Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.91 KB, 34 trang )

Lời nói đầu
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12 1986) Đảng ta đã đề ra chủ tr-
ơng đổi mới nền kinh tế một cách toàn diện, chuyển nền kinh tế kế hoạch tập
trung sang nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Lý luận kinh tế
về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội lúc này đã có những thay đổi căn bản, sự
tồn tại khách quan của năm thành phần kinh tế đợc thừa nhận. Kinh tế quốc doanh
nay đợc gọi là khu vực doanh nghiệp Nhà nớc, đồng thời thừa nhận sự tồn tại
khách quan của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thì nhận thức về vai trò
của khu vực kinh tế Nhà nớc cũng đợc đổi mới.
Trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, Đảng ta
luôn khẳng định thành phần kinh tế Nhà nớc đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế quốc dân. Lý luận về kinh tế nhà nớc là một trong những vấn đề lý luận kinh tế
trung tâm của các đảng cộng sản. Nhất là trong giai đoạn lãnh đạo đất nớc xây
dựng và phát triển kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay lý
luận đó vẫn mang ý nghĩa thời sự cấp bách cả về nhận thức lý luận và thực tiễn.
ở Việt Nam thì kinh tế nhà nớc là một bộ phận có vai trò quyết định trong cơ
cấu kinh tế của nớc ta. Trong các bộ phận cấu thành của kinh tế nhà nớc thì khu
vực doanh nghiệp nhà nớc là bộ phận chủ yếu có vị trí đặc biệt. Nhng thực trạng
của khu vực doanh nghiệp nhà nớc của nớc ta hiện nay thì cha thể hiện đợc vai trò
then chốt và chủ đạo trong nền kinh tế, một số ngành, một số lĩnh vực của doanh
nghiệp nhà nớc không năng động bằng khu vực kinh tế t nhân. Có nhiều lý do dẫn
đến tình trạng trên nhng nguyên nhân chủ yếu vẫn là do khâu tổ chức và vận hành
doanh nghiệp nhà nớc cha thật hợp lý. Vậy để doanh nghiệp nhà nớc có thể thể
hiện đợc vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế quốc dân thì vấn đề tất yếu là
ta phải tổ chức và sắp xếp lại các doanh nghiệp cho thật hợp lý


1
CHƯƠNG I Một số vấn đề lý luận chung về
doanh nghiệp nhà nớc
I / Tính tất yếu khách quan


1. Định nghĩa về doanh nghiệp nhà nớc ( DNNN )
Theo luật doanh nghiệp của Việt Nam năm 1995 thì DNNN là tổ chức kinh tế
do nhà nớc đầu t vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc
công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nớc giao. DNNN có
t cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn
bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi doanh nghiệp quản lý. DNNN là bộ phận
chủ yếu của khu vực kinh tế nhà nớc một lực lợng vật chất cơ bản, đảm bảo
cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của nhà nớc
2. Các bộ phận cấu thành của kinh tế nhà nớc
- Xét theo lĩnh vực hoạt động: Hoạt động trực tiếp trong sản xuất kinh doanh
hàng hoá dịch vụ và hoạt động kinh tế nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất xã
hội
- Xét về hình thức tổ chức: Khu vực KTNN bao gồm nhiều bộ phận hoạt động
trong các lĩnh vực then chốt, thiết yếu của nền kinh tế quốc dân. Mỗi bộ phận có
chức năng, nhiệm vụ khác nhau, nhng đều nhằm thực hiện vai trò chủ đạo của khu
vực KTNN ở một mức độ nhất định. Cụ thể nh sau:
Ngân sách nhà nớc:Thực hiện chức năng thu chi ngân sách và có nhiệm vụ
điều chỉnh quản lý, kiểm soạt các hoạt động của khu vực KTNN và các thành
phần kinh tế khác theo mục tiêu kinh tế xã hội đã định. Có tác dụng điều chỉnh,
quản lý, kiểm soát các hoạt động knh doanh tiền tệ, đặc biệt là xây dựng và tổ
chức thực hiện chính sách tiền tệ để phát triển kinh tế xã hội
Kho bạc nhà nớc: Với chức năng quản lý quỹ tiền tệ tập trung của nhà nớc
đồng thời kiểm soát quá trình thu chi ngân sách
Các quỹ dự trữ quốc gia: là một bộ phận của khu vực KTNN, nhằm bảo đảm
cho khu vực này hoạt động bình thờng trong mọi tình huống, là lực lợng vật chất
để nhà nớc điều tiết, quản lý bình ổn giá thị trờng, đảm bảo ổn định kinh tế xã hội
Các tổ chức sự nghiệp có thu: Hoạt động gần giống nh DNNN trong cung ứng
một số dịch vụ công, đặc biệt trong giáo dục, y tế, dịch vụ hành chính công
Hệ thống DNNN: Đây là bộ phận chủ yếu then chốt của khu vực KTNN. Để
đợc gọi là một DNNN thì cần phải có ba điều kiện

