Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

xử lý việc nhập khẩu hàng hóa qua biên giới trong trường hợp là hành lý di chuyển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.9 KB, 19 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng của nhà nước là mục
tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra trong thời kỳ đổi mới. Quá trình thực
hiện mục tiêu này tất yếu làm phát sinh nhiều mối quan hệ phức tạp với sự gia
tăng các tranh chấp trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cùng với sự phát
triển kinh tế ngày càng đa dạng, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa tăng về khối
lượng, chủng loại…, đặt ra cho hoạt động kiểm soát hải quan nhiều thách thức.
Hiện tượng xe ôtô biển số Lào, biển số Cam pu chia, biển số liên doanh, biển số
sử dụng tại các khu kinh tế cửa khẩu…tạm nhập nhưng quá thời hạn không tái
xuất cũng đang gây khó khăn cho công tác kiểm tra, kiểm soát đối với các lực
lượng chức năng. Trong đó có sự gia tăng các khiếu nại, khiếu kiện các quyết
định hành chính, hành vi hành chính giữa tổ chức, cá nhân với cán bộ, cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Nguyên nhân của tình trạng này một phần là do sự
phức tạp trong các mối quan hệ xã hội, một phần là do hoạt động của hệ thống
hành chính Nhà nước còn có nhiều hạn chế, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân. Bên cạnh đó, công tác giải quyết khiếu nại, khiếu kiện của
Nhà nước cũng còn nhiều điểm bất cập cần phải hoàn thiện.
Trong bối cảnh hiện nay, cần khẳng định rằng, đổi mới tổ chức quản lý
các hoạt động xuất nhập khẩu ở các khu vực biên giới là vấn đề bức xúc, có ý
nghĩa thực tế sâu sắc. Là một cán bộ, đảng viên đang công tác tại Kho bạc Nhà
nước Hà Nội, trên cở sở kiến thức tiếp thu được từ học tập, nghiên cứu qua lớp
bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nhà nước chương trình chuyên viên chính tại Học
viện hành chính quốc gia và thực tế công tác, tôi mạnh dạn chọn đề tài “ Xử lý
việc nhập khẩu hàng hóa qua biên giới trong trường hợp là hành lý di
chuyển” để viết bài xử lý tình huống quản lý nhà nước cuối khóa.
Trong phạm vi bài tiểu luận này, tôi xin đề cập đến một khía cạnh nhỏ
trong hoạt động quản lý nhà nước liên quan đến việc nhập khẩu hàng hóa qua
biên giới mà cụ thể là hành lý di chuyển của công dân thông qua một tình huống
1
cụ thể, từ đó phân tích tình huống, chỉ ra nguyên nhân và hậu quả của sự việc,
đồng thời đưa ra những phương án để giải quyết tình huống và đề xuất hướng


giải quyết tình huống. Đây là một tình huống có thật, vụ án còn chưa kết thúc,
mặc dù tính chất sự vụ việc không thật bức xúc, phức tạp, nhưng lại là trường
hợp rất phổ biến.
I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
Năm 2002 gia đình ông Trần Hiệp Trí là Việt kiều sinh sống tại Căm Pu
Chia được phép hồi hương về nước.
Ngày 13/12/2002, trên đường hồi hương về nước ông Trí có mang theo
một số tài sản mà gia đình ông đang sử dụng, trong đó có một chiếc xe ôtô 4 chỗ
hiệu MERCEDES, biển số CPC 2537, số máy 1298022018390, số khung VDB
140571A25088, năm sản xuất 1994. Khi về tới cửa khẩu hải quan Xa mát, tỉnh
Tây Ninh, ông Trí có làm thủ tục nhập cảnh và kê khai xin nhập khẩu chiếc xe ô
tô nói trên. Chi cục Hải quan huyện Xa Mát sau khi xem xét hồ sơ làm thủ tục,
Chi cục Hải quan huyện Xa mát đã yêu cầu ông Trí gửi xe lại cửa khẩu cùng
giấy tờ kèm theo để chờ hoàn tất thủ tục.
Sau khi ông Trí thực hiện theo yêu cầu của Chi cục Hải quan huyện Xa
Mát và chuyển một số tài sản khác về nơi cư trú tại tỉnh Tây Ninh, thì cơ quan
Hải quan huyện Xa Mát đã tự ý chuyển chiếc xe ô tô cùng toàn bộ giấy tờ có liên
quan về Cục Hải quan tỉnh Tây Ninh để xem xét giải quyết.
Ngày 19/12/2002, Cục Hải quan tỉnh Tây Ninh đã cấp tờ khai nhập khẩu
xe ô tô cho ông Trí.
Ngày 30/1/2003, Cục Hải quan tỉnh Tây Ninh đã giao chiếc xe ô tô nói
trên cho ông Trí đưa về nhà để bảo quản và trông giữ.
Ngày 12/3/2003, Cục Hải quan tỉnh Tây Ninh đã yêu cầu ông Trí mang xe
ô tô đến Cục Hải quan để giải quyết. Cùng ngày, Cục Hải quan tỉnh Tinh Ninh
đã lập biên bản vi phạm hành chính số 02/BB-HC1 đối với ông Trí và đưa chiếc
xe ô tô vào kho niêm phong.
2
Ngày 8/12/2004, Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh Tây Ninh đã ban hành
Quyết định số 116/QĐ-XP-HC9 xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Trí với
nội dung tịch thu chiếc xe ô tô nói trên.

