Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Xu hướng biến động giá dầu thô trên thị trường mỹ và các nước trung đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.6 KB, 30 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính tất yếu của việc nghiên cứu đề tài
Dầu khí là nguồn tài nguyên quan trọng bậc nhất của những nước có tài
nguyên dầu khí. Nó góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế cũng như nâng
cao thu nhập quốc dân cho đất nước.
Hiện tại mức tiêu thụ dầu mỏ thế giới (84,3 triệu thùng/ngày) vẫn còn thấp
so với khả năng sản xuất tối đa có thể (vào khoảng 87 triệu thùng/ngày).
Nhưng hai nhà kinh tế của Ixis-CIB cho rằng, dựa vào diễn biến tiêu thụ dầu
hiện nay trên thế giới thì đến năm 2015 con người sẽ tiêu thụ 108 triệu thùng
/ngày và khi đó mức tiêu thụ sẽ cao hơn mức cung (dự báo vào khoảng 100
triệu thùng/ngày) đến 8%. Liệu dự báo trên có thể xảy ra không?
Trong 40 năm qua, thế giới đã phải trải qua 7 cuộc khủng hoảng dầu mỏ làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình kinh tế-tài chính các nước, cả các nước
phát triển lẫn những nước đang phát triển. Nhìn chung các cuộc khủng hoảng
cũng bắt nguồn từ xung đột chính trị giữa các nước Trung Đông – các nước
xuất khẩu dầu hàng đầu thế giới và suy thoái kinh tế của các nước phát triển có
xuất khẩu dầu khác như Mỹ.
Trong vài tháng qua, khi tình hình Ai Cập chưa ổn định, vấn đề sử dụng vũ khí
hoá học ở Syria làm tình hình căng thẳng, các tay súng tấn công và cản trở hoạt
động xuất khẩu dầu ở Libya, một câu hỏi lại xuất hiện là liệu thế giới có phải
đối mặt với một cuộc khủng hoảng dầu mỏ mới hay không? Và thế giới có trở
lại thời kỳ giá dầu ở mức cao chót vót 147 USD/thùng hay không? Và nếu thật
sự điều đó xay ra thì đứng nhìn ở góc độ tổng quát, Việt Nam chúng ta cũng
không thể tránh khỏi những tác động từ nó.
1
Để có cái nhìn tổng quát hơn nhằm nắm bắt kịp thời những biến động về giá cả
thế giới của loại năng lượng quan trọng này để có thể có những biện pháp hạn
chế những tác động tiêu cực có thể xảy ra. Nhóm chúng tôi quyết định chọn đề
tài: “Xu hướng biến động giá dầu thô trên thị trường Mỹ và các nước
Trung Đông”
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng do thời gian còn có hạn và kinh


nghiệm thực tế không nhiều, nên chuyên đề này không tránh khỏi những thiếu
sót và hạn chế nhất định. Nhóm chúng tôi mong nhận được sự góp ý của giáo
viên giảng dạy.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu dự đoán xu hướng biến động giá dầu thô trên thị trường Mỹ
và các nước Trung Đông, nguyên nhân của những sự biến động về giá dầu thô
đồng thời chỉ ra sự tác động của giá dầu thô đối với nền kinh tế thế giới. Từ đó
nhằm đưa ra các dự đoán cho tương lai.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là thị trường dầu mỏ ở Mỹ và các nước Trung Đông,
đặc điểm cũng như những sự biến động trên thị trường này và những ảnh
hưởng mà nó đem lại.
- Phạm vi nghiên cứu: Mỹ và các nước Trung Đông trong năm 2012 và 2013
4. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử kết hợp với
thống kê và phân tích từ những số liệu thứ cấp, từ đó rút ra kết luận làm cơ sở
đưa ra những dự báo cho việc nghiên cứu.
2
5. Ý nghĩa đề tài nghiên cứu
Từ việc tổng hợp và phân tích, đưa ra một cái nhìn tổng thể về tình hình biến
động chung hiện tại để có những dự đoán chính xác hơn
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài lời mở đầu, kết luận và phụ lục tham khảo, đề tài gồm những phần sau:
Chương I: Tổng quan về dầu thô.
Chương II: Tình hình biến động giá dầu thô trên thị trường Mỹ và các nước
Trung Đông trong hai năm 2012 và 2013
Chương III: Kết luận và đưa ra dự báo từ nay đến quý I/2014
3
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ DẦU THÔ ( DẦU MỎ)
I. Dầu mỏ và các ngành công nghiệp dầu mỏ

1. Khái niệm dầu mỏ
Dầu mỏ là một loại tài nguyên khoáng sản quý mà thiên nhiên ban tặng cho
con người. So với các khoán sản khác như: than đá, đồng, chì, nhôm, sắt…. thì
dầu mỏ được con người biết đến và sử dụng tương đối muộn hơn.
Dầu mỏ là hợp chất Hydrocacbon được khai thác lên từ lòng đất, thường ở thể
lỏng và thể khí. Ở thể khí, chúng bao gồm khí thiên nhiên và khí đồng hành.
Khí thiên nhiên là toàn bộ Hydrocacbon ở thể khí khai thác từ giếng khoan bao
gồm cả khí ẩm và khí khô. Khí đồng hành là khí tự nhiên nằm trong các vĩ dầu
dưới dạng mũ khí hoặc khí hòa tan và được khai thác đồng thời với dầu thô.
Trong bảng tuần hoàn Menđêleep, các nguyên tố Cacbon và Hydro có đặc tính
kỳ diệu là trong các điều kiện nhiệt độ và áp suất khác nhau chúng kết hợp và
tạo thành những hợp chất Hydrocacbon khác nhau. Loài người đã sớm biết sử
dụng đặc tính quý giá này để phục vụ nhu cầu cuộc sống của mình.
Có nhiều lý thuyết giải thích việc hình thành dầu mỏ. Theo lý thuyết tổng hợp
sinh học được nhiều nhà khoa học đồng ý, dầu mỏ phát sinh từ những xác chết
của các sinh vật ở đáy biển, hay từ các thực vật bị chôn trong đất. Khi thiếu
oxy, bị đè nén dưới áp suất và ở nhiệt độ cao các chất hữu cơ trong các sinh vật
này được chuyển hóa thành các hợp chất tạo nên dầu. Dầu tích tụ trong các lớp
đá xốp, do nhẹ hơn nước nên dầu đã chuyển dần dần lên trên cho đến khi gặp
phải các lớp đá không thẩm thấu thì tích tụ lại ở đáy và tạo thành dầu mỏ. Cuối
thế kỷ XIX, nhà hóa học người Nga Menđêleep đã đưa ra lý thuyết vô cơ giải
thích sự hình thành của dầu mỏ. Theo lý thuyết này, dầu mỏ phát sinh từ phản
ứng hóa học giữa cacbua kim loại với nước tại nhiệt độ cao ở xâu trong lòng
đất tạo thành các Hydrocacbon và sau đó bị đẩy lên trên.

