Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Tiểu luận Miễn dịch học: Bệnh zona

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 22 trang )



BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP HCM
KHOA CÔNG NGHỆ SINH HỌC VÀ KỶ THUẬT MÔI TRƯỜNG

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN : MIỄN DỊCH HỌC
Đề Tài : BỆNH ZONA

GVHD: LẠI ĐÌNH BIÊN

TP.HCM, Tháng 12, 2013




ĐỀ TÀI: BỆNH ZONA NHÓM 1

GVHD: LẠI ĐÌNH BIÊN Page 2


DANH SÁCH NHÓM:
1. Trần Thị Bích Hà 2008110081
2. Nguyễn Tấn Lộc 2008110134
3. Nguyễn Thị Kim Loan 2008110150
4. Nguyễn Thị Trúc Mai 2008110169
5. Hồ Trường Sơn 2008110244
6. Trương Thị Thùy Vân 2008110353
7. Nguyễn Thị Hải Yến 2008110371


ĐỀ TÀI: BỆNH ZONA NHÓM 1

GVHD: LẠI ĐÌNH BIÊN Page 3

PHỤ LỤC

1. TỔNG QUAN 4
1.1. Khái niệm 4
1.2. Một số loại bệnh ở da thường gặp 4
1.3. Lý do chon đề tài bệnh zona 8
2. BỆNH ZONA Ở NGƯỜI 8
2.1. Khái niệm 8
2.2. Nguyên nhân 9
2.3. Triệu chứng 10
2.4. Cơ chế 13
2.5. Biến chứng 14
2.6. Điều trị 14
2.6.1. Thuốc kháng virut: 15
2.6.2. Vaccine 17
2.7. Cách phòng bệnh thông thường: 18
2.8. Kĩ thuật chuẩn đoán 18
2.8.1. Chẩn đoán lâm sàng: 18
2.8.2. Các phương pháp phòng thí nghiệm 19
2.8.3. Chuẩn đoán phân biệt: 20
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 20
4. TÀI LIỆU THAM KHẢO 21






ĐỀ TÀI: BỆNH ZONA NHÓM 1

GVHD: LẠI ĐÌNH BIÊN Page 4

1. TỔNG QUAN
1.1. Khái niệm
Bệnh về da là những loại bệnh gây ảnh hưởng xấu trên bề mặt da, gây ra những tổn
thương ở da như:
 Chấm: Là vùng da bị đổi màu khác thường, có bờ, không lồi hay lõm hơn những
chỗ khác nên không sờ được, một số sang thương có thể giống chấm nhưng lại gồ lên khi
chiếu ánh sáng nghiên (hay cồn gọi là sẩn)
 Đốm: là chấm có độ lớn từ 5-10mm, sờ không thấy.
 Sẩn : Là sang thương nông, rắn, thường dưới 0,5 cm đường kính. Sẩn gồ khỏi bề
mặt da xung quanh nên sờ được.

Mảng : Là một gồ dạng cao nguyên và chiếm một khoảng da tương đối rộng so
với chiều cao của nó. Mảng thường có bờ rõ và thường được tạo thành do nhiều sẩn tập họp
lại như trong bệnh vẩy nến hay u sùi dạng nấm

Mụn nước : Là một ổ nông chứa dịch, gồ lên và được bao bọc.

Mụn mủ : Hay còn gọi là nhọt, là một ổ nông ở da, được bao bọc, chứa dịch tiết
mưng mủ, có thể có màu trắng, vàng, vàng xanh hay xuất huyết.

Nứt: Là một vết nứt xuất hiện trên da, thường hẹp nhưng sâu.

Loét : Là tổn thương da do mất thượng bì và phần trên lớp nhú của lớp bì. Nó có
thể mở rộng vào lớp dưới da và luôn luôn xảy ra trong mô có thay đổi về bệnh học .


Thể hang : Dạng đường quanh co, hơi xám, gây ra bởi các sinh vật đào hạng trong
da (như cái ghẻ ) .

Vảy : Là các mảnh của lớp sừng. Chúng có thể rộng (như màng) hay nhỏ (như
bụi), dính hay lỏng lẻo. Vảy dày và dính tạo cảm giác sạn (như giấy nhám) do tăng lớp sừng
khu trú.

Mào : Hình thành khi huyết thanh, máu hay dịch tiết mủ khô trên bề mặt da. Mào
có thể mỏng, dễ vụn (chốc khô) hay dày và dính (chốc loét).

Chai: Bề mặt da gây cảm thấy dày và cứng hơn.

Teo: Đề cập đến một sự mất mát của các mô như biểu bì, da, hoặc dưới da.
1.2. Một số loại bệnh ở da thường gặp
ĐỀ TÀI: BỆNH ZONA NHÓM 1

GVHD: LẠI ĐÌNH BIÊN Page 5

Bệnh vẩy nến: chiếm 5% dân số châu Âu, 2% dân số châu Á và châu Phi,
xấp xỉ 10% tổng số các bệnh nhân đến khám ở các phòng khám Da liễu. Bệnh lành tính,
thường không ảnh hưởng đến sức khỏe nhưng ảnh hưởng đến thẩm mĩ, tâm lí và những hệ
lụy của nó. Nam gặp nhiều hơn nữ, người lớn nhiều hơn trẻ em. Bệnh phát thành từng đợt,
có khi tăng giảm theo mùa.
 Vẩy nến ở da: Trên da có các mảng đỏ ranh giới rõ, phía trên có vẩy dày màu
trắng. Khi chạm vào vùng da bị bệnh thì thấy khô, cứng. Khó xác định hơn nếu thương tổn
chỉ có ở đầu do tóc che khuất cho nên cần chú ý: nếu thấy ở đầu tự nhiên thấy gầu nhiều và
dày lên so với trước đây.
 Vẩy nến ở móng: Móng dày hoặc có nhiều lỗ nhỏ trên bề mặt móng.