Ngày 14/12/2004, ông Trí có đơn khiếu nại.
Ngày 19/01/2005, Cục Hải quan tỉnh Tây Ninh ban hành Quyết định số
02/QĐ-HC17 giải quyết khiếu nại của ông Trí với nội dung vẫn giữ nguyên
Quyết định số 116/QĐ-XP-HC9 ngày 8/12/2004 của Cục trưởng Cục Hải quản
tỉnh Tây Ninh.
Ngày 31/01/2005 ông Trí khởi kiện vụ án hành chính đối với Quyết định
xử lý vi phạm hành chính số 116/QĐ-XP_HC9 ngày 8/12/2004 của Cục trưởng
Cục hải quan tỉnh Tây Ninh.
Ngày 18/02/2005 Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh thụ lý vụ án.
II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
2.1. Phân tích diễn biến tình huống
- Căn cứ vào Thông tư liên tịch số 27/2001/BTM-TCHQ ngày 6/12/2001
của Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan hướng dẫn việc nhập khẩu ô tô của
một số đối tượng theo đường phi mậu dịch thì: Người Việt Nam định cư ở nước
ngoài được phép hồi hương được nhập khẩu 01 chiếc ô tô là tài sản cá nhân đang
sử dụng ở nước ngoài. Khi làm thủ tục nhập khẩu ô tô, cá nhân này phải nộp cho
cơ quan hải quan bộ hồ sơ gồm: Văn bản đề nghị nhập khẩu, có xác nhận địa chỉ
cư trú của chính quyền địa phương; Quyết định của Bộ công an nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài trở
về định cư ở Việt Nam (bản sao có công chứng); Hộ chiếu (bản chụp kèm theo
bản chính để đối chiếu); Giấy đăng ký ô tô do cơ quan có thẩm quyền của nước
sở tại cấp, thời gian ít nhất là 6 tháng trước thời điểm về nước (bản sao có công
chứng kèm theo bản dịch tiếng Việt có công chứng); Vận tải đơn (3 bản copy
hoặc 1 bản copy, 2 bản sao của bản chính).
3
Như vậy, đối chiếu với quy định của pháp luật nêu trên, nếu ông Trần
Hiệp Trí đã làm thủ tục nhập khẩu hoặc cố tình gian dối để nhập khẩu chiếc xe ô
tô 4 chỗ hiệu MERCEDES, biển số CPC 2537, được sản xuất năm 1994 vào Việt
Nam, thì việc Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh Tây Ninh ban hành quyết định số
116/QĐ-XP_HC9 xử lý bằng hình thức tịch thu xe là đúng vì chiếc xe ô tố này

có năm sản xuất đã quá 5 năm tính đến ngày nhập khẩu. Tuy nhiên, trong vụ án
này chiếc xe ô tô bị tịch thu là tài sản di chuyển của ông Trần Hiệp Trí – Việt
kiều ở Cam pu chia được phép hồi hương về nước (điểm 15 Điều 4 Luật hải
quan quy định: Tái sản di chuyển là đồ dùng, vật dụng sinh hoạt, làm việc của cá
nhân, gia đình, tổ chức được mang theo khi thôi cư trú, chấm dứt hoạt động ở
Việt Nam hoặc nước ngoài). Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thì khi hồi
hương về đến cửa khẩu Xa Mát, ông Trí mới kê khai, xuất trình hồ sơ xin nhập
khẩu chiếc xe ô tô nói trên. Căn cứ vào Biên bản chứng nhận do Chi cục Hải
quan Xa Mát lập ngày 13/12/2002, thì hồ sơ xin nhập khẩu chiếc xe ô tô của ông
Trí là tài sản di chuyển, do còn thiếu Quyết định cho phép gia đình ông Trí nhập
cư tại Việt Nam của Cơ quan có thẩm quyền và bản kê chi tiết tài sản; nên Hải
quan cửa khẩu Xa Mát chưa giải quyết mà đồng ý cho ông Trí tạm gửi xe ô tô tại
Hải quan cửa khẩu Xa Mát chờ hoàn tât thủ tục. Sau đó, chính Cơ quan Hải quan
đã tự ý đưa xe ô tô của ông Trí về trụ sở Cục Hải quan tỉnh Tây Ninh (tự ý đưa
xe ô tô của ông Trí vào lãnh thổ Việt Nam). Ngày 30/01/2003, Cục Hải quan
tỉnh Tây Ninh đã giao lại chiếc xe ô tô cho ông Trí mang về để bảo quản, trông
giữ chờ giải quyết.
Như vậy, ông Trí chưa có hành vi nhập khẩu hoặc gian dối để nhập khẩu
xe ô tô không đủ điều kiện theo quy định của Nhà nước về nhập khẩu.
- Mặt khác, theo quy định tại Điều 1 Luật Hải quân quy định: Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi về hải quan đối với
hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh lãnh thổ Việt
Nam, điểm a Khoản 1 Điều 23 Luật Hải quan quy định về quyền và nghĩa vụ của
người khai hải quan thì: Người khai hải quan có quyền được cơ quan Hải quan
4
cung cấp thông tin liên quan đến việc khai hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu, quá cảnh, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh và hướng dẫn
làm thủ tục hải quan.
Trong trường hợp này, nếu cơ quan Hải quan đã hướng dẫn, giải thích,
nhưng ông Trí vẫn cố tình vi phạm thì việc Cơ quan Hải quản lập biên bản vi

