Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân. Hiện nay để xây dựng nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh cần tập trung giải quyết những vấn đề gì.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.03 KB, 25 trang )


Đề tài 1: Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân.
Hiện nay để xây dựng nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh cần tập trung giải quyết những
vấn đề gì.
Nội dung
Chương I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.
1.1.Xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động
1.1.1. Nhà nước của dân
1.1.2. Nhà nước do dân.
1.1.3. Nhà nước vì dân.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính
nhân dân và tính dân tộc của nhà nước
1.2.1. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
1.2.2. Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân tộc.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
1. 3.1.Xây dựng một nhà nước hợp hiến.
1. 3.2. Quản lý nhà nước bằng pháp luật và chú trọng đưa luật pháp vào đời sống.
1.3.3.Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của nhà nước đủ đức và đủ tài.
1. 4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh, hoạt động có
hiệu quả.
1.4.1. Đề phòng và khắc phục các tiêu cực trong hoạt động của nhà nước.
1.4.2. Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng.
Chương II. Xây dựng Nhà nước ngang tầm nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới theo
tư tưởng Hồ Chí Minh
2. 1. Nhà nước bảo đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân
2. 2. Kiện toàn bộ máy hành chính Nhà nước
2.3. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Chương III. Kết luận

1
Chương I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân.


1,1.Xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động
Nếu vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền thì vấn đề cơ bản của
chính quyền là ở chỗ nó thuộc về ai, phục vụ quyền lợi cho ai. Năm 1927, trong cuốn “Đường
Kách Mệnh” Bác đã chỉ rõ: “Chúng ta đã hi sinh làm kách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là
làm sao kách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người.
Thế mới khỏi hi sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”. Sau khi giành được độc lập,
Người khẳng định: “nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích
đều vì dân… nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Đó là điểm khác nhau giữa nhà
nước ta với nhà nước bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử.
1.1.1 Nhà nước của dân.
+ Hồ Chí Minh khẳng định rõ ràng và ngay từ đầu là: “Nước Việt Nam là một nước dân
chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt
nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (Điều thứ 1, Hiến pháp năm 1946).
+ Quyền quyết định của nhân dân về các vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia.
“Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết…” (Điều thứ
32 - Hiến pháp năm 1946). Thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý, một hình thức dân chủ trực
tiếp được đề ra khá sớm ở nước ta.
+ “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu
những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”.
+ Người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm bất cứ việc gì pháp luật không
cấm, và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật.
+ Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực hình thành các thiết chế dân chủ để thực thi
quyền làm chủ của người dân.
+ Các vị đại diện của dân, do dân cử ra, chỉ là thừa ủy quyền của dân, chỉ là “công bộc của
dân”. Hồ Chí Minh phê phán những “vị đại diện” lầm lẫn sự uy quyền đó với quyền lực cá nhân,
sinh lộng quyền, cửa quyền: “Cậy thế mình ở trong ban này ban nọ, rồi ngang tàng, phóng túng,
muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra để làm
việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân”.
1.1.2. Nhà nước do dân.
+ Nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mình.

+ Nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để nhà nước chi tiêu, hoạt động.
+ Nhà nước do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ.
Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu: Tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào nhân dân, liên
hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và sự kiểm soát của nhân dân.
2
“ Nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ” nghĩa là khi cơ quan nhà
nước không đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì nhân dân có quyền bãi quyền nó.”
Hồ Chí Minh khẳng định: mỗi người có trách nhiệm “ghé vai gánh vác một phần” vì quyền
lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ.
1.1.3. Nhà nước vì dân.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: chỉ có nhà nước thực sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng và
kiểm soát mới có thể là nhà nước vì dân.
+ Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc
quyền lợi, thật sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Trong nhà nước đó, cán bộ từ chủ tịch trở
xuống đều là công bộc của dân”
“Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh ”.
+ Hồ Chí Minh chú ý mối quan hệ giữa người chủ nhà nước là nhân dân với cán bộ nhà
nước là công bộc của dân, do dân bầu ra, được nhân dân thừa ủy quyền. Là người phục vụ, nhưng
cán bộ nhà nước đồng thời là người lãnh đạo, hướng dẫn nhân dân. “Nếu không có nhân dân thì
chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường”.
Cán bộ nhà nước phải là đầy tớ của dân, đồng thời là người lãnh đạo hướng dẫn nhân dân.
Đầy tớ thì phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau
thiên hạ. Người lãnh đạo phải trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa, trông rộng, gần gũi
nhân dân, trọng dụng hiền tài. Như vậy, “Người thay mặt dân phải đủ cả đức và tài, vừa hiền lại
vừa minh”.
1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính
nhân dân và tính dân tộc của nhà nước
1.2.1 Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
Nhà nước là một phạm trù lịch sử, nó chỉ ra đời và tồn tại khi giai cấp và đấu tranh giai cấp

xuất hiện, do đó, nhà nước là sản phẩm của một xã hội có giai cấp, nó bao giờ cũng mang bản
chất của một giai cấp nhất định, không có một nhà nước nào lầ phi giai cấp, không có nhà nước
đứng trên giai cấp. Như vậy, không phải lịch sử nhân loại xuất hiện là có nhà nước ngay và nhà
nước không phải tồn tại mãi mãi. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước ta đươc coi là nhà nước
của dân, do dân, vì dân nhưng bản chất giai cấp của nhà nước ta là bản chất giai cấp công nhân,
thể hiện ở chỗ:
* Một là, nhà nước ta do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhà nước giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công
nhân. Việc xác định bản chất giai cấp công nhân của nhà nước là một vấn đề rất cơ bản của Hiến
pháp. Lời nói đầu của bản Hiến pháp năm 1959 khẳng định: Nhà nước ta là nhà nước dân chủ
nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo. Trong quan
điểm cơ bản xây dựng một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ, một nhà nước thể hiện tích
3
chất nhân dân rộng rãi, Hồ Chí Minh vẫn nhấn mạnh nòng cốt của nhân dân là liên minh công-
nông – trí thức do giai cấp công nhân mà đội tiền phong của nó là Đảng cộng sản Việt Nam lãnh
đạo.
- Đảng cộng sản lãnh đạo nhà nước bằng phương thức thích hợp. Nói đến phương thức lãnh
đạo của đảng đối với nhà nước là nói đến cách lãnh đạo cho phù hợp ở từng thời kì. Trong thời kỳ
Hồ Chí Minh làm chủ tịch nước, đất nước ta vừa tiến hành kháng chiến chống giặc ngoại xâm,
giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, vừa lãnh đạo nhân dân xây dựng chế độ mới. Song, trong tư tưởng
Hồ Chí Minh vẫn có những vấn đề cơ bản về phương thức lãnh đạo của của Đảng chung cho các
thời kỳ. Đó là:
+ Đảng lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để nhà nước thể chế hoá thành pháp
luật, chính sách, kế hoạch.
+ Đảng lãnh đạo nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên của mình trong
bộ máy, cơ quan nhà nước.
+ Đảng lãnh đạo nhà nước bằng công tác kiểm tra.
Hai là, bản chất giai cấp của Nhà nước ta thể hiện ở tính định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát
triển của đất nước.
Điều này đã được thể hiện ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà mới ra đời ngày 2-9-

1945 trong bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh.
Ba là, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta thể hiện ở nguyên tắc tổ chức và hoạt động
cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh rất chú ý đến tính dân chủ trong tổ
chức và hoạt động của tất cả bộ máy, cơ quan Nhà nước, đồng thời phát huy cao độ tập trung
thống nhất quyền lực để tất cả quyền lực vào tay nhân dân.
1.2.2 Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân tộc.
Hồ Chí Minh là người giải quyết rất thành công các mối quan hệ giữa các vấn đề giai cấp - dân
tộc trong xây dựng Nhà nước Việt Nam mới. Người đã giải quyết hài hoà, thống nhất giữa bản
chất giai cấp với tính nhân dân, tính dân tộc. Tíh thống nhất thể hiệ ở chỗ:
- Nhà nước dân chủ mới ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ của với sự
hi sinh xương máu của bao thế hệ cách mạng.
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX dân tộc Việt Nam rơi vào khủng hoảng đường lối cách mạng.
Trong cuộc đấu tranh trường kì chống thực dân Pháp của dân tộc ta, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa
dưới sự lãnh đạo của các nhà cách mạng tiền bổ rất oanh liệt tô thắm cho truyền thống yêu nước
chống giặc ngoại xâm của dân tộc nhưng độc lập, tự do của dân tộc vẫn chưa trở thành hiện thực.
Từ 3-2-1930 Đảng ta ra đời thì sự lớn mạnh của giai cấp công nhân với đội tiền phong của nó là
Đảng Cộng Sản Việt Nam đã vượt qua tất cả các hạn chế và đã thắng lợi cuộc cách mạng tháng
Tám 1945 đấu tranh giành chính quyền, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông
Nam Á.
- Nhà nước ta vừa mang bản chất giai cấp vừa có tìh nhân dân và tính dân tộc
Vì nó lấy lợi ích của dân tộc làm nền tảng và bảo vệ lợi ích cho nhân dân.
- Nhà nước ta vừa ra đời đã đảm nhiệm vai trò lịch sử là tổ chức toàn dâ kháng chiến để bảo
vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ của thế giới.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
4
1.3.1.Xây dựng một nhà nước hợp hiến.
+ Tuyên ngôn độc lập do Hồ Chí Minh viết và tuyên đọc trong cuộc mít tinh lớn tại thủ đô
Hà Nội ngày 2-9-1945 đã khai sinh ra Nhà nước Việt Nam mới, đồng thời đảm bảo địa vị hợp
pháp của Chính phủ lâm thời.