 Vẩy nến ở khớp: Các khớp bị biến dạng, bệnh nhân khó vận động.

 Vẩy nến thể mủ: Trên da có các mụn mủ khô và nông.
 Vẩy nến thể đỏ da toàn thân.
Bệnh này vào mùa khô thì phát triển mạnh hơn, gây đau đớn cho bệnh nhân khi vùng
da nhiễm bệnh bị va chạm hoặc có hiện tượng chảy máu chỗ da bị nứt.
Chàm (eczema): là tình trạng viêm da sẩn mụn nước do phản ứng với các tác
nhân nội và ngoại sinh.
Trong giai đoạn cấp tính, chàm đặc trưng bởi hồng ban, phù do xuất tiết thanh dịch
giữa các tế bào thượng bì và thâm nhiễm viêm ở lớp bì, chảy dịch, tạo nang và đóng vảy.
Giai đoạn mạn tính có hiện tượng lichen hoá hoặc dày sừng hoặc cả hai, bong da, tăng hoặc
giảm sắc tố hoặc cả hai. Viêm da dị ứng là thể thường gặp nhất của chàm.
Có thể xem chàm là tình trạng viêm da, cụ thể là ở vùng thượng bì. Chàm là một
bệnh ngoài da không lây. Gồm 2 loại: Cấp tính và mãn tính, còn gặp ở trẻ em còn bú, tuỳ
theo vị trí cơ thể còn có tên gọi khác nhau. Theo đông y nguyên nhân là do phong, nhiệt,
thấp, kết hợp gây bệnh, nhưng do phong là chủ yếu, thể mãn tính thường do phong gây ra
huyết táo rồi phối hợp với nhau gây bệnh.
ĐỀ TÀI: BỆNH ZONA NHÓM 1

GVHD: LẠI ĐÌNH BIÊN Page 6

Da vẽ nổi (dermatographism,dermographism) là một rối loạn chức năng da
thường gặp ở 2-5% dân số và là một trong những loại phổ biến nhất của mề đay, da người
bệnh bị nổi hằn lên và bị viêm khi vuốt ve, gãi, cọ xát, hoặc tát (mề đay vật lý).
Các triệu chứng xuất hiện bởi các tế bào mast ở bề mặt da tự sản xuất histamine mà
không cần sự hiện diện của bất kỳ loại kháng nguyên nào, làm cho vùng da bị sưng lên.
Do lớp màng bao bọc xung quanh tế bào mast bị yếu, do đó dễ dàng bị phá vỡ nhanh
chóng dưới áp lực vật lý và gây ra một phản ứng dị ứng. Những mảng mề đay xuất hiện
trong vòng vài phút, kèm theo cảm giác rát, và ngứa. Vùng da bị tác động kích thích trực
tiếp sẽ nổi mề đay và có thể dẫn đến các vùng da khác trên cơ thể không bị kích thích cũng
bị dị ứng.
Á sừng (Dermatitis plantaris sicca): là thuật ngữ để mô tả các bệnh khô da,

nứt da, bong da ở bàn tay, bàn chân, đặc biệt ở gót chân thường xuất hiện vào mùa đông
(còn được gọi là viêm da cơ địa mùa đông), diễn biến dai dẳng, hay tái phát.
Á sừng hiện nay cũng có thể coi là 1 bệnh hoặc 1 biểu hiện của viêm da cơ địa đặc
trưng bởi các tổn thương dạng sừng ở các đầu ngón tay, chân, gót, bàn tay, bàn chân…
Bỏng da do tiếp xúc với côn trùng: tổn thương da do tiếp xúc với côn trùng
có nọc độc , chất tiết của côn trùng có axit hữu cơ hoặc bị côn trùng cắn đốt là hiện tượng
hay gặp , nhất là vùng nông thôn . Tai nạn do tiếp xúc với côn trừng thường là :
 Đi xe không đeo kính bảo hiểm bị côn trùng bay vào mắt , trong đó có một số
loại có bụi độc gây cay hoặc bỏng phù niêm mạc mắt .
 Bị bọ xít phun dịch tiết với mục đích tự vệ vào mắt , da
 Bị sâu róm , chèn nẹt chích lông có nọc độc
 Bị giời leo , do ban đêm khi ngủ con bọ giời bò lên người , khi bò chúng để
lại chất tiết gây tổn thương da .
Dị ứng xi măng : là viêm da tiếp xúc ,do tiếp xúc với xi măng một thời gian
dài và khỏi khi không tiếp xúc với nó nữa . Các thành phần có trong xi măng ăn mòn , phá
ĐỀ TÀI: BỆNH ZONA NHÓM 1

