Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Đề án nhập môn tài chính tiền tệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.64 KB, 54 trang )

Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ 1 GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc
LỜI MỞ ĐẦU
Tiền tệ tù' lâu đã trở thành vật ngang giá chung của các hàng hoá, dịch vụ. Các giao
dịch buôn bán ở hầu hết mọi nơi trên thế giới đều sử dụng tiền và tiền tệ gắn liền với quan hệ
lợi ích. Thực tế này minh chứng cho vai trò quan trọng của tiền tệ trong nền kinh tế của các
quốc gia cũng như toàn thế giới. Nó được đặc trưng bởi sức mua; khi sức mua thay đối hay
lạm phát xuất hiện sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của mọi người, từ các tổ chức, cá nhân
cho tới chính phủ. Do vậy, lạm phát chính là đối tượng nghiên cứu của các nhà kinh tế học từ
nhiều năm nay. Lạm phát được coi như là một căn bệnh thế kỉ của nền kinh tế thị trường, mặc
dù lý thuyết về lạm phát đã khá phát triển nhưng việc làm thế nào vận dụng các biện pháp đế
kiểm soát chúng có hiệu quả đối với mỗi nền kinh tế vẫn luôn là vấn đề phức tạp.
Nhìn lại lịch sử lạm phát ở nước ta, từ cuối thế kỉ 19 đến đầu thế kỉ 20, lạm phát diễn
ra kéo dài và nghiêm trọng. Lạm phát đã phá vỡ toàn bộ kế hoạch của nền kinh tế Việt Nam
đồng thời ảnh hưởng đến tất cả các mối quan hệ trong nền kinh tế xã hội. Nhũng sự kiện gần
đây như việc Việt Nam gia nhập WTO, luồng vốn nước ngoài đã đột ngột chảy mạnh vào Việt
Nam trong năm 2008, các vấn đề của thị trường ngoại hối Việt Nam trong hai năm 2009 và
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ 2 GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc
2010 và cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cũng như nguy cơ lạm phát tăng mạnh trở lại đã
đặt ra nhiều thách thức mới cho việc quản lý kinh tế vĩ mô và đặc biệt trong việc kiếm soát
lạm phát ở Việt Nam. Với sự điều hành quản lý của nhà nước, lạm phát đã phần nào được
ngăn chặn, khắc phục; tuy nhiên với nhiều bất cập như thị trường tài chính tiền tệ kém phát
triển, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, các chính sách pháp luật vừa chồng chéo, vừa thiếu
đồng bộ lạm phát vẫn chưa thật sự được đấy lùi mà còn có nguy cơ quay trở lại, diễn biến
một cách phức tạp. Vì thế, việc tìm hiểu lạm phát trong thời gian qua, giai đoạn 2008-2010,
về nguyên nhân, diễn biến, tác động, giải pháp sẽ giúp ta có một cái nhìn tống quan hơn, đúc
kết được kinh nghiệm để xây dựng chiến lược phát triển đất nước trong thời gian sắp tới.
Với những nội dung cơ bản như trên, đề án được trình bày theo 3 chương:
Chương ĩ: Cơ sở lỷ luận về vẩn để lạm phát.
Chương 2: Thực trạng lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2008-2010.
Chương 3: Các giải pháp ứng phó với lạm phát tại Việt Nam trong thời gian
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ 3 GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc


Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng do trình độ và thời gian có hạn, trong quá trình
nghiên cứu đề tài chắc chắn còn nhiều thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý và chỉ bảo tận
tình từ các thầy cô giáo để đề án được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến
thầy Th.s Nguyễn Ngọc đã hướng dẫn em hoàn thành đề án này.
CHƯƠNG 1: CO SỎ LÝ LUẬN VÈ VÁN ĐỀ LẠM PHÁT
1.1. Quan niêm, cách tính, phân loai lam phát ĩ.1.1.
Quan niêm về lam phát
Lạm phát là vấn đề không xa lạ đối với một nền kinh tế nhưng hiếu chính xác lạm phát
là gì không phải dễ, và ngay cả các nhà kinh tế học cũng có rất nhiều quan điếm, cách tiếp
cận, lý luận khác nhau về lạm phát.
❖ Trường phái kinh tế học thị trường
Theo trường phái kinh tế học thị trường (đại diện là Milton Friedman), họ cho rằng
lạm phát là “một hiện tượng xã hội của tất cả các nước có sử dụng tiền tệ hiện đại”, là “đưa
nhiều tiền thừa vào lưu thông làm cho giá cả hàng hoá tăng lên”. Chúng ta đều biết rằng
không phải bất cứ số lượng tiền nào tăng lên trong lưu thông với nhịp điệu nhanh hơn sản
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ 4 GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc
xuất cũng đều là lạm phát, nếu như nhà nước không giảm bớt nội dung vàng hoặc giá trị
tượng trưng trong đồng tiền để bù đắp cho bội chi ngân sách. Những người theo học thuyết
này đã dùng logic hình thức đế kết hợp một cách máy móc hiện tượng tăng số lượng tiền với
hiện tượng tăng giá để rút ra bản chất kinh tế của lạm phát.
❖ Trường phái cầu kéo
Theo trường phái lạm phát do cầu kéo (đại diện là J.Keynes), họ cho rằng lạm phát là
“cầu dư thừa tống quát cho phát hành tiền ra quá mức sản xuất trong thời kỳ toàn dụng dẫn
đến mức giá chung tăng”. Chúng ta nhận thức được rằng nói lạm phát là “cầu dư thừa tống
quát” là không chính xác, vì trong giai đoạn khủng hoảng ở thời kỳ Chủ nghĩ tư bản phát
triển, mặc dù có khủng hoảng sản xuất thừa mà không có lạm phát. Còn ở Việt Nam trong
năm 1991 có tình trạng cung lớn hơn cầu mà vẫn có lạm phát giá cả và lạm phát tiền tệ. Tuy
Keynes đã tiến sâu hơn trường phái kinh tế học thị trường là không lấy hiện tượng bề ngoài,
không coi điều kiện của lạm phát là nguyên nhân của lạm phát nhưng lại mắc sai lầm về mặt
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ 5 GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc

logic là đem kết quả của lạm phát quy vào bản chất của lạm phát. Khái niệm của Keynes vẫn
chưa nêu được đúng bản chất kinh tế - xã hội của lạm phát.
♦♦♦ Trường phái lạm phát và giá cả
Theo trường phái lạm phát giá cả họ cho rằng lạm phát là “sự tăng giá”. Thực chất lạm
phát chỉ là một trong nhiều nguyên nhân của tăng giá. Có những thời kỳ giá mà không có lạm
phát như: thời kỳ “cách mạng giá cả” ở thế kỷ XVI ở châu Âu, thời kỳ hưng thịnh của một
chu kỳ sản xuất, những năm mất mùa tăng giá chỉ là hệ quả là một tín hiệu dễ thấy của lạm
phát nhưng có lúc tăng giá lại trở thành nguyên nhân của lạm phát. Lạm phát xảy ra là do tăng
nhiều yếu tố chứ không phải chỉ đơn thuần do tăng giá. Vì vậy quan điểm của trường phái này
đã lẫn lộn giữa hiện tượng và bản chất, làm cho người ta dễ ngộ nhận giữa tăng giá và lạm
phát.
♦♦♦ Trường phái Karl Marx
K.Marx đã cho rằng: lạm phát là “sự tràn đầy các kênh, các luồng lưu thông những tờ
giấy bạc thừa làm cho giá cả (mức giá) tăng vọt và việc phân phối lại sản phẩm xã hội giữa
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ 6 GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc
các giai cấp trong dân cư có lợi cho giai cấp tư sản”. Ở đây Marx đã đứng trên góc độ giai cấp
đế nhìn nhận lạm phát, từ đó dẫn tới việc người ta có thế hiểu lạm phát là do giai cấp tư bản
chủ động tạo ra đế bóc lột một lần nữa giai cấp vô sản. Trường phái này có nhược điểm là cho
rằng lạm phát chỉ là phạm trù kinh tế của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và chưa nêu được ảnh
hưởng của lạm phát trên phạm vi quốc
Trên đây là các quan điếm của các trường phái kinh tế học chính. Nói chung các quan
điểm đều chưa hoàn chỉnh, nhưng đã nêu được một số mặt của hai thuộc tính cơ bản của lạm
phát.
Ớ nước ta cũng như nhiều nước khác, quan niệm của trường phái giá cả được chấp
nhận tương đối phố biến. Sở dĩ như vậy là vì thế kỷ XX là thế kỷ lạm phát, lạm phát hầu như
diễn ra ở tuyệt đại bộ phận các nước mà sự tăng giá lại là tín hiệu nhạy bén, dễ thấy của lạm
phát. Nói chung, lạm phát chính là một hiện tượng của các nền kinh tế thị trường, và chúng ta
sẽ hiếu đơn giản lạm phát là “sự tăng giá kéo dài, là sự thừa các đồng tiền trong lưu thông, là
việc nhà nước phát hành thêm tiền nhằm bù đắp bội chi ngân sách”.
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ 7 GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc

1.1.1. Cách tính ti lê lam phát
Lạm phát được đo lường bằng tỷ lệ lạm phát mà nó là suất tăng của mức giá tống quát
theo thời gian, vấn đề đặt ra trước tiên là mức giá tống quát được tính toán như thế nào? Hai
thước đo thông dụng phản ánh mức gía tống quát là chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và chỉ số điều
chỉnh GDP (GDP deflator).
*♦* Chỉ số giá tiêu dừng (CPI) là một tỷ số phản ánh giá của rố hàng hoá trong nhiều
năm khác nhau so với giá của cùng rố hàng hoá đó trong năm gốc 1. Chỉ số giá này phụ thuộc
vào năm được chọn làm gốc và sự lựa chọn rố hàng hoá tiêu dùng.
về mặt tính toán, CPI được tính như sau:
Trong đó: q' : rỗ hàng hoá,
p
l
: giá của các mặt hàng t:
năm hiện hành 0 : năm gốc
♦♦♦ Chỉ số điều chỉnh GDP là loại chỉ sổ có mức bao phủ rộng nhất. Nó bao gồm tất
cả các hàng hoá và dịch vụ được sản xuất trong nền kinh tế và trọng sổ tính toán được điều
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ 8 GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc
chỉnh tuỳ thuộc vào mức độ đóng góp tương ứng của các loại hàng hoá và dịch vụ vào giá trị
gia tăng, về mặt khái niệm, đây là chỉ số đại diện tốt hơn cho việc tính toán tỷ lệ lạm phát
trong nền kinh tế. Tuy nhiên, chỉ số giá này không phản ánh trục tiếp sự biến động trong giá
hàng nhập khấu cũng như sự biến động của tỷ giá hối đoái.
về mặt tính toán, chỉ số điều chỉnh GDP được tính như sau:
Trong đó: q' : rỗ hàng hoá,
P : giá của các mặt hàng t: năm hiện
hành 0 : năm gốc
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ 9 GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc
1.1.2. Phân loai lam phát
1.1.3.1. Căn cử vào đinh lương
❖ Lạm phát vừa phải: là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một
năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kì này nền kinh tế

hoạt động một cách bình thường, đời sống của người lao động ốn định. Sự ốn định đó được
biểu hiện: giá cả tăng chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xảy ra tình trạng mua bán và
tích trữ hàng hoá với số lượng lớn Có thế nói đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận
được, những tác động của nó là không đáng kể.
♦♦♦ Lạm phát phi mã: là lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2
con số 1 năm. Ở mức 2 con số thấp: 11,12% thì nói chung các tác động tiêu cực không đáng
kể và nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng khi tăng đến hai chữ số cao thì lạm phát
sẽ làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng
được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và không bao
giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Như vậy lạm phát sẽ làm ảnh hưởng xấu đến sản
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ 10 GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc
xuất và thu nhập. Bên cạnh đó lạm phát phi mã còn là mối đe doạ đối với sự ốn định của nền
kinh tế.
*♦* Siêu lạm phát: là lạm phát 3 con số một năm, xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên
với tốc độ rất nhanh, tỷ lệ lạm phát cao. Tốc độ và tỷ lệ siêu lạm phát vượt xa lạm phát phi
mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lun thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng
nhanh và không ốn định, tiền lương thực tế của người lao động bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá
nhanh chóng, thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động sản
xuất kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn, mất phương hướng. Tóm lại, siêu lạm phát làm
cho đời sống và nền kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng. Tuy nhiên siêu lạm phát rất ít xảy
ra.
1.1.3.2. Căn cử vào đinh tính
*♦* Lạm phát cân bằng và lạm phát không căn bằng:
• Lạm phát cân bằng: Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động,
tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do đó
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ 11 GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc
không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và đến nền kinh tế nói
chung.
• Lạm phát không cân bằng: Tăng không tương ứng với thu nhập của người lao
động. Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra.