+ Ngày 3-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra với Chính phủ một trong sáu nhiệm vụ cấp
bách là “Cúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng
hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu” để sớm có một nhà nước hợp hiến do
nhân dân bầu ra.
+ Ngày 2-3-1946, Quốc hội họp phiên đầu tiên và bầu Hồ Chí Minh là Chủ tịch Chính phủ
liên hiệp kháng chiến. Đây là Chính phủ hợp hiến đầu tiên do đại biểu của nhân dân bầu ra, có đầy
đủ tư cách và hiệu lực trong việc giải quyết mọi vấn đề nội trị và ngoại giao của Nhà nước Việt
Nam mới.
Có được một Nhà nước hợp hiến, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân như vậy thì nước ta
mới có cơ sở pháp lý vững chắc để làm việc với quân Đồng minh, mới có một quan hệ quốc tế
bình đẳng, mới thiết lập được một cơ chế quyền lực hợp pháp theo đúng thông lệ của một Nhà
nước pháp quyền hiện đại.
1.3.2. Quản lý nhà nước bằng pháp luật và chú trọng đưa luật pháp vào đời sống.
Quản lý Nhà nước là quản lý bằng bộ máy và bằng nhiều biện pháp khác nhau nhưng quan
trọng nhất là Hiến pháp- đạo luật cơ bản của Nhà nước. các bản Hiến pháp năm 1946 và Hiến
pháp năm 1959 đã để lại dấu ấn đậm nét những quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất, thiết chế
và hoạt động của Nhà nước mới.
Có Hiến pháp và pháp luật rồi nhưng không đưa vào trong cuộc sống thì xã hội cũng sẽ bị rối
loạn. Người thực thi pháp luật phải thật sự công tâm và nghiêm minh, bảo đảm cho pháp luật trở
thành cán cân công lý đối với tất cả mọi người không có bất kì một trường hợp ngoại lệ nào.
+ Nhà nước dân chủ, thì dân chủ và pháp luật phải luôn luôn đi đôi với nhau, nương tựa
vào nhau mới bảo đảm cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Pháp luật là bà đỡ của dân chủ. Hồ Chí
Minh viết:“Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”.
+ Hồ Chí Minh hết sức chăm lo đưa pháp luật vào đời sống, tạo ra cơ chế bảo đảm cho
pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành đó trong các cơ quan nhà nước và
trong nhân dân. Theo Người, công bố luật chưa phải là mọi việc đã xong, phải tuyên truyền giáo
dục lâu dài mới thực hiện được tốt.
+ Hồ Chí Minh rất coi trọng việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn
hóa chính trị và tính tích cực công dân, khuyến khích nhân dân tham gia vào các công việc của
Nhà nước, khắc phục mọi thứ dân chủ hình thức.

+ Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải lo “Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ,
biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”. “Lúc dân biết và dám phê bình người
lãnh đạo, lúc đó dân đã biết nắm quyền của dân, tức là đã đến mức dân chủ hóa khá cao”.
Hồ Chí Minh luôn luôn nêu gương trong việc khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát
công việc của Chính phủ, đồng thời nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành phải gương mẫu trong
việc tuân thủ pháp luật, trước hết là các cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp. Người viết:
5
“Các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn phải nêu cao cái
gương “Phụng công, thủ pháp chí công, vô tư”, cho nhân dân noi theo”.
1.3.3.Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của nhà nước đủ đức và đủ tài.
+ Hồ Chí Minh khẳng định: cán bộ Nhà nước phải biết quản lý nhà nước. Người ký Sắc
lệnh số 197 thành lập Khoa pháp lý học tại Trường đại học Việt Nam.
+ Hồ Chí Minh mạnh dạn sử dụng những viên chức, quan lại đã được đào tạo nghiệp vụ và
kỹ thuật hành chính
+ Hồ Chí Minh đăng báo “Tìm người tài đức”, Người viết: công việc kiến thiết ngoại giao,
kiến thiết kinh tế, kiến thiết quân sự, kiến thiết giáo dục , rất cần nhân tài. “Nhân tài nước ta dù
chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài
càng ngày càng phát triển thêm nhiều. Hồ Chí Minh quan tâm tới công bằng và dân chủ trong
tuyển dụng cán bộ.
+ Trong việc dùng cán bộ, Hồ Chí Minh nhắc nhở phải tẩy sạch óc bè phái.
Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 76, ban hành Quy chế công chức – chú trọng chế độ thi tuyển
để bổ nhiệm vào các ngạch, bậc hành chính - thể hiện tầm nhìn xa, tính chính quy, hiện đại, tinh
thần công bằng, dân chủ của Hồ Chí Minh trong việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt
Nam.
+ Trong vấn đề cán bộ, đặc biệt là với cán bộ quản lý nhà nước, điều quan tâm thường
xuyên của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là phẩm chất đạo đức và tinh thần phục vụ nhân dân, phục
vụ Tổ quốc, bởi thiếu điều này thì dù giỏi mấy cũng không dùng được.
Phát biểu trước cử tri Hà Nội (ngày 5-01-1946), Hồ Chí Minh nói: “Làm việc nước bây giờ
là hy sinh, là phấn đấu, quên lợi riêng mà nghĩ lợi chung. Những ai muốn làm quan cách mạng
thì nhất định không nên bầu”. Sau khi trúng cử Quốc hội, Hồ Chí Minh hứa với đồng bào: Trước

sự nguy hiểm khó khăn của nước nhà, chúng tôi đi trước. Với việc giữ vững nền độc lập, chúng
tôi xin đi trước.
+ Xuất phát từ nhận thức chỉ có trí tuệ và lòng dân mới có thể làm cho chính quyền trở nên
mạnh mẽ và sáng suốt, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải “thân dân, gần dân, trọng dân, không
được lên mặt “quan cách mạng” với dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của dân”.
1. 4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh, hoạt động có
hiệu quả.
1.4.1. Đề phòng và khắc phục các tiêu cực trong hoạt động của nhà nước.
+ Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh, hiệu quả của Nhà nước là dựa vào tính nghiêm minh của
việc thi hành pháp luật và sự gương mẫu, trong sạch về đạo đức của người cầm quyền. Người đòi
hỏi “cán bộ phải thực hành chữ Liêm trước, để làm kiểu mẫu cho dân”.
+ Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra ba thứ “giặc nội xâm”, “giặc trong lòng”. Người nói: “Tham
ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong
kiến Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức
cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Vệt gian, mật thám”.
+ Theo Hồ Chí Minh, chống tham ô, lãng phí, quan liêu cũng cần kíp như việc đánh giặc
trên trên mặt trận. “Nếu chiến sĩ và nhân dân ra sức chống giặc ngoại xâm mà quên chống giặc
nội xâm, như thế là chưa làm tròn nhiệm vụ của mình”.
6
+ Tham ô, lãng phí có nhiều nguyên nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra nguyên nhân quan
trọng là bệnh quan liêu.
Người viết: “Vì những người và những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không
sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với công
việc thì thật trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai
hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi, đến chốn thành thử có mắt
mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà
không nắm vững Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì
vậy, muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí, thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu”.
1. 4.2. Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng.
+ Theo Hồ Chí Minh, từ kinh tế tiểu nông đi tới xây dựng nhà nước pháp quyền, trước hết

phải nhấn mạnh vai trò của pháp luật, khẩn trương xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật, đẩy
mạnh việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân , đồng thời phải đặc biệt coi trọng
vấn đề giáo dục đạo đức. Hai hình thái ý thức xã hội này có thể kết hợp, bổ sung cho nhau trong
thực tế trị nước. Không bao giờ được tuyệt đối hóa địa vị độc tôn của một yếu tố riêng lẻ nào.
+ Hồ Chí Minh là một mẫu mực của sự kết hợp đạo đức và pháp luật, luô luôn chú trọng
giáo dục đạo đức nhưng cũng không ngừng nâng cao vai trò, sức mạnh của pháp luật và thi hành
pháp luật nghiêm minh.
* Chính trị Hồ Chí Minh là một nền chính trị đạo đức; và đạo đức cao nhất, theo Hồ Chí
Minh là “Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương
mẫu trong mọi việc”.
* Đi đôi với giáo dục đạo đức, Hồ Chí Minh nhấn mạnh kịp thời ban hành pháp luật.
Ngày 27-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh ấn định hình phạt tội đưa và nhận hối
lộ sẽ bị phạt từ 5 đến 20 năm khổ sai và phải nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ.
Ngày 26-01-1946, Người ký “Quốc lệnh” khép tội tham ô, trậm cắp của công vào tội tử
hình.
+ Để đưa luật vào cuộc sống, Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân hãy tham gia giám sát công
việc của Chính phủ. Hồ Chí Minh viết: Từ ngày thành lập Chính phủ trong nhân viên còn có
nhiều khuyết điểm. Có người làm quan cách mạng, chợ đen, chợ đỏ, mưu vinh thân, phì gia Xin
đồng bào hãy phê bình, giám sát công việc của Chính phủ. Người đòi hỏi pháp luật của ta “phải
thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”.
Vì vậy, không thể nói đến một nhà nước trong sạch vững mạnh, hiệu quả nếu không kiên
quyết, thường xuyên đẩy mạnh cuộc đấu tranh để ngăn chặn tận gốc những nguyên nhân gây ra
nạn tham ô, lãng phí, quan liêu.
Chương II. Xây dựng Nhà nước ngang tầm nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới theo tư
tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân có giá trị lý luận và thực
tiễn to lớn, sâu sắc. Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân đang tích cực thực hiện nhiệm vụ xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản
Việt Nam. Nhà nước đó được xây dựng trên nền tảng lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và những điều kiện thực tế hiện nay của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với