phạm hành chính và ra quyết định tịch thu xe của ông Trí là có căn cứ.
Căn cứ vào các quy định trên của pháp luật, thấy rằng trong hồ sơ vụ án
chưa có tài liệu nào thể hiện việc Cơ quan Hải quan cung cấp thông tin, hướng
dẫn, giải thích theo quy định của pháp luật cho ông Trí được biết xe ô tô của ông
Trí không đủ điều kiện được nhập khẩu, để từ chối việc nhập khẩu chiếc xe ô tô
nói trên. Như vậy, trong trường hợp này, chưa đủ căn cứ chứng minh ông Trí cố
ý vi phạm quy định về nhập khẩu ô tô.
Việc Cục Hải quan Tây Ninh tự ý đưa xe ô tô của ông Trí từ cửa khẩu Xa
Mát về trụ sở Cục Hải quan tỉnh Tây Ninh để giải quyết, chứ không phải ông Trí
tự ý đưa xe vào trong lãnh thổ Việt Nam để sử dụng.
Từ các căn cứ nói trên, thấy rằng Cục Hải quan tỉnh Tây Ninh quyết định
tịch thu xe ô tô của ông Trí là không đúng pháp luật.
Khi ông Trí có đơn khiếu nại, ngày 19/01/2005, Cục Hải quan tỉnh Tây
Ninh ban hành Quyết định số 02/QĐ-HC17 giải quyết khiếu nại của ông Trí với
nội dung vẫn giữ nguyên Quyết định số 116/QĐ-XP-HC9 ngày 8/12/2004 của
Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh Tây Ninh cũng là không đúng pháp luật.
Ngày 31/01/2005 ông Trí có đơn khởi kiện vụ án hành chính đối với
Quyết định xử lý vi phạm hành chính số 116/QĐ-XP-HC9 ngày 8/12/2004 của
Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh Tây Ninh.
Ngày 18/02/2005 Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh thụ lý vụ án.
Tại bản án hành chính sơ thẩm số 02/2005/HCST ngày 03/6/2005, Tòa án
nhân dân tỉnh Tây Ninh đã xét xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trí;
hủy Quyết định số 116/QĐ-XP-HC9 ngày 8/12/2004 của Cục trưởng Cục Hải
quan tỉnh Tây Ninh, giao về Cục Hải quan tỉnh Tây Ninh giải quyết lại.
5
Ngày 03/6/2005, ông Trí kháng cáo.
Ngày 09/6/2005, Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh Tây Ninh kháng cáo.
Tại bản án hành chính phúc thẩm số 22/2005/HCPT ngày 25/7/2005, Tòa
phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử: Sửa án
sơ thẩm, bác yêu cầu khởi kiện của ông Trí; giữ nguyên quyết định số 116/QĐ-

XP-HC9 ngày 8/12/2004 của Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh Tây Ninh.
Ngày 19/8/2005 ông Trí có đơn gửi Tòa án nhân dân tối cao, đề nghị được
xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án hành chính phúc thẩm nói
trên.
Ngày 12/01/2006, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã có quyết định số
01/2006/HC-TK kháng nghị bản án hành chính phúc thẩm số 22/2005/HCPT
ngày 25/7/2005 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 02/2006/GĐT-HHĐTP, Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao đã quyết định: Sửa bản án hành chính phúc thẩm
số 22/2005/HCPT ngày 25/7/2005 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao
tại thành phố Hồ Chí Minh, tuyên hủy quyết định số 116/QĐ-XP-HC9 ngày 8-
12-2004 của Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh Tây Ninh để Cục Hải quan tỉnh Tây
Ninh giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật. Những lý do mà Hội đồng
Thẩm phán đưa ra để sửa bản án phúc thẩm là:
1. Ông Trí chưa có hành vi vi phạm pháp luật hành chính về nhập khẩu
hoặc gian dối để nhập khẩu xe ô tô không đủ điều kiện theo quy định của Nhà
nước.
2. Cơ quan Hải quan chưa thực hiện trách nhiệm phải hướng dẫn, giải
thích về thủ tục Hải quan đối với hàng hóa, phương tiện nhập khẩu, quá cảnh
theo yêu cầu của Luật Hải quan.
3. Cơ quan Hải quan tự ý đưa xe ô tô của ông Trí vào lãnh thổ Việt Nam
chứ không phải ông Trí tự đưa xe ô tô vào lãnh thổ Việt Nam để sử dụng.
6
4. Tòa án cấp phúc thẩm quyết định giữ nguyên quyết định xử phạt vi
phạm hành chính là không có căn cứ.
2.2.Nguyên nhân xảy ra tình huống
2.2.1. Đối với cá nhân ông Trần Hiệp Trí
Do trình độ hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, lại chủ quan, không tìm
hiểu trước các thủ tục pháp lý cần thiết cho việc hồi hương về nước cũng như

