Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

điều tra cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc, bài thuốc cho chăm sóc sức khỏe tại huyện sapa, tỉnh lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.23 MB, 126 trang )

1
Bộ giáo dục và đào tạo Bộ y tế
học viện y dợc học cổ truyền việt nam
HOàNG THị HƯờNG
ĐIềU TRA CÂY THUốC Và KINH NGHIệM
Sử DụNG CÂY THUốC, BàI THUốC CHO CHĂM SóC SứC KHỏE
TạI huyện SA PA tỉnh lào cai
Chuyên ngành: Y học cổ truyền
Mã số : 60720201
luận văn thạc sỹ y học
Ngời hớng dẫn khoa học:
GS.TS trƯơng việt bình
Hà Nội - 2012
Bộ giáo dục và đào tạo Bộ y tế
học viện y dợc học cổ truyền việt nam
HOàNG THị HƯờNG
ĐIềU TRA CÂY THUốC Và KINH NGHIệM
Sử DụNG CÂY THUốC, BàI THUốC CHO CHĂM SóC SứC KHỏE
2
TạI huyện SA PA tỉnh lào cai
luận văn thạc sỹ y học
Hà Nội 2012
3
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này tôi luôn nhận được sự giúp đỡ của rất nhiều
Thầy, cô giáo, của các đồng nghiệp, bạn bè và gia đình. Cho phép tôi được bày
tỏ lòng biết ơn sâu sắc và lời cảm ơn chân thành đến:
Ban giám hiệu, phòng Đào tạo sau Đại học - Học Viện Y dược học cổ
truyền Việt Nam, Viện dược liệu, đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá
trình học tập và các địa điểm nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới Thầy Giám đốc học


viện Y dược học cổ truyền, cùng toàn thể các thầy cô giáo trong học viện Y dược
học cổ truyền Việt nam đã nhệt tình giảng dạy, tạo điều kiện thuận lợi trong suốt
thời gian tôi học tập, nghiên cứu.
Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới Gs-Ts
Trương Việt Bình, một tấm gương sáng trong nghiên cứu khoa học. Người thầy
đã trực tiếp hướng dẫn tận tình, cung cấp cho tôi những kiến thức và phương
pháp luận quí báu, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới các GS, PGS, TS
trong Hội đồng chấm luận văn đã góp ý, cho tôi nhiều ý kiến quí báu để hoàn
thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn và luôn ghi nhớ sự giúp đỡ tận tình của sở Y tế
tỉnh Lào Cai, Trung tâm Y tế huyện SaPa , Ủy ban nhân dân xã cùng nhân dân
xã Tả Phìn, xã Trung Chải, đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá
trình thực hiện đề tài nghiên cứu tại địa phương.
Tôi vô cùng biết ơn những người thân trong gia đình, bạn bè đồng nghiệp
đã động viên khích lệ, giúp đỡ tôi trong suất quá trình học tập và nghiên cứu./.
Hà nội, ngày 10 tháng 1 năm 2012
Hoàng Thị Hường
4
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan công trình nghiên cứu này là do tôi thực hiện các số liệu
trong nghiên cứu này là hoàn toàn trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kỳ một nghiên cứu nào khác.
Hà nội, ngày 10 tháng 1 năm 2012
Hoàng Thị Hường
5
DANH MỤC VIẾT TẮT
CHRU Đơn vị nghiên cứu sức khỏe cộng đồng
(Community Health Researeh Unit)
CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

CSSK Chăm sóc sức khỏe
CSSKBĐ Chăm sóc sức khỏe ban đầu
GMP Tiêu chuẩn thực hành tốt Sản xuất
GPP Nhà thuốc thực hành tốt, đủ tiêu chuẩn
NXB Nhà xuất bản
UBND Ủy ban nhân dân
WHO Tổ chức Y tế Thế giới
(World Health Organization)
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
(World Trade Organization)
YHCT Y học cổ truyền
YHHĐ Y học hiện đại
YTTB Y tế thôn bản
6
ĐẶT VẤN ĐỀ
Y dược cổ truyền Việt Nam có lịch sử lâu đời, với tiềm năng và vai trò to
lớn trong sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân trong suốt hàng ngàn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, người Việt Nam đã từng tự hào “Nam
dược trị Nam nhân”. Là một quốc gia có 54 dân tộc khác nhau cùng sinh sống,
mỗi địa phương vùng miền đều có những cây thuốc quý, nhiều bài thuốc hay và
nhiều kinh nghiệm chữa bệnh dân gian của đồng bào các dân tộc. Trải qua thực
tiễn hàng nghàn năm, đến nay vẫn còn nguyên giá trị chữa bệnh cứu người góp
phần nâng cao thể trạng và giống nòi [31]. Trong quá trình phát triển, dược liệu
với phong trào thuốc Nam đã khẳng định vị trí của nó đối với sự nghiệp Chăm
sóc sức khoẻ nhân dân. Các bạn quốc tế luôn đánh giá cao những kết quả đã đạt
được trong ngành dược liệu thông qua chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu
(CSSKBĐ) và chương trình Thuốc thiết yếu Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy, đến nay các vùng phân bố tự nhiên của cây thuốc bị suy giảm nghiêm trọng
do khai thác một cách cạn kiệt. Nhiều vùng rừng có cây thuốc phong phú nay đã
hoàn toàn bị phá bỏ, như khu vực núi Hàm Rồng (Sa Pa, Lào Cai); Cao nguyên