2
Thứ nhất: nhà nớc là cổ đông chính, có thể nhà nớc sở hữu 100% vốn, sở hữu
cổ phần chi phối ( trên 51 % ) hoặc sở hữu cổ phần đặc biệt ( cổ phần quy định
quyền quản lý của nhà nớc )
Thứ hai: doanh nghiệp có nhiệm vụ sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ để bán
Thứ ba: Có hoạch toán lỗi lãi
Nếu thiếu điều kiện một thì đó là doanh nghiệp t nhân và thiếu điều kiện hai và
ba thì đó không phải là doanh nghiệp mà là cơ quan nhà nớc
3. Sự cần thiết phải củng cố và phát triển DNNN
3.1 Sự cần thiết của DNNN
Nhìn lại quá trình lịch sử, chúng ta đi lên từ cơ sở vật chất, kỹ thuật rất
nghèo nàn, lạc hậu, nền kinh tế mất cân đối trầm trọng, lực lợng thù địch bao vây
cấm vận kinh tế triệt để. Trong hoàn cảnh đó chúng ta đã xây dựng một nền kinh
tế độc lập, tự chủ bằng biện pháp huy động nguồn lực lớn của đất nớc và viện trợ
quốc tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân dới hình thức
DNNN làm nòng cốt, cùng với khu vực kinh tế hợp tác xã làm nền tảng đáp ứng
những nhu cầu của xã hội. Thực tiễn đã chứng minh trong kháng chiến chống Mỹ
cứu nớc nếu không phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác xã để xây
dựng hậu phơng vững mạnh, giải quyết hậu cần tại chỗ thì không thể huy động
tổng lực của dân tộc, chi viện cho tiền tuyến để tiến tới thắng lợi hoàn toàn. Sau
khi thống nhất đất nớc nền kinh tế bị ảnh hởng nặng nề bởi lệnh bao vây cấm vận
kinh tế của đế quốc Mỹ, sự duy trì quá lâu của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp
trong điều xây dựng hoà bình và sau đó là sự tan rã của hệ thống XHCN. Đại hội
VI đã đề ra chủ trơng đổi mới và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có
sự quản lý của nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Từ đó đến nay kiên trì
với chủ trơng này nền kinh tế của nớc ta đã phát triển khá cao trong nhiều năm và
thoát khỏi khủng hoảng đảm bảo đợc những cân đối lớn, từng bớc cải thiện đời
sống nhân dân, giữ vững ổn định chính trị xã hội tạo thế và lực mới để tiếp tục đa
sự nghiệp mới đi lên
Nếu nhìn hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật và những đóng góp của DNNN hiện

nay rõ ràng là DNNN đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế nớc ta,
thể hiện trên những nét chủ yếu sau:
- DNNN đang nắm giữ một số ngành, lĩnh vực then chốt, hệ thống cơ sở vật
chất kỹ thuật quan trọng nhất cho công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nớc, nắm toàn
bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội có tính huyết mạch, hầu hết các doanh
nghiệp lớn là các doanh nghiệp trong các ngành xây dựng ( về giao thông, thuỷ
lợi, công nghiệp và dân dụng ), cơ khí chế tạo máy, luyện kim, xi măng, điện tử,
3
hoá chất, điện dầu khí, thông tin liên lạc, vận tải đờng sắt, đờng biển, đờng không,
ô tô ... , sản xuất hàng công nghệ tiêu dùng, chế biến nông thuỷ, hải sản, nắm giữ
một tỉ lệ quan trọng trong những ngành kinh doanh dịch vụ, thơng mại nhập khẩu
chiếm thị phần áp đảo trong huy đọng vốn và cho vay
Phần của DNNN trong GDP chiếm tỷ trọng năm 1992 là 40.12%, năm 1996 là
39.9%, năm 1998 là 41.2%, năm 1999 là 40.2%, năm 2000 là 39.5%. Cụthể trọng
phần DNNN trong một số ngành nh: 80% công nghệ khai thác, trên 60% công
nghệ chế biến, trên 90%công nghệ điện gas dầu khí cung cấp nớc, trên
82% vận chuyển hàng hoá, 50% vận hành khách, chiếm tỷ trọng tuyệt đối trong
sản xuất phân bón hoá học 99.8%, thuốc trừ sâu 93.6%, axít sunfuric và xút 100%,
lốp ô tô 100%, lốp xe đạp 80%, pin 100%, chế tạo động cơ điezel loại nhỏ 100%,
85% năng lực kéo sợi, 50% năng lực dệt thoi, 30% năng lực dệt kim và khoảng dới
50% năng lực may mặc, giầy dép, chiếm tỷ trọng 70% bán buôn, 20% bán lẻ. Hệ
thống các ngân hàng thơng mại quốc doanh chiếm tỷ phần áp đảo trong huy động
vốn chiếm 80% thị phần và cho vay 74% thị phần đối với nền kinh tế Các DNNN
đã góp phần quan trọng vào việc điều tiết quan hệ cung cầu, ổn định giá cả, chống
lạm pháp, ổn định tỷ giá, khắc phục mặt trái của nền kinh tế thị trờng
DNNN chiếm một phần rất quan trọng trong xuất nhập khẩu, trong đó DNNN
giữ tỷ trọng tuyệt đối trong nền kinh tế xuất khẩu, riêng công nghiệp năm 1999 đã
xuất khẩu đợc 6.17 tỷ USD ( chủ yếu do các DNNN ), chiếm 54% tổng kim ngạch
xuất khẩu của toàn bộ nền kinh tế, tổng công ty lơng thực miền nam xuất khẩu gạo
chiếm 60-70% so với cả nớc.