việc nhập khẩu tài sản di chuyển của mình, không có sự liên hệ với cơ quan đại
diện ngoại giao, lãnh sự của Việt Nam tại Căm pu chia để tham khảo và đề nghị
cung cấp thông tin về các thủ tục pháp lý cần thiết trong trường hợp cá nhân ông
Trí không thể trực tiếp thu nhập được.
2.2.2 Đối với cơ quan Hải quan
Có thể thấy, từ một sự việc tưởng chừng hết sức đơn giản nhưng việc giải
quyết của cơ quan Hải quan đã làm cho vụ việc trở nên bức xúc, kéo dài, làm
giảm lòng tin của người dân vào cơ quan công quyền, những người đại diện cho
nhà nước. Sở dĩ cơ quan Hải quan có những sai lầm trong việc thụ lý, giải quyết
vụ việc là bởi những nguyên nhân sau:
- Hệ thống pháp luật, chính sách, hệ thống các công cụ quản lý kinh tế cần
thiết cho những yêu cầu mới của cơ chế quản lý chưa được xây dựng đầy đủ, còn
nhiều yếu tố không đồng bộ, thiếu cụ thể, nên trong thực hiện còn gặp nhiều
vướng mắc, thậm chí còn bị hiểu sai lệch, trong khi trình độ hiểu biết về quản lý
hành chính nhà nước, về pháp luật hành chính còn hạn chế, khó khăn về điều
kiện cập nhật các quy định của pháp luật về hành chính, hải quan, về xuất nhập
khẩu còn hạn chế hoặc chưa được đào tạo đầy đủ; năng lực, trình độ nghiệp vụ,
cũng như lực lượng cán bộ của các cơ quan pháp luật nói chung, cơ quan Hải
quan nói riêng còn hạn chế, chưa kể những điều kiện vật chất hạn hẹp khác cũng
đã ít nhiều ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả giải quyết công việc
của một số cán bộ Hải quan.
- Do công tác tập huấn, hướng dẫn thi hành Luật Hải quan của các cơ
quan chức năng nhà nước chưa được kịp thời, chưa triệt để cho các chủ thể có
7
liên quan đặc biệt là các cán bộ Hải quan trực tiếp làm nhiệm vụ tiếp nhận hồ sơ
xuất nhập cảnh, xin phép xuất nhập khẩu.
- Do nắm không vững những điều cơ bản về pháp luật liên quan đến hoạt
động quản lý hành chính, do suy nghĩ chủ quan của cán bộ, công chức tham mưu
cho rằng làm như vậy không những không gây ra hậu quả gì mà còn ngăn ngừa
được tình trạng nhập khẩu trái phép hàng hóa bên ngoài vào lãnh thổ Việt Nam.

- Thêm vào đó là tình trạng mất dân chủ trong quá trình giải quyết khiếu
nại như chưa công khai quyết định giải quyết của cơ quan nhà nước, cán bộ giải
quyết sự việc không chủ động, tích cực tiếp xúc với người nhập cảnh, không giải
thích, hướng dẫn cho người dân về các thủ tục hành chính cần thiết, nhiều khi
thông tin không đến được với người dân hoặc đến không đủ, hoặc bưng bít thông
tin … Trong rất nhiều trường hợp, người dân không có cơ hội để trình bày sự
việc và nguyện vọng của mình cũng như lắng nghe, giải thích của các cơ quan
giải thích về các căn cứ có tính thuyết phục của quyết định xử phạt vi phạm hành
chính. Điều này dẫn đến thực trạng việc giải quyết khiếu nại của cơ quan nhà
nước nói riêng, của cơ quan Hải quan nói chung còn mang tính đơn phương, độc
đoán không có tiếng nói của người dân, thiếu tính khách quan, dân chủ.
2.3. Hậu quả của tình huống
Khi sự việc trên xảy ra tại địa bàn biên giới tỉnh Tây Ninh đã có một số
tác động tới hoạt động kinh tế, xã hội. Về mặt kinh tế, gia đình ông Trần Hiệp
Trí do có vụ việc xảy ra gây lãng phí về người, sức của. Còn xét vê góc độ quản
lý phải tốn thời gian công sức để giải quyết vụ việc. Cụ thể, những hậu quả đó
là:
- Bản thân ông Trần Hiệp Trí bị cơ quan Hải quan tịch thu xe đã làm cho
ông Trí không có phương tiện để đi lại, ảnh hưởng đến sinh hoạt cũng như công
việc của ông Trí và gia đình.
- Việc thường xuyên phải đến làm việc với các cơ quan hành chính cũng
như cơ quan Tòa án để giải quyết vụ việc sẽ mất nhiều thời gian, thủ tục nhiêu
khê, còn nhiều điều kiện ràng buộc không phù hợp làm cản trở quyền khiếu kiện
8
ra tòa án của công dân như muốn thụ lý phải trải qua giai đoạn tiền tố tụng trong
khi thời hiệu khởi kiện ra Tòa án lại quá ngắn. Những quy định này vừa hạn chế
quyền khiếu kiện chính đáng của người dân vừa “trói buộc” khả năng giải quyết
khiếu kiện hành chính của Tòa án. Đó là chưa kể đến trường hợp cấp có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại lần đầu là Cục hải quan tỉnh Tây Ninh có thể dây dưa
kéo dài việc trả lời người khiếu nại làm cho đương sự gặp khó khăn trong việc