An Khê (thuộc hai tỉnh Gia Lai và Bình Ðịnh) Nguồn dược liệu thiên nhiên bị
khai thác kiệt quệ, nhiều loại có nguy cơ tuyệt chủng. Ðã đến lúc cần phải có
một chiến lược khai thác, nuôi trồng và chế biến hợp lý mới có thể phát huy giá
trị nguồn tài nguyên này trong chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.
Đứng trước tình hình phát triển của đất nước là phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xu thế chung của thời đại là kinh tế hội
nhập. Đòi hỏi mỗi địa phương, mỗi vùng miền đều phải phát triển khai thác tiềm
năng phát huy thế mạnh của mình để thu thu hút và sử dụng hiệu quả các dòng
vốn đầu tư trong và ngoài nước phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội.
Trong lĩnh vực chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân cũng vậy. Phát
triển dược liệu để tạo ra các sản phẩm chăm sóc sức khỏe cũng đang là xu hướng
7
chung của nhiều nước trên thế giới. Ở nước ta ngay từ năm 1995 chính phủ đã có
chủ trương trên cơ sở khoa học thừa kế, nghiên cứu những kinh nghiệm tốt của
YHCT, kết hợp y học cổ truyền(YHCT) với y học hiện đại(YHHĐ) nhằm tăng
cường khả năng phòng bệnh và chữa bệnh cho nhân dân. Chủ trương kết hợp này
đã được ghi trong Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào
năm 1980 và năm 1992 [28 ] chính là hưởng ứng thiết thực, hiệu quả chủ trương
của Ðảng và Nhà nước về ưu tiên kế thừa, bảo tồn, phát triển nguồn dược liệu
trong nước. Việc đi sâu tìm hiểu những kinh nghiệm dân gian sử dụng dược liệu
để phòng và chữa bệnh của người dân tộc thiểu số nhằm bảo tồn, thừa kế, phát
huy, phát triển từng bước góp phần hiện đại hóa nền YHCT Việt Nam, nghiên
cứu và có định hướng sản xuất thành những sản phẩm đông dược một loại hàng
hóa trong nền kinh tế thị trường, vừa có giá trị chữa bệnh vừa có giá trị kinh tế là
việc làm hết sức cần thiết. Sa Pa là một thị trấn vùng cao của tỉnh Lào Cai có
nguồn cây thuốc rất phong phú đa dạng, cũng là nơi sinh sống của nhiều dân tộc
ít người trong đó có tộc người Dao, H’mông, Tày là những tộc người có rất
nhiều kinh nghiệm lâu đời và quí báu trong sử dụng các cây thuốc địa phương
trong phòng và chữa bệnh, nhưng hiện cũng đang trong tình trạng có nguy cơ bị
mai một dần và cần được bảo tồn và phát triển. Xuất phát từ cơ sở trên chúng tôi

tiến hành nghiên cứu đề tài:“Điều tra cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng cây
thuốc, bài thuốc cho chăm sóc sức khỏe tại huyện Sapa, tỉnh Lào Cai” với hai
mục tiêu là:
1. Điều tra thực trạng cây thuốc và bài thuốc, bước đầu phân loại dược
liệu hiện có tại 03 xã huyện Sapa, tỉnh Lào Cai.
2. Mô tả kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của người dân địa phương
trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng của người dân tại 03 xã huyện
Sapa, tỉnh Lào Cai.
Chương 1
8
TỔNG QUAN
1.1. Sơ lược tình hình Y học cổ truyền ở một số nơi trên thế giới.
1.1.1. Sơ lược về lịch sử phát triển y học cổ truyền trên thế giới:
YHCT có lịch sử phát triển từ rất sớm. Hầu hết các quốc gia trên thế giới
đều có nền YHCT của dân tộc mình, mang bản sắc riêng và có những đóng góp
ở nhiều mức độ khác nhau vào sự nghiệp CSSK cho người dân. Thế giới có
nhiều nền YHCT lớn (Trung Quốc, Ấn Độ, ).
Trung Quốc( TQ) với nền YHCT lâu đời có các học thuyết của YHCT như
học thuyết âm dương, học thuyết ngũ hành, học thuyết kinh lạc, học thuyết thiên
nhân hợp nhất. Sau khi giành độc lập vào năm 1949 với sự ra đời của Nhà nước
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, YHCTTQ đã hợp nhất vào hệ thống Y tế chung
của quốc gia, hoạt động dưới sự quản lí của Bộ Y tế [9].
Những năm gần đây, trào lưu dùng thuốc thiên nhiên của Thế giới nóng trở
lại đã mang đến cơ hội phát triển mới cho ngành Đông dược, nhưng đồng thời
cũng phải đối mặt những thách thức gay gắt. Các nước trên Thế giới cạnh tranh
áp dụng các kỹ thuật khoa học hiện đại để tiến hành nghiên cứu khai thác và phát
triển, sự cạnh tranh trên thị trường Quốc tế ngày càng trở nên khốc liệt, ngành
Đông dược phải đối mặt với nhiệm vụ cấp bách là buộc phải hiện đại hóa. Mười
năm đầu của thế kỷ 21 là thời kỳ quan trọng cho sự phát triển kinh tế và xã hội
Trung Quốc, và cũng là thời kỳ mấu chốt cho sự phát triển ngành Đông dược.

Y học cổ truyền Ấn Độ là một nền Y học dân tộc có lịch sử phát triển lâu
dài và sâu sắc. Hiện nay, người ta chia Y học cổ truyền Ấn Độ thành nhiều
trường phái trên cơ sở có sự các khác nhau về quan niệm, lý luận và phương
pháp thực hành như Ayurveda, Yoga, Unani, Sidha [55].
Nhật Bản với lịch sử YHCT hơn 1.400 năm được xem là nước có tỷ lệ
người dùng thuốc cổ truyền cao nhất thế giới hiện nay. Theo một cuộc điều tra
9
vào tháng 10/2000 cho thấy có 72% bác sỹ Tây y sử dụng Kampo (thuốc dân
gian Nhật Bản kết hợp với thuốc cổ truyền Trung Quốc). Chỉ trong vòng 15 năm
(1974-1989), sử dụng thuốc cổ truyền ở Nhật Bản đã tăng 15 lần, trong khi các
loại thuốc tân dược chỉ tăng 2,6 lần[9].
Ở các nước đang phát triển, nơi có 1/3 dân số không được tiếp cận với các
thuốc thiết yếu của YHHĐ thì việc cung cấp an toàn và hiệu quả của YHCT đã
trở thành công cụ đắc lực để điều trị bệnh tật. Butan có hơn 2.990 cây thuốc dân
tộc được sử dụng, khoảng 70% nguyên liệu thảo dược thô có thể sử dụng được
ngay, hơn 300 sản phẩm thảo dược sản xuất tại đây[34]. Ở châu Phi, có tới 80%
dân số đã từng sử dụng YHCT trong chăm sóc sức khỏe. Ngay ở các nước phát
triển thì cũng có tới 50% dân số đã từng sử dụng YHCT ít nhất một lần [56].
YHCT không chỉ có tác dụng trong CSSKBĐ mà hiện nay trên thế giới khi
đại dịch HIV/AIDS đang diễn biến phức tạp thì các phương thuốc cổ truyền lại
là sự lựa chọn ở nhiều nơi vì tính an toàn, rẻ tiền, tiện lợi của nó. Người ta ước
tính ở San Francisco, London và Nam Phi có tới 75% người HIV/AIDS dùng
YHCT như một phương thuốc bổ, tăng cường năng lượng giúp tiêu hóa tốt [56].
Bên cạnh kết quả khả quan trên thì YHCT ở nhiều nước trên thế giới vẫn
chưa được nhìn nhận đúng đắn đặc biệt trong thời đại đang tràn ngập thuốc tân
dược như hiện nay. Mặc dù vẫn tồn tại ở nhiều nước, song YHCT vẫn chưa được
hợp nhất vào hệ thống Y tế quốc gia, chưa có những quy định pháp lý cụ thể, cơ
quan chuyên quản lý về YHCT[45].
Tóm lại, bên cạnh sự phát triển mạnh của YHHĐ thì YHCT với sức sống
trường tồn vẫn đang không ngừng khẳng định vai trò không thể thiếu được trong

