm nâng cao chất lượng lao động.
Ngoài ra, chúng ta cần chú ý khắc phục và ngăn chặn tình trạng lao động tự ý
phá bỏ hợp đồng, trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp, tránh dẫm lại "vết xe đổ"
của Indonesia (đã bị "đông kết" ngừng tiếp nhận lao động từ tháng 8/2002 do có
tỷ lệ lao động bỏ trốn quá cao). Điều này chỉ có thể làm được khi các công ty
cung ứng làm tốt công tác tuyển chọn, thực hiện chế độ tài chính rõ ràng với
người lao động, tiến hành công tác giáo dục đào tạo tốt đồng thời quản lý theo
dõi sát xao tình hình sinh hoạt và làm việc của người lao động. Người lao động
cũng phải tự nhận thức được quyền lợi và trách nhiệm của mình khi làm việc tại
thị trường này, quyền lợi của bản thân phải gắn liền với quyền lợi của cộng đồng
và của xã hội.
4, Thị trường Malaysia :
Malaysia nằm ở khu vực Đông Nam Á, diện tích khoảng 330.417 km2.
Nước này có 13 bang, mỗi bang có đặc điểm và tính chất khác nhau. Dân số
malaysia là 23,7 triệu người, trong đó người Mã Lai chiếm hơn 50%, 30% là
người Hoa, 10% là người Ấn, còn lại là các dân tộc khác. Tôn giáo chính thống
ở đây là đạo Hồi, ngoài ra còn có đạo Thiên Chúa Giáo. Về kinh tế, Malysia
hiện có GDP bình quân đầu người khoảng gần 4000 USD. Như vậy, so với Việt
Nam thì diện tích Malaysia tương đương nhưng dân số chưa bằng 1/3 và GDP
bình quân đầu người cao gấp nhiều lần.
Kinh tế Malaysia phát triển mạnh dựa vào các lĩnh vực chủ yếu sau : Cao
su, dầu cọ, điện tử, công nghiệp chế tạo và dầu mỏ. Nước này là một quốc gia
vừa nhập, vừa xuất khẩu lao động. Lao động có trình độ cao của Malaysia phần
lớn sang làm việc ở Singapore, đồng thời Malaysia cũng tiếp nhận lao động của
nhiều nước, trong đó người Indonesia chiếm ưu thế.
Từ những năm 70, Malaysia tiến hành chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đẩy
mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ với mức tăng trưởng bình quân 11%
thời kỳ 1970 – 1980. Công nghiệp và dịch vụ thu hút rất nhiều lao động từ khu
vực nông nghiệp và đồn điền, gây nên làn sóng lao động nước ngoài lần thứ nhất

(chủ yếu là người Indonesia và Philippines) vào làm việc trong khu vực nông
nghiệp và xây dựng đang bị thiếu hụt lao động. Và từ nửa cuối những năm 80
đến nay, Malaysia thực hiện chính sách tự do hoá kinh tế, với mức tăng trưởng
cao trên 8% năm, dân số ít, quốc gia này ở vào tình trạng thiếu lao động trầm
trọng. Điều đó đã tạo nên làn sóng lao động người nước ngoài vào làm việc ở
Malaysia lần thứ hai.
Hiện nay, có khoảng hơn 1 triệu lao động từ 12 nước, bao gồm Indonesia,
Bangladesh, Ấn Độ, Campuchia, Pakistan, Myanma, Nepal, Philippines, Thái
Lan, Sri Lanca và Việt Nam đang làm việc hợp pháp tại Malaysia, trong đó lao
động Indonesia chiếm 70% với 5 lĩnh vực được phép thuê lao động nước ngoài :
Công nghiệp : sử dụng khoảng 33,19% tổng số lao động nước ngoài; Nông
nghiệp : 21,2%; Dịch vụ gia đình : 19,55%; Xây dựng : khoảng 16,72%; Dịch
vụ (khách sạn, nhà hàng, bán hàng, vệ sinh công cộng ) : 9%.
Ngoài ra, vào cuối những năm 90, ước tính tại Malaysia còn có gần 1 triệu
lao động nước ngoài bất hợp pháp. Từ đầu tháng 8/2002, Malaysia thực hiện
chính sách nhập cư mới, đưa lao động bất hợp pháp về nước để thay thế bằng
lao động hợp pháp, mỗi ngày trục xuất khoảng 5000 người; vì thế hiện nay, con
số này đã giảm đáng kể.
Theo quy định của pháp luật Malaysia, lao động nước ngoài được hưởng
các quyền lợi bình đẳng như lao động trong nước. Thời hạn hợp đồng được quy

×