khởi kiện ra Tòa án.
- Việc ban hành quyết định quản lý hành chính không đúng của cơ quan
quản lý nói chung, mà cụ thể là quyết định xử phạt vi phạm hành chính của Cục
Hải quan Tây Ninh nói riêng làm cho người dân thiếu tin tưởng vào Đảng, vào
chính quyền Nhà nước. Trong khi đó gia đình ông Trí là Việt Kiều hồi hương
,bản thân ông Trí phải là người yêu nước mới cùng gia đình quyết định về nước
để định cư, nhưng vừa đặt chân về Tổ quốc, ông Trí và gia đình đã gặp phải
những trở ngại về mặt hành chính như trên, dễ làm cho tâm tư bị dao động, bất
mãn. Nếu bị kẻ xấu lợi dụng, tung tin đồn thất thiệt sẽ làm cho trong xã hội xuất
hiện dư luận không có lợi cho công tác quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Hơn
nữa thái độ và tinh thần công tác của cán bộ quản lý ảnh hưởng không nhỏ tới
đời sống xã hội của nhân dân. Uy tín của cán bộ, công chức nhà nước giảm sẽ
đồng nghĩa với lòng tin của nhân dân vào Đảng vào chính quyền giảm. Điều này
gây nên sự hoài nghi trong dư luận, trong quần chúng nhân dân về tính hiệu quả
của cơ quan công quyền.
- Cơ quan quản lý nhà nước mất thời gian, công sức để giải quyết vụ việc.
Nhiều cơ quan cùng phải điều động cán bộ xem xét giải quyết vụ việc, báo cáo
lên cấp có thẩm quyền để ra quyết định xử lý. Nếu cơ quan Hải quan thụ lý giải
quyết tốt vụ việc ngay từ ban đầu thì sẽ không có tình trạng người dân phải
khiếu nại rồi khiếu kiện vòng vèo, dài dòng, sự việc không đến mức phải đưa ra
giải quyết tại cơ quan Tòa án. Chưa kể nếu việc giải quyết ở cơ quan Tòa án
cũng không rõ ràng, nghiêm minh, không thỏa đáng và không đúng pháp luật thì
vụ việc sẽ còn kéo dài nhiều tháng, thậm chí nhiều năm vì phải qua các giai đoạn
9
xét xử sơ thẩm, phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm. Vụ việc giải quyết bị kéo dài sẽ
kéo theo những chi phí quản lý hành chính cao làm tăng gánh nặng cho ngân
sách nhà nước.
- Đối với cán bộ công chức khi giải quyết các sự vụ thuộc thẩm quyền của
mình nếu có vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật với các hình thức được quy định trong
Luật về cán bộ công chức, nhẹ có thể bị khiển trách, cảnh cáo, nặng có thể bị

cách chức, bãi nhiệm. Một cán bộ công chức khi bị áp dụng hình thức kỷ luật sẽ
có tư tưởng không thoải mái, thậm chí tinh thần sa sút, hiệu quả làm việc không
cao, dễ phát sinh tư tưởng chán nản, tiêu cực, bi quan, mất lòng tin vào nghề
nghiệp.
- Việc không tuân thủ các quy trình, các thủ tục hành chính của công dân
cùng với việc vi phạm pháp luật của cơ quan nhà nước, của cán bộ quản lý thể
hiện rõ ràng rằng pháp chế xã hội chủ nghĩa của chúng ta chưa được mọi người
tôn trọng và chấp hành một cách đầy đủ, nghiêm minh.
III XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
3.1. Mục tiêu xử lý tình huống
- Để đảm bảo kỷ cương pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được thực thi
một cách nghiêm minh.
- Bảo vệ lợi ích của công dân, của xã hội và tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa đồng thời giáo dục, thuyết phục người dân chấp hành pháp luật một
cách nghiêm túc.
- Đảm bảo hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước trong từng ngành, từng
lĩnh vực nói chung, trong đó có ngành Hải quan với nhiệm vụ quản lý nhà nước
trong lĩnh vực xuất nhập khẩu qua biên giới nói riêng.
- Không ngừng nghiên cứu, học tập đề nâng cao trình độ, năng lực công
tác là nhiệm vụ và trách nhiệm của các cán bộ, công chức Nhà nước, nhà quản
lý, người có thẩm quyền giải quyết các vụ việc vi phạm pháp luật. Nếu không
chịu khó học tập nghiên cứu nâng cao trình độ thì bản thân những cán bộ, công
10
chức này cũng có thể mắc sai lầm và không tránh khỏi vi phạm pháp luật và
cũng bị người có thẩm quyền xử lý.
- Việc giải quyết tốt vụ việc còn có tác dụng củng cố niềm tin của nhân
dân vào Đảng và chính quyền Nhà nước những người đại diện cho nhà nước
đứng ra bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
3.2 Xây dựng các phương án xử lý tình huống, chọn phương án tối ưu
Từ sự phân tích phạm vi nói trên của Chi cục Hải quan huyện Xa Mát và

Cục Hải quan tỉnh Tây Ninh, có thể giải quyết sự việc nói trên theo một trong ba
phương án sau:
Phương án 1
Khi về tới cửa khẩu hải quan Xa Mát, tỉnh Tây Ninh, ông Trí có làm thủ
tục nhập cảnh và kê khai xin nhập khẩu chiếc xe ô tô nói trên. Nếu ông Trí
không cung cấp đủ các giấy tờ cần thiết thì cơ quan Hải quan có quyền từ chối
cho nhập khẩu.
Ưu điểm của phương án: Giải quyết nhanh chóng được vụ việc. Thể hiện
được tính ý chí và tính quyền lực của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc
thực hiện nhiệm vụ, chức trách của mình trong lĩnh vực Hải quan. Buộc người
dân phải thực hiện đúng chủ trương, chính sách của đảng và Nhà nước ta, phải
tuân theo đúng các quy định của pháp luật nói chung, phải thực hiện đầy đủ các
thủ tục pháp lý cho việc hồi hương và việc nhập khẩu tài sản của mình nói riêng.
Nhược điểm của phương án: Không dảm bảo được quyền và lợi ích hợp
pháp của người dân vì đây là quyết định đơn phương từ phía cơ quan công
quyền. Người dân không được bày tỏ ý chí, nguyện vọng của mình, không thực
hiện được mục đích đặt ra là hồi hương về nước định cư nhưng tài sản lại không
được mang theo, dẫn đến tình trạng “dở đi mắc núi dở lại mắc sông”, do vậy
không hài hòa được lợi ích của nhà nước, tập thể và cá nhân. Không tính hết
được các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội có thể mạng lại đó là làm
người dân dễ có tư tưởng hoang mang, mất lòng tin vào cơ quan quản lý, vào
chính sách của Đảng và nhà nước.
11
Phương án 2
Khi tiếp nhận hồ sơ hải quan, nếu thấy ông Trí chỉ thiếu một giấy tờ là
Quyết định cho phép hồi hương, cán bộ Hải quan có thể tham mưu cho thủ
trưởng cho phép hàng hóa là chiếc xe ô tô được thông quan và được chậm nộp
các chứng từ hải quan có thời hạn theo quy định tại Điều 25 Luật hải quan.
Ưu điểm của phương án: Giải quyết được nhanh chóng vụ việc, đảm bảo
được quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, khiến người dân phấn khởi, hài