phát triển kinh tế tri thức, thời kỳ mở cửa, hội nhập quốc tế, thực hiện cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
7
2.1. Nhà nước bảo đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân
Quyền làm chủ thật sự của nhân dân chính là một nội dung cơ bản trong yêu cầu xây dựng
Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng nhà nước đòi hỏi phải chú trọng bảo đảm và phát huy quyền làm chủ thật sự của
nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong vấn đề này, việc mở rộng dân chủ đi
đôi với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa quan trọng. Chính vì vậy, quyền làm chủ
của nhân dân phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp và pháp luật, đưa Hiến pháp và pháp luật vào
trong cuộc sống. Cần chú ý đến việc bảo đảm cho mọi người được bình dẳng trước pháp luật, xử
phạt nghiêm chỉnh mọi hành động vi phạm pháp luật , bất kể sự vi phạm đó do tập thể hoặc cá
nhân nào gây ra. Có như vậy dân mới tin và mới bảo đảm được tính nhân dân của nhà nước ta.
Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, ngoài việc thực thi nghiêm chỉnh pháp
luật, còn cần chú ý thực hiện những quy tắc dân chủ trong các cộng đồng dân cư, tùy theo điều
kiện của từng vùng miễn là các quy tắc đó không trái với những quy định của pháp luật. Theo đó,
cần thực hiện tốt các Quy chế dân chủ ở cơ sở đã được Chính phủ ban hành.
2.2. Kiện toàn bộ máy hành chính Nhà nước
Phải đẩy mạnh cải cách nền hành chính theo hướng dân chủ, trong sạch, vững mạnh, phục
vụ đắc lực và có hiệu quả đối với nhân dân. Kiên quyết khắc phục thói quan liêu, hách dịch, cửa
quyền, gây phiền hà, sách nhiễu, tham nhũng, bộ máy nhà nước cồng kềnh, kém hiệu quả, sự sa
sút về phẩm chất đạo đức cách mạng, năng lực thực hành nhiệm vụ công chức kém cỏi, lợi dụng
chức quyền làm lợi cho cá nhân mình.
Cần chú ý cải cách thủ tục hành chính, đề cao trách nhiệm cá nhân trong việc giải quyết các
khiếu kiện của công dân theo đúng quy định pháp luật, tiêu chuẩn hóa cũng như sắp xếp lại đội
ngũ công chức, xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức vừa có đức, vừa có tài, tinh thông
chuyên môn, nghiệp vụ.
2.3. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Công cuộc đổi mới, chỉnh đốn Đảng tất yếu gắn liền với tăng cường sự lãnh đạo của đảng
đối với nhà nước. Đó là trách nhiệm cực kỳ quan trọng của Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền.

Hiện nay, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào tăng cường lãnh đạo của đảng đối với nhà
nước thể hiện: Lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối chủ trương của Đảng, bảo đảm sự lãnh
đạo của Đảng và phát huy vai trò quản lí của nhà nước, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với nhà nước. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ trong hệ thống chính trị trên cơ sở
đảm bảo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạnh của nhà nước theo luật định. Bản chất, tính chất nhà
nước ta gắn liền với vai trò, trách nhiệm của Đảng cầm quyền, do đó đến lượt Đảng, một tiền đề
tất yếu được đặt ra là sự trong sạch, vững mạnh của Đảng cộng sản Việt Nam chính là yếu tố
8
quyết định cho thành công của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chương III. Kết luận
Trong lịch sử, tư tưởng “lấy dân làm gốc” đã sớm xuất hiện ở những nhà nước lãnh đạo, những
nhà chính trị lớn. Nhưng đến Hồ Chí Minh tư tưởng về nhà nước của dân, do dân, vì dân mới
được phát triển sâu sắc, phong phú về nội dung, với chất lượng mới, trở thành một quan điểm
khoa học nhân đạo về bản chất nhà nước mới, nhà nước của dân, do dân, vì dân; nhà nước trong
sạch, vững mạnh và hiệu quả. Nếu như lấy dân làm gốc là tư tưởng chính trị truyền thống, thì đến
Hồ Chí minh tư tưởng ấy được diễn đạt trong một mệnh đề chủ động hết sức giản dị, tự nhiên
“Dân là gốc nước” đúng như câu thơ của Người:
“ Gốc có vững thì cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”
Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả có
giá trị lý luận và thực tế to lớn, sâu sắc, định hướng cho việc xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ
máy nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Với những kết quả quả đạt được trong quá trình đổi
mới, cũng như những khó khăn tồn tại trong 18 năm đổi mới, hoàn thiện nhà nước theo hướng xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến quá trình đổi
mới đất nước nói chung. Thực tế cho thấy, vấn đề đổi mới và hoàn thiện nhà nước hiện nay là một
quá trình khó khăn cả trên lý thuyết lẫn thực tiễn. Điều đó đòi hỏi Đảng, nhà nước và nhân dân ta
cần có những bước đi và giải pháp vừa khẩn trương vừa vững chắc trong hiệc thực tiếp tục cải
cách triệt để hơn nữa tổ chức và hoạt động của động của nhà nước để đáp ứng được tình hình mới
của nhà nước trong quá trình chấn hưng dân tộc và hội nhập ngày nay.

Đề tài 2 :Tư tưởng Hồ Chí Minh về chuẩn mực đạo đức cách mạng và sự vận dụng tư tưởng
đó vào việc xây dựng đạo đức, lối sống của sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
9

Phần I: Lời mở đầu
Phần II: Nội dung
Chương I: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chuẩn mức đạo đức cách mạng
1.1 Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức
1.1.1 Đạo đức là cái gốc của người cách mạng
1.1.2 Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội
1.2 Quan điểm Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
1.2.1 Trung với nước, hiếu với dân
1.2.2 Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
1.2.3 Yêu thương con người, sống có tình nghĩa
1.2.4 Có tinh thần quốc tế trong sáng
1.3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới.
1.3.1. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
1.3.2. Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi.
1.3.3. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Chương II: Vận dụng vào xây dựng đạo đức, lối sống của sinh viên trong giai đoạn hiện nay
2.1 Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
2.2 Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Phần III: Kết luận
Lời mở đầu
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người nêu một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức cách
mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh
đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Có thể nói, đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự
nghiệp cách mạng.
Chương I: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chuẩn mực đạo đức cách mạng

10
1.1 Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức
Đạo đức là tập hợp những quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách
ứng xử của con người trong mối quan hệ với nhau và trong quan hệ với xã hội. Bất cứ một
lĩnh vực nào của đời sống xã hội, bất cứ một hoạt động nào của tổ chức, cá nhân cũng đều
cần có đạo đức. Suy thoái về đạo đức, xã hội không thể phát triển bèn vững, yếu kém về đạo
đức, con người không thể có nhân cách đầy đủ. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ
luôn đề cao và quan tâm đến vấn đề đạo đức cách mạng, mà còn là người đầu tiên nêu khái
niệm đạo đức cách mạng và đạo đức mới ở Việt Nam.
1.1.1 Đạo đức là cái gốc của người cách mạng
Quan điểm “đức là gốc” của con người đã xuất hiện từ xa xưa trong học thuyết “đức trị”
của Nho giáo. Rõ ràng, quan điểm “đức là gốc” của Nho giáo chứa đựng những yếu tố hợp lý nhất
định, nhưng vấn đề ở đây là “đức” mà Nho giáo nói đến lại là những chuẩn mực đạo đức phong
kiến trói buộc con người vào những lễ giáo hủ bại, phục vụ cho chế độ đẳng cấp, tôn ti trật tự hết
sức hà khắc của giai cấp phong kiến. “Đức là gốc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là đạo đức mới –
đạo đức cách mạng mang bản chất giai cấp công nhân, kết hợp truyền thống đạo đức tốt đẹp của
dân tộc và những tinh hoa của đạo đức nhân loại.
- Đạo đức cách mạng có sức cảm hóa, thuyết phục, tập hợp, phát huy sức mạnh của
quần chúng nhân dân nhằm thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng
Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người như gốc
của cây, ngọn nguồn của sông suối. Người nói: cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không
có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. “Cán bộ chính là
người đem chính sách của chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, Muôn việc thành
công hay thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém. Nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền lãnh đạo
toàn xã hội, đội ngũ cán bộ là những người có trọng trách trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng và
nhà nước, nếu không chú trọng giáo dục rèn luyện đạo đức cách mạng cho họ thì rất dễ dẫn tới
nguy cơ quan liêu, xa rời quần chúng, tham ô,…làm ảnh hưởng tới uy tín, thanh danh của Đảng,
gây tổn hại đến lòng tin của nhân dân đối với chế độ ta. Hồ Chí Minh chỉ rõ “Đảng viên và cán bộ
cũng là người. Ai cũng có tính tốt và tính xấu. Song đã hiểu biết, đã tình nguyện vào một Đảng vì