♦♦♦ Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường:
• Lạm phát dự đoán trước: là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kì
tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ốn định đều đặn. về mặt tâm lý, người dân đã quen với tình
trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước. Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống, đến
kinh tế.
• Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện. Loại
lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi. Từ đó mà
loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và niềm tin của nhân dân vào chính
quyền có phần giảm sút.
1.2. Nguvẽn nhân, tác đông của lam phát
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ 12 GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc
1.2.1. Nguvẽn nhân
1.2.1.1. Lam phát do cầu kéo
Khi tổng cầu tăng quá nhanh trong khi tổng cung không tăng hoặc tăng không kịp, hay
nói cách khác là nền kinh tế đã vượt qua mức sản lượng tiềm năng của nó sẽ dẫn tới lạm phát
do cầu kéo. Lúc này thì đồng tiền cầu sẽ vượt quá mức cung hàng hóa có giới hạn và sẽ làm
cho chúng tăng giá.
Ta có thế thấy rõ hơn cơ chế lạm phát cầu kéo qua mô hình sau đây:
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ 13 GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc


Đồ thị 1.1: Lạm phát cầu kéo
(Nguồn giảo trình Nhập môn tài chỉnh tiền tệ - ĐH Thương Mại)
Trong ngắn hạn, đường tống cung AS (Aggregate demand) mới đầu nằm ngang và sẽ
dốc ngược lên khi vượt quá mức sản lượng tiềm năng Q*. Điều này là do khi chưa đạt mức
sản lượng tiềm năng, một sự thay đối nhỏ về giá cả của đầu ra cũng khuyến khích được các
hãng tăng nhanh sản lượng sản xuất ra để đáp ứng sự tăng lên của nhu cầu, thu nhiều lợi
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ 14 GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc
nhuận hơn. Khi sản lượng của nền kinh tế là Q’ > Q*, chi phí đầu vào đã kịp thời điều chỉnh
tăng lên, các hãng không còn động lực để tăng cao sản lượng nữa, do đó dù giá có tăng nhiều

nhưng sản lượng vẫn không tăng đáng kế hay đường AS có độ dốc lớn. Lúc đó, cầu tăng
mạnh, đường AD
0
dịch chuyển lên trên đến vị trí mới là ADị và mức giá tăng nhanh từ Po đến
Pj. Tổng cầu tăng liên tục làm cho đường tổng cầu liên tiếp dịch chuyển về phía bên phải và
mức giá không ngừng tăng lên, tức là xảy ra lạm phát cầu kéo.
Khi đường cầu dịch chuyến đến AD], nền kinh tế ở trạng thái vượt quá trạng sản lượng
tiềm năng và toàn dụng nhân công, người lao động gây áp lực tăng lương làm cho tống cung
giảm, đường tống cung ASo dịch chuyến về bên trái tới vị trí ASj. Mức giá tăng tiếp từ Pi đến
p
2
, nền kinh tế lại chuyến về trạng thái đạt mức sản lượng tiềm năng và toàn dụng nhân công.
Cứ như thế, sau khi đường tống cầu dịch chuyến về bên phải thì đường tống cung lại dịch
chuyến về bên trái kéo theo mức giá tăng liên tục.
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ 15 GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc
1.2.1.2. Lam phát do chi phí đẩy
Hình thức của lạm phát do chi phí đấy phát sinh tù' phía cung, do chi phí sản xuất cao
hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng. Điều này chỉ có thế đạt trong giai đoạn tăng
trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với giá cao hơn. Ví dụ: Neu tiền lương chiếm
một phần đáng kể trong chi phí sản xuất và dịch vụ và nếu tiền lương tăng nhanh hơn năng
suất lao động thì tống chi phí sản xuất sẽ tăng lên. Neu nhà sản xuất có thế chuyến việc tăng
chi phí này cho người tiêu dùng thì giá bán sẽ tăng lên, công nhân và các công đoàn sẽ yêu
cầu tiền lương cao hơn trước để phù hợp với chi phí sinh hoạt tăng lên điều đó tạo vòng xoáy
lượng giá.
Mô hình dưới đây cho ta thấy quá trình diễn ra lạm phát chi phí đấy:
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ 16 GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc


