Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

kích cầu đầu tư thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.69 KB, 65 trang )

Đề tài : Kích cầu đầu tư. Bản chất thực trạng và giải pháp
Môn: Kinh tế đầu tư
Giáo viên hướng dẫn: Hoàng Thị Hoài Hương
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 2
1. Võ Lê Khang
2. Hồ Lê Gia Linh
3. Nguyễn Thị Yến Nhi
4. Phạm Thị Ngọc Trang
5. Lê Thị Tường Vy
6. Nguyễn Thị Bích Hạnh
7. Nguyễn Thị Cẩm Lệ
8. Võ Thị Cẩm Tú
MỤC LỤC
1
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I: LÍ LUÂN CHUNG VỀ KÍCH CẦU ĐẦU TƯ
1.1. Đầu tư và cầu đầu tư
1.1.1. Khái niệm về đầu tư
1.1.2. Cầu đầu tư
1.1.2.1. Khái niệm
1.1.2.2. Các nhân tố tác động tới cầu đầu tư
1.1.2.2.1. Lợi nhuận kì vọng
1.1.2.2.2. Lợi nhuận thực tế
1.1.2.2.3. Lãi suất tiền vay
1.1.2.2.4. Tốc độ phát triển của sản lượng quốc gia .
1.1.2.2.5. Chu kì kinh doanh
1.1.2.2.6. Đầu tư nhà nước
1.1.2.2.7. Môi trường đầu tư
1.2. Một số vấn đề về kích cầu và kích cầu đầu tư
1.2.1. Kích cầu
1.2.1.1.Khái niệm


1.2.1.2. Nguồn gốc và cơ sở của chính sách
1.2.1.3. Mục đích của chính sách kích cầu
1.2.1.4. Nguyên tắc cơ bản của kích cầu
1.2.1.5. Điều kiện áp dụng các biện pháp kích cầu
1.2.2. Kích cầu đầu tư
1.2.2.1. Khái niêm
1.2.2.2. Phân biệt kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng
1.2.2.3. Ý nghĩa của kích cầu đầu tư
1.2.2.4. Tác động của kích cầu đầu tư
1.2.2.4.1. Tác động tích cực
2
1.2.2.4.2. Tác động tiêu cực
1.2.2.5. Nguồn vốn cho kích cầu đầu tư
1.2.2.5.1. Vốn trái phiếu chính phủ
1.2.2.5.2. Vốn ngân sách nhà nước
1.2.2.5.3. Quỹ dự trữ ngoại hối
1.2.2.5.4. In tiền
1.2.2.5.5. Vay nợ nước ngoài
1.2.2.5.6. Trì hoãn trả nợ
1.2.2.6. Các công cụ, biện pháp sử dụng
1.2.2.6.1. Nhóm chính sách tiền tệ
1.2.2.6.2. Nhóm chính sách tài khóa
1.2.2.6.3. Nhóm chính sách giải pháp khác
1.2.2.7. Nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kích cầu đầu tư
1.2.2.7.1. Độ trễ chính sách
1.2.2.7.2. Quá trình tổ chức thực hiện chính sách
1.2.2.8. Kinh nghiệm kích cầu đầu tư trên thế giới
CHƯƠNG II: THỰC TIỄN KÍCH CẦU Ở VIỆT NAM
2.1. Khủng hoảng kinh tế thế giới và ảnh hưởng tới Việt Nam
2.2. Nội dung kích cầu của một số nước trên thế giới và của Việt Nam