lòng, tin tưởng vào đường lối, chính sách mở cửa thông thoáng của nhà nước ta.
Nhược điểm của phương án: Cơ quan quản lý nhà nước sẽ rất khó kiểm
soát được việc xuất nhập khẩu hàng hóa qua biên giới, đặt hoạt động kiểm soát
của cơ quan hải quan vào tình trạng bị động và phải đối mặt với nhiều thách
thức, trong đó đáng chú ý việc các đối tượng lợi dụng sơ hở của cơ chế chính
sách hòng thu lợi bất chính. Các đối tượng thường lợi dụng bất cập, sơ hở của
chính sách ưu đãi, cơ chế quản lý để có hành vi vi phạm pháp luật, như: lợi dụng
phân luồng ưu tiên miễn kiểm tra thực tế hàng hóa, khai sai tên hàng, mã hàng,
chủng loại, số lượng, lợi dụng loại hình tạm nhập, tái xuất hoặc các thủ đoạn tinh
vi hơn cũng đã được sử dụng như làm giả hồ sơ chứng từ, móc nối với đối tác ở
nước ngoài làm giả hồ sơ để gian lận. Do đó không đảm bảo được hoạt động
quản lý nhà nước một cách tốt nhất.
Phương án 3
Khi tiếp nhận hồ sơ hải quan, công chức Hải quan tại Chi cục Hải quan
huyện Xa Mát kiểm tra việc khai theo nội dung yêu cầu trên tờ khai hải quan và
chứng từ thuộc hồ sơ hải quan, sự phù hợp của nội dung khai hải quan và chứng
từ thuộc hồ sơ hải quan, đăng ký hồ sơ hải quan theo đúng quy định của pháp
luật, trong trường hợp không chấp nhận đăng ký hồ sơ hải quan thì phải thông
báo lý do cho người khai hải quan biết. Nếu hồ sơ hải quan còn thiếu thì cho
phép ông Trí được gửi xe tại “kho ngoại quan” (theo quy định tại điểm 13 điều
14 Luật hải quan thì “kho ngoại quan” là kho lưu giữ hàng hóa đã làm thủ tục
hải quan được gửi để chờ xuất khẩu; hàng hóa từ nước ngoài được vào gửi để
12
chờ xuất khẩu ra nước ngoài hoặc nhập khẩu vào Việt Nam theo quy định của
pháp luật). Khi có đầy đủ giấy tờ cần thiết theo quy định của pháp luật thì chiếc
xe của ông Trí sẽ được cơ quan hải quan cấp giấy phép và được đưa vào Việt
Nam để sử dụng.
Trong trường hợp này, Chi cục Hải quan Xa Mát cần kiểm tra hồ sơ nhập
cảnh của gia đình ông Trí, và giải thích cho ông Trí được biết theo quy định của
Luật Hải quan thì bộ hồ sơ nhập khẩu đối với chiếc xe ô tô của ông Trí còn thiếu

quyết định của Bộ Công an nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho
phép ông Trí ở nước ngoài được về định cư tại Việt Nam. Chỉ khi có đầy đủ các
giấy tờ trong bộ hồ sơ thì ông Trí mới được phép mang chiếc ô tô này vào Việt
Nam sử dụng. Do vậy chiếc xe ô tô của ông Trí cần được gửi tại kho ngoại quan
(tối đa 12 tháng theo quy định tại Điều 48 Luật Hải quan) cùng giấy tờ kèm theo
để làm thủ tục. Nếu ông Trí không cung cấp được đầy đủ giấy tờ tài liệu theo
quy định của pháp luật mà vẫn đưa xe vào lãnh thổ Việt Nam thì hành vi của ông
Trí sẽ bị lập biên bản vi phạm hành chính và có thể bị cơ quan nhà nước có thẩm
quyền là Cục hải quan tỉnh Tây Ninh ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Ưu điểm của phương án: Giải quyết vụ việc được đúng trình tự, thủ tục,
tuân thủ đúng quy định của pháp luật, tăng cường kỷ cương, pháp chế xã hội chủ
nghĩa, đảm bảo được lợi ích của người dân, hài hòa giữa lợi ích của Nhà nước và
lợi ích của công dân.
Nhược điểm của phương án: Việc giải quyết có thể bị chậm trễ, kéo dài,
không đảm bảo tuân thủ về mặt thời gian theo quy định của pháp luật. Cơ quan
quản lý không chủ động mà phải có sự phối kết hợp, phụ thuộc vào các cơ quan
quản lý khác như Chi cục Hải quan huyện Xa Mát, Cục Hải quan tỉnh Tây Ninh,
Bộ công an,… nên kết quả giải quyết vụ việc không được nhanh chóng.
Từ những phấn tích về tình huống nếu trên, thấy rằng phương án giải
quyết tối ưu nên lựa chọn là phương án 3. Đây là phương án đem lại hiệu quả tốt
nhất.
13
3.3 Các giải pháp thực hiện phương án đã lựa chọn
Phương án 3 sẽ được tổ chức thực hiện theo nội dung và trình tự như sau:
- Căn cứ vào Thông tư liên tịch số 27/2001/BTM-TCHQ ngày 6/12/2001
của Bộ trưởng Bộ Thương mại và Tổng cục hải quan hướng dẫn việc nhập khẩu
ô tô của một số đối tượng theo đường phi mậu dịch, khi làm thủ tục cho ông
Trần Hiệp Trí nhập cảnh, nếu thấy ông Trí kê khai các tài sản mang theo trong
đó có tài sản di chuyển là chiếc ô tô, cán bộ Hải quan cần kiểm tra bộ hồ sơ của
ông Trí và yêu cầu ông Trí xuất trình đầy đủ các giấy tờ bao gồm: văn bản đề