Đóng góp nguồn thu nhập lớn và ổn định cho ngân sách nhà nớc năm 1999
thuế thu từ DNNN ( thuế VAT , thuế thu nhập doanh nghiệp và tiền sử dụng vốn )
chiếm 39.25%, riêng 17 TCT năm 1999 nộp ngân sách nhà nớc 23478 tỷ đồng,
tăng 20.7% so với năm 1998. Năm 2000 DNNN chiếm 39.2% tổng thu ngân sách
cả nớc
Trong khi nhà nớc không đủ vốn ngân sách, cấp vốn lu động cho kinh doanh
của DNNN theo quy định thì nhiều doanh nghiệp đã tiết kiệm, hình thành vốn tự
bổ xung, năng động tìm vốn bên ngoài bao gồm vốn vay của tổ chức tín dụng và
vay của công nhân viên trong doanh nghiệp. Vốn tự tích luỹ, tự bổ xung chiếm
27.8% tổng vốn nhà nớc của DNNN đến cuối năm 2000, vốn tự bổ xung của 17
TCT là 18038 tỷ đồng, chiếm 2205% tổng số vốn nhà nớc của TCT 91
Trong lúc các thành phần kinh tế khác cha vơn lên đợc thì DNNN là đối tác
chính trong liên doanh, liên kết với bên ngoài, đồng thời DNNN cũng thực hiện hạ
4
tầng kỹ thuật cần thiết để thu hút các doanh nghiệp có vốn trong nớc và ngoaì nớc
đầu t
DNNN đã tạo ra điều kiện vật chất, kỹ thuật, là một trong nhân tố có tầm quan
trọng quyết định đối với sự phát triển của sản xuất nông nghiệp, hàng hoá, chuyển
từ thiếu sang đáp ứng đợc nhu cầu cơ bản nông sản, thực phẩm chất lợng ngày một
cao của nhân dân và có phần xuất khẩu, chủ yếu thông qua việc xây dựng các
công trình thuỷ lợi cung cấp điện, xây dựng các đờng giao thông huyết mạch,
cung cấp giống cây trồng, con, chuyển giao kỹ thuật và bớc đầu phát triển công
nghệ chế biến. Một số nông, lâm trờng đã phát huy đợc vai trò trung tâm kinh tế,
văn hoá, chuyển giao công nghệ trên địa bàn.
Điển hình nh trờng Sông Hậu trả lơng cho 130 giáo viên và xây dựng cơ sở tr-
ờng lớp cho 3000 học sinh từ mẫu giáo đến trung học, công ty chè Mộc Châu
hàng năm đầu t 100 triệu để sửa chữa và xây mới trờng học, nhà trẻ, mẫu giáo, cải
tạo 705 km đờng giao thông liên bản, tổng công ty cà phê từ năm 1996 đén nay
dã đàu t hàng 100 tỷ để xây dựng 100 km đờng giao thông ( có 25 km đờng
nhựa ), 150 km đờng điện trung hạ thế, 50000 m

2
trờng học, 20000 m
2
nhà trẻ
mẫu giáo, làm mới và nâng cấp 58 hồ, đập
Hỗ trợ cho sự phát triển các vùng miền núi và các vùng xa, vùng sâu. ở đó hiệu
quả đầu t kinh doanh thấp, thời gian thu hồi vốn lâu, có nhiều rủi ro kinh doanh
nhng lại là vùng có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của quốc gia và thực hiện các
chính sách dân tộc của đảng
Khu vực DNNN nhiều năm qua cũng là nơi tập trung và đào luyện một bộ phận
quan trọng trong đội ngũ giai cấp công nhân và cung cấp nhiều cán bộ lãnh đạo u
tú, trung kiên cho đảng nhà nớc và quân đội
DNNN cũng thức sự đi đầu trong việc thực hiện các chủ trơng: uống nớc nhớ
nguồn, xoá đói giảm nghèo, khắc phục hậu quả cảu những vùng bị thiên tai, cứu
trợ xã hội, tham gia các hoạt động nhân đạo từ thiện, nhờng cơm xẻ áo
3.2 Sự cần phải phát triển DNNN
Tại hội nghị thứ ba ban chấp hành trung ơng đảng khoá IX đồng chí bí th
Nông Đức Mạnh đã có bài phát biểu bế nạc hội nghị, trong đó đồng chí tổng bí th
đã nêu lên tâm quan trọng của DNNN và sự đổi mới DNNN trong tình hình nớc ta
hiện nay.
Tại hội nghị trung ong đã dành phàn lớn thời gian để thảo luận và thông qua
nghị quyết: Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của
DNNN. Đây là vấn đề rất lớn, rất cơ bản trong đờng lối kinh tế của đảng. Tổng
kết 15 năm đổi mới và xác định phơng hớng chiến lợc phát triển kinh tế xã hội
5
trong thời mới. Đại hội lần thứ IX của đảng đã khẳng định kinh tế thị trờng định
hớng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong
đó KTNN cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. KTNN
phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lợng vật chất quan trọng và là
công cụ để nhà nớc định hớng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. DNNN giữ vị trí then

chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, nêu gơng về năng
suất, chất lợng hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật. Hội nghị trung ơng
lần này bàn và ra nghị quyết để thực hiện nghị quyết đại hội đảng, bảo đảm
DNNN có vị trí then chốt góp phần chủ yếu để KTNN làm tốt vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa nhằm nâng cao hiệu quả,
đủ sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hóa đất nớc trên cơ sở đề án và tờ trình của Bộ chính trị, trung ơng đã
tập trung thảo luận về đánh giá hoạt động của DNNN trong những năm đổi mới,
xác định quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp sắp xếp, đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả DNNN. Bộ chính trị đã trình bầy ý kiến tiếp thu những
vấn đề mà đại đa số các đại biểu đã nêu. Trong quá trình đổi mới đảng ta chủ tr-
ơng phát triển kinh tế nhiều thành phần để góp phần phát huy sức mạnh của toàn
dân tộc phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh cong nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây
dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN. Đó là chính sách nhất quán, lâu dài
trong cả thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Để thực hiện có hiệu quả chính sách đó
trung ơng có trách nhiệm xây dựng phơng hớng, nội dung, giải pháp cụ thể của
từng thành phần kinh tế theo tinh thần nghị quyết của đại hội đảng. Trung ơng bàn
việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN là để góp
phần bảo đảm cho KTNN giữ vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân,
một vấn đề rất lớn và cơ bản trong chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần,
chứ không hề coi nhẹ việc phát triển các thành phần kinh tế khác. Chúng ta đã có
nhiều chủ trơng tạo thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp ra đời và phát triển
trong khuôn khổ luật pháp giúp các doanh nghiệp có thêm điều kiện tiếp cận thị tr-
ờng trong nớc và thế giới chuẩn bị cho việc thực hiện các cam kết trong quá trình
chủ động hội nhập có hiệu quả kinh tế quốc tế. Sắp tới chúng ta sẽ tiếp tục xây
dựng các chính sách nhằm phát huy sức mạnh của các thành phần kt theo đờng lối
của đảng
Việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN là việc mà ban
chấp hành trung ơng nhiều khoá đã quan tâm, đợc tiến hành ngay từ thời kỳ đổi
mới và nhất là trong 10 năm qua. Đánh giá những việc làm đợc cũng nh cha làm

đợc còn có những ý kiến khác nhau nhng chủ yếu là khác nhau về múc độ vì trong
6
thực tế còn có những yếu tố cha đợc xem xét đầy đủ, tuy nhiên khi đánh giá cần
dựa trên quan điểm lịch sử, xét tới bối cảnh thế giới, trong nớc hơn 10 năm qua và
hiệu quả kinh tế chính trị, xã hội, để nhìn nhận đúng mức vai trò và sự đóng góp
của DNNN trong thời kỳ đổi mới. Trong thời gian qua chúng ta đã hoàn thành
khung pháp lý tơng đối cơ bản để chuyển DNNN sang kinh doanh theo cơ chế thị
trờng có sự quản lý của nhà nớc, xác lập dần quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
trong sản xuất kinh doanh xoá dần bao cấp, bảo đảm các chính sách xã hội trong
quá trình sắp xếp đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN. Nhiều DNNN
đã đứng vững trớc những thử thách to lớn, từng bớc đợc sắp xếp, đổi mới, phát
triển ngày càng thích ứng hơn trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trờng định h-
ớng xã hội chủ nghĩa, số doanh nghiệp làm ăn có lãi, có tích luỹ tăng lên, nhìn
chung đã có những chuyển biến tích cực cả về vai trò cơ cấu năng lực và hiệu quả.
Đồng thời trung ơng cũng đã chỉ ra những mặt tồn tại nh môi trờng pháp lý cha
hoàn thiện, các yếu tố cuỉa thị trờng hình thành cha đồng bộ, cơ chế quản lý vĩ mô
còn những điểm cha phù hợp, DNNN cha thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm đầy
đủ, thực hiện hoạch toán kinh doanh, cha sử lý tốt mối quan hệ về lợi ích của
doanh nghiệp, cha tạo đợc động lực mạnh mẽ và xác định động lực rõ ràng để
DNNN hoạt động năng động, có hiệu quả ngày càng cao, hiệu quả hoạt động còn
thấp, cha tơng xứng với nguồn lực đã có và sự đàu t của nhà nớc, cồn nhiều DNNN
thua lỗ, công nợ nặng nề, phần lớn công nghệ lạc hậu, lao động dôi d còn nhiều,
vai trò lãnh đạo của đảng cha ngang tầm và còn yếu kém, sự yếu kém của không ít
DNNN do nhiều nguyên nhân, có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, nhận
rõ những yếu kém là để quyết tâm sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả của
DNNN. Chúng ta không thể chấp nhận quan điểm coi trọng DNNN thì tất yếu
dẫn tới kém hiệu quả nh một số ý kiến nêu lên ở nơi này nơi khác. Những ý kiến
nh thế xuất phát từ định kiến, thiếu khách quan sẽ dẫn tới hạ thấp vai trò của
DNNN, không quan tâm tiếp tục sắp xếp đổi mới, phát triển nâng cao hiệu quả của
DNNN