2.2.1. Nội dung kích cầu của một số nước trên thế giới
2.2.2. Nội dung kích cầu ở Việt Nam
2.2.2.1. Gói kích cầu thứ nhất
2.2.2.1.1. Nội dung cụ thể goi kích cầu
2.2.2.1.2. Công cụ biện pháp thực hiện
2.2.2.1.3. Tình hình thực hiện
2.2.2.1.4. Tác động của gói kích cầu
2.2.2.1.5. Các vấn đề của gói kích cầu
3
2.2.2.2. Gói kích cầu thứ hai
2.2.2.2.1. Các quan điểm
2.2.2.2.2. Nội dung cụ thể gói kích cầu
2.2.2.2.3. Tác động của gói kích cầu số 2
2.3. So sánh các gói kích cầu ở Việt Nam và một số nước trên thế giới
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP THỰC HIỆN KÍCH CẦU ĐẦU TƯ HIỆU QUẢ
Ở VIỆT NAM
3.1. Huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn kích cầu đầu tư
3.1.1. Huy động vốn kịp thời và hiệu quả
3.1.2. Giải pháp sử dụng hiệu quả vốn kích cầu đầu tư
3.1.2.1. Kích cầu phải kịp thời
3.1.2.2. Phân bổ nguồn vốn hợp lí
3.2. Kết hợp với chính sách tiền tệ, tỷ giá, khyến khích xuất khẩu, thu hút đầu

3.3. Giám sát và đánh giá kết quả gói kích cầu
3.3.1. Vai trò giám sát của quốc hội
3.3.2. Đánh giá kết quả thực hiện gói kích cầu
3.4. Một số đề xuất nhằm phát huy hiệu quả chính sách kích cầu đầu tư
3.5. Các giải pháp kich cầu đầu tư trong dài hạn
3.5.1. Giải pháp kích cầu đầu tư trong nước
3.5.2. Giải pháp kích cầu đầu tư nước ngoài

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI NÓI ĐẦU
Vừa qua cuộc khan hoảng tài chính ở Mỹ đã nhanh chóng lan ra toàn cầu
gây ra hậu quả hết sức to lớn đối với nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế Việt Nam
4
cũng không nằm ngoài khu vực bị ảnh hưởng nhất là khi chúng ta trở thành thành
viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Khủng hoảng có những ảnh
hưởng tiêu cực tới nhiều mặt của đời sống xã hội và các nhà kinh tế học trên thế
giới, chính phủ các nước nói chung cũng như chính phủ Việt Nam nói riêng cũng
đã làm hết sức mình để đưa nền kinh tế của quốc gia mình thoát khỏi khủng hoảng.
Bằng việc xem xét lại các lý thuyết kinh tế đang được áp dụng hiện nay đặc biệt là
lý thuyết bàn tay hữu hình với sự can thiệp điều tiết nền kinh tế của nhà nước, các
quốc gia đã có những chính sách kinh tế với những gói giải cứu kinh tế nhằm kích
cầu đầu tư, tiêu dùng, tạo công ăn việc làm nhằm ngăn chặn đà suy giảm kinh tế.
Chính sách kích cầu kinh tế bên cạnh những mặt tích cực thì cũng có những hạn
chế. Nhận thức được những hạn chế này sẽ giúp chính phủ có được những sự lựa
chọn thích hợp trong việc thực thi chính sách. Nhóm sinh viên chuyên ngành kinh
tế đầu tư chúng em với mong muốn tìm hiểu, vận dụng những kiến thức chuyên
ngành để đi sâu tìm hiểu vấn đề thực tiễn. Điều đó thôi thúc chúng em tiến hành
nghiên cứu đề tài:” Kích cầu đầu tư - Lý thuyết và thực tiễn tiễn”. Trong đề tài
thảo luận này chúng em đưa ra một số vấn đề lý luận chung về đầu tư và kích cầu
đầu tư, tình hình thực tiễn kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay và đề xuất một số
giải pháp nhằm kích cầu đầu tư có hiệu quả.
Nhóm thảo luận chúng em xin chân thành cám ơn PGS.TS Từ Quang
Phương cùng các thầy cô giáo trong bộ môn kinh tế đầu tư đã giúp đỡ chúng em
thực hiện bài viết này. Do hạn chế về mặt thời gian cũng như kiến thức nên bài viết
không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng em rất mong nhận được những góp ý của
thầy cô để bài viết hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG I: LÍ LUẬN CHUNG VỀ KÍCH CẦU ĐẦU TƯ