GVHD: LẠI ĐÌNH BIÊN Page 7

huỷ trực tiếp cấu trúc của da , đồng thời là dị nguyên gây phản ứng dị ứng tại chỗ . Da nơi
tiếp xúc với xi măng , thường là ở bàn tay và cẳng tay , bị sần sùi dày lên , nứt nẻ , nổi mụn
nước , ngứa ; kèm theo những vết chày , trợt , xước do gãi .
Lupus ban đỏ: là một bệnh mãn tính chưa có cách chữa khỏi, việc điều trị
bệnh lupus ban đỏ hệ thống cũng mang tính hệ thống. Về cơ bản nghĩa là phải phòng chống
các đợt bộc phát bệnh và giảm mức độ cũng như thời gian ảnh hưởng của những cơn bệnh
đó.
Điều trị có thể bằng các thuốc corticosteroid và thuốc chống sốt rét. Một số loại viêm
cầu thận lupus như viêm cầu thận tăng sinh lan tỏa đòi hỏi phải có thuốc gây độc cho tế bào
như cyclophosphamide vàmycophenolate.
Bệnh nấm móng: Là bệnh mãn tính và thường gây biến dạng móng. Sự

nhiễm nấm ở móng thường không theo qui luật đồng dạng hay đối xứng và thường được
thấy bị nhiễm ở một hoặc hai móng.
 Nguyên nhân gây bệnh:
 Nấm dermatophyte.
 Nấm Candida.
 Nấm mốc (Seopulariopsis, Hendersonula )
Bệnh zona: do một loại virus có ái tính với tổ chức thần kinh gây nên , chủng
gây bệnh ở người là Varicella zoster virus , ở trẻ nhỏ virus này gây bệnh thủy đậu , sự lây
truyền xảy ra do tiếp xúc , virus xâm nhập qua đường hô hấp do vậy vệnh dễ lây , cùng một
thời điểm có nhiều trẻ bị , ở người lớn nhiễm virus lần đầu cũng phát bệnh thủy đậu , người
ta thấy trẻ em bị thủy đậu sau khi tiếp xúc với người bị zona .
Sau khi nhiễm tiên phát , virus theo dây thần kinh cảm giác đến cư trú tại hạch thần
kinh cảm giác và tiềm ẩn ở đó . Khi gặp điêu kiện thuận lợi như cơ thể yếu mệt , nhiễm
trùng nhiễm độc , rối loạn chuyển hóa , bệnh về máu , đặc biệt ở những người suy giảm
miễn dịch thì virus tái hoạt động ở hạch thần kinh cảm giác rồi theo dây thần kinh cảm giác
ĐỀ TÀI: BỆNH ZONA NHÓM 1

GVHD: LẠI ĐÌNH BIÊN Page 8

ra da . Như vậy virus gây tổn thương hạch cảm giác , dây thần kinh mà nó đi qua và vùng
da do dây thần kinh đó chi phối .
1.3. Lý do chon đề tài bệnh zona
Hiện nay Bệnh viện da liễu TP HCM mỗi năm tiếp nhận điều trị hàng trăm trẻ mắc
bệnh ngoài da. Tất cả đều trong tình trạng bệnh nặng. Ngoại trừ một số trẻ bị bệnh bẩm sinh
hoặc ác tính, còn lại đa số phải nhập viện vì không được điều trị đúng cách."Nhiều nhất là
trẻ bị bội nhiễm do người nhà tự mua thuốc hoặc được điều trị bởi bác sĩ không chuyên về
da liễu trước đó. Một số phải nhập viện nhiều lần vì người nhà không theo đúng y lệnh của
bác sĩ. Khi xuất viện, trẻ không được uống thuốc theo đúng chỉ dẫn, không tái khám đúng
định kỳ ", Các bác sĩ da liễu khẳng định, bệnh ngoài da không gây nguy hiểm tính mạng
bệnh nhân và việc điều trị cũng đơn giản. Nhiều bệnh chỉ cần xoa thuốc là khỏi. Chính vì lí

do đó mà nhiều người xem nhẹ dẫn đến nhiều hậu quả có thể ảnh hương nghiêm trọng đến
hệ thần kinh, võng mạc mắt, gây viêm màng nhĩ…Điển hình như bệnh zona làm cho nhiều
người nhầm lẫn với các bệnh thường gặp như giời leo hay thủy đậu có thể điều trị bằng
những biện pháp nhân gian mà không điều trị đúng cách bằng các liệu pháp, kĩ thuật chuẩn
đoán trong bệnh viện.Vì vậy nhóm chọn bệnh zona để giúp mọi người hiểu hơn về mức độ
nghiêm trọng của bệnh này, biết cách phát hiện bệnh nhằm đưa bệnh nhân đến các cơ quan
y tế điều trị sớm nhất có thể, tránh tình trạng chủ quan, nhầm tưởng với các bệnh thông
thường khác mà chữa bằng phương pháp dân gian.
2. BỆNH ZONA Ở NGƯỜI
2.1. Khái niệm
Bệnh Zona thần kinh là do virus herpes zoster (varicella-zoster hoặc VZV). Virus
này cũng chính là tác nhân gây ra bệnh thủy đậu ở trẻ em. Virus thủy đậu trú ngụ trong cơ
thể ở trạng thái ngủ bên trong các dây thần kinh cảm giác, sau đó, virus sẽ đi dọc theo dây
thần kinh cảm giác vào da và tạo ra những mảng phát ban gây đau mà người ta thường gọi
là bệnh Zona.
ĐỀ TÀI: BỆNH ZONA NHÓM 1