Nh đã trình bày ở trên việc tiếp tục, đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả
DNNN là vấn đề kinh tế nhng có ý nghĩa chính trị rất lớn. Nghị quyết có nhiều nội
dung đề cập các vấn đề sắp xếp, hoàn thiện hơn nữa tổ chức và quản lý, xác định
những việc cần phải làm để tạo động lực mới cho DNNN, đẩy mạnh thực hiện cổ
phần hoá, coi đây là một khâu quan trọng để tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu
quả, sức cạnh tranh của DNNN. Mỗi nội dung đều cụ thể hoá các mục tiêu, phơng
hớng, nhiệm vụ đã ghi trong nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
đảng; nhng vì là vấn đề lớn về chính trị cho nên nghị quyết đã nêu những quan
7
điểm chỉ đạo. Các quan điểm chỉ đạo đó phải đợc quán triệt trong việc thực hiện
các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cụ thể. Trung ơng khẳng định t tởng của nghị
quyết đại hội IX, xác định vai trò chủ đạo của KTNN, xác định DNNN là lực lợng
nòng cốt của KTNN, giữ vị trí thên chốt trong nền kinh tế, là công cụ vật chất
quan trọng để nhà nớc định hớng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. KTNN, DNNN có
vai trò quyết định trong việc giữ vững định hớng xã hội chủ nghĩa, phát triển và ổn
định chính trị, kinh tế, xã hội của đất nớc. Vì vậy DNNN phải không ngừng đợc
sắp xếp, đổimới, phát triển, có trình độ công nghệ và quản lý tiên tiến, không
ngừng nâng cao hiệu quả. Trên cơ sở các quan điểm đó mà thực hiện việc điều
chỉnh cơ cấu DNNN, chuyển các DNNN sang thực sự kinh doanh theo cơ chế thị
trờng định hớng xã hội chủ nghĩa, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh và hợp
tác với các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác
Đã là doanh nghiệp phải tính đến hiệu quả kinh doanh. Việc sắp xếp, đổi mới,
phát triển các DNNN đều hớng tới nâng cao hiệu quả, vì có hiệu quả mới có thể
nêu gơng, hớng dẫn và góp phần tăng tiềm lực KTNN để giữ vững vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế nhiều thành phần, và một nền kinh tế định hớng xã hội chủ nghĩa
phải đợc xem xét đến hiệu quả kinh tế xã hội tổng thể hớng tới mục tiêu của
CNXH
Sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN là vấn đề rất hệ trọng
trong đờng lối phát triển kinh tế, đồng thời rất nhạy cảm về chính trị, liên quan tới
sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội của đất nớc. Quá trình nhà nớc thực hiện có

nhiều vấn đề mới đặt ra. Do đó vừa phải tiến hành đồng bộ, khẩn trơng nhng vẫn
phải vững chắc, có chơng trình, kế hoạch cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm, bớc đi
phù hợp, vừa làm vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm, boả đảm ổn định và phát triển.
Việc gì đã rõ, đã có nghị quyết thì phải triển khai thực hiện kiên quyết khẩn trơng.
Vấn đề gì cha đủ rõ thì phải tiếp tục nghiên cứu; tổ chức làm thí điểm, vừa làm
vừa rút kinh nghiệm để có bớc đi thích hợp, vừa tích cực vừa vững chắc, phù hợp
với luật pháp. Đó là tinh thân của các giải pháp trong nghị quyết. Vì là việc rất hệ
trọng cho nên các cấp uỷ đảng phải tăng cờng kiểm tra việc tổ chức thực hiện, kịp
thời phát huy điểm, uốn nắn các lệnh lạc. Cùng với các quá trình trên phải nhanh
chóng tổng kết kinh nghiệm xây dựng mô hình tổ chức đảng, tổ chức công đoàn và
các đoàn thể chính trị trong các loại hình DNNN. Đặc coi trọng việc bồi dỡng, rèn
luyện đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp giỏi, có phẩm chất và năng
lực, nghiệp vụ vững vàng; đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân có tay nghề cao;
chú trong chăm sóc đời sống công nhân và phát huy quyền làm chủ của công nhân
trong các doanh nghiệp. Trong quá trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp, các cấp
8
uỷ đảng phải hết sức quan tâm giải quyết tốt các vấn đề xã hội đặt ra, không để
khó khăn cho ngời lao động và doanh nghiệp
Độc lập dân tộc và CNXH là mục tiêu ký tỏng của đảng ta. Mục tiêu đó
không chỉ thể hiện trong phơng hớng cơ bản mà còn thể hiện trong những chủ tr-
ơng, việc làm cụ thể. Đại hội IX của đảng đã thông qua kế hoạch 5 năm, chiến lợc
phát triển kinh tế xã hội 10 đa nớc ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và trong 20
năm về cơ bản đa nớc ta trở thành một nớc công nghiệp theo hớng hiện đại, vì mục
tiêu dân giàu, nớc mạnh. xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
Đờng lối xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN trong những năm đầu của thế kỷ
XXI đã đợc đại hội xác định. Ban chấp hành trung ơng đợc đại hội tín nhiệm bầu
ra, có trách nhiệm tổ chức thực hiện tốt nhất nghị quyết đại hội; trên cơ sở thống
nhất nhận thức để đi đến hành động thống nhất, lời nói đi đôi với việc làm, kết hợp
thực hiện những nhiệm vụ cơ bản lâu dài với những việc cụ thể, trớc mắt giành
thắng lợi cho từng năm theo mục tiêu, nhiệm vụ đại hội đề ra. Từ nay đến cuối