4
Các vi sinh vật sống trong lòng đất qua hàng tỷ năm đã chuyển chúng thành
các hỗn hợp Hydrocacbon khác nhau. Lý thuyết này là một đề tài gây nhiều
tranh cãi trong giới khoa học.
Dầu mỏ là loại khoáng sản năng lượng, có tính “linh động” cao. Sau nữa,

chúng có bản chất sinh thành, di cư và tích tụ gần giống nhau. Giống như
nhiều loại tài nguyên khoáng sản khác, dầu mỏ được hình thành do kết quả quá
trình vận động phức tạp lâu dài hàng triệu năm về vật lý, hóa học, địa chất,
sinh học… trong vỏ Trái Đất. Thông thường dầu mỏ sau khi khai thác có thể
sử lý, tàng trữ và xuất khẩu ngay.
2. Vai trò của dầu mỏ
Dầu mỏ cùng với các loại khí đốt được coi là “Vàng đen”, đóng vai trò quan
trọng trong đời sống kinh tế toàn cầu. Đây cũng là một trong những nguyên
liệu quan trọng nhất của xã hội hiện đại dùng để sản xuất điện và cũng là nhiên
liệu của tất cả phương tiện giao thông vận tải. Hơn nữa dầu mỏ cũng được sử
dụng trong công nghiệp hóa dầu để sản xuất các chất dẻo và nhiều sản phẩm
khác.
Dầu mỏ mang lại lợi nhuận siêu ngạch cho các quốc gia và dân tộc trên thế
giới đang sở hữu và tham gia trực tiếp kinh doanh nguồn tài nguyên trời cho
này.
Hiện nay, trong cán cân năng lượng, dầu mỏ vẫn giữ vai trò quan trọng nhất
so với các dạng năng lượng khác. Cùng với than đá, dầu mỏ cùng các loại khí
đốt khác chiếm tới 90% tổng tiêu thụ năng lượng toàn cầu.
Không ít các cuộc chiến tranh, các cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị có
nguyên nhân xâu xa từ các hoạt động cạnh tranh sản xuất kinh doanh trong lĩnh
vực dầu mỏ. Không phải ngẫu nhiên mà giá cổ phiếu của các công ty sản xuất
kinh doanh dầu mỏ biến động và tùy thuộc rất lớn vào những kết quả tìm kiếm
5
thăm dò của chính các công ty đó trên thế giới. Lợi dụng hiện tượng biến động
này, không ít các thông tin không đúng sự thật về các kết quả thăm dò dầu mỏ
được tung ra làm điêu đứng những nhà đầu tư chứng khoán trên lĩnh vực này,
thậm chí làm khuynh đảo cả chính sách của các quốc gia.
3. Ngành công nghiệp dầu mỏ
Thứ nhất, ngành công nghiệp dầu mỏ là một ngành công nghiệp tổng hợp và đa
dạng cao. Ngành này cũng đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn, rủi ro nhiều và lợi nhuận

cao. Thông thường, khi đầu tư vào một lô tìm kiếm thăm dò, các công ty phải
bỏ ra hàng triệu Đôla Mỹ. Nếu kết quả tìm kiếm, thăm dò không đạt kết quả
(thường xác suất xảy ra điều này rất cao), số tiền đầu tư xem như mất trắng,
các sự cố trong khi khai thác, vận chuyển dầu thường gây những tổn thất vô
cùng lớn. Sự cố nổ giàn khoan dầu Deepwater Horizon ngoài khơi Mỹ tháng
4-2010 đã gây tổn thất tới 7,8 tỉ Đôla Mỹ, tính cả tiền bồi thường thiệt hại do
tràn dầu trên vùng biển bang Louisiana.
Thứ hai, ngành công nghiệp dầu mỏ cũng là ngành công nghệ cao và là con đẻ
của ngành công nghiệp nặng. Tiến bộ kĩ thuật trong các lĩnh vực thăm dò,
khoan, khai thác, xây dựng công trình biển…đã có nhiều bước nhảy vọt. Có
thể nói ngành công nghiệp dầu mỏ nói riêng và công nghiệp dầu khí nói chung
đang sử dụng những công nghệ hiện đại nhất trong tất cả các lĩnh vực và đang
là ngành dẫn đầu trong phát triển và ứng dụng các công nghệ ngày càng tiên
tiến hơn.
Thứ ba, công nghiệp dầu mỏ là một ngành mang tính quốc tế cao, khác với
than đá trước đây, việc thăm dò, khai thác, chế biến và phân phối dầu khí đã
nhanh chóng mang tính toàn cầu. Có lẽ, hiện tượng toàn cầu hóa diễn ra sớm
nhất trong ngành này. Trong quá trình phát triển của mình, đặc biệt nhất là
“Thập kỉ Vàng”, các hoạt động dầu khí chủ yếu được tiến hành thông qua các
6
hợp đồng kí giữa các công ty đa quốc gia với nước chủ nhà có nguồn tài
nguyên dầu. Có nhiều dạng hợp đồng đã được sử dụng, nhưng phổ biến và vẫn
còn ý nghĩa cho tới ngày nay là dạng “Hợp đồng phân chia sản phẩm”. Điều
khoản cơ bản của dạng hợp đồng này là nhà đầu tư (công ty dầu mỏ) đồng ý
tiến hành mọi hoạt động tìm kiếm, thăm dò bằng nguồn tài chính của riêng
mình. Nếu có phát hiện thương mại, nhà đầu tư tiếp tục chi cho các hoạt động
phát triển, khai thác. Lượng dầu khí khai thác lên sau khi nộp cho thuế tài
nguyên sẽ được chia theo tỉ lệ sản lượng cho nước chủ nhà để san sẻ rủi ro và
đảm bảo lợi nhuận ổn định, ngoài việc liên minh liên kết trong các hợp đồng
phân chia sản phẩm, hầu hết các công ty dầu mỏ có chiến lược phát triển theo

mạng đầu tư ở nhiều nơi, nhiều nước và theo chiều dọc.
Trong quá trình thực hiện các hợp đồng phân chia sản phẩm, các nước sở hữu
dầu mỏ nhận thấy rằng cần phải giảm thiểu sự phụ thuộc vào các công ty đa
quốc gia, tiếp cận trực tiếp với ngành công nghiệp này và đảm bảo an ninh
năng lượng cho mình, vì thế các công ty dầu mỏ ở các quốc gia được ra đời.
Quá trình chuyển giao năng lượng trong ngành này từ các nước phát triển sang
các nước đang phát triển đã diễn ra mạnh mẽ. Nhờ đó các công ty dầu mỏ của
các quốc gia này ngày càng tham gia tích cực hơn vào thị trường dầu mỏ thế
giới. Nhiều công ty đã tiến hành các hoạt động xuất khẩu và đầu tư rất hiệu
quả.
Một đặc điểm nữa của công nghiệp dầu mỏ là luôn tồn tại sự biến động về giá
dầu thô và sản phẩm buộc các tập đoàn phải có những giải pháp tổ chức áp
dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật, nghiên cứu ứng dụng và phát triển, để tạo
thế cạnh tranh về môi trường địa chất, địa lý, về giá thành thăm dò, khai thác,
vận chuyển, chế biến, lợi nhuận.
4. Khai thác và xuất khẩu dầu mỏ
7
Suốt từ năm 1858 đến 1960, mọi hoạt động dầu mỏ được thực hiện chủ yếu ở
các vùng thuộc Châu Mỹ, Trung Đông và một số vùng khác. Các tập đoàn tư
bản đã nhanh chóng nắm bắt khai thác nguồn năng lượng mới này để khống
chế chi phí và thu lợi nhuận tối đa. Hoạt động xuất khẩu dầu mỏ đầu tiên được
thực hiện tại nước Nga ( 1884) và sự phát hiện vùng dầu Texas vào cuối thế kỷ
19, những năm đầu thế kỷ 20 Venuezela bắt đầu khai thác dầu, đến chiến tranh
thế giới lần 2 thì về cơ bản giá dầu đã ở mức từ 5-7 USD/ 1 thùng. Cuối năm
1960, tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC ra đời, từ đó lấy lại thế bình
quân trong cạnh tranh và chi phối giá cả, lợi nhuận dầu khí trên thế giới và
cũng đặt nền móng cho hoạt động xuất khẩu dầu khí của các quốc gia – một
hoạt động mang lại rất nhiều lợi nhuận cho các quốc gia.
5. Các yếu tố tác động đến giá dầu thế giới
5.1. Sự kiểm soát giá của các tổ chức xuất khẩu dầu mỏ.