công tác Y tế ở các quốc gia.
1.1.2. Những nghiên cứu về cây thuốc dân tộc.
10
Bên cạnh nền YHCT chính thống, các cộng đồng dân tộc tích lũy tri thức
và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc chỉ lưu truyền trong các cộng đồng hẹp.
Điều tra tri thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc dân tộc (Ethnomedical
Plants) là một hướng nghiên cứu được triển khai từ lâu ở các quốc gia phát triển
và gần đây được đặc biệt quan tâm tại các nước đang phát triển. Hiện nay nhiều
tri thức, kinh nghiệm quý báu và sử dụng cây thuốc trong phòng chữa bệnh chỉ
được lưu hành trong các cộng đồng dân cư hẹp. Việc điều tra, phát hiện các cây
thuốc, bài thuốc dân tộc có hiệu quả điều trị cao cho việc sản xuất các dược
phẩm mới chữa trị các bệnh hiểm nghèo với chi phí và thời gian ngắn.
Từ lâu, kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các bộ lạc thổ dân đã được các
nhà nghiên cứu quan tâm và nghiên cứu ứng dụng. Khi quan sát hiện tượng
không mắc chứng Ascorbus của thổ dân Mỹ vào mùa đông, các nhà khoa học đã
phát hiện nguyên nhân chống được bệnh này là do thổ dân thường xuyên uống
nước nấu bằng là một loài thông (Pinus sylvestyt). Từ nghiên cứu đó chiết xuất
thành công một loại axit chống lại Ascorbus (Ascorbic acid), hiện nay thường
gọi là Vitamin C, tương tự như vậy, khi nghiên cứu kinh nghiệm sử dụng các cây
thuốc của bộ tộc thổ dân vùng Tây Ấn Độ, các nhà thực vật Mỹ đã phát hiện tác
dụng an thần của nước sắc từ rễ loài Ba gạc (Rawolfia verticillata ). Kết quả điều
tra này là cơ sở để sản xuất thuốc reserpin được sử dụng rộng rãi trên thế giới.
Nhiều loại dược phẩm hiện hành trên thị trường thế giới đã được điều tra thông
qua hướng dẫn nghiên cứu này hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp.
Trong khoảng thời gian 30 năm gần đây, riêng Viện Ung thư Hoa kỳ (NCT)
đã điều tra, nghiên cứu sàng lọc hơn 40.000 mẫu cây thuốc và phát hiện hàng
trăm loài cây thuốc có khả năng chữa bệnh ung thư. Trên cơ sở nghiên cứu này,
một số thuốc kháng ung thư đã được chiết xuất từ các cây thuốc dân
tộc(Vinblastine từ cây dừa cạn, Taxoltere từ cây thông đỏ,…).
11

Từ kết quả nghiên cứu các bài thuốc chữa bệnh đường niệu của các dân tộc
ở một số khu vực trên thế giới, nhiều loại thuốc điều trị chứng phì đại tuyến tiền
liệt đã được sản xuất trong những năm gần đây Prunus từ kinh nghiệm sử dụng
vỏ cây mận của thổ dân vùng Bắc Phi, Serenoa từ kinh nghiệm sử dụng vỏ quả
Cọ lùn của thổ dân Bắc Mỹ hoặc urtica được sản xuất từ vỏ thân cây Tầm ma
theo kinh nghiệm sử dụng của dân tộc Bắc Âu.
Từ nghiên cứu sàng lọc thực nghiệm các cây thuốc và bài thuốc dân tộc,
nhiều loại thực vật đã được xác định làm đối tượng định hướng cho các nghiên
cứu Y học và Dược học:
- Như các cây có triển vọng kháng ung thư như Bùm bụp (Mallotus apelta).
Ngải (Ficus hispida), Thông đỏ (Taxus spp), Hồi đầu thảo (Tacca spp), Gấc
(Momordica indica), Ghi (Viscum spp), ;
- Các cây có triển vọng kháng virus (bao gồm cả kháng HIV/AIDS): Diệp
hạ châu (Phyllanthus spp), Khổ sâm (Croton tonkinensis), Mù u (Callophylla
spp), Qua lâu (Trichosanthes spp) ;
- Các cây có triển vọng chữa bệnh tiểu đường (type II): Cà đen (
Solanumnigrum) Cajamus cajan, Callaluma edulis, Dodonaea viscosa, Táo ta
(Zizyphus jujuba),
Từ các nghiên cứu sàng lọc cây thuốc dân tộc, nhiều loại thuốc chữa các
bệnh hiểm nghèo đã được sản xuất [14].
1.2. Sơ lược lịch sử và sự phát triển của nền Y học cổ truyền Việt Nam.
1.2.1. Lịch sử phát triển của nền YHCT Việt Nam.
Việt Nam có đặc điểm địa lý, khí hậu mang nét đặc trưng riêng, địa hình
phức tạp, độ ẩm trung bình trên 80%, chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm lớn
(khoảng 8-10 độ) [ 43 ]. Các đặc thù về địa lý, khí hậu, thổ nhưỡng rất thuận lợi
cho sự phát triển các cây thuốc. Việt Nam được coi là một trong những nơi có
thảm thực vật đa dạng, và nguồn dược liệu phong phú. Bên cạnh đó, Việt Nam
có 54 dân tộc anh em sinh sống và mỗi dân tộc đều có kinh nghiệm riêng của
12
mỗi dân tộc đã tạo cho Việt Nam có một nền văn hóa truyền thống và kinh