nghị nhập khẩu chiếc xe ô tô của ông Trí có xác nhận địa chỉ cư trú của chính
quyền địa phương nơi ông Trí sinh sống tại Cam pu chia; Quyết định của Bộ
Công an nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho phép ông Trí định cư ở
Căm pu chia được hồi hương trở về định cư ở Việt Nam (bản sao có công
chứng); hộ chiếu của ông Trí (bản chụp kèm theo bản chính để đối chiếu); giấy
đăng ký ô tô do cơ quan có thẩm quyền của Căm pu chia cấp, thời gian ít nhất là
6 tháng trước thời điểm ông Trí về nước (bản sao có công chứng kèm theo bản
dịch tiếng Việt có công chứng); bằng lái ô tô của ông Trí (bản sao có công chứng
kèm theo bản dịch tiếng Việt có công chứng); Vận tải đơn đối với chiếc xe ô tô
(3 bản copy hoặc 1 bản copy, 2 nảm sao của bản chính).
- Theo quy định tại điều 1, điều 23 của Luật hải quan thì trong trường hợp
ông Trí không có đầy đủ các giấy tờ được liệt kê như trên, cơ quan Hải quan
phải phổ biến cho ông Trí được biết về quyền và nghĩa vụ của mình, cụ thể cơ
quan Hải quan phải giải thích cho ông Trí biết theo quy định của pháp luật thì để
được phép nhập khẩu chiếc xe ô tô là tài sản di chuyển, ông Trí bắt buộc phải
làm đầy đủ các thủ tục hành chính và phải cung cấp các giấy tờ cần thiết cho
việc nhập khẩu này.
- Do ông Trí không có đầy đủ các giấy tờ (thiếu Quyết định của Bộ Công
an nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho phép ông Trí định cư ở Căm
pu chia được hồi hương trở về định cư ở Việt Nam), cơ quan Hải quan cần yêu
cầu ông Trí làm các thủ tục để gửi xe tại kho ngoại quan trong khi chờ hoàn tất
14
các thủ tục hành chính và các giấy tờ cần thiết khác nếu ông Trí vẫn có nguyện
vọng được mang theo chiếc xe ô tô từ Căm pu chia về Việt Nam dử dụng).
- Nếu trong thời gian tối đa 12 tháng mà ông Trí không cung cấp cho cơ
quan Hải quan đầy đủ giấy tờ trong bộ hồ sơ nhập khẩu thì cơ quan hải quan có
quyền từ chối cho nhập khẩu chiếc xe ô tô là hành lý di chuyển của ông trí. Còn
nếu trong thời gian này ông Trí hoàn tất được các thủ tục hành chính và giấy tờ
cần thiết cho việc nhập khẩu thì cơ quan Hải quan cho phép ông Trí được nhập
khẩu chiếc ô tô, đồng thời ông Trí phải thanh toán tiền phí lưu kho trong thời

gian chiếc xe ô tô được lưu tại kho ngoại quan.
- Sau khi có giấy phép nhập khẩu, chiếc xe ô tô của ông Trí được phép
thông quan và được đưa vào lãnh thổ Việt Nam để sử dụng.
IV. Kiến nghị
Từ tình huống nêu trên, người viết xin kiến nghị với cơ quan quản lý nhà
nước một số vấn đề sau:
- Một là, cần đổi mới tổ chức quản lý nhằm tạo môi trường thuận lợi để
phát triển các hoạt động xuất nhập khẩu ở khu vực biên giới theo hướng vừa
tăng vai trò của tổ chức quản lý nhà nước vừa phát huy được tính năng động của
các chủ thể tham gia.
- Hai là, để đảm bảo kỷ luật nhà nước cần có các quy định nghiêm ngặt
đối với hoạt động kinh tế đối ngoại nhất là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, cần
thiết phải xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật về lĩnh vực này để
phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế, bởi vì nhà nước ta đang có chính sách khuyến
khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh xuất nhập
khẩu hàng hóa và dịch vụ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh mở rộng kinh tế
đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta, trong đó Việt kiều cũng
là một thành phần không nhỏ có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chủ
trương đường lối của Nhà nước.
15
- Ba là, do điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, trình độ văn hóa của
nhân dân chưa cao nên ý thức tôn trọng pháp luật giữ vững pháp chế của một số
cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế cũng như cán bộ và nhân dân còn nhiều hạn
chế. Cùng với sự xóa bỏ cơ chế cũ, xác lập cơ chế quản lý mới, nhà nước ta đã
ban hành nhiều văn bản pháp luật mới nhưng không phải ai cũng dễ dàng tiếp
cận được với những văn bản mới đó, mặt khác đối với một số người, các quy
định mới của pháp luật còn chưa quen, chưa dễ thực hiện. Tình hình đó đòi hỏi
công tác tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân nhất là
pháp luật về kinh tế là hết sức cần thiết. Chúng ta không thể để những cán bộ