5.1.1. Sự kiểm soát của Mỹ và các nước khác trong giai đoạn trước
năm 1973
Trước năm 1973, bảy công ty dầu khí Mỹ - Anh – Hà Lan kiểm soát phần lớn
trữ lượng dầu mỏ thế giới và Mỹ là nước đứng đầu về khai thác – chế biến dầu.
The hệ thống giá bán đồng nhất toàn cầu thì giá dầu tại bất cứ giếng dầu nào
trên thế giới cũng tính theo công thức sau:
Trong đó:
· a là giá dầu Mỹ từ vịnh Mehico (theo chất lượng dầu)
· f là phí chuyên chở từ Vịnh Mexico về New York
· x là giá dầu của giếng x của một nước nào bất kỳ trên thế giới có cùng chất
lượng với dầu Mỹ.
8
a + f = x +f1
· f1 là phí chuyên chở từ nơi x tới New York.
Vì f1 lớn hơn rất nhiều f nên x bao giờ cũng thấp đáng kể so với a. Hệ thống
giá này có tác dụng đảm bảo tính khống chế độc quyền của Mỹ trong lĩnh vực
dầu khí. Với tầm ảnh hưởng to lớn của Mỹ về mọi mặt nên thời kỳ này giá dầu
không có nhiều biến động mạnh. Vai trò của 7 công ty dầu khí là vai trò quyết
định đến giá dầu chung của thế giới, mỗi khi có biến động gây ảnh hưởng đến
nguồn cung hoặc cầu thì 7 công ty này vẫn có thể kiểm soát giá dầu theo ý
định của mình.
5.1.2. Chính sách của OPEC
Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC là một tổ chức đa chính phủ, khai
thác vào khoảng 40% tổng sản lượng dầu mỏ thế giới và nắm giữ khoảng ¾ trữ
lượng dầu thế giới. OPEC dựa vào việc phân bổ hạn ngạch cho các thành viên
để điều chỉnh lượng khai thác dầu mỏ, tạo ra khan hiếm hoặc dư dầu nhằm
tăng, giảm hoặc giữ giá dầu, nói chung là khống chế giá dầu ở mức có lợi nhất
cho các thành viên.
5.2. Tình hình bất ổn ở khu vực Trung Đông – Bắc Phi, nơi có trữ lượng
dầu mỏ lớn của thế giới

ví dụ: Với sản lượng khai thác 1,8 triệu thùng/ngày, Lybia xuất khẩu 90%
lượng dầu khai thác, xuất khẩu sang nhiều nước châu Âu, trong đó có nhiều
nước đang bên bờ khủng hoảng chính trị. Sự thiếu hụt dầu mỏ ở Lybia khiến
các công ty dầu khí sẽ phải tìm nguồn cung tương tự của các nước có chất
lượng dầu tốt tương tự Lybia như Nigeria, Angieri và vùng Biển Bắc để thay
thế. Phương án này có thể làm tăng giá của các loại dầu chất lượng cao.
5.3. Nhu cầu dầu mỏ của thế giới ngày càng tăng, đặc biệt là các nền kinh
tế mới nổi
5.4. Sự phát triển của các nguồn năng lượng mới thay thế
9
Trong bối cảnh nguồn tài nguyên dầu mỏ, khí thiên nhiên, than đá ngày một
cạn kiệt, các nguồn năng lượng mới như: quang năng, phong năng, thủy năng,
năng lượng sinh học đang là giải pháp xanh mà con người hướng đến.
Các nước đi đầu trong ngành nhiên liệu sinh học như Mỹ, Brazil, EU, Canada
đã có những bước tiến vượt bậc trong việc sản xuất và sử dụng nhiên liệu sinh
học thay thế cho nhiên liệu hóa thạch như dầu mỏ, than đá.
Hiện nay, tỷ lệ nhiên liệu sinh học chiếm khoảng 1,8% tổng thị trường nhiên
liệu dành cho ôtô và dự kiến sẽ tăng lên 3,3% vào năm 2017, với giá trị thị
trường khoảng 4,3 tỷ USD.
Sự phát triển của các nguồn năng lượng thay thế sẽ góp phần làm giảm áp lực
về giá của các loại nhiên liệu hóa thạch đang có xu hướng tăng cao như hiện
nay.
5.5. Sự tác động của các nhân tố tài chính
5.5.1. Sự ảnh hưởng của thị trường chứng khoán
5.5.2. Sự tác động của đồng đôla
Tỷ giá đồng USD sụt giảm khiến thị trường dầu mỏ liên tục có những phản
ứng dây chuyền. Khi đồng USD mất giá, đối với những nhà đầu tư sở hữu các
đơn vị tiền tệ khác mạnh hơn, giá dầu thô trở nên rẻ hơn, do đó họ sẽ mua
nhiều dầu thô hơn, đẩy giá dầu lên cao.
Từ khi dầu mỏ được định giá bằng đồng USD, một sự yếu đi của đồng tiền này

có thể bắt buộc những nhà xuất khẩu dầu mỏ tăng giá sản phẩm của họ, nhằm
thu lại giá trị mất đi do đồng USD mất giá khi xuất khẩu dầu. Như một hệ quả
tất yếu, giá dầu được cho là giảm khi đồng đôla Mỹ trong xu thế tăng giá so
với các đồng tiền mạnh khác như Euro hay Yên Nhật.
5.5.3. Sự tác động của khủng hoảng tài chính
5.6. Các yếu tố khác
10
5.6.1. Các nhân tố tự nhiên
Bão, động đất, sóng thần và sự cản trở nguồn nguyên liệu cho quá trình lọc dầu
và công suất lọc dầu.
Ví dụ: năm 2005, bão Katrina tấn công vào những giàn khoan dầu ở vịnh
Mehico, sản lượng các nhà máy lọc dầu tại Mỹ giảm 4,5 triệu thùng/ ngày, đẩy
giá dầu WTI lên tới mức 70.8 $/thùng.
5.6.2. Các hoạt động mua bán trao đổi và đầu cơ tích trữ trên thị
trường xăng dầu
Giá dầu mỏ cũng bị ảnh hưởng thông qua việc đầu cơ của những người giao
dịch hàng hóa.
Ví dụ: vào năm 2008, giá dầu đạt mức 140 $/thùng. Nhiều dự đoán cho rằng
những nhà đầu cơ đang cố gắng đưa giá dầu lên và tạo ra bong bóng giá dầu.
Đến sau năm 2009, giá dầu đã giảm xuống hơn 70% còn 30$/thùng bởi nhu
cầu là không tồn tại đến mức gây ra cơn sốt về giá dầu như vậy.
5.6.3. Tâm lý lo lắng về dầu mỏ
Tâm lý lo lắng về sự bất ổn của giá dầu trên toàn cầu được xem là nguyên nhân
lớn nhất làm phát sinh thêm chi phí, gây sức ép tăng giá của dầu mỏ.
Các lo ngại về nguồn cung dầu như những bất ổn chính trị khu vực Trung
Đông, xung đột giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Syria tiếp tục leo thang, nội chiến Lybia,
lo ngại về sự suy thoái toàn cầu, sự suy yếu của đồng đôla,… là những nguyên
nhân gây biến động giá dầu.
5.6.4. Chính sách về xăng dầu của các quốc gia sản xuất dầu mỏ
Một quyết định tăng hoặc giảm dự trữ dầu, lệnh cấm vận đối với những quốc