Đồ thị 1.2: Lạm phát chỉ phí đẩy
(Nguồn giảo trình Nhập môn tài chỉnh tiền tệ - ĐH Thương Mại)

Ban đầu đường tổng cầu là AD
0
, đường tống cung là AS
0
. Khi chi phí đầu vào tăng (ví
dụ giá dầu lửa tăng), các hãng giảm mức cung hàng hoá, dịch vụ và đường tống cung dịch
chuyến sang tới vị trí AS], sản lượng giảm xuống còn Q’, đấy mức giá tăng từ p
0
lên Pị. Hiện
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ 17 GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc
tượng mức giá tăng liên tục, đồng thời sản lượng (hay GDP thực tế) suy giảm được gọi tình
trạng lạm phát đình trệ hay đình lạm; kèm theo đó là thất nghiệp gia tăng.
1.2.1.3. Lam phát do cung tiền tê cao và liên tuc
Theo quan điếm của các nhà kinh tế học, khi cung tiền tệ tăng lên kéo dài làm cho
mức giá tăng lên kéo dài và gây ra lạm phát. Có thể thấy ngưỡng tăng cung tiền đế gây lạm
phát là nền kinh tế toàn dụng. Thật vậy, ở nền kinh tế toàn dụng, các nhà máy, xí nghiệp được
hoạt động hết công suất, nguồn nguyên nhiên vật liệu được khai thác tối đa. Khi đó lực lượng
lao động được sử dụng một cách triệt đế và làm sản lượng tăng lên rất nhiều. Tuy nhiên, tình
hình này sẽ dẫn đến một vài kênh tắc nghẽn trong lun thông. Chẳng hạn khi các nhà máy, xí
nghiệp hoạt động hết công suất sẽ dẫn đến thiếu năng lượng, thiếu lao động, nguyên vật liệu
dần bị han hiếm Vai trò của chính phủ và các nhà quản lý phải xác định được kênh lưu thông
nào bị tắc nghẽn và tìm cách khơi thông nó. Neu không sẽ gây ra lạm phát. Lúc đó sản lượng
không tăng mà giá cả tăng nhiều thì lạm phát tất yếu sẽ xảy ra.
♦♦♦ Ngoài ra còn có một số các nguyên nhân khác cũng gây ra lạm phát:
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ 18 GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc
Thứ nhất là tâm lý của dân cư. Khi người dân không tin tưởng vào đồng tiền của Nhà
nước, họ sẽ không giữ tiền mà đấy vào lun thông bằng việc mua hàng hoá dự trữ hoặc đầu tư
vào một lĩnh lực kinh doanh nào đó Như thế cầu sẽ tăng lên mà cung cấp không đáp ứng
được cân bằng cung cầu trên thị trường hàng hoá không còn nữa và tiếp tục đẩy giá lên cao,
từ đó lạm phát sẽ xảy ra. Có thế thấy giá cả tăng lên làm tiêu dùng tăng, cứ như vậy sẽ gây ra