1.1. Đầu tư và cầu đầu tư
5
1.1.1. Khái niệm về đầu tư
Đầu tư nói chung là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt
động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn
lưc đã bỏ ra để đạt đươc các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi công cuộc đầu
tư là đạt được các kết quả lớn hơn với những hi sinh về nguồn lực mà người đầu tư
phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
1.1.2. Cầu đầu tư
1.1.2.1. Khái niệm
Cầu đầu tư là tất cả nhu cầu của doanh nghiệp về hàng hóa vật tư, máy móc,
dịch vụ…và nguồn tài chính để duy trì hay mở rộng sản xuất của doanh nghiệp đó
trong một thời gian nhất định.
1.1.2.2. Các nhân tố tác động tới cầu đầu tư
Nhu cầu đầu tư của các cá nhân, các doanh nghiệp và của chính phủ có vai trò
quan trọng đối với nền kinh tế bởi đầu tư là một bộ phận chính cấu thành nên tổng
cầu. Vì vậy cần xem xét kĩ lưỡng các yếu tố tác động đến cầu đầu tư dưới đây để
thấy được yếu tố nào tác động ít, yếu tố nào tác động nhiều và xu hướng tác động
của các yếu tố như thế nào để đưa ra chính sách kích cầu phù hợp và đem lại hiệu
quả mong muốn cho nhà đầu tư.
1.1.2.2.1. Lợi nhuận kì vọng
Theo lí thuyết của Keynes:
- Lợi nhuận kỳ vọng là khoản lợi nhuận mà chủ đầu tư mong muốn, hi vọng
sẽ thu được trong tương lai khi đưa ra quyết định đầu tư. Theo lí thuyết của
Keynes, lợi nhuận kì vọng là 1 trong 2 nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến quyết đầu tư
của doanh nghiệp. Nếu lợi nhuận kì vọng lớn, nhà đầu tư sẵn sàng bỏ vốn để kinh
doanh. Lợi nhuận cao sẽ kích thích nhu cầu đầu tư, ngược lại nếu lợi nhuận kì vọng
thấp và nhỏ hơn tiền lãi thu được khi gửi tiền vào các ngân hàng thì các nhà đầu tư
sẽ không bỏ tiền vào sản xuất kinh doanh mà thay vào đó, họ gửi tiền vào ngân
hàng.