gia sản xuất dầu mỏ hàng đầu cũng ảnh hưởng tới giá của mặt hàng này.
ví dụ: Siêu bão Sandy làm đình trệ 70% nhà máy lọc dầu tại một số bang của
nước Mỹ gây gián đoạn nguồn cung trầm trọng. Lúc này, Mỹ buộc phải sử
11
dụng chính sách bù đắp thiếu hụt nguồn cung sau bão và kìm hãm sự tăng đột
biến của giá dầu bằng cách mua khẩn cấp 80 triệu lít nhiên liệu, và mở kho dự
trữ dầu đốt nóng phía Đông Bắc để bơm thêm khoảng 20 triệu gallon nhiên
liệu.
II. Tổng quan về giá dầu thô trên thị trường Mỹ và các nước Trung Đông
trong hai năm 2012 và 2013
1. Đặc điểm thị trường dầu thô tại Mỹ và các nước Trung Đông
Thị trường dầu mỏ thế giới là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch,mua bán về
dầu mỏ của các quốc gia trên thế giới. Nó có những đặc điểm chung song cũng
có những điểm hết sức khác biệt so với các thị trường khác.
Thứ nhất, đây là một thị trường lớn do nhu cầu phong phú, đa dạng về dầu mỏ
của các quốc gia trên khắp thế giới. Trong khi mà các nguồn tài nguyên không
thể tái sinh ngày càng cạn kiệt và những nguồn năng lượng khác chưa thể thay
thế được vai trò chiến lượt của dầu mỏ thì nhu cầu về dầu mỏ vẫn ngày một
tăng với một số lượng lớn các giao dịch mua bán dầu mỏ giữa các quốc gia,các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu trên thế giới.
Thứ hai, thị trường dầu mỏ còn hết sức nhạy cảm với những biến động về kinh
tế, chính trị trên toàn cầu từ đó dẫn đến những biến động trên chính trên thị
trường dầu mỏ. Điển hình là 7 cuộc khủng hoảng dầu mỏ trong 40 năm qua
đều có liên quan tới xung đột chính trị và suy thoái kinh tế, làm giá dầu liên tục
dao động, ảnh hưởng nghiêm trọng tới tình hình kinh tế-tài chính thế giới.
Một, cuộc chiến Israel-Ai Cập-Syria và khủng hoảng dầu mỏ Trung Đông
1973-1975: Khủng hoảng dầu mỏ bắt đầu diễn ra từ ngày 17/10/1973 khi các
quốc gia thành viên Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) quyết định
ngừng cung cấp nhiên liệu sang Mỹ, Nhật Bản và Tây Âu, nhằm trả đũa sự ủng
hộ của nhóm này đối với Israel trong cuộc chiến giữa Israel và Ai Cập-Syria.

12
Sự kiện này đã khiến giá dầu thế giới tăng cao đột ngột và gây ra cuộc khủng
hoảng kinh tế 1973-1975 trên quy mô toàn cầu. Giá dầu đã tăng từ 3,01
USD/thùng lên 5,11 USD/thùng và gần 12 USD/thùng vào giữa 1974.
Hai, cách mạng Iran và khủng hoảng dầu mỏ năm 1979: Cách mạng Iran được
coi là cuộc cách mạng lớn thứ ba trong lịch sử nhân loại sau Cách mạng Pháp,
Tháng Mười Nga, đã gây ra cuộc khủng hoảng dầu mỏ lớn thứ hai thế giới.
Đầu năm 1978, Iran xuất khẩu 5,4 triệu thùng dầu/ngày, chiếm 17% tổng sản
lượng của OPEC. Tuy vậy, hoạt động sản xuất dầu mỏ của Iran đã suy giảm
khi cách mạng Iran diễn ra. Giá dầu đã tăng lên mức kỷ lục do tình trạng đầu
cơ và quyết định ngừng nhập khẩu dầu Iran của Tổng thống Mỹ Jimmy Carter.
Trong 12 tháng, giá dầu đã tăng từ 15,85 USD/thùng lên 39,5 USD/thùng, dẫn
tới tình trạng lạm phát và thất nghiệp tăng mạnh.
Ba, giá dầu lao dốc trong thập niên 1980: Kinh tế thế giới yếu kém khiến giá
dầu xuống dốc không phanh trong những năm 1980. Nhu cầu tiêu thụ dầu mỏ
toàn cầu giảm tốc trong giai đoạn 1981-1986 do tăng trưởng kinh tế chậm tại
các nước công nghiệp. Nhu cầu nhiên liệu ở các nền kinh tế tiêu thụ dầu mỏ
lớn như Mỹ giảm 13% trong giai đoạn 1979-1981. Vì vậy, giá dầu giảm mạnh
từ 35 USD/thùng năm 1981 xuống dưới 10 USD/thùng năm 1986, qua đó làm
lợi cho rất nhiều nước tiêu thụ dầu lớn như Mỹ
Bốn, khủng hoảng giá dầu vào năm 1990: Giá dầu thế giới tăng 13% vào tháng
8/1990 vì cuộc chiến tranh vùng Vịnh. Liên Hợp Quốc đã áp dụng lệnh cấm
xuất khẩu dầu toàn phần đối với Iraq và Kuwait sau cuộc chiến này, làm giảm
nguồn cung dầu cho thị trường dầu mỏ thế giới gần 5 triệu thùng/ngày. Cuộc
khủng hoảng dầu mỏ này kéo dài trong 9 tháng và giá dầu tăng gấp đôi chỉ
trong 2 tháng từ 17 USD/thùng lên 36 USD/thùng. Cuộc khủng hoảng lần này
góp phần vào cuộc suy thoái kinh tế ở Mỹ
Năm, giá dầu rơi tự do năm 2001: Kể từ năm 2000, nhất là từ sau sự kiện
khủng bố tấn công ở Mỹ ngày 11/9, kinh tế thế giới suy giảm và giá dầu thế
13