xoáy ốc lạm phát.
Thứ hai là thâm hụt ngân sách. Khi lâm vào tình trạng thâm hụt trầm trọng và kéo dài
thì chính phủ phải áp dụng biện pháp in tiền. Việc phát hành tiền sẽ ảnh hưởng đến cơ số tiền
tệ làm tăng mức cung ứng tiền, đấy tổng cầu lên cao và làm tăng thêm tỷ lệ lạm phát.
Thứ ba là tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá tăng đồng bản tệ sẽ bị mất giá. Khi đó tâm lý
những người sản xuất trong nước muốn đẩy giá hàng lên tương ứng với mức tăng tỷ giá hối
đoái. Mặt khác khi tỷ giá hối đoái tăng, chi phí cho các nguyên vật liệu, hàng hoá nhập khẩu
sẽ tăng lên. Do đó giá cả của các hàng hoá này tăng lên cao. Đây chính là lạm phát do chi phí
đẩy.
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ 19 GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc
1.2.2. Mối quan hê giữa lam phát và môt số biến số kinh tế vĩ mô
1.2.2.1. Quan hê giữa lam phát và ỉãi suất
Đế thấy rõ mối quan hệ lạm phát và lãi suất chúng ta cần phân biệt lãi suất danh nghĩa
(nominal interest rate) và lãi suất thực (real interest rate). Lãi suất được yết tại các ngân hàng
hay được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng là lãi suất danh nghĩa. Lãi suất
danh nghĩa được đo bằng số lượng tiền tệ. Lãi suất thực là lãi suất đo bằng lượng hàng hóa
mua được; đó là tỷ lệ phần trăm lượng hàng hóa tăng lên hoặc giảm đi mà cùng một số tiền
hiện tại hay giá trị của số tiền đó trong tương lai có thể mua được do không chi tiêu ngày hôm
nay và đem cho vay. Lãi suất thực bằng lãi suất danh nghĩa sau khi đã tính đến tác động của
lạm phát. Quan hệ giữa lãi suất và tỷ lệ lạm phát được thể hiện qua đẳng thức sau:
Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát
Đắng thức trên có ý nghĩa quan trọng đối với quyết định mua sắm hay đầu tư. Neu lãi
suất danh nghĩa không đủ đế bù đắp tỷ lệ lạm phát thì một người khôn ngoan sẽ không cho
vay tiền đế sau này được nhận một giá trị thực nhỏ hơn giá trị ban đầu của khoản tiền anh ta
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ 20 GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc
có. Quan hệ giữa lãi suất và lạm phát còn áp dụng được khi tính toán đế đưa ra quyết định
đầu tư. Neu lợi nhuận/ vốn đầu tư < lãi suất thực thì nhà đầu tư sẽ không có lợi bằng việc đem
tiền cho vay (với thời hạn cho vay bằng khoảng thời gian đầu tư) đế hưởng lãi suất.
1.2.2.2. Quan hê giữa lam phát và thất nghiêp
Khi đề cập đến mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp, người ta thường sử dụng

đường cong Phillip. Tuy nhiên, đường cong Phillip hiện đại khác với đường Phillip ban đầu ở
chỗ: đường Phillip hiện đại phản ánh quan hệ giữa lạm phát giá cả và thất nghiệp chứ không
phải giữa lạm phát tiền lương và thất nghiệp; đường Phillip hiện đại có tính đến tỷ lệ lạm phát
dự kiến cũng như cú sốc cung. Trong phân tích sau đây, chúng ta sẽ sử dụng đường cong
Phillip hiện đại cho phù hợp với thực tiễn kinh tế các nước.
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ 21 GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc

Đồ thị 1.3: Đường PhiLỉp ngắn hạn và dài hạn
(Nguồn: Giáo trình kinh tế học vĩ mô - NXB Giảo dục)

♦♦♦ Trong ngắn hạn:
Đường cong Phillip trong ngắn hạn cho thấy mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp
khi tỷ lệ lạm phát dự kiến của nền kinh tế ở một mức nhất định. Trong ngắn hạn, quan hệ giữa
lạm phát và thất nghiệp là tỷ lệ nghịch, tức là có thể đánh đổi lạm phát cao đế lấy thất nghiệp
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ 22 GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc
thấp. Neu lạm phát tăng cao hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến (ei) thì thất nghiệp sẽ giảm xuống thấp
hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên (Un) và ngược lại. Đường Phillip ngắn hạn sẽ dịch chuyến khi
một trong hai yếu tố tỷ lệ lạm phát dự kiến hoặc tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên thay đổi. Khi tỷ lệ
thất nghiệp tự nhiên tăng từ U
N
đến U
N1
thì đường Phillip mới là là đường (Pj). Trong trường
hợp tỷ lệ lạm phát dự kiến giảm xuống ei’, tỷ lệ thất nghiệp tự’ nhiên không đối thì đường
Phillip dịch chuyến sang (P).
Đường Phillip ngắn hạn chỉ thế hiện sự đánh đổi giữa thất nghiệp và lạm phát khi có
các cơn sốt cầu: cầu tăng dẫn đến giá tăng cao, sản xuất tăng và thất nghiệp giảm; còn khi
xuất hiện các cơn sốt cung: chi phí sản xuất tăng, sản xuất bị thu hẹp làm cho giá cả tăng và
thất nghiệp cũng tăng.
Dựa vào đường Phillip ngắn hạn, các nhà hoạch định chính sách có thế lựa chọn chính