nghiệm dân gian phong phú sử dụng cây thuốc trong phòng và chữa bệnh tại
cộng đồng.
YHCT Việt Nam ra đời từ rất sớm, gắn liền với sự phát triển của lịch sử và
truyền thống văn hóa dân tộc. Ngay từ thủo khai hoang, dân tộc Việt Nam đã
biết dùng thảo mộc, kết hợp với một số loài động vật, khoáng vật để làm thuốc
trong phòng và chữa bệnh tại cộng đồng. Những kinh nghiệm dùng thuốc Nam
của từng người dân lưu truyền từ người này cho người khác, từ đời này đến đời
sau, kết hợp với hàng nghìn ông lang, bà lang trong từng thôn xóm, bản làng làm
nghề chữa bệnh cho cộng đồng bằng thuốc cổ truyền. Do đó, kinh nghiệm ấy
được nhân rộng và phát triển[8]. Lịch sử đã ghi lại từ thế kỷ XIV, Tuệ Tĩnh –
một danh Y nổi tiếng của nước ta viết hai tác phẩm có giá trị “Hồng nghĩa giác
tự y thư” và “Nam dược thần diệu” trong đó mô tả kỹ về tên, tác dụng và kinh
nghiệm sử dụng của 499 vị thuốc nam. Đến thế kỷ thứ XVII, đại danh Y Hải
Thượng Lãn Ông đã viết bộ sách “Hải Thượng Y tông tâm lĩnh” gồm 28 tập, 66
quyển. Ông đã phát huy tư tưởng tự chủ “Dùng thuốc Nam chữa bệnh cho người
Nam” của Tuệ Tĩnh và đã bổ sung được 300 vị thuốc nam ngoài các vị thuốc đã
được ghi trong sách của Tuệ Tĩnh.
Nhận thấy tầm quan trọng của YHCT trong chăm sóc sức khỏe, ngay từ
ngày hòa bình lập lại, Đảng và Chính phủ đã ban hành hệ thống văn bản qui
phạm pháp luật nhằm khẳng định vai trò của YHCT nhằm bảo tồn, phát huy phát
triển YHCT, tạo hành lang pháp lý cho những người hành nghề YHCT. Đặc biệt
Chính phủ đã lồng ghép YHCT vào hệ thống chăm sóc sức khỏe quốc gia thể
hiện ở các văn bản qui phạm pháp luật như: Chính sách quốc gia về y dược cổ
truyền đến năm 2010 của thủ tướng chính phủ ban hành ngày 03/11/2003, trong
đó nêu rõ: kế thừa, bảo tồn và phát triển y dược học cổ truyền, kết hợp YHCT
với YHHĐ trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân; xây dựng nền y dược
Việt Nam hiện đại, khoa học, dân tộc và đại chúng. Quan điểm chỉ đạo của Ban
13
Bí thư Trung ương Đảng tại chỉ thị số 24- CT/TW ngày 04/7/2008 là phát triển
nền Đông y Việt Nam là góp phần bảo tồn bản sắc, phát huy và phát triển một bộ

phận văn hóa của dân tộc Việt Nam; trong đó cũng nêu rõ mục tiêu là: đẩy mạnh
việc nghiên cứu, kế thừa, bảo tồn và phát triển đông y; kết hợp đông y với tây y
trong chăm sóc sức khỏe nhân dân, xây dựng nền y dược Việt Nam hiện đại,
khoa học dân tộc và đại chúng, ngang tầm khu vực thế giới.
Chính hệ thống văn bản qui phạm pháp luật đã tạo hành lang pháp lý và
khuyến khích các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, sưu tầm và bảo tồn các
nguồn cây thuốc được hệ thống bằng các tài liệu và đúc kết thành các tác phẩm
có giá trị được giới khoa học trong nước và quốc tế ghi nhận. Tác phẩm phải
nhắc đến; năm 1960 Giáo Sư - tiến sĩ Đỗ Tất Lợi đã xuất bản lần thứ nhất quấn
sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” , cho đến nay cuốn sách này đã
được xuất bản lần thứ tám và nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh. Tác phẩm
này được nhân dân và các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng như Thế giới đánh giá
cao.[8]. Ngoài ra, phải kể đến các công trình khoa học khác liên quan đến vấn đề
này, như cuốn “Tóm tắt đặc điểm các họ cây thuốc” của Vũ Văn Chuyên (1966),
“Từ điển cây thuốc Việt Nam” của Võ Văn Chi (1999), “Cây thuốc và động vật
làm thuốc ở Việt Nam” - Viện dược liệu (2004). Trong đó có trên một nghìn cây
thuốc và các bài thuốc của người dân thường sử dụng tại cộng đồng.
Như vậy, việc sử dụng thuốc Nam trong phòng và chữa bệnh cũng như việc
nghiên cứu, kế thừa và bảo tồn luôn tồn tại và phát triển ở nước ta từ xưa đến
nay[13], [48], [15], [31], [27].
1.2.2 Kết quả một số công trình nghiên cứu về kinh nghiệm sử dụng cây
thuốc của một số dân tộc ít người .[8], [21], [50].
1.2.2.1 Kinh nghiệm sử dụng thuốc YHCT của người Tày.
Theo nghiên cứu về người Tày xã Đồng Chum, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa
Bình của Đoàn Thị Tuyết Mai (2010): người Tày chữa bệnh gan, vàng da, cổ
chướng dùng: Cây dứa dại giống tím, Cây ngải xá giống xanh, Cỏ nha khi má,
14
Cỏ tản piện. Bài thuốc có tác dụng giải độc, tiêu phù thũng, trị các bệnh về gan.
Để chữa bệnh về rối loạn tiêu hóa dùng: Cỏ đừa(tầm gửi), Pha phạc cỏ câng(tầm
gửi cây găng), Vỏ cây ổi rụng xuống, Cây ngái xá giống xanh, Cỏ nha khi má,

Cỏ tản piện, Cọ ương cả, Cây bông trăng. Bài thuốc chữa chứng tiêu chảy, viêm
đại tràng, trẻ con người lớn đi kiết lỵ, sắc lên dùng 1 ấm là khỏi. Để chữa khỏi
bệnh thận dùng: Cỏ đượi, Cỏ chú khạu, Cọ tạn (Mã đề), Nha côn khển, Rau
ngót, Cọ phương ( Cây khế), Cọ xón (Râm bụt); Đun sắc uống thay nước trong
vòng 1 tháng thì khỏi bệnh. Để chữa bệnh phụ nữ sa dạ con dùng: Cỏ khọp khí
phay (Chia khải tùi), chưa chịp chiển, Mạc pị đỉn; tất cả giã ra, gói vào lá lùi vào
tro bếp nóng đắp vào chỗ sa dạ con, mặc quần lót chặt 1 tiếng thay thuốc 1 lần,
có thể kết hợp uống Mạc pi đin. Chữa đau dạ dày dùng: Cọ phan hái, Chưa mạc
vanh, Cọ trái hèo, Chưa xa lán, Cọ cháy, Cọ pia men, Cọ hín lán; Đun uống đến
khi khỏi trong khi dùng thuốc kiêng thịt bò, cá tanh, lạnh, các chất kích thích
như chè, ớt.[ 38].
1.2.2.1 Kinh nghiệm sử dụng thuốc YHCT của người Cao Lan.
Theo nghiên cứu về người Cao Lan xã Đội Cấn, huyện Yên Sơn, tỉnh
Tuyên Quang của Ty Thị Hoàn ( 2004) : người Cao Lan chữa bệnh gan có phù
dùng: Hơng cưng toọc (nghệ trắng), Bong bóng lợn cỏ (lợn rừng), Mây min (Cây
gạo), Sà mây nin (Tầm gửi cây gạo), Mây min ổn (cây gáo), Mạc pầy pà (cây
sổ), Hau slay ma lưng (Dạ cẩm), Nhứ tộc tam (Cỏ thốt nốt), Dây tơ hồng, Ca
lần cậy lưng (Hoa mào gà vàng), Va lần cậy loơng (hoa mào gà đỏ), Mây hồng
tám. Bài thuốc này có tác dụng tiêu phù thũng, bổ mắt, trị bệnh về gan, kích
thích tiêu hóa. Để chữa khỏi thận dùng: Mây hò phứng (Cơm khê), Bàng cư (ống
tre đựng muối lâu năm), tung mạc qua (cuống quả bí ngô), ăn lòng tôm (tổ con
ong bò vẽ trên vách đất), mây lệnh (cây gác bếp). Các vị thuốc trên băm nhỏ
hoặc chặt khúc mỗi thứ một nắm đem sắc kỹ, sau đó đem tổ ong bò vẽ nung
nóng giã mịn, hòa vào thuốc đã sắc uống. Để chữa phụ nữ bị động thai người
Cao Lan có kinh nghiệm dùng: Cây gai, cây cơm đỏ, cỏ chân vịt, lá liễu, ké hoa
15
vàng dùng rễ tươi hoặc khô đem sắc uống. Thường uống từ 1-2 lần là khỏi.Bị sốt
xuất huyết thì dùng: Nàng trứng ếch (đen, trắng) hai vị làm chủ quân, lá cơm
nếp, mía dò, kim giao, cỏ nhọ nồi, dương xỉ mỗi thứ một nắm (dùng tươi), sắc
uống, uống lúc nguội. Theo kinh nghiệm của họ thì hai vị thuốc nàng nàng