lãnh đạo về kinh tế mà không hiểu biết những điều cơ bản về pháp luật liên quan
đến hoạt động kinh doanh. Không để tình trạng cán bộ quản lý hành chính mà
không nắm vững những điều cơ bản về pháp luật hành chính.
Đối với những cán bộ công chức làm công tác quản lý trong lĩnh vực quản
lý nhà nước về kinh tế, cần có chủ trương đào tạo để họ có được trình độ pháp
luật nhất định. Bởi lẽ, có hiểu biết pháp luật, có kỹ năng áp dụng pháp luật đúng
đắn thì họ mới hiểu rõ được chế độ trách nhiệm của mình khi thực hiện công vụ.
- Bốn là, xây dựng một nhà nước pháp quyền dân chủ thực sự, trong đó
mọi tổ chức nhà nước, mọi đơn vị kinh tế, mọi người biết tự giác chấp hành
pháp luật, biết đặt khẩu hiệu “sống và làm việc theo pháp luật” trong ý thức và
hành động của mình, có như vậy nhà nước ta mới thực sự là nhà nước của dân,
do dân và vì dân.
V. Kết luận
Câu chuyện tình huống trên là một trong những tình huống đơn giản trong
hoạt động quản lý hành chính nhà nước tại một trong những cửa khẩu biên giới
của Việt Nam, song nó chứng tỏ việc quản lý nhà nước bằng pháp luật là hết sức
cần thiết. Pháp luật được xem như một công cụ hữu hiệu nhất của nhà nước để
quản lý nền kinh tế. Ở đó, pháp luật có vai trò vừa là công cụ cưỡng chế hành vi
có thể làm tổn hại đến lợi ích của nhà nước. Chính vì vậy, chỉ cần có một vài cán
bộ, công chức xa rời pháp luật, không nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của
16
pháp luật thì sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng, đó là nhiều cấp quản lý,
nhiều cơ quan cùng phải tham gia giải quyết một vụ việc gây mất thời gian, tốn
kém tiền của của nhà nước, của công dân, làm mất lòng tin của người dân vào
Đảng, vào chính quyền, vào pháp luật của nhà nước. Qua đó thấy rằng vấn đề
cán bộ là nhân tố quan trọng hơn hết bảo đảm thể hiện thành công sự quản lý
nhà nước đối với hoạt động của ngành Hải quan. Dù ở bất kỳ cấp quản lý nào
người cán bộ cũng phải trau dồi trình độ, nắm vững chủ trương chính sách, phát
huy trách nhiệm được giao, nâng cao tính năng động sắc bén và hiệu lực quản lý
điều hành trên phương diện quản lý nhà nước. Tư cách cán bộ quản lý không

những phải công tâm, không vụ lợi trong thi hành công vụ, mà còn phải gần dân,
hiểu dân, giúp dân.
Nhu cầu về cán bộ quản lý nhà nước ở các khu vực của cửa khẩu vùng
biên đủ phẩm chất chính trị và năng lực chuyên môn còn rất thiếu, chưa đáp ứng
được nhu cầu của thực tế công việc hiện nay. Vấn đề đáng quan tâm là môi
trường quản lý thương mại ở khu vực biên giới nói chung và vùng cửa khẩu nói
riêng hết sức phức tạp, khó khăn. Thực chất ở đó đang tập trung nhiều loại mâu
thuẫn và cuộc đấu tranh kinh tế - xã hội mang tính chất gay gắt quyết liệt.
Do vậy, dù chính sách và cơ chế có tốt đến đâu mà thiếu cán bộ có năng
lực cần thiết thi hành mọi sự quản lý nhà nước đều khó thành công. Nhiệm vụ
đặt ra cần kiện toàn đội ngũ quản lý, đào tạo, đào tạo lại và nâng cao trình độ
cho cán bộ công chức quản lý nhà nước về thương mại.
………o0o……….
17
LỜI CẢM ƠN
Được sự quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ của các thầy, cô giáo Học viện
chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Trường nghiệp vụ Kho bạc Tôi
được tham gia lớp học bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước chương trình
chuyên viên chính tổ chức cho cán bộ, công chức của Kho bạc Nhà nước từ ngày
06/4/2010 đến ngày 02/07/2010.
Qua thời gian 3 tháng học tập trên lớp và đi thực tế, tuy thời gian không
dài cho một chương trình có nội dung, kiến thức rộng lớn và phong phú, nhưng
được sự quan tâm của các thầy cô giáo Học viện chính trị - Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh, Tôi đã hoàn thành tốt chương trình học tập của khóa học.
Tôi xin trân thành cảm ơn Học viện chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh, đã giúp tôi hoàn thành tiều luận “ Xử lý việc nhập khẩu hàng hóa
qua biên giới trong trường hợp là hành lý di chuyển”.
Tuy nhiên, với thời gian học tập, nghiên cứu còn hạn hẹp, kiến thức lý
luận còn phần nào hạn chế sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy, Tôi kính mong
được sự quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ của các thầy, cô giáo Học viện chính trị

- Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Trường nghiệp vụ Kho bạc.
Hµ Néi, th¸ng 6 n¨m 2010
18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Luật Hải quan số 29/2001/QH10 ngày 29/6/2001
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải quan số 42/2005/QH11
ngày 24/6/2005
Tài liệu bồi dưỡng về quản lý hành chính nhà nước chương trình chuyên
viên chính của Học viện hành chính – nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
Quyết định giám đốc thẩm số 02/2006/HC-GĐT ngày 10/5/2006 về vụ án
tranh chấp hành chính “ Khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính “ của
hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao.
19

×