dân, vì nước, đã là một người cách mạng thì phải cố gắng phát triển những tính tốt và sửa bỏ
những tính xấu.Vì tính xấu của một người thường chỉ hại cho người đó; còn tính xấu của một
người đảng viên, một cán bộ sẽ có hại đến Đảng, có hại đến nhân dân”. Cũng bởi lẽ đó, trong suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người đã dày công giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng
viên về đạo đức.
Trước lúc đi xa, trong bản di chúc để lại cho toàn Đảng toàn dân, Người đã nhấn mạnh về
vấn đề đạo đức: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật
trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”
Hồ chủ tịch cũng đã từng nói: “ trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ
‘cộng sản’ mà ta được yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, có đạo đức.
Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
- Đạo đức cách mạng là cơ sở để người cán bộ cách mạng vượt qua mọi khó khăn, thử
thách, hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
11
Theo Hồ Chí Minh, con đường làm cách mạng là con đường vừa vẻ vang mà cũng vừa áp lực,
đó là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh lâu dài, đầy khó khăn, vất vả. Và trên con
đường đó, nếu không có đạo đức cách mạng làm nền tảng, người cán bộ cách mạng khó có thể
vượt qua được những chông gai, thử thách để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Người còn nhấn
mạnh: “ Sức có mạnh mới gánh được nặng, mới đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức
cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
Người cán bộ cách mạng có đạo đức cách mạng mới kiên định, vững vàng trong mọi hoàn
cảnh, lúc gian khổ, khó khăn, thất bại cũng không sờn lòng, khi thuận lợi, thành công cũng không
kiêu căng, tự mãn. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn khẳng định: “ đạo đức cách mạng là vô luận trong
hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ thù, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng
chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu. Có như thế mới thắng được địch và
thực hiện được nhiệm vụ cách mạng”.
- Đạo đức cách mạng là cơ sở cho tài năng, năng lực của người cán bộ được phát huy.
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đã đi qua. Để thực hiện thành công cuộc cách mạng đầy
cam go, thử thách này, đòi hỏi người cán bộ phải có đủ đức và tài, trong đó phẩm chất đạo đức là

nền tảng trong nhân cách của người cán bộ, giúp họ vững vàng, kiên định, giúp họ vượt qua mọi
khó khăn, thách thức để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.”Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội
phải có con người thấm nhuần đạo đức xã hội chủ nghĩa”.Thật như Bác luôn căn dặn, con người
thấm nhuần đạo đức đạo đức xã hội chủ nghĩa là con người phát triển toàn diện cả phẩm chất và
năng lực, cả đạo đức và tài năng. Một người cán bộ có đạo đức, có tâm huyết với sự nghiệp cách
mạng thì nhất định họ sẽ cố gắng học tập, rèn luyện để có được kiến thức, năng lực đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ cách mạng, còn người cán bộ có tài năng mà không có đạo đức thì tài năng đó cũng
không được trọng dụng, có thể mai một, nguy hiểm hơn là dễ bị dùng vào việc có hại cho dân, cho
nước, gây tác hại khôn lường cho sự nghiệp cách mạng.
Coi trọng đạo đức nhưng Hồ Chí Minh không bao giờ xem nhẹ tài năng. Theo Người đức và
tài phải luôn thống nhất trong nhân cách của người cán bộ .
1.1.2 Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng sâu sắc nhất, triệt để nhất trong lịch sử.
Theo Hồ Chí Minh sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chửa phải là lý tưởng cao xa, ở mức sống vật
chất dồi dào, ở tư tưởng được tự do giải phóng, mà trước hết ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở
phẩm chất của những người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống và hành động của mình, chiến
đấu cho lý tưởng đó trở thành hiện thực.
Hồ Chí Minh cho rằng, phong trào cộng sản công nhân quốc tế trở thành lực lượng quyết
định vận mệnh của loài người không chỉ do chiến lược và sách lược thiên tài của cách mạng vô
sản, mà còn do những phẩm chất đạo đức cao quý làm cho chủ nghĩa cộng sản trở thành một sức
mạnh vô địch.
Cũng như Lênin, tấm gương đạo đức trong sáng của một nhân cách vĩ đại, song cũng rất đời
thường của Hồ Chí Minh chẳng những có sức hấp dẫn lớn lao, mạnh mẽ với nhân dân Việt Nam,
mà còn cả với nhân dân thế giới. Tấm gương đó từ lâu là nguồn cổ động viên tinh thần quan trọng
đối với nhân dân ta và nhân loại tiến bộ đoàn kết đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và chủ nghĩa xã hội.
1.2 Quan điểm Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng

12
1.2.1 Trung với nước, hiếu với dân

Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với nhân dân ,
với dân tộc là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức quan trọng nhất, bao
trùm nhất.
“ Trung” và “hiếu” là những khái niệm cũ trong tư tưởng, đạo đức phong kiến, nhưng nội
dung hạn hẹp: “Trung với vua, hiếu với cha mẹ” phản ánh bổn phận của dân đối với vua, con đối
với cha mẹ. Hồ Chí Minh đã kế thừa, vận dụng và đưa vào nội dung mới: “Trung với nước, hiếu
với dân”, tạo nên một cuộc cách mạng trong quan niệm về đạo đức.
Trung với nước, hiếu với dân là suốt đời phấn đấu, hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì
Chủ Nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng
đánh thắng. Bác vừa kêu gọi hành động vừa định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi người Việt
Nam.
• Trung với nước là:
- Trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, trung thành với con đường đi lên
của đất nước.
- Suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho Cách mạng, đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc lên
trên hết.
Trung với nước cũng có nghĩa là hiếu với dân trong thực hiện mục tiêu của Đảng: “Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.
• Hiếu với dân là:
- Khẳng định vai trò, sức mạnh thực sự của nhân dân.
- Tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức vận động nhân dân cùng thực hiện tốt
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước.
- Chăm lo dến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Thực hiện được điều này tất yếu sẽ dẫn đến: “Dễ mười lần trăm dân cũng chịu, khó trăm lần
dân liệu cũng xong”.
Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về tinh thần tận tụy phục vụ nhân dân. Ra đi tìm
đường cứu nước với mục tiêu đấu tranh để giành độc lập tự do cho dân tộc. Cả cuộc đời phấn đấu
hết mình phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng cho đến khi phải từ biệt thế giới này, Người chỉ
tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa.
1.1.3 Cần ,kiệm, liêm, chính, chí công vô tư

Tháng 3/1947, Hồ Chí Minh kêu gọi đua xây dựng đời sống mới là cần kiệm liêm chính.
Bác coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính không thể thiếu giống như trời có bốn mùa, đất có
bốn phương. Bác nói:
13
“Trời có bốn mùa: Xuân, hạ, thu, đông
Đất có bốn phương: Đông,tây, nam ,bắc
Người có bốn đức: Cần, kiệm, liêm, chính
Thiếu một mùa, thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người.”
Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mọi người. Ở đây, Hồ Chí
Minh cũng chỉ ra cho người cán bộ cách mạng thực hiện làm gương cho nhân dân là để đem lại
hạnh phúc cho dân.
- Cần là siêng năng, chăm chỉ; lao động có kế hoạch, có hiệu quả, có năng suất cao với tinh
thần tự lực cánh sinh.
- Kiệm là tiết kiệm thời gian, tiển bạc, sức lao động của dân, không xa xỉ, không lãng phí
bừa bãi.
Chắc đồng bào ta ai cũng được nghe câu chuyện phong bì của Hồ Chí Minh
Hồ Chủ tịch dùng một cái phong bì hơn hai, ba lần. Cụ nói:
“Trung bình, cái phong bì là 180 phân vuông đất. Mỗi ngày, các cơ quan, đoàn thể và tư nhân
trong nước ta ít nhất cũng dùng hết một vạn cái phong bì, tức là 180 thước vuông giấy.
Mỗi tháng là 5400 thước. Mỗi năm là 64000 thước vuông giấy.
Nếu ai cũng tiết kiệm, dùng một cái phong bì hai lần, thì mỗi năm chi tốn một nửa giấy, tức
là 32400 thước vuông. Còn 32400 thước thì để dành cho các lớp bình dân học vụ, thì chẳng tốt
sao?
Hơn nữa, nhờ sự tiết kiệm giấy, mà tiền bạc và công phu làm giấy có thể thêm vào việc kiến thiết
khác, thì càng ích lợi hơn nữa ”
Hồ Chí Minh là tấm gương lớn cho cả dân tộc noi theo. Người dạy cần, kiệm phải đi đôi với
nhau. “Cần mà không kiệm thì làm chừng nào xào chừng ấy”.”Kiệm mà không cần thì không tăng
thêm, không phát triển được. Mà vật gì đã không tiến tức là thoái”