giới cũng “rơi tự do”. Năm 2001, giá dầu chỉ còn 20 USD/thùng trong bối cảnh
nhu cầu năng lượng giảm mạnh.
Sáu, khủng hoảng giá dầu 2007-2008 : Năm 2007, giá dầu vọt lên gần 100
USD/thùng; tháng 7/2008 lên trên 147 USD/thùng, mức cao chưa từng có.
Trong bối cảnh đồng USD mất giá nghiêm trọng, nhiều nước có lượng ngoại tệ
dự trữ lớn bằng đồng USD và OPEC phải dự liệu khả năng chuyển sang sử
dụng loại ngoại tệ mạnh khác để tính giá dầu. Dầu đắt đỏ và nguy cơ cạn kiệt
nguồn cung đã làm bùng lên cuộc tranh chấp giữa các cường quốc về chủ
quyền đối với những giếng dầu lớn và đáy biển ở Bắc cực cũng như Nam cực.
Khủng hoảng tài chính bùng phát vào giữa năm 2007, lên đến cực điểm vào
tháng 10/2008, lan rộng và đẩy nền kinh thế giới vào cuộc khủng hoảng tài
chính trầm trọng.
Bảy, cú sốc dầu mỏ năm 2011: Bất ổn ở khu vực Trung Đông và Bắc Phi gây
sóng gió trên thị trường nhiên liệu, với giá dầu giữ ở mức trên 100 USD/thùng.
Giá dầu mỏ tăng cao đã tác động tiêu cực tới thị trường chứng khoán và giao
thông vận tải.
2. Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và sức ảnh hưởng của nó
đối với giá dầu tại Mỹ và Trung Đông.
2.1. Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC
Thị trường dầu mỏ thế giới chịu sự chi phối và phụ thuộc rất nhiều vào
thuộc rất nhiều vào tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC. Đây là một tổ
chức đa chính phủ được thành lập bởi các nước Iran, Irac, Kwait, Ả Rập Saudi
và Venezuela trong hội nghị tại Baghdad (từ ngày 10tháng 9 đến 14 tháng 9
năm 1960). Các thành viên gồm Qatar (1961), Nam Dươg( 1962), LiBi( 1962).
Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (1967), Algeria (1969) và Nigeria
(1971) lần lượt gia nhập tổ chức sau đó. Ecuador ( 1973 – 1992) và Gabon
( 1975 – 1994) cũng từng là thành viên của OPEC. Trong năm đầu tiên, trụ sở
của OPEC được đặt tại Geneve, Thụy Sĩ, sau đó chuyển về Viên, Áo từ tháng
14
9/1965. Các nước thành viên OPEC khai thác vào khoảng 40% tổng sản lượng

dầu thế giới và nắm giữ khoảng ¾ trữ lượng dầu thế giới.
OPEC có khả năng điều chỉnh hạn ngạch khai thác dầu của các nước thành
viên và qua đó có khả năng khống chế giá dầu trên thị trường thế giới. Hội
nghị các bộ trưởng phụ trách vấn đề năng lượng và dầu mỏ thuộc tổ chức
OPEC được tổ chức mỗi năm hai lần nhằm đánh giá thị trường dầu mỏ và đề ra
các biện pháp phù hợp để đảm bảo việc cung cấp dầu trên thị trường dầu mỏ
thế giới. Bộ trưởng các nước thành viên thay nhau theo nguyên tắc xoay vòng
làm chủ tịch của tổ chức 2 năm một nhiệm kì.
Mục tiêu chính thức được ghi vào hiệp định thành lập OPEC là ổn định thị
trường dầu thô, bao gồm các chính sách khai thác dầu, ổn định giá dầu thế giới
và ủng hộ về mặt chính trị cho các thành viên khi bị các biện pháp cưỡng chế
vì các quyết định của OPEC. Nhưng thật ra nhiều biện pháp được đề ra lại có
động cơ bắt nguồn từ quyền lợi quốc gia, thí dụ như trong cơn khủng hoảng
dầu, OPEC đã không tìm cách hạ giá dầu mà lại duy trì chính sách cao giá
trong thời gian dài. Mục tiêu của OPEC thật ra là một chính sách dầu chung
nhằm để giữ giá. OPEC dựa vào việc phân bổ hạn ngạch cho các thành viên để
điều chỉnh lượng khai thác dầu, tạo ra hiện tượng khan hiếm hoặc dư dầu giả,
thông qua đó có thể làm tăng, giảm hoặc giữ giá dầu ổn định. Có thể coi OPEC
như là một liên minh độc quyền luôn tìm cách giữ giá dầu ở mức có lợi nhất
cho mình. OPEC giữ một vị trí quan trọng nhất trên thị trường dầu mỏ thế giới.
Các mốc chính đánh dấu hoạt động của OPEC.
• 14/9/1960: Thành lập tổ chức OPEC theo đề xuất của Venezuela tại
Baghdad.
• 1965: Dời trụ sở về Viên. Các thành viên thống nhất một chính sách khai
thác chung để bảo vệ giá.
• 1970: Nâng giá dầu lên 30%, nâng thuế tối thiểu áp dụng cho các công ty
khai thác dầu lên 55% của lợi nhuận.
15
• 1973: Tăng giá dầu từ 2,89 USD một thùng lên 11,65 USD. Thời gian
này được gọi là cuộc khủng hoảng dầu lần thứ nhất, OPEC khai thác

55% lượng dầu thế giới.
• Từ 1974 đến 1978: Tăng giá dầu 5-10% hầu như mỗi nữa năm một lần
để chống lại việc USD bị lạm phát.
• 1979: Khủng hoảng dầu lần thứ 2. Sau cuộc cách mạng Hồi giáo, giá dầu
từ 5,5USD/ 1 thùng được nâng lên 24USD. Lybia, Algeria và Iraq thậm
chí đòi đến 30 USD cho một barrel.
• 1981: Lượng tiêu thụ dầu giảm do các nước công nghiệp lâm vào cuộc
khủng hoảng kinh tế và bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng dầu lần thứ nhất,
do giá dầu cao, nhiều nước trên thế giới đầu tư vào các nguồn năng
lượng khác. Lượng tiêu thụ dầu trên thế giới giảm 11% trong thời gian từ
năm 1979 đến 1983, thị phần dầu của OPEC trên thị trường giảm còn
40%.
• 1982: Quyết định cắt giảm sản lượng sản xuất tuy được thông qua
nhưng lại không được các thành viên giữ đúng. Thị phần của OPEC giảm
xuống còn 33% và vào năm 1985 còn 30% trên tổng số lượng khai thác
dầu trên thế giới. Lượng khai thác dầu giảm xuống mức kỷ lục là 17,43
triệu thùng một ngày.
• 1986: Giá dầu rơi xuống đến dưới 10 USD một thùng do sản xuất dư
thừa và do một số nước trong OPEC giảm giá dầu.
• 1990: Giá dầu được nâng lên trong tầm từ 18 đến 21 USD/1 thùng. Nhờ
vào chiến tranh vùng vịnh giá dầu đạt đến mức đề ra.
• 2000: Giá dầu đã dao động mạnh, vượt qua cả hai mức thấp và cao nhất
trong lịch sử. Nếu trong quí I, chỉ với 9USD người ta cũng có thể mua
được một thùng dầu thì trong quí IV giá đã vượt trên 37 USD/thùng. Các
nước thành viên của OPEC đồng ý giữ giá dầu ở mức 22-28 USD/thùng.
• 1/2005: OPEC quyết định giữ nguyên lượng khai thác 27 triệu thùng.
Các thành viên đã nhất trí “tạm ngưng” không giữ giá dầu ở mức 22-28
USD/thùng.
16
• 2008: do giá dầu giảm, lợi nhuận từ xuất khẩu dầu mỏ của các nước