trứng ếch (đen trắng) là hai vị chủ quan không thể thiếu, chúng có tác dụng
hạ nhiệt cầm máu tốt.[26].
1.2.2.2 Kinh nghiệm sử dụng thuốc YHCT của người Dao.
Theo nghiên cứu của Trần Thị Hồng Hạnh (2000) về người Dao Quần Chẹt
tại xã Tu Lý, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình:Thường sử dụng cây thuốc có tại địa
phương để phòng và chữa bệnh, như các cây có tác dụng hạ sốt, trị cảm như Bạc
hà, chanh cỏ màn trầu, cúc tần, gừng Để trị cúm thì dùng cây Hương nhu, lá
bưởi, lá tre, củ kiệu mỗi thứ một nắm to nấu với nước vừa để xông, vừa để tắm.
Bị ngã bong gân thì lấy lá cây bong gân thái nhỏ, sao nóng rồi bóp vào chỗ đau,
hoặc dùng lá Bưởi bung sao nóng bóp vào chỗ đau làm như thế nhiều lần thì
khỏi. Chữa đái buốt, đái rắt, đái vàng thì dùng những cây có đặc tính mát như
giền chua, cây nhân trần, hoa mào gà vàng, cây ghìm tửu ngau (lá mốc hoặc lá
non màu đỏ), cây xương xông, mỗi thứ một nắm thái nhỏ sắc uống. Những phụ
nữ có thai rồi ra huyết người Dao Quần Chẹt có bài thuốc dùng thân và rễ cây
Ngồng nghẹ mia (cây vạn trâu), cắm chìa khía (Mía đỏ), Tùng gầy chặt (cây cứt
lợn), Thài lài rễ cây cỏ ké dại, cây chuối tiêu mỗi thứ một nắm, chặt thành đoạn
ngắn rửa sạch, để ráo nước, sắc uống. Với phụ nữ có thai đau bụng không ra
huyết thì dùng: rễ cây gai, rễ rau ngót, rễ cây ké đồng tiền, mỗi thứ một nắm,
chặt nhỏ, rửa sạch uống. Để chữa bệnh phụ khoa thì dùng cây thuốc như Bạch
đồng nữ, hoa cứt lợn, chó đẻ, củ gấu, đinh lăng, ích mẫu, ngải cứu, nghệ đen,
phàm sất,. Đồng bào còn biết dùng một số vị thuốc để nấu cháo hoặc hầm gà đó
là những món ăn bổ dưỡng [22] .
16
1.2.2.3 Kinh nghiệm sử dụng thuốc YHCT của người Mường.
Theo nghiên cứu về người Mường ở xã Địch Giáo, huyện Tân Lạc, tỉnh
Hòa Bình của Đinh Thị Huệ (2004): người Mường khi ốm đau không chỉ lo cúng
bái mà họ còn biết tìm các cây thuốc để chữa bệnh như các cây có tác dụng hạ
nhiệt, giải cảm như: Bạc hà, chanh, tía tô Khi bị đau đầu chóng mặt, phải gió
thì dùng bài thuốc đánh gió như sau: Lòng trắng trứng gà đã luộc, một vài lát
gừng gió và một đồng tiền bạc. Bỏ tất cả những thứ đó vào một cái khăn vải

mỏng buộc lại cạo dọc thăn thịt hai bên cột sống. Hoặc khi đau mình, đau tay
chân thì lấy lá Cây dây gió, lá cây nhuội duối, mỗi vị khoảng 100-500g giã,
chưng nóng, trải đều và chườm chỗ đau, ngày làm một lần, làm từ 2-3 ngày.
Chữa ho, lấy từ 3-5 con sâu đục trong thân cây dâu, nướng thành than, hòa vào
nước cho tan rồi uống. Với phụ nữ ngày sinh con người mẹ ăn cơm nếp cẩm
(cơm xôi), ngoài các tục lệ khiêng kỵ ngày sinh con người chồng phải nấu riêng
một nồi cơm nếp cẩm thơm ngon và nướng gói muối giã với rau bẹ cho vợ ăn.
Sau ngày sinh con người mẹ ăn cơm nếp cẩm (cơm ôi) với lá tắc chiềng, có khả
năng chống được bệnh sài cho mẹ và con, nên xung quanh nhà nào cũng trồng
loại cây này. Sau đẻ, tục uống nước nóng nấu với các loại lá cây thuốc như lá
cườm, lá bò ma, lá làm tan, lá thoang thoảng, lá chẹo, lá lạnh, lá triền, lá chân
chim, người mẹ phải uống no, uống nhiều để thải các chất độc ra ngoài. Người
đẻ suốt ngày đêm phải ngồi bên bếp lửa, tục sưởi lửa bắt buộc áp dụng cho
người đẻ bất kỳ là mùa nào. Họ cho rằng lửa sưởi để cho khí huyết lưu thông và
tăng nhiệt lượng cho người đẻ. Sau đẻ 3 ngày, người mẹ được lau tắm thân thể
bằng nước đun sôi, từ đó mới được tự do đi lại bên bếp lửa buồng trong. Qua cữ
có thể làm các công việc nội trợ. Người mẹ thiếu sữa, lấy quả và lá cây sung đồ
chín ăn kèm xôi nếp để lấy sữa nuôi con[ 23 ].
Một nghiên cứu khác về người Mường ở xã Cúc Phương huyện Nho Quan,
tỉnh Ninh Bình của Nguyễn Văn Hiệu(1997) người Mường có bài thuốc chữa
đau dạ dày thân lá cây khôi xanh, khôi tía sắc uống. Điều trị bệnh tê liệt dùng lá
17
cây nhâm, lá cây bò cu vẽ, thân và lá cây co giãn, lá hoặc cây cúc tần, lá cây
ngải cứu, mỗi vị 50g đun sôi 15-20 phút, uống nóng một chén nhỏ và xông nóng
đến khi nguội có thể cho tay vào được thì tắm nước đó xoa bóp vào cơ thể bị liệt.
Chữa ỉa chảy người Mường dùng cây nắc nẻ, vỏ cây xương cá, thân lá cây ngải
cứu, mỗi vị 100g đun sôi 15-20 phút chắt lấy nước để uống [ 24 ].
1.2.2.4. Kinh nghiệm sử dụng thuốc YHCT của người H’Mông.
Theo nghiên cứu về người H’mông ở Hòa Bình của Đặng Thị Hoa (1997)
[25]. Người H’mông ở Hòa Bình có cách thức phòng bệnh cho trẻ em rất lý thú