- Liêm là luôn tôn trọng của công và của dân. Phải trong sạch không tham lam tiền của,địa vị
danh tiếng, không tham lam người khác tâng bốc mình.
Vì vậy mà quang minh chính đại, chỉ có một thứ ham đó là ham học, ham làm, ham tiến
bộ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: ngày xưa, người làm quan không đục khoét dân, thì đó là liêm theo nghĩa
hẹp. Ngày nay, trong xã hội mới, liêm được hiểu theo nghĩa rộng hơn, là mọi người đều phải liêm.
Trong đó, Người đã sớm cảnh báo về nguy cơ tham nhũng của cán bộ, công chức: “Những người
ở các công sở, từ làng cho đến Chính phủ trung ương, đều dễ tìm dịp phát tài, hoặc xoay tiền của
Chính phủ, hoặc khoét đục nhân dân. Đến khi lộ ra bị phạt, thì mất hết cả danh giá, mà của phi
nghĩa đó cũng không được hưởng. Vì vậy, những người trong công sở phải lấy chữ liêm làm đầu”
- Chính là thẳng thắn, đứng đắn. Đối với mình thì không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học
tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình. Đối
với người – không nịnh người trên, không khinh người dưới, thật thà, không dối trá. Đối với công
14
việc, biết để việc công lên trên việc tư, phải có trách nhiệm với công việc của mình, không sợ gian
khó, nguy hiểm, việc thiện thì nhỏ mấy cũng làm, việc ác nhỏ mấy cũng tránh.
- Chí công vô tư là công bằng, công tâm, làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình
trước, hãy vì Đảng, vì dân, có tinh thần lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ.
Thực hành chí công vô tư là quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng,.
Chủ tịch cũng đã từng nói: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm nay là vĩ đại, có
sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ
không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Hồ Chí Minh cũng phân biệt lợi ích cá
nhân và chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân là đồng minh của đế quốc, là một thứ vi trùng rất
độc. Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm bệnh nguy hiểm như: quan liêu, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng
phí Chủ nghĩa xã hội không thể thắng lợi nếu không loại trừ chủ nghĩa cá nhân.
Sinh thời, Bác sống rất giản dị, từ lời nói đến việc làm, phong cách làm việc, từ cách ăn
mặc cho đến những sinh hoạt hàng ngày, ngay cả khi Người đã là Chủ tịch nước. Tác phong giản
dị ấy mang lại một sự gần gũi, một ấn tượng khó quên với những ai đã được gặp Bác dù chỉ một
lần. Bác ăn mặc rất giản dị và tiết kiệm. Quần áo Bác mặc chỉ có vài bộ, may cùng kiểu. Có cái
áo của Bác rách, vá đi vá lại, thay cổ mà Bác vẫn không cho đổi. Có lần Bác nói với một đồng chí
lãnh đạo cấp cao của Đảng một cách chân tình: “Này chú! Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước mặc áo

vá vai thế này là cái phúc của dân đấy. Đừng bỏ cái phúc ấy đi”. Đôi dép cao su của Bác, bộ quần
áo ka-ki sờn Bác vẫn dùng hàng ngày, khi biết các đồng chí phục vụ định thay, Bác không đồng ý.
Chiếc bút chì mòn vẹt Bác dùng để theo dõi tin tức trên báo. Những trang bản thảo được Bác viết
ở mặt sau của những tờ tin tham khảo của Việt Nam Thông tấn xã. Chiếc ô tô Bác đi công tác hay
đi thăm đồng bào và chiến sĩ trong cả nước cũng chỉ là loại xe bình thường. Bác không dùng chiếc
điều hoà nhiệt độ do các đồng chí cán bộ ngoại giao đang công tác ở nước ngoài biếu, mà đề nghị
chuyển chiếc điều hoà ấy cho các đồng chí thương bệnh binh đang điều trị tại trại điều dưỡng
hoặc quân y viện, mặc dù lúc đó Bác đang ở trong ngôi nhà của người thợ điện (nhà 54) rất nóng.
Những bữa ăn thanh đạm của Người “thường là dưa cà, đôi khi có thịt”. Những lần đi thăm các
địa phương, Bác thường không báo trước và mang theo cơm nắm để tránh sự đón rước linh đình,
gây tốn kém tiền của nhân dân.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trên chiến khu Việt Bắc, Bác ở trong ngôi
nhà sàn đơn sơ, giản dị thì đến khi cách mạng thành công, trở về thủ đô, Bác cũng chỉ ở trong
ngôi nhà nhỏ của người thợ điện, sau đó chuyển sang nhà sàn, chứ không ở ngôi nhà to, sang
trọng của toàn quyền Đông Dương. Bác dành ngôi nhà sang trọng đó làm nơi đón tiếp khách của
Đảng và nhà nước ta.
Theo Hồ Chí Minh, cần kiệm, liêm , chính sẽ dẫn đến chí công vô tư. Ngược lại, đã chí công
vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần kiệm, liêm, chính và
có được nhiều đức tính tốt khác.
1.1.4 Yêu thương con người, sống có tình nghĩa
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, cùng sự tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân
loại, yêu thương con người được Hồ Chí Minh xác định là một trong những phẩm chất đạo đức
cao đẹp nhất.
15
Vì yêu thương nhân dân, yêu thương con người mà chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh để đem
lại độc lập, tự do, cơm no, áo ấm và hạnh phúc cho con người. Người dành tình yêu thương rộng
lớn cho những người cùng khổ. Những người lao động bị áp bức bóc lột, Người viết: "Tôi chỉ có
một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Đối với Bác Hồ, cả
cuộc đời chỉ vì dân, vì nước không có gì lớn lao và quý báu hơn dân với nước. Thương yêu dân

tộc mình, thương yêu con người. Bác từng nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho
quyền lợi của tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra
vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo, là vì mục đích đó”.
Người dạy: “Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu
thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin
được”.
Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, của Người, không phân biệt họ ở miền xuôi hay miền
ngược, là trẻ hay già, trai hay gái không phân biệt một ai, không trừ một ai, hễ là người Việt
Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người.
Tấm lòng yêu thương con người của Bác Hồ còn được thể hiện rõ trong quan hệ đồng chí,
đồng đội, anh em. Đối với bản thân mình Bác đòi hỏi phải nghiêm khắc, nhưng đối với bạn bè,
đồng chí phải rộng rãi, đòi hỏi tất cả mọi người phải có sự tôn trọng con người, tôn trọng lẫn
nhau. Đối với cán bộ, đảng viên, Bác dạy học chủ nghĩa Mác-Lênin là để thương yêu nhau hơn.
Bác nói: “Học chủ nghĩa Mác-Lênin là để sống với nhau cho có nghĩa, có tình”. Đối với Bác chỉ
có nâng con người lên, chứ không cho phép hạ thấp, vùi dập con người xuống, dù cho họ có
khuyết điểm, thiếu sót. Vì vậy, phải thực hiện tự phê bình và phê bình nhằm nâng cao điểm tích
cực, hạn chế những tiêu cực để mỗi người,ngày càng tốt hơn, có ích hơn cho Đảng, cho đất nước.
Và, Bác khuyên mọi người trong tự phê bình phải thẳng thắn, chân thành để giúp đỡ lẫn nhau
cùng tiến bộ. Bác dạy “Ở đời ai cũng có chỗ tốt, chỗ xấu. Ta phải khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa
chữa chỗ xấu cho họ”. Đối với Đảng, Bác đòi hỏi “Đảng phải thương yêu cán bộ, nhưng thương
yêu không phải vỗ về, nuông chiều, thả mặc. Thương yêu là giúp cho họ học tập thêm, tiến bộ
thêm”.Tình thương yêu con người, thương yêu nhân dân của Bác càng thể hiện rõ hơn trong Di
chúc của Bác. Trong Di chúc, Bác căn dặn Đảng và Chính phủ thực hiện công việc đầu tiên trong
hàn gắn vết thương sau chiến tranh là “Đầu tiên là công việc đối với con người”. Đầu tiên là đối
với cán bộ, binh sỹ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong; đối với các liệt sĩ; với cha, mẹ, vợ,
con thương binh, liệt sĩ; với phụ nữ, nông dân…. cuối cùng là những nạn nhân của chế độ cũ…
Bác không bỏ xót đối tượng nào cả, thể hiện một tấm lòng thương yêu đối với tất cả mọi người.
Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm.
Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn, chúng ta: "Mỗi con người đều có thiện
và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân

và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật
xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho
cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời".
Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng: Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, nhắc nhở
mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con người. Hai là, yêu thương
con người. Tình yêu bạn bè, yêu đồng chí, có thái độ tôn trọng con người, điều này quả thật rất có
ý nghĩa với người cán bộ cách mạng.

16
1.2.4 Có tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung.
Tinh thần quốc tế trong sáng là nhằm vào mối quan hệ rông lớn, ra phạm vi nhân loại, vượt
ra ngoài khuôn khổ quốc gia, dân tộc, thể hiện ở tinh thần đoàn kết với những người vô sản cùng
chung mục tiêu, chí hướng trên toàn thế giới.
-Là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đến nhiều nước trên thế giới, đã tận mắt
chứng kiến cảnh cùng cực của người dân lao động thấy rõ cảnh sống xa hoa của bọn tư sản và
nhận ra rằng ở đâu dân nghèo cũng bị bị áp bức, bóc lột tàn nhẫn bởi chủ nghĩa thực dân tàn ác.
“Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống
người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tính hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản” .
Tháng 6-1919, khi gửi tới Hội nghị Vécxây "Bản yêu sách của nhân dân An Nam”, lần đầu
tiên xuất hiện trên trường quốc tế, Hồ Chí Minh đã thể hiện tư tưởng sát cánh cùng các dân tộc bị
áp bức đấu tranh cho sự bình đẳng, hợp tác quốc tế. Mười năm vận động, trải nghiệm ở nhiều
nước, Hồ Chí Minh đã sớm xác định, cuộc đấu tranh của Việt Nam, cũng như cuộc đấu tranh giải
phóng của các dân tộc bị áp bức là bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Từ lời phát biểu đầu
tiên tại Đại hội Tua (12-1920) trở đi, Người luôn khẳng định cuộc cách mạng của các dân tộc bị
áp bức đều có quan hệ với nhau. Nói về sự liên minh đoàn kết đấu tranh của nhân dân lao động ở
các nước thuộc địa, khi đó Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, các nước thuộc địa và phụ thuộc muốn được
giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản thì chỉ bằng cách đoàn kết chặt chẽ để
chống kẻ thù chung. Cũng là một người dân thuộc địa, Người thấy được khả năng, sức mạnh đoàn
kết của các dân tộc thuộc địa và tin tưởng vào thắng lợi trong cuộc đấu tranh của họ.