OPEC giảm 9,6% so với con số dự báo trước đây, chỉ còn 979 tỷ USD
(Bộ năng lượng Mỹ cho biết).
• 2011: Doanh thu xuất khẩu của các nước OPEC đạt 1,15 nghìn tỷ USD.
Doanh thu tăng là nhờ giá trung bình một thùng dầu thô Brent, vốn được
lấy làm cơ sở để tính giá dầu do OPEC khai thác, đã tăng cao kỷ lục đạt
111,70 USD.
• 7/11/2013: Tại trụ sở chính ở Viên - Áo, tổ chức các nước dầu mỏ OPEC
đã công bố báo cáo về triển vọng Dầu thô Thế giới – WOO trong đó tổ
chức này tăng dự báo giá dầu thô và tăng trưởng nhu cầu dầu thô trong
dài hạn.
2.2. Sức ảnh hưởng của OPEC về giá dầu.
Nhìn chung, qua lịch sử hình thành và phát triển của OPEC, ta có thể thấy nó
có sức ảnh hưởng rất lớn đến giá dầu thế giới nói chung và tất nhiên cũng ảnh
hưởng đến giá dầu tại Mỹ và Trung Đông nói riêng. Tuy nhiên năm 2012 đã
ghi nhận sự bùng nổ của công cuộc khai thác dầu từ đá phiến tại Mỹ. Với kỹ
thuật khoan thủy lực bẻ gãy, sản lượng dầu Mỹ năm 2012 lên cao nhất 18 năm,
giúp Mỹ giảm bớt phụ thuộc vào nguồn cung dầu nhập khẩu và tiến gần hơn
đến độc lập năng lượng.
Việc tăng cường áp dụng hình thức khoan ngang và bẻ gãy thủy lực (fracking)
đã giúp Mỹ khai phá được những nguồn nhiên liệu chìm sâu dưới lòng đất dọc
các bang North Dakota, Texas và Oklahoma. Số liệu cho thấy, sản lượng dầu
tăng 31% tại North Dakota, tăng 19% tại Texas và tăng 11% tại Oklahoma.
Trong nửa đầu năm 2012, sản lượng dầu Mỹ đã đủ cung cấp cho 83% nhu cầu
năng lượng của người dân nước này, cao nhất kể từ năm 1991. Điều này tương
đương với việc Mỹ đang giảm dần sự phụ thuộc vào nhiên liệu nhập khẩu,
lượng dầu thô nhập khẩu của Mỹ giảm 11% năm nay.
Ước tính sản lượng dầu thô cùng các chế phẩm dầu mỏ của Mỹ có thể lên tới
17
11,4 triệu thùng/ngày vào năm 2013, so với nhu cầu 19 triệu thùng/ngày.
Việc sản lượng dầu thô tại Mỹ tăng dần đang mang lại những thay đổi cơ bản

trên bản đồ dầu mỏ thế giới hiện nay, trong khi Tổ chức Các nước Xuất khẩu
Dầu mỏ (OPEC) và Venezuela chưa có sự chuẩn bị cho kịch bản này.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) dự báo Mỹ sẽ trở thành quốc gia sản xuất
dầu mỏ hàng đầu thế giới vào năm 2017, chính điều này đã phần nào làm giảm
đi sức ảnh hưởng của OPEC trong việc quyết định lượng cung dầu và giá dầu
cho thị trường.
3. Những biến động trên thị trường dầu mỏ tại Mỹ và các nước Trung
Đông trong năm 2012 và 2013
18
Kể từ khi có ngành công nghiệp dầu khí đến nay, với khởi đầu là nền công
nghiệp dầu khí Mỹ, rồi đến khi Nga bắt đầu xuất khẩu dầu (1884), và phát hiện
vùng dầu Texas vào cuối thế kỷ XIX, những năm đầu thế kỷ XX Venezuela
bắt đầu khai thác dầu, đến chiến tranh thế giới lần thứ hai thì về cơ bản giá dầu
cũng chỉ ở mức từ 5 – 7 USD/1thùng. Từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX đến nay đã
liên tiếp xảy ra nhiều cuộc khủng hoảng giá dầu, đưa giá dầu từng bước nâng
lên và đạt đỉnh điểm là 147$/ thùng vào tháng 7-2008. Nhưng đặc biệt trong
những năm gần đây giá dầu thế giới nói chung và giá dầu trên 2 thị trường này
nói riêng lại đang có xu hướng giảm, cụ thể:
Giá dầu thô tại 2 thị trường này đã có nhiều biến động mạnh trong năm 2012,
nhất là nửa đầu năm 2012. Trong giai đoạn 3 tháng đầu năm này , giá dầu chủ
yếu có xu hướng tăng và giữ ở mức cao do các quốc gia cung dầu lớn nhất thế
giới đang siết chặt sản lượng, việc Mỹ và EU mạnh tay tiến hành các biện pháp
trừng phạt đối với Iran (do quốc gia này bị cáo buộc đang đẩy mạnh nghiên
cứu vũ khí hạt nhân), đã làm xuất hiện những lo ngại rằng nguồn cung dầu thô
cho thị trường thế giới sẽ bị thiếu hụt, khuyến khích hoạt động đầu cơ. Tuy
nhiên, từ tháng 4 đến tháng 6/2012, giá dầu chủ yếu theo xu hướng giảm mạnh
do ảnh hưởng từ việc tăng trưởng yếu kém của Mỹ, cũng như việc Ireland, Bồ
Đào Nha và Tây Ban Nha tiếp bước Hy Lạp để nhận gói cứu trợ từ liên minh
châu Âu làm dấy lên lo ngại về đà phục hồi của kinh tế thế giới, dẫn đến nhu
cầu về dầu thô sụt giảm.