GVHD: LẠI ĐÌNH BIÊN Page 9



Hinh. Virus herpes zoster (varicella-zoster hoặc VZV)
2.2. Nguyên nhân
Mặc dù virus là nguyên nhân gây bệnh nhưng không phải lúc nào virus cũng có thể
xâm nhập và gây bệnh. Virus chỉ có thể gây bệnh khi chúng ta bị suy yếu về miễn dịch,
giảm đột ngột số lượng các tế bào miễn dịch trên da.
Hình. Sự tấn công của virus herpes zoster lên tế bào da khi hệ thống miễn dịch
suy giảm
ĐỀ TÀI: BỆNH ZONA NHÓM 1


GVHD: LẠI ĐÌNH BIÊN Page 10

Giải thích: Sau khi gây bệnh thủy đậu virus Herpes Zoster vẫn còn tồn tại ở dạng
ngủ đông trong các tế bào thần kinh tủy sống và bị hệ miễn dịch của cơ thể ức chế. Khi có
điều kiện thuận lợi như bệnh nhân có tình trạng bị nhiễm trùng, chấn thương, suy yếu hệ
miễn dịch…thì nó sẽ bùng phát lên, thoát khỏi sự ức chế của hệ miễn dịch, phát triển thành
dạng hoạt động(1) . Khi đó virus di chuyển đến bề mặt da và gây tổn thương, biểu hiện như
một cụm mụn đỏ nhỏ trên cùng một vùng da đặc biệt. Trước phát ban người bệnh có cảm
giác nóng rát và ngứa,tình trạng này kéo dài trong suốt quá trình phát ban(2). Phát ban phát
triển thành mụn nước nhỏ giống như những tổn thương khi mắc bệnh thủy đậu(3). Các tổn
thương sau đó có mủ và vỡ ra(4). Những tổn thương khô , tạo thành một lớp vỏ, chữa trị da
mất 4-5 tuần(5). Trong một số trường hợp, cơn đau của bệnh zona có thể tiếp tục trong
nhiều tuần đến nhiều năm sau khi da có chữa lành, có lẽ là kết quả của tổn thương thần
kinh. Này được gọi là đau thần kinh sau Herpetic(6).
Các tình huống cụ thể:
 Trời rét, chuyển mùa.
 Cơ thể ốm yếu, stress, mệt mỏi, suy nhược, mất ngủ, căng thẳng, ức chế, suy
nghĩ lo toan nhiều chuyện quá sức.
 Tuổi tác, bệnh tật, thuốc men làm giảm khả năng đề kháng của cơ thể để có
thể giữ được virus thủy đậu trong trạng thái bất hoạt.
 Ung thư,các biện pháp điều trị bằng tia xạ làm tổn thương vùng da bị nổi ban
virus sẽ tái phát thành bệnh zona.

 Bất cứ ai từng bị thủy đậu đều có nguy cơ bị bệnh zona, nhưng nguy cơ tăng
theo tuổi. Người trên 60 tuổi có nguy cơ bị bệnh zona cao hơn trẻ em dưới 10 tuổi gấp 10
lần.
2.3. Triệu chứng
Bệnh biểu hiện rõ bằng bộ ba triệu chứng: sốt, đau rát da và mụn nước. Người bệnh
thấy mệt mỏi một phần vì sốt, một phần vì đau rát da, phần nữa là vì đau nhức toàn thân.


ĐỀ TÀI: BỆNH ZONA NHÓM 1

GVHD: LẠI ĐÌNH BIÊN Page 11

Triệu chứng lâm sàng: Trước khi tổn thương mọc 2-3 ngày thường có cảm
giác như: rát dấm dứt, đau vùng sắp mọc tổn thương kèm theo triệu chứng toàn thân ít hoặc
nhiều như mệt mỏi, đau đầu Hạch ngoại vi lân cận có thể sưng và đau.
Hình. Nổi mẩn đỏ
Sốt trong bệnh zona có thể là đột ngột sốt cao như ở trẻ nhỏ nhưng cũng có thể sốt từ
từ như ở người lớn, sau đó thì sốt tương đối cao nhưng ít khi lên đến 40 độ. Kèm theo sốt là
biểu hiện da đau rát. Đau rát ngay từ khi cơ thể mới sốt, cũng có thể sốt trước rồi mới đau
rát nhưng thường là đau rát và sốt hay xảy ra đồng thời.
Đau rát da rất rõ rệt, da tại chỗ bị Virus xâm nhập đau và rát như bị bỏng. Sau một
thời gian ngắn khoảng vài tiếng, da bắt đầu có ửng đỏ và càng đau rát hơn. Đau đến mức
người bệnh không dám chạm vào da, thậm chí còn không để quần áo cọ vào vùng da này.
Khoảng 1 – 2 ngày tính từ khi bị sốt, tại các chỗ da đỏ, mụn nước bắt đầu xuất hiện.
Mụn nước có đặc điểm là khu trú, không lan ra vùng da khác có màng da che phủ dày và có
nước trong ở bên trong, có kích thước khoảng 3 – 5mm, nổi gồ, tập trung, tụ lại thành đám
như một chùm nho. Tổn thương xuất hiện thành một vệt dài theo đường đi của dây thần
kinh. Có lẽ vì lý do này mà nó được gọi là bệnh zona thần kinh.



ĐỀ TÀI: BỆNH ZONA NHÓM 1

GVHD: LẠI ĐÌNH BIÊN Page 12

Hình. Mụn nước mọc theo dây thần kinh (Hình chùm nho)
Vị trí : thường khu trú tập trung ở những vị trí đặc biệt và chỉ có một bên của cơ thể
dọc theo các đường dây thần kinh, nhưng cá biệt có thể bị cả hai bên hay lan toả.