- Đó là tinh thần quốc tế vô sản, bốn phương vô sản đều là anh em.
Nhận ra bọn đế quốc không chỉ áp bức bóc lột nhân dân các nước thuộc địa, mà còn thống
trị nhân dân lao động và giai cấp vô sản chính quốc, thực dân đế quốc là kẻ thù của nhân dân
thuộc địa và cũng là kẻ thù của nhân dân lao động chính quốc. Người khẳng định, để chống lại kẻ
thù chung, đạt tới mục tiêu giải phóng thân phận nô lệ và bị bóc lột, đòi hỏi sự đoàn kết liên minh
chặt chẽ nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc. Người đã ví chủ nghĩa đế quốc giống như
“con đỉa hai vòi". Một vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc, một vòi bám vào giai cấp vô sản
ở thuộc địa. Muốn giết con vật ấy, phải đồng thời cắt cả hai vòi, nếu chỉ cắt một vòi thì vòi còn lại
tiếp tục hút máu và vòi bị cắt tiếp tục mọc ra. Vì thế, nhiệm vụ chống chủ nghĩa tư bản, đánh đổ
chúng là nhiệm vụ của cả nhân dân lao động chính quốc và thuộc địa. Nhiệm vụ đó đòi hỏi phải
đoàn kết cả hai lực lượng nói trên.
- Tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những con người tiến bộ trên thế giới
vì hòa bình, công lý, vì độc lập dân tộc.
Rút ra từ chủ nghĩa Mac- Lê Nin, từ thành quả của Cách mạng tháng Mười Nga, Hồ Chí
Minh thấy rằng để thành công các quốc gia, các dân tộc ở các châu lục cần phải hợp tác giúp đỡ
lẫn nhau. Sức mạnh của mỗi nước có một phần quan trọng tuỳ thuộc vào các mối liên kết và hiểu
biết lẫn nhau. Bởi vậy, trong suốt những năm tháng đấu tranh vì độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh hết sức quan tâm chăm lo phát triển tình hữu nghị giữa Việt Nam với các nước ở châu Á,
châu Phi, châu Mỹ Latinh để mở rộng quan hệ quốc tế của Việt Nam và tranh thủ, khẳng định sự
ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Đồng thời,
Người luôn động viên nhân dân Việt Nam vừa tiến hành sự nghiệp bảo vệ độc lập tự do của dân
17
tộc mình, vừa thực hiện sự giúp đỡ vô tư chí tình, chí nghĩa đối với các dân tộc anh em.

Sự đoàn kết ấy cũng chỉ nhằm mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ, là hợp tác hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc. Sự đoàn kết ấy dựa trên cơ sở bình đẳng
và kết hợp giữa lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế.
Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung là phẩm chất đạo đức không phải đối với bất kì ai,
vào bất cứ lúc nào cũng bộc lộ ra, nhưng việc giáo dục của Đảng về tinh thần quốc tế lại không

thể coi nhẹ, nhất là trong điều kiện hiện nay khi chúng ta đã và đang thực hiện chủ trương của
Đảng về đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, với tinh thần Việt Nam là bạn, là đối
tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế.

1.3.Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
1.3.1 Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
Nói đi đôi với làm, chính Hồ Chí Minh đã nói đây là nguyên tắc quan trọng nhất trong xây
dựng một nền đạo đức mới. Người chính là tấm gương trong sáng tuyệt vời về lời nói đi đôi với
việc làm. Nói đi đôi với là đặc trưng bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh – đạo đức cách
mạng. Nói đi đôi với làm đối lập hoàn toàn với thói đạo đức giả của giai cấp bóc lột, nói một đằng
làm một nẻo, thậm chí là không làm. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã
chỉ ra những biểu hiện của thói đạo đức giả ở một số cán bộ, “vác mặt làm quan cách mạng”, nói
mà không làm. Người đã nhiều lần bàn đến việc tẩy sạch căn bệnh quan liêu, coi thường quần
chúng của một số cán bộ, đảng viên “miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối quan
chủ. Miệng thì nói tuân thủ quần chúng” nhưng họ làm tái ngược với lợi ích của quần chúng.
Bác Hồ của chúng ta là một tấm gương tiêu biểu về đức tính “nói thì phải làm” và khi làm là
làm đến nơi, đến chốn, Bác khuyên cán bộ, đảng viên phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,
thì cuộc đời của Người là tấm gương sáng mẫu mực, tuyệt vời về đức tính đó. Người phát động
nhân dân lập hũ gạo cứu đói, thì Người gương mẫu và nghiêm túc thực hiện mười ngày nhịn ăn
một bữa để đem gạo đó biếu dân nghèo. Người phát động “Tết trồng cây” để lấy gỗ làm nhà và
cải thiện môi trường, thì vào Tết Nguyên đán hàng năm Người đều tham gia trồng cây đều đặn.
Người phát động nhân dân chống hạn, chống úng, thì chính Người trực tiếp tham gia cùng nhân
dân tát nước chống hạn ở Hà Đông và chống lụt ở Hải Dương; Người khuyên cán bộ, đảng viên
phải thường xuyên học tập, học ở mọi nơi, mọi lúc, học ở mọi người, học suốt đời “học để làm
việc, làm người, làm cán bộ”, thì chính Người là một tấm gương tiêu biểu, trong những ngày cuối
đời mặc dù nằm trên giường bệnh nhưng Bác vẫn còn học tiếng Tây Ban Nha v.v… Đó không
phải là đức tính của một anh hùng giải phóng dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, mà theo
Bác đó là một đức tính cần có đối với mỗi người cán bộ, đảng viên.
Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp truyền thống văn hóa phương Đông. Nói đi đôi với làm
phải gắn liền với nêu gương về đạo đức. Người nói: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày

giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách
mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”. “Người tốt, việc tốt nhiều lắm. Ở đâu cũng có.
Ngành, giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có”.
Như vậy, một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên một cái nền rộng lớn, vững
chắc, khi những chuẩn mực đạo đức trở thành hành vi đạo đức hàng ngày của toàn xã hội.
1.3.2 Xây đi đôi với chống
18
Để xây dựng đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống. Đây là một việc
không hề đơn giản. Xây phải đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây.
Việc trước hết là giáo dục phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới.Việc giáo dục phải
được tiến hành phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, từng lứa tuổi, ngành nghề, giai cấp, tầng
lớp và trong từng môi trường khác nhau; phải khơi dậy được ý thức đạo đức lành mạnh ở mỗi
người.
“Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi
con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách
mạng”. Bản thân tự giác cũng chính là một phẩm chất đạo đức cao quý với mỗi người.
Và trên con dương đi tới tiến bộ cách mạng, đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng thành
công trên cơ sở kiên trì mục tiêu chống chủ nghĩa đế quốc, chống những thói quen, tập quán lạc
hậu và loại trừ chủ nghĩa cá nhân. Đây là cuộc chiến giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa cách mạng và
phản cách mạng. Để giành chiến thắng, điều quan trọng là phải phát hiện sớm, tuyên truyền sớm
hình thành phong trào quần chúng rộng rãi đấu tranh cho sự lành mạnh, trong sạch về đạo đức.
1.3.3. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời, kiên trì, bền bỉ, hàng ngày, bởi vì “đạo đức cách mạng không
phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển củng cố. Cũng
như ngọc càng ngày càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Hồ Chí Minh cũng chỉ ra một hiện
tượng mà đến nay chúng ta càng thấm thía vì tính thời sự của nó, đó là có những người trong lúc
đấu tranh thì trung thành không sợ nguy hiểm cực khổ…có công với cách mạng, xong đến khi có
“ít quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu…mà
biến thành người có tội với cách mạng.
Chương II: Vận dụng vào xây dựng đạo đức, lối sống của sinh viên trong giai đoạn hiện nay