Theo báo cáo hàng tháng của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC, giá
dầu tại các nước OPEC giảm từ mức trung bình 118,18 USD/thùng trong tháng
4 xuống 108,07 USD/thùng trong tháng 5, mức suy giảm mạnh nhất kể từ
tháng 12/2008; giá dầu WTI giảm từ mức trung bình 103,35 USD/thùng trong
tháng 4 xuống 94,45 USD/thùng trong tháng 5 và 85,04 USD/thùng trong
tháng 6; dầu thô Brent giảm từ 119,71 USD/thùng trong tháng 4 xuống 110,27
USD/thùng trong tháng 5 và 94,17 USD/thùng trong tháng 6. Bước sang quý
19
III/2012, giá dầu bắt đầu hồi phục và có biến động hẹp trong quý IV/2012. Giá
dầu tăng kể từ cuối tháng 6 do nhiều nguyên nhân như việc cấm vận xuất khẩu
dầu thô của Iran bắt đầu có hiệu lực từ 1/7, các hoạt động đầu cơ, hạn chế
nguồn cung ở Biển Bắc, sụt giảm trong tồn trữ dầu thô tại Hoa Kỳ, hy vọng về
gói kích thích kinh tế từ các ngân hàng trung ương và yếu tố địa chính trị bất
ổn ở Trung Đông. Tất cả những yếu tố trên cùng hy vọng các quan chức Mỹ
đạt được thỏa thuận về ngân sách vào những thời điểm cuối cùng của năm
2012 đã phần nào giúp giá dầu thô không bị mất giá quá mạnh trong năm 2012.
Chốt phiên giao dịch ngày 31/12/2012, giá dầu thô ngọt, nhẹ giao tháng 2/2013
đã lên mức 91,82 USD/thùng. Như vậy, tính toàn bộ năm giao dịch 2012, giá
dầu giảm tới 7,1%. Đây là năm đầu tiên giá dầu kỳ hạn suy giảm kể từ năm
2008, thời điểm các thị trường hàng hóa chịu tác động mạnh bởi cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu.
Theo giới phân tích, năm 2012, thị trường năng lượng chịu ảnh hưởng bởi
nhiều yếu tố kinh tế không rõ ràng. Trong đó, yếu tố tác động mạnh nhất lên
thị trường năng lượng thế giới vẫn chủ yếu là vấn đề cung cầu. Trong năm, giá
dầu thô giao ngay đã đạt mức đỉnh là 109,39 USD/thùng vào ngày 24/2 và sau
đó giảm xuống mức thấp nhất của năm là 77,72 USD/thùng vào hôm 28/6. Còn
dầu Brent đạt đỉnh 128,14 USD/thùng hôm 13/3 và sau đó cũng giảm xuống
mức đáy 88,69 USD/thùng vào này 25/6.
20
Biểu đồ: Giá dầu thế giới năm 2012

Nguồn:
Trong năm 2013, giá dầu tại hai thị trường này diễn biến phức tạp và bị ảnh
hưởng khá nhiều bởi tình hình kinh tế- chính trị thế giới.
Nếu so sánh bình quân tháng 1/2013 với tháng 12/2012 thì giá dầu tăng từ
1,81%- 7,74%.Theo giới phân tích, nguyên nhân chính khiến giá dầu thô tăng
mạnh trong tháng này là do những dự báo tươi sáng về nhu cầu tiêu thụ các
mặt hàng năng lượng trên toàn cầu, bất chấp việc thị trường đón nhận khá
nhiều thông tin bất lợi, chẳng hạn như hoạt động sản xuất ở Mỹ suy giảm trong
tháng 1.
Đến tháng 2/2013, giá dầu tăng so với tháng 1/2013 từ 0,45%- 8,09%. Nguyên
nhân chính khiến giá dầu quay đầu tăng mạnh trở lại là bắt nguồn từ bản báo
cáo lạc quan khá bất ngờ của Đức, nền kinh tế lớn nhất khu vực đồng Euro.
Theo báo cáo, chỉ số niềm tin kinh tế của Đức đã tăng 16,7 điểm lên 48,2 điểm
vào tháng 2, vượt xa con số dự đoán 35 điểm của giới phân tích.
Một yếu tố khác cũng khiến giá dầu thô tăng vọt là bởi thị trường chứng khoán
Mỹ tiến sát các ngưỡng cao kỷ lục, sau khi nhà đầu tư Phố Wall hồ hởi tăng
mua bán cổ phiếu trước hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp trên thị
21
trường này ngày càng trở nên sôi động hơn, bất kể chỉ số niềm tin nhà xây
dựng suy giảm.
Tuy nhiên, đến tháng 3/2013, giá dầu lại diễn biến giảm so với tháng 2/2013 từ
2,24%- 7,68% và tiếp tục diễn biến giảm thêm 0,91%- 8,29% và tháng 4.
Nguyên nhân khiến giá giảm là bởi các báo cáo cho thấy khả năng tiêu thụ dầu
thô toàn cầu năm 2013 sẽ khá ảm đạm. Tình hình kinh tế tranh tối tranh sáng
cũng góp phần khiến nhà đầu tư thêm lo lắng về triển vọng tiêu thụ năng lượng
thời gian sau đó. Cũng trong phiên giao dịch cuối tháng, tại sàn London, giá
dầu thô ngọt, nhẹ Brent Biển Bắc đã giảm 1,44 USD xuống còn 102,37
USD/thùng. Tương tự ,chốt phiên 30/4 trên sàn năng lượng New York, giá dầu
sưởi tháng 5 giảm gần 3 cent, tương ứng 0,9%, xuống 2,87 USD/gallon. Tính
chung cả tháng 4, giá dầu sưởi giao sau đã giảm khoảng 1,4%.

Giá dầu tại hai thị trường này tiếp tục diễn biến giảm vào đầu tháng 5/2013.
Dự báo không mấy lạc quan về triển vọng tiêu thụ năng lượng cùng với
những thông tin bất lợi về tình hình kinh tế tại Trung Quốc cũng như dự báo về
khả năng nguồn cung dư thừa là nguyên nhân cơ bản hạn chế đà tăng của giá
dầu thô trên hai thị trường trong tháng này. Tuy nhiên, tính bình quân trong 3
tuần đầu tháng 5, giá dầu vẫn có xu hướng tăng từ 2-3% so với tháng 4. Kết
thúc phiên giao dịch 1/5, giá dầu thô ngọt nhẹ tại trên thị trường New York
chốt ở mức 91,03 USD/thùng và lên mức 96,97 USD/thùng (6/5) do bất ổn
chính trị ở Trung Đông. Trong các phiên tiếp theo, giá dầu thô biến động nhẹ
trong khoảng 93 - 96 USD/thùng và hiện chốt ở mức 94,25 USD/thùng (23/5).
Tương tự, trên thị trường London, giá dầu thô ngọt nhẹ Brent đã tăng lên mức
105,33 USD/thùng (6/5) và hiện chốt ở mức 102,4 USD/thùng (23/5).
Đến tháng 6/2013, giá dầu diễn biến tăng so với tháng 5/2013 từ 1,20-3,30% .
Ta có thể điểm qua một số nguyên nhân chính dẫn đến việc này như:
Số liệu kinh tế của Hoa Kỳ tốt, doanh số bán lẻ tăng 0,6% trong tháng 5, mạnh
hơn dự kiến sau khi tăng 0,1% trong tháng 4. Niềm tin của các chủ thầu xây
22
dựng Hoa Kỳ trong tháng 6 tăng, mạnh nhất kể từ năm 2002, một trong những
dấu hiệu mạnh nhất cho thấy sự phục hồi thị trường nhà đang lấy lại được đà
kéo.
Căng thẳng chính trị tại Trung Đông ngày càng tăng. Hoa Kỳ đã kết luận lực
lượng của Tổng thống Syria Bashar al-Assad sử dụng vũ khí hóa học chống lại
phiến binh nổi dậy tại Syria và Tổng thống Barack Obama đã quyết định cung
cấp viện trợ quân sự trực tiếp cho phe đối lập Syria.
Trong 6 tháng qua giá dầu Breng có xu hướng giảm, nó đã đạt ngưỡng cao
nhất năm nay hôm 8/2 ở mức 118,90 USD/thùng. Dầu WTI có biến động
nhưng gần như đi ngang. Chênh lệch giữa dầu Brent và dầu WTI giảm dần từ
mức hơn 21 USD/thùng đến nay chỉ chưa đến 10 USD/thùng.
Trong 3 tháng quý III/2013, giá dầu diễn biến phức tạp, tăng giảm bất thường
tuy nhiên chủ yếu vẫn là xu hướng tăng mạnh. Nguyên nhân do bị ảnh hưởng