Tổn thương cơ bản: thường bắt đầu là các mảng đỏ, nề nhẹ, gồ cao hơn mặt da, hình
tròn, bầu dục lần lượt nổi dọc dây thần kinh, rải rác hoặc cụm lại thành dải, thành vệt, sau 1-
2 giờ trên mảng đỏ xuất hiện những mụn nước chứa dịch trong, căng khó vỡ, các mụn nước
tập trung thành cụm, về sau đục, vỡ, xẹp để lại sẹo (nếu nhiễm khuẩn). Tổn thương ở da
thường nổi hạch sưng và đau ở vùng tương ứng và là dấu hiệu quan trọng để chẩn đoán
Hình . Mụn nước bị vỡ, xẹp và để lại sẹo
ĐỀ TÀI: BỆNH ZONA NHÓM 1

GVHD: LẠI ĐÌNH BIÊN Page 13

2.4. Cơ chế
Hình . Quá trình virus tấn công tiểu nang tế bào da
Mô hình bệnh sinh của nhiễm VZV(varicella zoster virus) nguyên phát, các tế bào T
bên trong mô lympho tại chỗ của đường hô hấp có thể bị nhiễm virus do sự di chuyển của
VZV từ vị trí tiêm nhiễm ban đầu trong các tế bào biểu mô đường hô hấp. các tế bào T sau
đó vận chuyển các virus đến da ngay lập tức và phóng thích VZV lây nhiễm. Phần còn lại
của thời kì ủ bệnh 10-21 ngày là khoảng thời gian cho virus vượt qua đáp ứng INF-a bẩm
sinh trong các tế bào biểu bì đủ để tạo ra các sang thương bóng nước đặc trưng chứa các
virus ngoài tế bào tại bề mặt da. Tín hiệu của sự sản xuất INF-a được tăng cường trong các
tế bào da lân cận có thể ngăn chặn sự lan truyền tế bào – tế bào nhanh, không kiểm soát của
VZV. Các cụm thứ phát của các sang thương co thể xuất hiện khi các tế bào T đi lại thông
qua các sang thương da giai đoạn sớm bị làm lây nhiễm thêm và gây nhiễm virus máu thứ
phát. Các đáp ứng miễn dịch kí chủ nguyên vẹn xuất hiện là cần thiết để gây ra một sự up-
ĐỀ TÀI: BỆNH ZONA NHÓM 1

GVHD: LẠI ĐÌNH BIÊN Page 14

regulation của các phân tử kết dính, hỗ trợ sự thanh lọc VZV bởi tính miễn dịch thu được
(adaptive immnunity)
2.5. Biến chứng

Biến chứng đáng lo ngại nhất của bệnh Zona là gây đau nhức vùng da bị tổn thương
hàng tuần, hàng tháng, có khi kéo dài cả năm mặc dù vùng da đó đã khỏi hoàn toàn. Chính
vì đau nhức rất khó chịu làm cho người bệnh mệt mỏi, ăn kém, rối loạn giấc ngủ kéo dài
làm xuất hiện nhiều bệnh khác. Tỷ lệ biến chứng đau nhức vùng da sau khi bị Zona chiếm
khoảng 1/3 số số trường hợp bị bệnh.
Sau khi khỏi bệnh Zona thì virus Zoster sẽ khu trú vào thần kinh nằm ở sừng sau của
tủy sống. Chúng thường nằm im ở đó tương tự như dạng “ngủ đông”, khi gặp điều kiện
thuận lợi thì chúng lại trỗi dậy và tiếp tục gây bệnh Zona ở bất cứ vị trí nào trên cơ thể.
Trường hợp bệnh zona mãn tính có ở những bệnh nhân bị nhiễm AIDS, đặc biệt là
khi họ có một loai tế bào miễn dịch cụ thể bị suy giảm, được gọi là tế bào lympho CD4. Sự
suy giảm của các tế bào lympho CD4 có liên quan đến nhiễm virus varicella-zoster nghiêm
trọng hơn, mãn tính, và tái phát. Các tổn thương này là điển hình lúc bắt đầu nhưng có thể
biến thành vết loét không lành.
Biến chứng của zona ở những bệnh nhân có chức năng miễn dịch đầy đủ gồm viêm
não, viêm tủy, liệt dây thần kinh sọ não, dây thần kinh ngoại biên và một hội chứng liệt nhẹ
nửa người phía đối diện.
2.6. Điều trị
Zona là bệnh ngoài da nên áp dụng phương pháp điều trị trong uống ngoài thoa. Có
thể dùng các loại thuốc kháng virus dạng bôi ở vùng da bị xâm nhiễm. Sau đó, dùng các
thuốc kháng virus đường uống. Nếu những chỗ mụn nước có vi trùng cơ hội xâm nhập thì
dùng thêm kháng sinh. Đó là các cách điều trị cơ bản. Ngoài ra cần tiêm ngừa vaccine và áp
dụng các phương pháp phòng bệnh thông thường.
ĐỀ TÀI: BỆNH ZONA NHÓM 1

GVHD: LẠI ĐÌNH BIÊN Page 15

2.6.1. Thuốc kháng virut:
Tại Hoa Kỳ có ba dược chất được chấp thuận sử dụng trong điều trị zona là
acyclovir, valacyclovir, famciclovir.
Hình . Thuốc acyclovir