đó là: Lấy rễ cây thuốc nhuộm áo cho trẻ em mặc, chống các bệnh lở loét. Áo
này mặc ngày chỉ vài tiếng sau đó phải cởi ra và không được giặt. Chăm sóc phụ
nữ sau đẻ: sản phụ được ăn thịt gà để bổ dưỡng nhưng tránh ăn gà trắng, gà hoa
mơ, chỉ ăn gà luộc hay nấu canh vì họ quan niệm ăn khô sẽ mất sữa. Có bài
thuốc chữa thấp khớp bao gồm: Cành, lá cây gắng la, cành, lá cây tăng li la (ngải
chân vịt), cành, lá pờ lia đăng (câu kỷ), cành, lá cây tô chế (thuốc bỏng), cả cây
rừ pua (mã đề), mỗi loại một nắm nhỏ đun uống. Để an thai dùng một nắm cây
sang plầu (ké hoa đào) sắc uống ngày 3 lần. Chữa không có kinh bế kinh họ
dùng một nắm ngọn hoặc cành cây gàm (chàm mèo), 3 gốc la giằng (mao lương
Quảng Đông). Một nắm rau răm sắc đặc lấy một bát, hoặc uống sống, bài vị này
cũng có thể gây sảy thai. Chữa chứng sưng vú: dùng một nắm lá tẩu phàng (cây
chút chít) giã đắp (không được uống).Chữa bệnh ỉa chảy dùng tớ tung gua (tống
quán sủi), tớ chí đua (vỏ đào), tớ chi khơ (vỏ mận), tớ khâu si (vỏ cây muối), tớ
chí lế (tử châu hoa trần), mỗi thứ một nắm đun lên uống đến khi khỏi thì thôi.
Thuốc làm tan máu tụ, chữa sai khớp, bong gân dùng cả cây sùa đằng (tía tô
đất), dây mang cu giàng (xuyến thảo), lá mé pằng sâu nhè (bọ chó), mỗi loại một
nắm dùng tươi đắp chỗ đau. Khi bị cảm thì dùng bài thuốc tắm bao gồm: quán
trì (biến hóa), rào sa (lá khôi hoa anh thảo), cành, lá chí cờ chia sa (màng tang),
tăng dê (mộc tặc), các loại đun lên nước tắm, tránh gió, uống một bát nước thuốc
trên cho nhanh khỏi.[ 10].
18
1.3. Sơ lược về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội của Huyện Sapa- Lào cai.
1.3.1. Sơ lược về điều kiện tự nhiên KT- VH - XH và Y tế của tỉnh Lào Cai.
Lào Cai là tỉnh miền núi vùng cao, Nằm ở biên giới phía Bắc cách thủ đô
Hà Nội 340 km, Diện tích 6.357 km² với dân số tỉnh là 613.075 người Có 1
thành phố, 8 huyện thị, với 25 dân tộc cùng sinh sống, là mảnh đất phong phú về
bản sắc văn hóa, về truyền thống lịch sử, di sản văn hóa. Trong đó Người Việt
chiếm số đông, trong số đó thì đông hơn cả là Người dân tộc H'Mông, Tày, Dao,
Người Dáy, [1] có địa hình tương đối phức tạp, độ dốc lớn trên 250 chiếm 84%
diện tích toàn tỉnh. Ðịa hình của tỉnh được chia làm 2 vùng chính: Vùng cao có

độ cao trên 700m trở lên, được hình thành từ 2 dãy núi lớn là dẫy Hoàng Liên
Sơn và dãy Con Voi. Dãy Hoàng Liên Sơn có nhiều đỉnh cao như đỉnh Phan Xi
Păng cao 3.143 m, Tả Giàng Phình cao 3.090m so với mặt nước biển; Vùng thấp
chủ yếu là thung lũng dọc ven sông, ven suối lớn, địa hình máng trũng có bề mặt
dạng đổi. Ngoài ra còn có các thung lũng nhỏ hẹp, bao bọc bởi các dãy núi[1].
Là một tỉnh miền núi, Lào Cai có diện tích rừng lớn, cung cấp nhiều cây dược
liệu quí, do được thiên nhiên ưu đãi về điều kiện tự nhiên nên nhiều loại cây, con
dược liệu như tam thất, xuyên khung, đỗ trọng, mật ong được trồng, nuôi có
hiệu quả tại các huyện vùng cao. Cùng với đội ngũ thầy thuốc YHCT có kinh
nghiệm với các bài thuốc đông y gia truyền chính là những điều kiện tốt để phát
triên nền YHCT của tỉnh. Nói chung đồng bào dân tộc ở đây cũng đã sử dụng
thuốc YHCT một cách tự nhiên theo kinh nghiệm truyền miệng từ đời này qua
đời khác hoặc từ người này qua người khác, vì là truyền miệng nên nhiều bài
thuốc hay và các cây thuốc quý còn bị thất lạc chưa được phát huy trong công
tác CSSK cho nhân dân.
Do vậy, việc sử dụng YHCT có ý nghĩa rất quan trọng trong CSSKBĐ cho
người dân, đặc biệt là ở miền núi vì nó kế thừa được những kinh nghiệm quý báu
của nhân dân các dân tộc, khai thác được nguồn dược liệu tại chỗ rất đa dạng và
phong phú dễ kiếm lại đỡ tốn kém cho người bệnh.
19
Là một tỉnh có tiềm năng lớn về YHCT, nhưng công tác khám chữa bệnh
bằng YHCT của Lào Cai vẫn chưa phát huy được thế mạnh chưa đáp ứng được
nhu cầu khám, chữa bệnh bằng phương pháp YHCT của nhân dân. Từ những
đánh giá trên UBND tỉnh Lào Cai đã ra quyết định thành lập bệnh viện YHCT
vào 9 tháng 4 năm 2004 [46]. Đây chính là việc làm cụ thể hóa quan điểm chỉ
đạo của Đảng về phát triển nền YHCT nói chung và hoàn thiện mạng lưới Y tế
cho tỉnh Lào cai nói riêng. Sự ra đời của Bệnh viện YHCT với nhiệm vụ khám
chữa bệnh cho nhân dân, nghiên cứu, đánh giá và kế thừa các bài thuốc YHCT
để góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, đáp ứng nhu cầu CSSK của
nhân dân tại địa phương.