từ những thông tin từ nền kinh tế của Mỹ , tình hình chính trị ở khu vực Trung
Đông, Ấn Độ , nguy cơ cuộc chiến do Mỹ phát động nhằm vào Syria.
Tháng 7 ,riêng madut giảm 2,78%, các chủng loại dầu khác tăng từ 3,31-
9,36%. Theo các chuyên gia phân tích, nguyên nhân khiến giá dầu thô New
York tăng mạnh như vậy là bởi hợp đồng năng lượng này đang có được những
lực đỡ rất mạnh, trong đó đặc biệt là vấn đề cung ứng dầu tại Mỹ giảm mạnh
vài tuần liên tiếp xuống mức thấp nhất kể từ tháng 1 tới nay.
Tháng 8, các chủng loại dầu tăng từ 0,24-3,08%. Trên sàn hàng hóa London,
giá dầu thô ngọt, nhẹ Brent Biển Bắc cũng tăng vọt tới 3,63 USD lên 114,36
USD mỗi thùng. Với mức tăng đồng thời với biên độ lớn, hiện khoảng chênh
lệch giữa giá dầu thô hợp đồng giao sau tại sàn New York và dầu thô hợp đồng
giao sau tại London, đã được kéo căng, lên trên 5 USD mỗi thùng.
Theo giới phân tích, nguyên nhân chính dẫn tới hiện tượng giá dầu đột ngột
tăng cao và tăng mạnh như trên, là do những lo lắng về nguy cơ cuộc chiến lớn
ở Trung Đông đang phủ bóng lên tâm lý của các nhà đầu tư hàng hóa quốc tế.
23
Chỉ số VIX đo lường trạng thái bất ổn của nhà đầu tư trên thị trường chứng
khoán Mỹ đã vọt mạnh lên 20%
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ John Kerry cũng đã nói rằng, Washington đã xác
thực việc chính quyền Syria sử dụng vũ khí hóa học chống lại dân thường. Đáp
lại tuyên bố này, Syria cáo buộc Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ đã thêu dệt bằng
chứng. Trong khi đó, báo chí quốc tế đồng loạt đưa tin, Mỹ và phương Tây
đang ráo riết chuẩn bị tấn công vào Syria.
Ngày 27/8, hãng tin BBC dẫn lời Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel
nói rằng, quân đội nước này đã sẵn sàng hành động chống lại Syria khi Tổng
thống Barack Obama ra lệnh. Mặc dù Syria chỉ là một quốc gia với lượng dầu
sản xuất hạn chế ở khu vực Trung Đông, nhưng theo giới phân tích, một khi
cuộc chiến nổ ra ở đây, việc vận chuyển dầu mỏ ra khỏi Trung Đông sẽ bị cản
trở. Trung Đông vốn được xem là "rốn dầu" của thế giới. Cuộc chiến ở đây sẽ
không chỉ tác động tới giá dầu thô, mà còn ảnh hưởng tới cả nền kinh tế toàn

cầu. Đó là chưa kể Syria có đường biên giới với Iraq, nên nếu chiến tranh nổ ra
ở Syria, Iraq khó tránh khỏi bị ảnh hưởng. Một số nhà đầu tư lo ngại rằng,
cuộc chiến Syria sẽ không chỉ bó hẹp trong phạm vi lãnh thổ này, mà sẽ còn bị
kéo căng và mở rộng sang hàng loạt giới tuyến khác.
Trong một diễn biến khác, việc giá dầu hoàn toàn bị chi phối bởi tình hình
Trung Đông, còn là vì giới đầu tư đang trông đợi vào các báo cáo về tình hình
cung ứng dầu thô tại Mỹ trong tuần kết thúc ngày 23/8, để làm định lượng cho
hướng giao dịch sắp tới. Theo kết quả điều tra của Platts, giới phân tích ước
tính là cung dầu đã giảm 250.000 thùng.
Tháng 9/2013: Giá dầu tại hai thị trường này tiếp tục bị ảnh hưởng trực tiếp
của tình hình kinh tế, chính trị thế giới, dù có biến động tăng nhưng nhìn tổng
thể thì trong tháng 9, giá dầu vẫn tiếp tục giảm. Cụ thể , thị trường năng lượng
đã biến động mạnh kể từ cuối tháng 8 tới nay, do nhà đầu tư lo ngại về nguy cơ
Hoa Kỳ và phương Tây phát động một chiến dịch quân sự nhằm vào Syria, với
24
cái cớ quốc gia Trung Đông này đã sử dụng vũ khí hóa học để tấn công và giết
hại dân thường.
Mặc dù Syria không phải là nước sản xuất dầu quan trọng nhưng vị trí địa lý
của nước này có thể khiến cuộc xung đột ở Syria biến thành một cuộc chiến ở
khu vực rốn dầu của thế giới, từ đó đe dọa tới sự ổn định của các nguồn cung
ứng dầu Trung Đông. Chính vì thế mà giá dầu đã tăng đột biến trở lại vào ngày
3/9. Tuy nhiên tại phiên giao dịch hàng hóa quốc tế đêm 4/9, giá dầu thô loại
hợp đồng kỳ hạn lại giảm mạnh xuống dưới 108 USD, thấp nhất trong hơn một
tuần, do nhà đầu tư bớt lo ngại về nguy cơ cuộc chiến ở Syria.
Theo giới phân tích, nguyên nhân chính khiến giá dầu thô đột ngột giảm mạnh
trong phiên 4/9, sau khi đã tăng mạnh hôm 3/9, là do những biến chuyển liên
quan tới cuộc chiến do Mỹ và phương Tây phát động nhằm vào Syria. Nhiều
khả năng, Mỹ khó có thể sớm phát động cuộc tiến công quân sự này, do vấp
phải sự phản đối của nghị sỹ đảng Cộng hòa
Giá dầu cuối tháng theo xu hướng giảm do nguồn cung cải thiện. Sản lượng

dầu của Libya cao hơn gấp 5 lần so với đầu tháng, công suất của Iraq cũng
tăng. Nguy cơ Mỹ tấn công Syria đẩy lùi.
Tiếp theo xu hướng giá tháng 9, giá dầu tháng 10/2013 tiếp tục giảm gần 6%
do chênh lệch cung cầu. Ảnh hưởng lớn nhất tới giao dịch dầu thô vẫn là từ
bản báo cáo của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cho thấy, trong tuần kết
thúc ngày 25/10, lượng cung đã tăng 4,1 triệu thùng, bỏ xa những dự đoán
trước đó của các chuyên gia phân tích. Theo giới phân tích, cung dầu trong
tuần được báo cáo đã tăng 3,5 triệu thùng.
Cũng theo báo cáo này, lượng cung ứng dầu tại Mỹ đã tăng 6 tuần liên tiếp, với
tổng mức tăng hơn 28 triệu thùng, trong khi lượng tiêu thụ vẫn chưa được nâng
lên. Việc cán cân cung cầu chênh lệch quá lớn là nguyên nhân chính gây ra
những lo lắng trên thị trường và buộc giá dầu thô các hợp đồng tương lai phải
điều chỉnh xuống cho thích hợp.
25

×