Acyclovir
Là một thuốc kháng virus tác dụng chống lại virus Herpes, bao gồm simplex 1 và
simplex 2 (mụn rộp và herpes sinh dục), thuỷ đậu - zona và Epstein - Barr virus
(mononucleosis). Acyclovir ức chế sự sao chép ADN mà virus cần để nhân lên. Tế bào
nhiễm virus hấp thu nhiều acyclovir hơn tế bào bình thường và chuyển nhiều thuốc thành
dạng hoạt động hơn, điều này kéo dài hoạt tính kháng virus của thuốc ở nơi cần thiết nhất.
Aciclovir là một chất tương tự nucleosid (acycloguanosin), có tác dụng chọn lọc trên
tế bào nhiễm virus Herpes. Ðể có tác dụng aciclovir phải được phosphoryl hóa thành dạng
có hoạt tính là aciclovir triphosphat. Lúc đầu, aciclovir được chuyển thành aciclovir
monophosphat nhờ enzym của virus là thymidinkinase, sau đó chuyển tiếp thành aciclovir
diphosphat và triphosphat bởi một số enzym khác của tế bào. Aciclovir triphosphat ức chế
ĐỀ TÀI: BỆNH ZONA NHÓM 1

GVHD: LẠI ĐÌNH BIÊN Page 16

tổng hợp DNA của virus và sự nhân lên của virus mà không ảnh hưởng gì đến chuyển hóa
của tế bào bình thường.
Tác dụng của acyclovir mạnh nhất trên virus Herpes simplex typ 1 (HSV - 1) và kém
hơn ở virus Herpes simplex typ 2 (HSV - 2), virus Varicella zoster (VZV), tác dụng yếu
nhất trên cytomegalovirus (CMV). Trên lâm sàng không thấy acilovir có hiệu quả trên
người bệnh nhiễm CMV. Tác dụng chống virus Epstein Barr vẫn còn chưa rõ.Trong quá
trình điều trị đã xuất hiện một số chủng kháng thuốc và virus Herpes simplex tiềm ẩn trong
các hạch không bị tiêu diệt.
Aciclovir có tác dụng tốt trong điều trị viêm não thể nặng do virus HSV - 1, tỷ lệ tử
vong có thể giảm từ 70% xuống 20%. Trong một số người bệnh được chữa khỏi, các biến
chứng nghiêm trọng cũng giảm đi. Aciclovir dùng liều cao tới 10 mg/kg thể trọng, cứ 8 giờ
một lần, dùng trong 10 đến 14 ngày. Thể viêm não - màng não nhẹ hơn do HSV - 2 cũng có
thể điều trị tốt với aciclovir.
Ở người bệnh nặng, cần tiêm truyền aciclovir tĩnh mạch, như nhiễm HSV lan tỏa ở
người suy giảm miễn dịch, người ghép tạng, bệnh máu ác tính, bệnh AIDS, nhiễm herpes

tiên phát ở miệng hoặc sinh dục, herpes ở trẻ sơ sinh, viêm giác mạc nặng do Herpes,
trường hợp này có thể dùng kèm thuốc nhỏ mắt aciclovir 3% để điều trị tại chỗ.
Dược động học: Khả dụng sinh học theo đường uống của aciclovir khoảng 20% (15
- 30%). Thức ăn không làm ảnh hưởng đến hấp thu của thuốc. Aciclovir phân bố rộng
trong dịch cơ thể và các cơ quan như: Não, thận, phổi, ruột, gan, lách, cơ, tử cung, niêm
mạc và dịch âm đạo, nước mắt, thủy dịch, tinh dịch, dịch não tủy. Liên kết với protein thấp
(9 - 33%).
Valacyclovir là một tiền chất của acyclovir, sản sinh nồng độ acyclovir huyết
thanh cao cấp gấp 3 – 5 lần nồng độ đạt được nếu dùng acyclovir đường uống.
Trong một nghiên cứu ngẫu nhiên ở những bệnh nhân tuổi trên 50, valacyclovir
(1000mg mỗi 8 giờ) và acyclovir cùng mang lại một tiến độ lành da tương đương nhau
ĐỀ TÀI: BỆNH ZONA NHÓM 1

GVHD: LẠI ĐÌNH BIÊN Page 17

(Beutner KR, et al. 1995). Valacyclovir rút ngắn một cách có ý nghĩa thời gian trung bình
khỏi hẳn cơn đau có liên hệ đến zona (38 ngày so với 51 ngày, P = 0,001). Tỷ lệ bệnh nhân
còn đau vào thời điểm 6 tháng là 25,7% ở nhóm acyclovir là 19,3% ở nhóm valacyclovir (P
= 0,02). Kéo dài trị liệu valacyclovir từ 7 ngày lên 14 ngày không mang lại thêm lợi ích gì.
Famciclovir một tiền chất của penciclovir, có kết quả tốt hơn so với giả dược
trong việc làm giảm thời gian bài xuất virút, hạn chế thời gian hình thành tổn thương mới và
đẩy nhanh việc lành sẹo trong một nghiên cứu có đối chứng giả dược (Tyring S và CS
1995). Trong một phân tích ở nhóm phụ của các bệnh nhân tuổi trên 50 và vẫn tồn tại đau
sau khi đã lành da, thời gian kéo dài của đau thần kinh sau zona trung bình là 163 ngày ở
nhóm giả dược và 63 ngày ở nhóm famciclovir (P = 0,004) (Tyring S và CS 1995).
Valacyclovir và famciclovir được đem so sánh trong điều trị zona ở những bệnh
nhân có chức năng miễn dịch đầy đủ và được chứng minh tương đương về mặt trị liệu, xét
cả về tiến độ lành da lẫn khỏi đau (Tyring SK, et al. 2000). Valacyclovir và famciclovir
được ưa chuộng hơn acyclovir trong điều trị zona vì có bilan dược động học tốt hơn và chế
độ dùng thuốc đơn giản hơn. Cả ba loại thuốc đều an toàn một cách lạ thường và được dung