năm phải tập trung hết sức thực hiện tốt nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2001,
năm mở đầu thực hiện nghị quyết đại hội đảng, vì bên cạnh những thuận lợi đang
có không ít khó khăn và nhiều vấn đề mới phải giải quyết, đồng thời cần theo dõi
chặt chẽ, quan tâm việc phòng chống thiên tai. Triển khai ngay việc thực hiện chỉ
thị của Bộ chính trị về tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây, chỉnh đốn đảng gắn
liền với cải cách hành chính nhà nớc, triển khai và thực hiện đồng bộ các giải pháp
chống tham nhũng đang nổi lên với tinh thân thẳng thắn, công minh, để ngời có
khuyết điểm phải đợc phê bình, chịu kỷ luật, ngời có tội phải bị sử tội, bất kể họ là
ai; giải quyết những bức xúc về các tệ nạn xã hội, các sản phẩm văn hoá đồi truỵ
đang lan tràn ngoài xã hội ... Đó là những việc trớc mắt cần thực hiện tốt, kinh tế
xã hội tiếp tục phát triển, đời sống nhân dân đợc cải thiện, nạn tham nhũng và
các tệ nạn xã hội đợc đẩy lùi một bớc ... sẽ tạo đà phấn khởi trong xã hội, thể hiện
trách nhiệm của ban chấp hành trung ơng đối với toàn đảng và toàn xã hội .
II. Vai trò then chốt của DNNN
Lực lợng DNNN hàng năm đóng góp khoảng 40% trong cơ cấu GDP của nớc
ta, chiếm giữ khoảng 70% vốn và tài sản cố định của nền kinh tế. DNNN đang là
lực lợng chủ yếu trong sản xuất công nghiệp, trong hoạt động kinh doanh xuất
nhập khẩu, trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, tín dụng. Nhìn chung lực lợng
DNNN đang là lực lợng then chốt trong các ngành kinh tế quan trọng của đất nớc,
cá biệt có một số ngành có vị trí độc quyền kinh doanh. Từ năm 1995 hàng năm
DNNN đóng góp từ 26 28% nguồn thu thuế trong nớc, nếu tính cả các khoản
thu thuế và phí đợc thu thôngqua DNNN thì đóng góp khỏng 60% các nguồn thu
9
thuế và phí đợc thu thông qua DNNN. DNNN đang sử dụng khoảng 15% lực lợng
lao động trong các ngành phi nông nghiệp. Mức tăng trởng hàng năm của DNNN
xấp xỉ mức tăng trởng chung của nền kinh tế cũng xấp xỉ ngoài quốc doanh trong
nớc. Tóm lại: nếu chỉ xét về quy mô, tài sản sự đóng góp vào GDP và tốc độ tăng
trởng chung của nền kinh tế, nguồn thu ngân sách nhà nớc thì DNNN vẫn có vị trí
quan trọng đối với nền kinh tế nớc ta.