1.3.2. Sơ lược về điều kiện tự nhiên KT- VH - XH, và Ytế huyện Sapa
(vùng nghiên cứu)[2][ 3][4] [5][7].
1.3.2.1. Điều kiện tự nhiên[2][ 3].
SaPa là một huyện lỵ, nằm ở phía Tây Bắc của Việt Nam là khu nghỉ mát
nổi tiếng thuộc huyện SaPa, tỉnh Lào Cai. Với tổng diện tích 658 km² địa hình
phức tạp, có độ cao trung bình 1.600 mét so với mặt nước biển, cách trung tâm
thành phố Lào Cai 38 km và 376 km tính từ Hà Nội. Tổng dân số trên 47.123
người [2]. SaPa có khí hậu mang sắc thái ôn đới và cận nhiệt đới, không khí mát
mẻ quanh năm với nhiệt độ không khí trung bình là 15°C có khi xuống dưới 0°C,
đôi khi có tuyết rơi.
Mặc dù, phần lớn cư dân huyện SaPa là những người dân tộc thiểu số,
nhưng thị trấn lại tập trung chủ yếu những người Kinh sinh sống bằng nông
nghiệp và dịch vụ du lịch SaPa có 1 thị trấn và 17 xã; (Bản Hồ, Bản Khoang,
Bản Phùng, Hầu Thào, Lao Chải, Nậm Cang, Nậm Sài, Sa Pả, San Sả Hồ, Sử
Pán, Suối Thầu, Tả Giàng Phình, Tả Phìn, Tả Van, Thanh Kim, Thanh Phú,
Trung Chải,) Đây là nơi sinh sống của dân cư 06 dân tộc (Kinh, H'Mông, Dao
đỏ, Tày, Giáy, Xa Phó) Các dân tộc ở SaPa đều có những lễ hội văn hóa mang
nét đặc trưng cho từng dân tộc. [2].
20
SaPa là một huyện vùng cao nơi có thảm thực vật phong phú và đa dạng
được các nhà chuyên môn đánh giá là nơi có nguồn thực vật quí hiếm và cần
được bảo tồn lưu giữ không chỉ về giá trị vật thể mà cần được bảo tồn giá trị phi
vật thể ( kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của dân tộc bản địa).
1.3.2.2. Về kinh tế [2].
- Về cây lúa: diện tích trồng lúa cả năm 2.694 ha, tổng sản lượng thu hoạch đạt
12,250 tấn, cây ngô vụ mùa, diện tích trồng 1.625 ha, tổng năng suất đạt 27,98 tạ /ha.
- Về cây hoa màu, chủ yếu là cây hoa (hoa hồng, phong lan, Lưu ly ) diện
tích 105 ha, thu hoạch ước đạt 23 triệu bông hoa/ ha.Vườn cây ăn trái trồng diện
tích là 395 ha (như là đào, mận, lê…) sản lượng thu hoạch ước 791 tấn. Cây
dược liệu: với diện tích là 30 ha.

- Chăn nuôi, toàn huyện chủ yếu trang trại bò, trâu, lợn, gia cầm…. Diện
tích nuôi cá nước lạnh tiếp tục được mở rộng, sản lượng cá thương phẩm ước
tính đạt 110 tấn.
- Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, công nghiệp tiểu thủ công
nghiệp (như là các mặt hàng truyền thống dệt, may thổ cẩm, ).
- Thương mại - du lịch, là thị trấn có khu du lịch nổi tiếng nên lượng khách
du lịch đến địa bàn cao 450.268 lượt, doanh thu đạt 2,720 tỷ đồng.
- Mạng lưới điện, 18 xã thị trấn có điện lưới quốc gia, có 6.844/9.150 hộ sử
dụng điện chiếm 74.7 % số hộ toàn huyện.
1.3.2.3 Văn hóa xã hội [2].
- Giáo dục đào tạo.
Toàn huyện có 63 điểm trường, có 602 phòng học, so với tổng số học sinh
các cấp 18.343 học sinh. Tổng số 12/63 trường đạt chuẩn quốc gia.
Độ tuổi của trẻ 6 tuổi vào lớp 1 là 1.884 em đạt 89.33%; lớp 6 có
1.419/1.427 đạt 99,6%; trẻ đi học đúng độ tuổi tiểu học là 98%, Trung học cơ sở
đạt 95%; Trung học phổ thông đạt 94%.
21
- Y tế [2][5][7].
+ 01 Bệnh viện đa khoa với tổng số giường bệnh là 120, gồm 108 người
có 6 khoa và 4 phòng chức năng, trong đó có 1 khoa YHCT( có 2 y sỹ YHCT),
và trực tiếp quản lý 5 phòng khám đa khoa khu vực.
+ Hệ thống y tế xã; Có 17 trạm Y tế xã - Thị trấn thực hiện công tác CSSK
cho người dân tại địa phương, 10/17 trạm đạt chuẩn Quốc gia y tế.
+ Về công tác khám chữa bệnh bằng YHCT; do mới được thành lập nên đội
ngũ cán bộ còn thiếu, các trang thiết bị chưa đầy đủ, các nghiên cứu về mô hình
bệnh tật, nhu cầu và thực trạng sử dụng thuốc YHCT của nhân dân trong cộng
đồng cũng như tìm hiểu khai thác những kinh nghiệm quí báu của các dân tộc về
việc sử dụng nguồn dược liệu tự nhiên trong việc chữa bệnh còn nhiều hạn chế.
Hiện có 01 Hội Đông y của Huyện. Hội thường xuyên sinh hoạt và báo cáo công
tác Hội theo quí. Các hoạt động sinh hoạt thường là trao đổi chia sẻ thông tin,