2.1. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí minh là di sản tinh thần vô cùng quý báu, những tư tưởng vô giá, những
giá trị nhân văn cao cả, đặc biệt là tư tưởng đạo đức cách mạng của Người mãi là ánh sáng soi
đường cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân.
Đối với sinh viên - những chủ nhân tương lai của đất nước, lớp người kế tục trung thành
sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc ,là những con người được đào tạo trong các
trường đại học và có tài năng tuy nhiên có tài mà không có đức thì chỉ là người vô dụng , cho nên
việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” là một niềm vinh dự đồng thời là
một nhiệm vụ vô cùng quan trọng và cần thiết.
- Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức đối với cá nhân
Về bản chất, con người luôn có khát vọng hướng đến chân, thiện, mỹ nhằm hoàn thiện bản
thân. Để vươn tới sự hoàn thiện, con người phải tự tu dưỡng hoàn thiện mình về đạo đức. Do vậy,
đạo đức là yếu tố cơ bản của nhân cách, tạo nên giá trị con người.
Hồ Chí Minh cho rằng, đối với các dân tộc phương Đông giàu cảm, trọng đạo lý, việc tu
dưỡng đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi con người vô cùng quan trọng. Riêng đối với thế hệ trẻ, việc
tu dưỡng này còn quan trọng hơn, vì đây là những người chủ tương lai của đất nước, là cầu nối
19
giữa các thế hệ- người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người dìu dắt
thế hệ thanh niên tương lai.
Chính vì vậy việc giáo dục đạo đức và chăm lo cho việc rèn luyện đạo đức của sinh viên đã
được chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm từ rất sớm. Người khẳng định thanh niên phải có đức, có tài.
Đồng thời việc thực hành tốt đạo đức cách mạng trong đời sống hàng ngày của mỗi cá nhân không
chỉ có tác dụng tôn vinh, nâng cao giá trị chính họ mà còn tạo sức mạnh nội sinh, giúp họ vượt
qua khó khăn, thử thách.
Người viết: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại cũng không sợ
sệt, rụt rè, lùi bước…khi gặp thuận lợi thành công thì vẫn giữ tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm
tốn…”
Nhấn mạnh vai trò của đạo đức trong đời sống mỗi cá nhân trong xã hội, Hồ Chí Minh
không phân biệt đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường, đạo đức cán bộ và đạo đức công dân.
Người chỉ rõ trong xã hội, mỗi người có công việc, tài năng và vị trí khác nhau nhưng ai giữ được

đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.
- Kiên trì tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh
Cũng như với cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân khác, đối với tầng lớp sinh viên,
thanh niên tri thức, Hồ Chí Minh đã sớm xác định những phẩm chất đạo đức tối cần thiết để họ
có phương hướng phấn đấu rèn luyện. Sinh viên cần phải:
+ Yêu Tổ quốc: yêu như thế nào? Yêu phải làm sao cho Tổ quốc giàu mạnh. Muốn cho Tổ
quốc giàu mạnh thì phải ra sức lao động, ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm.
+ Yêu nhân dân: Mình phải hiểu rõ sinh hoạt của nhân dân, biết nhân dân còn cực khổ như
thế nào, biết chia sẻ những lo lắng, những vui buồn, những công tác nặng nhọc với nhân dân.
+ Yêu chủ nghĩa xã hội: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội,
vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mới ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi
ngày một giàu mạnh thêm.
+ Yêu lao động: Muốn thật thà yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội thì phải yêu
lao động, vì không có lao động thì chỉ là nói suông.
+ Yêu khoa học và kỷ luật: bởi vì tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có khoa học, kỉ luật.
Để có được những phẩm chất như vậy, sinh viên cần phải rèn luyện cho mình những đức tính
như: trung thành, tận tụy, thật thà và chính trực. Phải xác định rõ nhiệm vụ của mình, “không
phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự hỏi mình là làm gì cho nước nhà?
Mình phải làm gì để có ích lợi cho nước nhà nhiều hơn?
Trong học tập và rèn luyện, phải kết hợp lý luận với thực hành, học tập với lao động;
phải chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng háo danh háo lợi, chống
lười biếng, xa xỉ. Chống cách sinh hoạt ủy mị. Chông kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang.
2.2 Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
20
2.2.1 Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiện nay
Thế kỉ XXI là thế kỉ của văn minh trí tuệ, của sự phát triển khoa học kĩ thuật, nên rất cần có
những con người trẻ tuổi, có trình độ và năng lực sáng tạo cao, có khả năng tiếp nhận cái mới rất
nhanh và biết thay đổi linh hoạt, thích nghi kịp thời với sự thay đổi nhanh chóng của xã hội hiện
đại, đại diện cho một thế hệ tiên tiến mới.
Sinh viên thế kỉ XXI phần lớn tiếp thu và phát huy được truyền sống dân tộc như :yêu

nước, thương người, sống lành mạnh, sống có tình nghĩa; khiêm tốn, luôn cần cù, sáng tạo trong
học tập; sống có bản lĩnh, có chí lập thân, lập nghiệp, dám đối mặt với khó khăn, thách thức, dám
chịu trách nhiệm; luôn gắn bó với nhân dân, phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu nước mạnh, dân chủ
văn minh…
Nhưng ở một số bộ phận sinh viên khác đã xuất hiện việc lệch chuẩn, nghiêng sang khía
cạnh tiêu cực. Tác động tiêu cực rõ nét nhất là biểu hiện cá nhân thực dụng trong quan niệm đạo
đức và hành vi ứng xử trong một bộ phận không nhỏ sinh viên hôm nay. Trào lưu dân chủ hóa,
làn sóng công nghệ thông tin và việc nâng cao dân trí đã làm ý thức cá nhân ngày càng rõ, đặc biệt
là sinh viên. Họ tự ý thức cao về bản thân mình và muốn thể hiện vai trò cá nhân. Cái cá nhân
nhiều khi đã lấn át cộng đồng. Dần dần nó hình thành một thái độ bàng quang đối với những
người xung quanh.
Trong bối cảnh kinh tế thời mở cửa, cùng với sự du nhập lối sống và sản phẩm công nghệ
hiện đại từ các nước phát triển, đã dần dần làm không ít sinh viên
+) Xa rời các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp vốn đã tồn tại bao đời nay.
+) Dần dần hình thành tư tưởng hưởng thụ, ỷ lại, ăn chơi đua đòi
+) Dễ bị dao động về mặt định hướng đạo đức và lối sống .
Cùng với sự phát triển của thông tin, Internet dần trở nên phổ biến, nhiều bạn trẻ đã lên
mạng sử dụng các dịch vụ tiện ích như những thú tiêu khiển. Nếu chỉ dừng lại ở đó thì không có
gì là nghiêm trọng, nhưng đáng lưu tâm ở chỗ đó là từ trò chơi- một lĩnh vực cụ thể, nó dần dần sẽ
ảnh hưởng sang quan niệm về đạo đức nói chung, ở cả các lĩnh vực khác. Những trang web cấm
và nhất là trò chơi game online đang kéo rất nhiều học sinh rời xa trường học. Tình trạng trốn học
chơi ngày càng nhiều. Những trò chơi bạo lực và cách giải quyết những vấn đề trong cuộc sống
bằng đao kiếm đã dần ngấm vào các sinh viên từ thế giới ảo đã trở thành thế giới thực.
Nhiều sinh viên đánh mất niềm tin, lý tưởng, mất phương hướng chiến đấu, không có ý
chí tự lo cho tương lai của bản thân mình; chạy theo lối sống thực dụng, sống thử, sống dựa dẫm,
thiếu trách nhiệm, thờ ơ với gia đình và xã hội, sa vào nghiên ngập, gian lận trong thi cử, chạy
điểm, mua bằng cấp…
2.2.2 Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
21
Được sinh ra và lớn lên trong thời bình, không phải chứng kiến cảnh “nước mất nhà tan”

sự đô hộ cướp bóc của bọn thực dân phong kiến và chứng kiến những hy sinh, mất mát mà lớp
cha anh đã phải trải qua vì độc lập tự do của dân tộc… hạnh phúc ngày hôm nay được tiếp nối
bằng truyền thống anh hùng, bất khuất của dân tộc, bằng sự anh dũng ra đi tìm đường cứu nước
của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, bằng bao xương máu của các chiến sĩ đã hy
sinh quên thân mình để bảo vệ, giữ chặc từng tấc đất biên cương của Tổ quốc, các anh đã làm lên
những chiến công lừng lẫy, đập tan ách đô hộ và chiếm đóng của đế quốc Pháp, đế quốc Mỹ xâm
lược đem lại hoà bình, độc lập, tự do cho đất nước…Để nhớ ơn, thế hệ trẻ hôm nay phải phát huy
những giá trị truyền thống tốt đẹp đó, nâng cao nhiệt huyết sức trẻ trí tuệ thực hiện thành công lý
tưởng của Đảng, của Bác; Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội trên đát nước ta.
Không ngừng mở rộng mặt trận đoàn kết tập hợp thanh niên, chú trọng thanh niên dân tộc,
tôn giáo vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên
doanh. Đoàn kết tập hợp thanh niên là một bộ phận không tách rời khối đại đoàn kết toàn dân tộc
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mở rộng mặt trận đoàn kết tập hợp thanh niên sẽ phát huy được sức
mạnh tổng hợp của các tâng lớp nhân dân góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước, quê hương. Mỗi một đoàn viên thanh niên cần phải thường xuyên nhận
thức sâu sắc về rèn luyện tu dưỡng đạo đức, gương mẫu chấp hành pháp luật của nhà nước, có
trách nhiệm với gia đình và xã hội. Vấn đề quan trọng nhất là công tác giáo dục của Đoàn phải
thực hiện tốt hơn, chức năng giáo dục bồi dưỡng hình thành nhân cách tốt đẹp cho sinh viên với
những tiêu chí hướng tới: Sống có lý tưởng cách mạng, có hoài bão, trí tuệ, bản lĩnh, lối sống
trong sáng, giàu lòng nhân ái, giàu nhiệt huyết góp phần quan trọng hình thành nguồn nhân lực trẻ
có chất lượng phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Bản thân sinh viên cần nhận thức sâu sắc về vấn đề học tập, nâng cao trình độ trong hội
nhập và phát triển. Người đã từng dạy; “Học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, làm cho dân
giàu nước mạnh, tức là để làm tròn nhiệm vụ người chủ nước nhà”.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức vĩ đại của Người đối với mỗi người sinh viên chúng
ta là một nhiệm vụ chính trị quan trọng được tiến hành thường xuyên liên tục và lâu dài, với mục
tiêu là thấm nhuần, là một quá trình từ nhận thức đi đến hành động. Các cấp bộ Đoàn phải thường
xuyên tổ chức học tập tư tưởng đạo đức của Người phù hợp với từng đối tượng. Cần phải sáng tạo
các hình thức học tập để không khô cứng giáo điều mà sinh động hấp dẫn lôi cuốn mọi người. Tư