nạp tốt. Không có chống chỉ định nào đối với việc sử dụng các thuốc này, mặc dù cần phải
điều chỉnh liều dùng ở những bệnh nhân bị suy thận. Hiện chưa có thuốc nào trong số các
thuốc trên được cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ chấp thuận cho sử
dụng ở phụ nữ có thai. Các thuốc kháng virút dùng bôi ngoài không có vai trò gì trong xử trí
của bệnh zona.
2.6.2. Vaccine
ĐỀ TÀI: BỆNH ZONA NHÓM 1

GVHD: LẠI ĐÌNH BIÊN Page 18

Hình . Vắcxin Zostavax. (Nguồn: Channel NewsAsia)
Lần đầu tiên vắcxin phòng bệnh zona đã có mặt tại các phòng khám, bệnh viện tư và
một số bệnh viện công tại Singapore.
Loại vắcxin này có tên Zostavax, được khuyến cáo dành cho những người từ 50 tuổi
trở lên.
2.7. Cách phòng bệnh thông thường:
Tăng cường hệ thống miễn dịch bằng cách thay đổi lối sống được cho là giúp ngăn
ngừa sự phát triển của bệnh zona. Một lối sống được thiết kế để tăng cường hệ thống miễn
dịch và duy trì sức khỏe tổng thể tốt bao gồm ăn một chế độ ăn cân bằng giàu cần
thiết vitamin vàkhoáng chất , ngủ đủ giấc, tập thể dục thường xuyên, và giảm căng thẳng.
2.8. Kĩ thuật chuẩn đoán
2.8.1. Chẩn đoán lâm sàng:
Các dấu hiệu và triệu chứng của herpes zoster (HZ) thường đủ đặc biệt để thực hiện
một chẩn đoán lâm sàng chính xác khi phát ban đã xuất hiện. Tuy nhiên, chẩn đoán HZ có
thể có hoặc không có trong trường hợp không có phát ban (nghĩa là trước khi phát ban hoặc
trong trường hợp không có phát ban zoster). HZ là đôi khi bị nhầm lẫn với herpes simplex,
ĐỀ TÀI: BỆNH ZONA NHÓM 1

GVHD: LẠI ĐÌNH BIÊN Page 19


và đôi khi, với chốc lở, viêm da tiếp xúc, viêm nang lông, ghẻ, vết côn trùng cắn, nổi mề
đay có mụn nhỏ ở da, nhiễm trùng candidal, viêm da herpetiformitis.
2.8.2. Các phương pháp phòng thí nghiệm
Thử nghiệm trong phòng thí nghiệm có thể hữu ích trong trường hợp có biểu hiện
lâm sàng điển hình ít hơn, chẳng hạn như ở những người suy giảm miễn dịch có thể đã phổ
biến HZ (được định nghĩa là sự xuất hiện các tổn thương bên ngoài dermatomes chính hoặc
liền kề).
Nhuộm trực tiếp huỳnh quang: kháng thể của các tế bào bị nhiễm varicella
zoster virus (VZV) vào trong một tế bào từ cơ sở của tổn thương là nhanh chóng, cụ thể, và
nhạy cảm, nhưng nó là ít nhạy cảm hơn so với phản ứng dây chuyền polymerase
(PCR). Phương pháp này cũng có thể được sử dụng trên chất liệu sinh thiết và vùi hạt nhân
bạch cầu ái toan.
PCR: có thể được sử dụng để phát hiện VZS DNA nhanh chóng và nhạy cảm
trong các mẫu thu thập tổn thương da đúng cách, tuy nhiên, thử nghiệm PCR cho VZV
không có sẵn trong tất cả các thiết lập. Nó cũng có thể sử dụng PCR để phân biệt giữa
hoang dại và vắc-xin chủng VZV.
Phương pháp huyết thanh: cũng có thể được sử dụng để chẩn đoán HZ
trong phòng thí nghiệm, mặc dù có những khó khăn để giải thích kết quả.
Test ELISA dựa vào sự hiện diện của kháng thể IgM antivaricelle-zona, bệnh
phẩm là máu, dịch não tủy. Nó cũng là khó khăn để phát hiện sự gia tăng IgG để chẩn đoán
phòng thí nghiệm của HZ từ bệnh.
Smears Tzanck mẫu vật tổn thương là không tốn kém và có thể được thực
hiện đầu tiên, mặc dù phương pháp không phân biệt được giữa VZV và nhiễm virus herpes
simplex.
Ở những người suy giảm miễn dịch, ngay cả khi bị nhiễm VZV được chẩn đoán bằng
cách sử dụng các phương pháp phòng thí nghiệm, nó có thể rất khó để phân biệt giữa bệnh
thủy đậu và HZ phổ biến bằng cách kiểm tra thể chất hoặc thử nghiệm huyết thanh học.
Trong trường hợp này, tiền sử phơi nhiễm VZV hoặc phát ban bắt đầu với một mô hình
ĐỀ TÀI: BỆNH ZONA NHÓM 1