10
CHƯƠNG II : Thực trạng DNNN ở nớc ta hiện nay
I / Quá trình đổi mới DNNN
ở nớc ta, quá trình đổi mới DNNN gắn liền với đổi mới kinh tế nói chung và
đổi mới DNNN luôn là khâu trung tâm của đổi mới kinh tế. Đổi mới DNNN bao
gồm hai mặt: mặt thứ nhất chủ gồm đổi mới cơ chế quản lý đối với DNNN ( quan
hệ quản lý nhà nớc doanh nghiệp, mức độ, hình thức phân quyền, giao quyền tự
chủ cho doanh nghiệp trên các mặt nh kế hoạch, tài chính, thị trờng, đầu t, sử
dụng lao động ...). Mặt thứ hai liên quan đến sắp xếp tổ chức lại các DNNN ( sáp
nhập, chia, tách, cổ phần hoá, đa dạng hóa sở hữu, thành lập tổng công ty ... ).
Trong các đợt, giai đoạn, thời kỳ khác nhau của quá trình đổi mới, do các yếu tố
khách quan và chủ quan quy định, việc đổi mới DNNN đợc tiến hành đồng thời
kết hợp hai mặt nêu trên hoặc chỉ thiên về một mặt nào đó .
Từ năm 1979, DNNN ở Việt nam mới thực sự đợc coi nh một đối tợng đổi mới.
Những bớc tổ chức sắo xếp, phát triển DNNN trớc năm 1979 về cơ bản chỉ là
những biện pháp có tính chất hành chính trong bố trí, sắp xếp, phân bổ các DNNN
giữa các bộ, các địa phơng và các liên hiệp xí nghiệp, do đó chúng chỉ đợc coi là
những biện pháp cải tiến quản lý trong mô hình kế hoạch hoá tập trung mang tính
chất bao cấp, thu đủ, chi đủ, phù hợp với cơ chế quản lý và mô hình kinh tế cũ. Do
vậy quá trình đổi mới kinh tế ở nớc ta có thể chia thành ba giai đoạn
1. Giai đoạn 1980 1986
Giai đoạn đổi mới này gắn liền với đổi mới quan điểm của đảng và nhà nớc
về quản lý kinh tế nói chung và DNNN nói riêng. Cơ chế quản lý cũ đã tỏ ra kìm
hãm sức sản xuất, triệt tiêu động cơ phát triển, hậu quả là nền kinh tế trì trệ, tụt
dốc, khủng hoảng, đời sống nhân dân xa sút. Các DNNN ngày càng xa sút. Hội
nghị ban chấp hành trung ơng lần thứ sáu khoá IV tháng 9 1979 đã ra nghị
quyết về tình hình và nhiệm vụ cấp bách đánh giá tình hình thực tiễn và những
yêu cầu bức thiết của xã hội, trong đó nhấn mạnh phải cải tiến chính sách phân
phối, lu thông ( giá, lơng, tài chính, ngân hàng ). Tiếp đó Chính phủ đã ban hành
các quyết định có liên quan để điều hành nền kinh tế nói chung và các DNNN nói

riêng nh quyết định số 25/CP tháng 1-1981 về kế hoạch ba phần, quyết định số 26
/CP tháng 2-1981 về phân phối lu thông ... Nghị quyết trung ơng 6 khoá IV và
quyết định 25/CP là bớc tiến đầu tiên trong việc cơ chế quản lý các DNNN từ cơ
chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trờng. Sau đó là các quyết định quan
trọng nh quyết định số 146/HĐBT tháng 2-1982; nghị quyết 306 ( dự thảo ) của
Bộ Chính trị và quyết định 16/HĐBT tháng 6-1986 đều đa ra những quan điểm và
11
biện pháp đổi mới quản lý DNNN trong điều kiện cải tiến , cơ chế quản lý nói
chung.
Các biện pháp đổi mới giai đoạn này chủ yếu tập trung vào tháo gỡ những v-
ớng mắc, rào cản vô lý của cơ chế cũ, do đó có tác dụng nh cởi trói, giải phóng
năng lực sản xuất của các DNNN và cùng với các biện pháp khoán trong nông
nghiệp, cải cách phân phối lu thông đã có tác dụng thúc đẩy sản xuất nói chung,
đa đất nớc thoát khỏi khủng hoảng, tụt dốc. Đối với các DNNN, việc cho phép
các đơn vị tự chủ bố trí các nguồn lực sản xuất theo kế hoạch ba phần đã có ý
nghĩa rất quan trọng trong phát huy sáng tạo của cơ sở, từng bớc đa các yếu tố thị
trờng vào cơ chế quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên, các biện pháp giai đoạn này
vẫn mang tính nửa vời, chắp vá ( biểu hiện ở kế hoạch ba phần, cơ chế song
trùng ) dẫn đến hệ quả khó hạch toán, khó kiểm soát, khó đánh giá, lợi dụng sự
rối rắm của cơ chế quản lý để trục lợi, trong khi năng lực sản xuất và sức sáng tạo
vẫn cha thực sự đợc giải phóng.
2. Giai đoạn 1986 1990
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của đảng năm 986 đánh dấu bớc ngoặt
cơ bản trong quá trình đổi mới kinh tế nói chung ởt nớc ta, trong đó có đổi mới
DNNN. Đại hội chỉ rõ: phải đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm cho các đơn vị
kinh tế quốc doanh có quyền tự chủ, thực sự chuyển sang hạch toán kinh doanh xã
hội chủ nghĩa, lập lại trật tự, kỷ cơng trong hoạt động kinh tế. Sắp xếp lại sản xuất,
tăng cờng cơ sở vật chất kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lợng và hiệu quả.
Trên cơ sở đó, ổn định và từng bớc nâng cao tiền lơng thực tế của công nhân, viên
chức, tăng tích luỹ cho xí nghiệp và cho nhà nớc. Đại hội VI vẫn tiếp tục khẳng

