Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Phân tích bài thơ bếp lửa của Bằng Việt - văn mẫu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.22 KB, 4 trang )

Phân tích bài thơ bếp lửa của Bằng Việt

Phan tich bai tho Bep lua cua Bang Viet – Đề bài: Em hãy viết bài văn Phân tích bài thơ Bếp lửa
của Bằng Việt. Bài phân tích tác phẩm của Trần Thị Khánh Linh lớp 9a2 trường THCS Phan Bội
Châu – Hà Nội.

Bài thơ Bếp lửa,được Bằng Việt sáng tác năm 1963, khi anh đang là sinh viên du học tại Liên Xô và mới
bắt đầu đến với thơ, Bằng Việt thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước
như Phạm Tiến Duật, Thanh Thảo, Anh Ngọc, Nguyễn Duy… Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà, thiên
về khai thác những kỉ niệm và ước mơ tuổi trẻ nên gần gùi với lứa tuổi học trò.

Qua dòng hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ gợi lại những kỉ niệm xúc động
về tình bà cháu; đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà và cũng
là đối với gia đình, quê hương, đất nước.
ágsgsgdgsdgsdgd


Bài thơ mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kỉ niệm trong suốt tám năm ròng tuổi thơ, tác giả
được sống bên bà, được hưởng sự chăm sóc, lo toan và tình yêu thương trìu mến bà dành cho cháu. Từ
những kỉ niệm êm đẹp ấy, đứa cháu nay đã trưởng thành thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà
cao quý của bà. Bài thơ khép lại cũng bằng hình ảnh bếp lửa nhưng là bếp lửa bập bùng trong tâm tưởng,
cháy sáng niềm nhớ thương, yêu kính của đứa cháu gửi tới người bà ở quê hương xa xôi.

Tìm hiểu cảm xúc và bố cục bài thơ, ta thấy mạch cảm xúc của tác giả là đi từ hồi tưởng quá khứ đến hiện
tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm. Bài thơ có thể chia làm bốn đoạn, theo diền biến tâm trạng của nhân vật trữ
tình.

Ba dòng đầu là phần mở đầu với hình ảnh bếp lửa, khơi nguồn cho dòng hồi tưởng và cảm xúc về bà.
Bốn khổ tiếp theo là dòng hồi tưởng về những kỉ niệm tuổi thơ được sống bên bà và hình ảnh người bà
kính yêu gắn liền với hình ảnh bếp lửa quen thuộc.
Hai khổ tiếp theo là những suy ngẫm đầy xúc động của người cháu về cuộc đời bà.



Khổ thơ cuối thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng của cháu đối với bà. Dù đã trưởng thành và đang sống xa
quê hương, đất nước nhưng cháu không nguôi nhớ về người bà yêu quý.

Trong dòng hồi tưởng của người cháu, những kỉ niệm về bà và tình bà cháu đã hiện lên sống động và cụ
thể. Sự hồi tưởng bắt đầu từ hình anh quen thuộc thân thương:

Một bếp lừa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Đây là hình ảnh không thể thiếu của bức tranh sinh hoạt ở nông thôn tự bao đời, mà người nhóm lửa lại
chính là những người bà, người mẹ trong gia đình. Từ ấp iu gợi liên tưởng đến bàn tay kiên nhẫn khéo léo
và tấm lòng chi chút của người nhóm lửa. Lửa được gìn giữ từ ngày này qua ngày khác bằng đống rấm,
trên có chặn một cục đất nung khá lớn có tay cầm. Muôn có lửa, người ta chỉ cần một nắm rơm vo chặt
làm mồi, khẽ khơi đống rấm rồi thổi cho ngọn lửa bùng lên. Công việc ấy cứ lặp đi lặp lại hằng ngày, đơn
giản thế nhưng không hề nhàm chán mà ngược lại, có một cái gì đó rất đỗi thiêng liêng, xúc động.

Khi tiếng gà báo sáng vang rộn khắp thôn, mặt trời chưa ló dạng, bà đã thức dậy nhóm lửa nấu cơm. Ánh
lửa bập bùng soi tỏ bàn tay nhăn nheo của bà, in bóng bà chập chờn trên vách. Khói bếp chờn vờn quyện
với hơi sương. Hình ảnh như thực, như mơ ấy đã khắc sâu trong tim đứa cháu. Hai câu thơ gợi lại bao kỉ
niệm cua một thời thơ ấu gian khổ, thiếu thốn bên cạnh người bà tảo tần, nhân hậu. Nhớ đến bà, tự đáy
lòng nhà thơ bật lên tiếng nói chân thành: Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Trong bốn khổ thơ tiếp theo, tác giả kết hợp khéo léo giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự với trữ tình, làm
cho người nghe rung động sâu xa truớc cuộc sống nhọc nhằn của hai bà cháu và hiểu được tình thương
tha thiết của người cháu dành cho bà.
Âm hưởng câu thơ bất chợt chùng xuống, trĩu nặng đau thương:

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy


Bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945 với hơn hai triệu dân Việt Nam chết đói vì chính sách cai trị dã
man của giặc Nhật, giặc Pháp đã bao phủ tuổi thơ tác giả. Hình ảnh Bố di đánh xe, khô rạc ngựa gầy và
xóm làng bị giặc đốt cháy tàn cháy rụi đã in đậm dấu ấn buồn thảm trong tâm hồn cậu bé mới lên bốn
tuổi. Rồi kháng chiến bùng lên, mẹ và cha đi đánh Pháp bận không về. Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm
lửa. Cháu sống trong sự cưu mang, dạy dỗ của bà, sớm có ý thức tự lập, sớm phải lo toan:

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,

Kỉ niệm về bà và tuổi thơ vất vả luôn gắn với hình ảnh bếp lửa bập bùng, gợi ra những liên tưởng thú vị
và độc đáo:

Chỉ nhở khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay !

Bếp lửa hiện diện như tình bà ấm áp, như chỗ dựa tinh thần, như sự cưu mang đùm bọc đầy yêu thương
chi chút của bà.
Bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu lại gợi thêm một liên tưởng khác. Đó là nỗi nhớ khắc khoải
tiếng chim tu hú rộn rã báo hiệu mùa lúa chín vàng đồng, vải chín đỏ cây Tiếng chim khơi dậy những kỉ
niệm khó quên:

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế !
…Tu hú ơi ! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

Cuộc sông kháng chiến tuy khó khăn gian khổ nhưng bà vẫn vượt qua tất cả để các con yên tâm đánh giặc
nơi chiến trường xa:


Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên !“

Bà là người mẹ, người bà thật chu đáo, tận tình. Bà là hậu phương lớn lao, vững chắc của những người
con ngoài tiền tuyến:

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…

Đoạn thơ thứ ba là những suy ngẫm của người cháu về bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa hồng quen thuộc.
Từ hồi tưởng về tuổi thơ được sống bên bà, người cháu rút ra nhận xét: Lận đận đời bà biết mấy nắng
mưa.

Biết bao tình cảm chân thành gói ghém cả trong câu thơ mộc mạc mà sâu sắc ấy. Nỗi nhớ thương, niềm
kính phục, lòng biết ơn của đứa cháu đôi với bà đang dâng lên, xoáy cuộn, thổn thức ở trong lòng. Hình
ảnh bà luôn luôn hiện diện cùng hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa. Có thể nói bà là hình tượng tiêu biểu cho các
bà mẹ Việt Nam trong thời kì kháng chiến chông Pháp. Các bà mẹ là người nhóm lửa, củng là người giữ
cho ngọn lửa của tình yêu thương luôn ấm nồng và toả sáng trong mỗi gia đình.

Sự tần tảo, đức hi sinh và lòng nhân hậu của bà được tác giả thể hiên trong một chi tiết rất tiêu biểu:

Mấy chục năm rồi,đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mài sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ


Bếp lửa tay bà nhóm lên mồi sớm mai cũng chính là nhóm lên niềm yêu thương, niềm vui sống, nối quá
khứ với hiện tại, tương lai.
Đứa cháu bé bỏng năm xưa giờ đã lớn khôn, được chắp cánh bay xa, bay cao, được làm quen với những
khung, cảnh mới mẻ, những niềm vui rộng mở ở chân trời xa, nơi Có ngọn khói trăm tàu Có Lửa trăm
nhà, niềm vui trăm ngả. Tuy thế, cháu vẫn không thể nào quên bếp lửa của bà, tấm lòng đùm bọc ấp iu
của bà. Bếp lửa ấy đã thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng liêng, kì diệu, nâng bước người cháu
trên suốt chặng đường dài. Cháu yêu bà, nhờ hiểu bà mà thêm hiểu dân tộc mình, đất nước mình.

Suốt bài thơ, hình ảnh người bà luôn đi đôi với hình ảnh bếp lửa. Có tới mười lần tác giả nhắc tới bếp lửa
và hiện diện cùng bếp lửa là hình ảnh người bà, người phụ nữ Việt Nam muôn thuở với vẻ đẹp tảo tần,
nhẫn nại và đầy yêu thương. Bếp lửa là tình bà ấm áp bếp lửa là nguồn sống do tay bà chăm chút. Bếp lửa
chứng kiến những khó khăn, gian khổ đời bà. Ngày ngày, bà nhóm lửa cũng là nhóm lên niềm vui, niềm
hi vọng nhóm lên sự sống và tình yêu thương dành cho cou cháu và mọi người. Chính vì thế mà nhà thơ
đã cảm nhận được trong hình ảnh bếp lửa bình dị, thân thuộc chứạ đựng sự kì diệu, thiêng liêng khó tả:

Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa !

Nhà thơ còn nhận ra một điều sâu xa hơn nữa là bếp lửa được bà nhóm lên không chỉ bằng rơm rạ mà còn
bằng ngọn lửa từ trong tim – ngọn lửa của lòng yêu thương và niềm tin bất diệt. Bởi vậy, từ hình ảnh bếp
lửa, nhà thơ đã chuyển tiếp sang hình ảnh ngọn lửa với ý nghĩa tượng trưng và khái quát rất lớn:


Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…

Như thế, bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa, một ngọn lửa của sự sống,
niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.


Điểm nổi bật về nội dung, nghệ thuật của bài thơ là sự suy ngẫm, phát hiện ý nghĩa tư tưởng chất chứa
dưới bề sâu của các hình tượng thơ. Bài thơ mang một ý nghĩa triết lí tinh tế: những gì là thân thiết nhất
của tuổi thơ đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu
thương và lòng biết ơn của cháu đối với bà là biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, gắn bó với gia đình và
đó cũng là khởi đầu của tình yêu quê hương, đất nước.

Thành công của bài thơ không chỉ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình
luận mà còn ở sự sáng tạo ra hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi
mọi kỉ niệm, cảm xúc và suy nghĩ về bà và tình bà cháu.

Theo: Thái Bảo

×