chia sẻ về chuyên môn kinh nghiệm chữa bệnh, trồng cây thuốc nam. Phương
thức áp dụng chủ yếu như sử dụng thuốc Nam, thuốc sắc uống, châm cứu, xoa
bóp bấm huyệt; Bên cạnh đó, trên địa bàn các xã còn có một đội ngũ những ông
lang, bà mế khá đông tham gia công tác khám chữa bệnh bằng các cây thuốc
nam sẵn có tại địa phương. Tuy nhiên sự phối hợp trong khám chữa bệnh và điều
trị giữa các lương y với trạm y tế xã còn hạn chế, hầu hết các xã còn chưa thành
lập được Hội YHCT, các trạm y tế cơ sở đều không có cán bộ có năng lực và
kinh nghiệm về YHCT nên còn bỏ trắng về công tác khám chữa bệnh về YHCT
tại các trạm y tế xã.
Nhận thức được giá trị và tầm quan trọng nguồn tri thức bản địa, nhiều năm
nay, Hội đông y Huyện Sapa đã kết hợp với ngành y tế địa phương cố gắng thu
thập và ghi chép các kinh nghiệm sử dụng các cây thuốc Nam và bài thuốc của
các dân tộc, phối hợp cùng ngành kiểm lâm địa phương tích cực tham gia công
tác bảo tồn nguồn cây thuốc quí trên địa bàn.
22
- Văn hóa, thông tin [2].
Toàn huyện có 59 làng bản văn hóa, có 6.025 hộ đạt gia đình văn hóa đạt
58%, 58 cơ quan văn minh, 25 trường, 17 bưu điện văn hóa, hộ có ti vi đạt
90.1%, 100% các xã có sóng điện di động. Có 6.023 hộ nghèo chiếm 61,23%, hộ
cận nghèo là 507 hộ chiếm 5,15% so với số hộ toàn huyện.
Mặc dù vậy việc nghiên cứu những cây thuốc nam và các bài thuốc dân
gian sử dụng trong phòng và chữa bệnh của người dân tộc nói chung và người
dân tại huyện Sapa tỉnh Lào cai chưa được nghiên cứu sâu và đầy đủ. Chính vì
vậy chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm bổ sung kinh nghiệm dân gian trong
việc sử dụng thuốc cổ truyền để CSSK của người dân tộc huyện Sapa vào kho
tàng về tri thức y học dân gian của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Đồng thời
giúp cho ngành Y tế địa phương có những thông tin cần thiết để khuyến khích
phát triển Y dược cổ truyền tại cộng đồng, hỗ trợ CSSKBĐ cho người dân khi
dịch vụ y tế Nhà nước chưa đủ đáp ứng nhu cầu của người dân.
23

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm nghiên cứu.
- Thị Trấn Sapa Huyện Sapa, tỉnh Lào Cai
- Xã Tả Phìn Huyện Sapa, tỉnh Lào Cai
- Xã Trung Chải Huyện Sapa, tỉnh Lào Cai.
2.2. Đối tượng nghiên cứu.
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu.
* Các cây thuốc có trên địa bàn nghiên cứu.
* Người dân có kinh nghiệm sử dụng thuốc cây thuốc và bài thuốc Nam trong
chăm sóc sức khỏe, gồm;
Nhóm 1: Những người có kinh nghiệm sử dụng thuốc YHCT trên địa bàn 3 xã
gồm các ông lang, bà lang. Ông lang, bà lang được hiểu là những người dân
sinh sống tại địa phương có kinh nghiệm sử dụng cây thuốc trong phòng và chữa
một số chứng bệnh được mọi người dân cùng địa bàn tin tưởng đến khám và lấy
thuốc đề chữa bệnh.
Nhóm 2: Cán bộ Y tế và người có liên quan đến công tác y tế gồm:
- Cán bộ trạm Y tế xã, hội YHCT xã, y tế thôn bản.
- Cán bộ xã phụ trách Y tế.
- Trưởng thôn, già bản, trưởng dòng họ
2.2.2. Cách chọn mẫu đối tượng người có kinh nghiệm sử dụng cây thuốc.
- Nhóm 1: Là những người có kinh nghiệm sử dụng thuốc nam trên địa
bàn 3 xã: (ông lang, bà lang). Chọn 100%.
24
- Nhóm 2: Là những cán bộ phụ trách công tác Hội Đông Y ở huyện, quản
lý phòng y tế, cán bộ y tế xã, cộng tác viên y tế thôn bản, cán bộ xã phụ trách y
tế. Chọn 100%.
Bảng 1.1. Số người tham gia phỏng vấn trong thời gian nghiên cứu.
TT Đối tượng Phương pháp Số người
1 Cán bộ y tế xã Phỏng vấn bán cấu trúc

17
2 YTTB Phỏng vấn bán cấu trúc
12
3 Ông lang, bà lang Phỏng vấn sâu
29
4 Lãnh đạo địa phương Phỏng vấn bán cấu trúc
6
Tổng cộng 64
2.3. Phương pháp nghiên cứu.
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu.
Đề tài được sử dụng theo phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, so
sánh¸ trong đó kết hợp các phương pháp dịch tễ học mô tả, phương pháp điều tra
thực trạng và phân loại cây thuốc tại 3 xã ( Thị trấn Sapa, Tả phìn, Trung chải).
Cụ thể bao gồm các phương pháp:
- Phương pháp đánh giá nhanh dựa vào cộng đồng
- Phỏng vấn sâu
- Quan sát thực tế
- Thu thập và ghi chép mẫu vật.
25
2.3.2. Biến số và chỉ số nghiên cứu.
Bảng 1.2. Biến số và chỉ số nghiên cứu.
Mục
tiêu
Nhóm biến Các biến số Loại biến số
Phương pháp và
công cụ thu thập
1 Cây thuốc
Xác định, phân loại cây
thuốc
Định lượng

Phỏng vấn, lấy
mẫu, phân loại
Mô tả kinh nghiệm thu
hái, bảo quản, chế biến
Định tính
Phỏng vấn sâu,
quan sát trực tiếp
Tỷ lệ các phương thức sử
dụng cây thuốc
Định lượng Phỏng vấn
2
Kinh
nghiệm
phòng và
chữa bệnh
bằng thuốc
Nam
Mô tả các kinh nghiệm sử
dụng thuốc Nam của ông
lang, bà lang
Định tính Phỏng vấn sâu
2.3.3. Cỡ mẫu trong nghiên cứu:
- Chọn mẫu: Có chủ định
- Cõ mẫu: Lấy mẫu toàn thể
2.3.4. Các phương pháp thu thập số liệu.
Các phương pháp cụ thể bao gồm:
+ Phương pháp đánh giá nhanh PRA(Praticipatory Rapid Appraisal), [16], [54].
Qua trạm y tế xã để biết những người hay sử dụng nguồn cây thuốc tại địa
phương để phòng và chữa bệnh trong khu vực nghiên cứu đó là các ông lang, bà
lang biết về cây thuốc, bài thuốc. Họ là những người được đề nghị hợp tác trong

quá trình điều tra, nhằm mục đích:
- Định hướng được đối tượng cung cấp thông tin cần thiết cho NC.
- Định hướng việc khảo sát thống kê và đánh giá được nguồn dược liệu

×