định vai trò chủ đạo của DNNN nhng đã đa ra quan điểm coi chủ đạo không có
nghĩa là phải chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành, mọi địa phơng mà thể hiện ở
năng suất, chất lợng, hiệu quả
Sau đại hội đảng lần thứ VI, đổi mới DNNN thực sự trở thành nội dung trung
tâm của tiến trình đổi mới toàn bộ hệ thống kinh tế theo hớng nhất quán chuyển
sang kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa, giải phóng sức sản xuất xã hội.
Tháng 11 1987 Hội đồng Bộ trởng ( nay là Chính phủ ) ban hành quyết định
217/HĐBT đánh dấu bớc đổi mới cơ bản DNNN theo hớng áp dụng cơ chế mới.
Tiếp theo là các nghị định 50/HĐBT(3-1988) bổ sung quyết định 217, nghị định
27/HĐBT ( 3-1989 ) ban hành điều lệ xí nghiệp quốc doanh ( DNNN ) ... đã thúc
đẩy tiếp quá trình đổi mới DNNN.
Giai đoạn này đối với DNNN lầ giai đoạn bớc ngoặt đa các DNNN chuyển hẳn
sang hạch toán kinh doanh theo nguyên tắc thị trờng hay gọi là quá trình thơng
12
mại hoá có tác dụng bắt buộc các doanh nghiệp phải định hớng vào thị trờng, đồng
thời tăng quyền tự chủ của doanh nghiệp trong các quyết định kinh doanh. Về mặt
quan hệ với nhà nớc, trong giai đoạn này hệ thống quan hệ kế hoạch dần dần
chuyển từ kế hoạch trực tiếp sang kế hoạch gián tiếp, do đó các DNNN từ chỗ
phải hoạt động theo kế hoạch với 9 chỉ tiêu pháp lệnh dần dần bãi bỏ chỉ còn 1 chỉ
tiêu nộp ngân sách, xoá bỏ bao cấp từ ngân sách nhà nớc, bãi bỏ chế độ 2 giá,
hạch toán kinh doanh theo giá thị trờng. Về quản lý, quyết định 217/HĐBT trao
quyền tự chủ rất rộng rãi cho doanh nghiệp mà hầu nh không có biện pháp kiểm
soát tơng ứng. Các doanh nghiệp lại trao quyền tự chủ cho các bộ phận, chi nhánh
của mình trong tìm kiếm, ký hợp đồng và tổ chức sản xuất kinh doanh với các
khách hàng dẫn đến tình trạng trăm hoa đua nở rất sôi động nhng cũng rất phức
tạp, khó quản lý về mặt nhà nớc .
Điều đáng chú ý trong giai đoạn này là thực hiện chủ trơng phân cấp, nhà n-
ớc, trung ơng giao quyền cho chính quyền các địa phơng ra quyết định thành lập
các DNNN. Vì vậy chỉ trong vòng 4 năm số lợng DNNN tăng lên gần gấp 2 lần, đ-
a số DNNN của Việt nam lên 12084, trong đó đến 60% là các doanh nghiệp do địa

phơng quản lý. Rất nhiều DNNN do chính quyền địa phơng quyết định thành lập
hầu nh không đợc cấp vốn, chủ yếu hoạt bằng vốn vay ngân hàng.
Nhìn chung, các DNNN giai đoạn này đã từng bớc đổi mới. Một bộ phận
doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, ngợc lại một bộ phận khác không thích
nghi đợc với thị trờng, thua lỗ triền miên, trở thành gánh nặng cho ngân sách nhà
nớc. Về tổng thể khu vực DNNN vẫn đợc giữ vai trò chủ đạo của mình, chiếm trên
dới 35% GDP và 60% nộp ngân sách nhà nớc .
3. Giai đoạn 1990 đến nay
Tiếp tục đờng lối đổi mới kinh tế, đại hội toàn quốc lần thứ VII năm 1991 đã
chủ trơng: khẩn trơng sắp xếp lại và đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh, bảo
đảm kinh tế quốc doanh phát triển có hiệu quả, nắm vững những lĩnh vực và ngành
then chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Tập trung lực lợng củng
cố và phát triển những cơ sở trọng điểm, những cơ sở làm ăn có hiệu quả và có ý
nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân. Cho thuê, chuyển hình thức sở hữu hoặc giải
thể các cơ sở thua lỗ kéo dài và không có khả năng vơn lên. sắp xếp lại các liên
hiệp xí nghiệp, tổng công ty phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh trong cơ chế
thị trờng và khu vực quốc doanh phải đợc sắp xếp lại, đổi mới công nghệ và tổ
chức quản lý, kinh doanh có hiệu quả, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế
khác, thực hiện vai trò chủ đạo và chức năng của một công cụ quản lý vĩ mô của
nhà nớc.
13

×