tưởng của Người thật vĩ đại nhưng vô cùng gần gũi trong cuộc sống do đó cần chọn lựa các cách
thức để đi vào lòng người trở thành hoạt động thiết thực trong cuộc sống. Nên đa dạng các hình
thức học tập, giáo dục hấp dẫn có hiệu quả như diễn đàn, hội thi…các chuyên đề sinh hoạt tư
tưởng, sử dụng các hình thức văn hóa, văn nghệ có hiệu quả để đưa tư tưởng đạo đức của chủ tich
Hồ Chí Minh đến với sinh viên một cách sinh động.
Hồ Chí Minh không chỉ là nhà đạo đức học lỗi lạc mà con là một tấm gương đạo đức vô song.
Chính điều này đã đem lại cho tư tưởng và tấm gương đạo đức của Người có một sức sống mãnh
liệt và cổ vũ lớn lao với nhân dân ta và nhân dân thế giới. Để có đủ tài đức để trở thành chủ nhân
tương lai của đất nước , thanh niên cần phải học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Để học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có hiệu quả thì sinh viên phải có
sự tu dưỡng, rèn luyện hết mình , luôn luôn cố gắng phấn đấu vì gia đình quê hương đất nước,
luôn yêu quê hương đất nước, giàu lòng nhân ái và tích cực làm theo tấm gương đạo đức của Hồ
Chí Minh trong cuộc sống.

22
- Sinh viên cần học trung với nước , hiếu với dân , suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp , giải phóng con người. Đó chính là một phẩm chất đạo đức
quan trọng của sinh viên hiện nay, chính là sự trung thành với đất nước với nhân dân, và đó cũng
chính là phẩm chất đạo đức cần có với sinh viên của đất nước đi theo con đường Xã hội Chủ
nghĩa như đất nước Việt Nam chúng ta, đạo đức vì cộng đồng vì nhân loại.
- Trung với nước: Em thấy bản thân mình trước hết là phải nhận thức rõ trách nhiệm của
bản thân với gia đình, xã hội, phải luôn tin tưởng, trung thành với Đảng, với Nhà nước, ra sức bảo
vệ nhà nước. Không nghe theo các thế lực phản động chống phá nhà nước, gắng sức học tập để
sau này dựng xây đất nước giàu mạnh
- Hiếu với dân: Đầu tiên là phải có hiếu với ông bà,cha mẹ. Sau đó là thương yêu, giúp đỡ
đồng bào mình khi gặp khó khăn:
+)Tham gia đóng góp quần áo, sách vở để giúp đỡ những nơi gặp thiên tai,lũ lụt
+)Tham gia các hoạt động tình nguyện giúp đỡ những trẻ em mồ côi không nơi nương
tựa,những gia đình khó khăn,gia đình thương binh, liệt sĩ như tham gia quét dọn. làm cỏ ở nghĩa

trang, phát xôi cho những người vô gia cư, cũng như các hoạt động công ích khác
+)Tham gia hiến máu nhân đạo giúp đỡ những người đang cần đến những giọt máu đó
- Học cần, kiệm, liêm , chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng , nếp sống giản dị và đức
khiêm tốn vô thường. Một đạo đức hi sinh tính cá nhân của con người, không phải vì riêng tư, từ
bỏ những ham muốn cá nhân , sống trong sạch, giản dị, giàu lòng nhân ái , gương mẫu trong sinh
hoạt học tập, tránh rơi vào thói ích kỉ , cá nhân , tham lam .
* Cần:
+) Luôn luôn cần cù, siêng năng học tập để đạt kết quả cao trong học tập. Có kế hoạch học tập
và làm việc hợp lý, khoa học. Học lý thuyết kết hợp với thực hành.
+) Ngoài thời gian học tập trên lớp khi về nhà thì giúp đỡ cha mẹ công việc gia đình
+) Thấy việc khó thì không bỏ cuộc, phải thử sức mình và cố gắng hết sức
+) Làm việc gì cũng dựa vào bản thân chứ không ỷ lại vào người khác
+) Sống giản dị, không kiêu căng,
* Kiệm:
Để làm đúng chữ kiệm em thấy bản thân mình nên:
+) Sử dụng thời gian của mình hợp lý, lập thời gian biểu hàng ngày, hàng tuần để nắm bắt
được chuỗi thời gian của bản thân.
+) Mua xắm đồ thì chỉ mua ở mức đủ dùng không đua đòi chạy theo mốt, không hoang phí tiền
bạc vào những thứ không cần thiết, không ăn chơi đua đòi theo bạn bè xấu.
+) Với số tiền bố mẹ gửi ra, hàng tháng em sẽ trích ra một khoản nhỏ để phục vụ việc học tập
hoặc phòng cho những việc cần thiết sau này.
+) Với quần áo không dùng nữa nhưng vẫn còn mới, sẽ dành để quyên góp cho những người
nghèo
* Liêm
+) Tôn trọng của công, không có những hành vi phá hoại của công ở trường và cả những nơi
công cộng.
+) Tôn trọng của cải, tài sản của bản thân mình và của người khác, không tham lam, không có
ý định chiếm đoạt tài sản của người khác
+) Nhặt được của rơi trả người đánh mất
* Chính

23
+) Khiêm tốn, không tự cao, tự đại, không bảo thủ luôn cho mình là đúng
+) Lắng nghe những ý kiến của mọi người góp ý cho mình để sửa sai, phát triển cái đúng
+) Tôn trọng người trên, yêu thương người dưới, không có thói nịnh hót hay khinh thường
người khác
+) Sống thật thà, ăn ngay nói thẳng, không lừa trên,dối dưới.
+) Không vì lợi ích của mình mà làm hại người khác, làm ảnh hưởng tới lợi ích của mọi người
xung quanh
+) Gắng sức làm việc thiện để giúp đỡ mọi người, tránh xa tội ác, không rượu chè, cờ bạc,
trộm cắp, sống đúng với pháp luật.
* Chí công vô tư
+) Công bằng với tất cả mọi người
+) Công tư phân minh, không thiên vị, bao che cho bất cứ một ai khi họ làm việc sai trái
+) Đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích của cá nhân mình

* Có tinh thần quốc tế trong sáng
+) Đối xử công bằng, nhiệt tình giúp đỡ và có thái độ lịch sự những khách du lịch đến Việt
Nam. Cởi mở giới thiệu về đất nước Việt Nam mình
+)Có thái độ lịch sự và giúp đỡ bè bạn quốc tế đến học tập tại trường và các trường trên cả
nước có thể hòa đồng với các bạn Việt Nam
-Học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết lòng hết sức
phục vụ nhân dân, luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với mọi người.
+) Yêu thương tất cả mọi người, từ người thân trong gia đình đến đồng bào ta ở mọi nơi
+) Đặc biệt là sự cảm thông, thương yêu đến những người nghèo, trẻ em mồ côi không nơi
nương tựa
+) Không phân biệt giàu nghèo, không có thái độ khinh biệt, xa lánh người nghèo, những
người mắc những căn bệnh thế kỷ
+) Có lòng khoan dung, độ lượng ,bỏ qua lỗi lầm cho người khác khi họ đã biết hối cải
+) Giúp đỡ mọi người vượt qua mặc cảm, đứng lên làm người sống có ích cho xã hội
+) Tôn trọng mọi người, không hạ thấp hay vùi dập người khác khi thấy họ phạm sai lầm

+) Sống có tình có nghĩa
- Học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian
nguy để đạt được mục đích cuộc sống.
+) Em sẽ đặt ra những mục tiêu cho bản thân mình, từ đó quyết tâm thực hiện kế hoạch đó
cho tương lai, sống có lý tưởng, có hoài bão.
+) Cố gắng giữ vững lập trường, không chùn bước trước khó khăn
Để phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của sinh viên có hiệu quả,
dòi hỏi bắt buộc phải có sự giáo dục của nhà trường, gia đình và xã hội. Nếu coi thường một trong
những nhân tố trên, việc học tập và rèn luyện sẽ khó đạt được kết quả như mong muốn.
24
Kết luận
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vẫn còn giữ nguyên tính thời sự, soi sáng cho Đảng và nhân
dân ta hoàn thành sự nghiệp vẻ vang, xây dựng nền đạo đức Việt Nam ngang tầm với những yêu
cầu của giai đoạn cách mạng mới. Là khuân mẫu để sinh viên noi theo. Điều quan trọng hơn hết
vẫn là ở bản thân mỗi sinh viên, phải tự giác học tập và rèn luyện theo tấm gương đạo đức của
Người, tìm thấy trong những lời dạy bảo ân cần của Người các giá trị định hướng cho suy nghĩ và
hành động của bản thân.
Mãi mãi các thế hệ thanh niên Việt Nam luôn khắc ghi lời dạy của Người
“ Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”
Bài học tinh thần về nghị lực phi thường vượt qua mọi khó khăn của Bác luôn sẽ là động lực
thúc đẩy sinh viên cung như thế hệ trẻ hôm nay vươn tới giành những đỉnh cao trong sự nghiệp vĩ
đại của toàn dân tộc.
25

×