sách kinh tế vĩ mô (nhất là chính sách tài chính, tiền tệ). Chang hạn, khi nền kinh tế gặp phải
lạm phát cao, chính phủ theo đuổi mục tiêu giảm lạm phát sẽ thắt chặt chính sách tiền tệ (tăng
lãi suất, giảm chi tiêu chính phủ ) và thất nghiệp sẽ gia tăng. Ngược lại, nếu nền kinh tế rơi
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ 23 GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc
vào suy thoái, thất nghiệp gia tăng thì chính phủ lại kích cầu đầu tư và tiêu dùng đế giảm thất
nghiệp nhưng phải chấp nhận lạm phát cao.
*♦* Trong dài hạn:
Đường Phillip dài hạn là một đường thắng song song với trục biếu diễn tỷ lệ lạm phát
và cắt trục hoành tại điếm có tỷ lệ lạm phát tự nhiên (Un), về lâu dài, tỷ lệ thất nghiệp thực tế
bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên do tác động của các chính sách tài khóa, tiền tệ, dù tỷ lệ lạm
phát thay đối ra sao. Như vậy, không tồn tại mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp trong
dài hạn.
1.3. Tác đông của lam phát và môt số biên pháp đối phó trong thòi kỳ lam phát
1.3.1. Tác đỏng của lam phát
Lạm phát có những tác động không chỉ về mặt kinh tế mà trên cả khía cạnh chính trị,
xã hội. Mức độ tác động tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như: tỷ lệ lạm phát, khả năng dự toán
chính xác sự thay đổi của lạm phát.
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ 24 GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc
Khi lạm phát xảy ra với một tỷ lệ chấp nhận được thì sẽ có lợi cho nền kinh tế. Lạm
phát ở mức độ nền kinh tế “chịu đựng được” như vậy sẽ kích thích các nhà đầu tư vay nợ đế
đấy mạnh sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, giảm thất nghiệp cho xã hội. Thu nhập của các
thành phần trong xã hội cũng vì thế mà cao hơn, thúc đẩy tiêu dùng và tăng trưởng kinh tế.
Tính chính xác của những dự đoán về lạm phát cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quyết
định của các tác nhân trong nền kinh tế. Kỳ vọng về lạm phát làm thay đối hành vi, sự lựa
chọn của họ. Phần lớn mọi người sẵn sàng mua một số hàng hoá nào đó ngay từ hôm nay đế
tránh sự lên giá nếu họ dự tính mức giá chung sẽ tăng lên trong tương lai. Nhũng người nào
dự đoán được tương đối chính xác ảnh hưởng của lạm phát lên thu nhập thì họ có thế tránh
được sự giảm sút thu nhập thực tế do lạm phát gây ra.
Lạm phát làm cho chúng ta khó có được thông tin về các nhân tố cấu thành nên giá cả
hợp lý của một hàng hóa. Dưới đây, chúng ta sẽ xem xét cụ thế tùng ảnh hưởng của lạm phát

đến nền kinh tế, chính trị-xã hội.
Đề án: Nhập môn tài chính tiền tệ 25 GVHD: Th.s Nguyễn Ngọc
1.3.1.1. Tác đônií về măt kinh tế
❖ Tác động tích cực:
Khi lạm phát ở mức vừa phải (khoảng từ 2% -5% đối với các nước phát triển và dưới
10% ở các nước đang phát triển) và các tác nhân trong nền kinh tế dự tính trước được thì loại
lạm phát này có tác dụng tích cực đối với nền kinh tế. Lạm phát vừa phải tạo nên một sự
chênh lệch giá cả hàng hóa, dịch vụ giữa các vùng, làm cho hoạt động thương mại trở nên
năng động hơn, thúc đẩy các doanh nghiệp mở rộng thị trường hoặc tìm kiếm thị trường mới
mang lại nhiều lợi nhuận. Chính việc mở rộng thị trường sẽ thúc đay cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp (bao gồm cả cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất kinh doanh một
loại mặt hàng và những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những mặt hàng khác nhau). Cạnh
tranh khiến các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triến thì phải đưa ra thị trường nhiều sản
phâm có chất lượng cao hơn, giá cả hấp dẫn hơn. Do vậy thương mại năng động hơn.
Lạm phát vừa phải làm cho nội tệ mất giá nhẹ so với ngoại tệ. Đây là lợi thế đế các
doanh nghiệp đấy mạnh xuất khấu tăng thu ngoại hổi, khuyến khích doanh nghiệp gia tăng

×