GVHD: LẠI ĐÌNH BIÊN Page 20

dermatomal, cùng với kết quả của xét nghiệm kháng thể VZV tại hoặc trước thời điểm bắt
đầu phát ban có thể giúp hướng dẫn chẩn đoán.
2.8.3. Chuẩn đoán phân biệt:
Nhiễm Herpes simplex: trên vùng da có tổn thương sẵn như chàm, viêm da dị
ứng hay tái phát ở cùng vị trí. Sang thương là những mụn mước nhỏ, đôi khi rát. Chẩn đoán
xác định dựa vào phân lập virus.Bệnh tay chân miệng: Hay gặp ở trẻ em, bệnh nhiễm trùng
toàn thân, do Enterovirus, sang thương là những mụn nước nhỏ vài mm, thường tập trung ở
lòng bàn tay, bàn chân; ở họng có thể có mụn nước làm trẻ đau, khó nuốt.
Zona: hồng ban bóng nước khu trú theo đường thần kinh, tổn thương kèm đau
nhức dị cảm.
Viêm da chốc lở (Impertigo): Do Streptococcus pyogenes, có thể nhiễm hoặc
phối hợp nhiễm Staphylococcus aureus. Bệnh thường xảy ra ở trẻ em thiếu vệ sinh, thiếu
dinh dưỡng. Sang thương là mụn nước, bóng nước có quầng viêm đỏ; sau đó thành mụn
mủ, rồi bể và khô đi, đóng mài vàng mật ong
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Zona có thể xảy ra ở bất kỳ người nào đã từng bị thủy đậu nhưng thường gặp hơn khi
tuổi đời càng tăng và ở những BN(bệnh nhân) bị tổn hại miễn dịch. Chẩn đoán thường được
xác lập trên lâm sàng, nhưng một xét nghiệm định lượng miễn dịch huỳnh quang trực tiếp
có thể có ích trong những trường hợp không điển hình. Acyclovir, valacyclovir và
famciclovir được chấp thuận trong điều trị zona. Những thuốc này dung nạp tốt và tương tự
nhau nếu xét riêng về hiệu lực lẫn tính an toàn. Tuy nhiên, do có các đặc điểm dược động
học được cải thiện và chế độ liều dùng đơn giản hơn, valacyclovir và famciclovir là những
thuốc được ưa chuộng hơn cho điều trị zona. Những BN lớn tuổi, đặc biệt là những người
trên 60 tuổi đau dữ dội lúc đến khám, là những người có nguy cơ cao bị bệnh nặng hơn và
có biến chứng, nên được điều trị kháng virút, giống như BN được mô tả trong trường hợp
minh họa. Bắt buộc sử dụng liệu pháp kháng virút ở những BN zona mắt, chủ yếu để dự
phòng các biến chứng ở mắt có tiềm năng gây mù. Nhằm làm giảm thời gian kéo dài và độ
nặng của các triệu chứng cấp tính, có thể xét đến một liệu pháp bổ sung với corticosteroid ở

ĐỀ TÀI: BỆNH ZONA NHÓM 1

GVHD: LẠI ĐÌNH BIÊN Page 21

những BN lớn tuổi nếu không có chống chỉ định nào. Tiềm năng bị đau nghiêm trọng ở
những BN zona không nên đánh giá thấp và thường sẽ phải cần đến các loại thuốc giảm đau
mạnh. Không một đơn trị liệu nào được chứng tỏ có hiệu quả trong điều trị đau dây thần
kinh sau zona. Thường là phải cần đến một liệu pháp kết hợp và hội chẩn với một chuyên
viên về điều trị đau.
4. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu internet:
[1]
/>t1f0w43c1164pc561a12639ht2.html#gsc.tab=0&gsc.q=Benh-zona-than-kinh&gsc.page=1
[2]
[3]
[4] />153174.html
[5]
[6]
[7]
[8] />t1f0w43c1164pc561a12639ht2.html#gsc.tab=0&gsc.q=Benh-zona-than-kinh&gsc.page=1
[9] />tri-tai-benh-vien-phong da-lieu-trung-uong-quy-hoa-t14900-594.html
[10]
Tài liệu tiếng việt:
[1] Nguyễn Lân Dũng, Nguyễn Đình Quyến, Phạm Văn Ty, Vi Sinh Vật Học, NXB Giáo
dục
[2] Phạm Văn Ty, Virut học, NXB Giáo dục
ĐỀ TÀI: BỆNH ZONA NHÓM 1

GVHD: LẠI ĐÌNH BIÊN Page 22


[3] Bệnh Zona BS. Nguyễn Hoàng Tuấn dịch theo John .Gnann, Jr: Herpes zoster, N Engl
J Med 2002, 347:340 – 346.
Tài liệu tiếng anh:
[1] Mario Roxas, ND, Herpes Zoster and Postherpetic Neuralgia: Diagnosis and
Therapentic Consideration, 2006
[2] J.Kintner, J. Whitimore, R.V Schoborg, Interaction of herpes simplex vius type 2 (HSV
– 2) glycoprotein D with the host cell surface is sufficient to induce Chlamydia trachomatis
persistence microbiology, 28/5/2010
[3] Richard S Krause, MD, Herpes Zoster, Senior Faculty, Department of Emergency
Medicine, StateUniversity of New York at Buffalo School of Medicine.
[4]
[5]
[6]
[7]
[8]
[9]

×