- Theo Keynes, tỉ suất lợi nhuận là đại lượng rất khó xác định. Nhưng chính
điều đó lại thúc đẩy các nhà đầu tư quyết định bỏ tiền đầu tư. Do lợi nhuận khó xác
6
định, có thể rất cao nhưng cũng có thể rất thấp, thậm chí có thể âm nên kích thích
các nhà đầu tư bỏ vốn với kì vọng có thể thu được khoản lợi nhuận cao đó. Tuy
nhiên, bên cạnh đó, họ cũng phải đối mặt với những rủi ro có thể xảy ra. Đó là tính
2 mặt của hoạt động đầu tư, chấp nhận rủi ro để thu được lợi nhuận kì vọng.
1.1.2.2.2. Lợi nhuận thực tế
Liên quan đến mối quan hệ giữa đầu tư và lơi nhuận thực tế ta có thể xem xét
đến “lý thuyết quỹ đầu tư nội bộ”,theo thuyết này thì qui mô đầu tư tỷ lệ thuận với
lợi nhuân thưc tế của doanh nghiệp thể hiện qua phương trình:
I = f (lợi nhuận thực tế)
Do đó, dự án nào đem lại lợi nhuận cao sẽ được lựa chọn. Vì lợi nhuận cao,
thu nhập giữ lại cho đầu tư sẽ lớn và mức đầu tư sẽ cao hơn. Nguồn vốn có thể huy
động cho đầu tư bao gồm: lợi nhuận giữ lại, tiền trích khấu hao, đi vay các loại
trong đó bao gồm cả việc phát hành trái phiếu và bán cổ phiếu. Lợi nhuận giữ lại
và tiền trích khấu hao tài sản là nguồn vốn nội bộ của doanh nghiệp, còn đi vay và
phát hành trái phiếu, bán cổ phiếu là nguồn vốn huy động từ bên ngoài. Vay mượn
thì phải trả nợ, trường hợp nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, doanh nghiệp
có thể không trả được nợ và lâm vào phá sản. Do đó việc đi vay không phải là hấp
dẫn, trừ khi có ưu đãi. Cũng tương tự, việc tăng vốn đầu tư bằng phát hành trái
phiếu cũng không phải là biện pháp hấp dẫn, còn bán cổ phiếu để tài trợ cho đầu tư
chỉ được các doanh nghiệp áp dụng khi hiệu quả của dựa án đầu tư là rõ ràng và
thu nhập do dự án đem lại trong tương lai sẽ lớn hơn chi phí đã bỏ ra.
Chính vì vậy, theo lí thuyết quỹ đầu tư nội bộ thì doanh nghiệp thường chọn
biện pháp tài trợ cho đầu tư từ các nguồn vốn nội bộ và chính sự gia tăng của lợi
nhuận sẽ làm cho mức đầu tư của doanh nghiệp lớn hơn.
1.1.2.2.3. Lãi suất tiền vay
Vốn là một yếu tố quan trọng trong hoạt động đầu tư, do đó với tư cách là chi
phí sử dụng vốn (hay giá của vốn) thì lãi suất ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu tài

chính của dự án. Các nhà đầu tư thường vay tiền để đầu tư và lãi suất phản ánh giá
của khoản tiền vay mượn đó. Nếu giá vay tiền (giá của vốn) cao hơn tỉ suất lợi
nhuận bình quân thì nhà đầu tư sẽ cắt giảm quy mô đầu tư và ngược lại.
Cần phân biệt các loại lãi suất: lãi suất cơ bản (do ngân hàng nhà nước quy
định, các tổ chức tài chính không được cho vay với lãi suất lớn hơn 150% so với
lãi suất cơ bản); lãi suất cho vay sản xuất, cho vay tiêu dùng, cho vay đầu tư tài
chính, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất liên ngân hàng, lãi suất chiết khấu, tái chiết
7
khấu. Sự chênh lệch giữa các loại lãi suất góp phần điều tiết sự phân bổ vốn trong
nền kinh tế.
Lãi suất danh nghĩa phụ thuộc trước hết vào cung – cầu vốn vay trên thị
trường. Cung vốn chính là tổng tiết kiệm quốc dân, được xác định bằng tổng thu
nhập quốc dân trừ đi tiêu dùng. Lãi suất được điều chỉnh để tạo ra sự điều tiết của
ngân hàng nhà nước thông qua chính sách tiền tệ như lãi suất cơ bản, nghiệp vụ thị
trường mở, lãi suất chiết khấu, tỉ lệ dự trữ bắt buộc. Lãi suất cũng chịu ảnh hưởng
của thâm hụt ngân sách nhà nước, nếu tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài thì
chính phủ phải đi vay để bù đắp thâm hụt, hơn nữa thâm hụt ngân sách còn làm
cho tiết kiệm quốc gia giảm khiến cho cung vốn vay giảm đẩy lái suất tăng lên làm
cho cầu đầu tư giảm xuống.
1.1.2.2.4. Tốc độ phát triển của sản lượng quốc gia
Đây là một chỉ tiêu vĩ mô ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều yếu tố khác.
- Nhu cầu về sản lượng sản phẩm hay việc thay đổi sản lượng là nhân tố ảnh
hưởng đến việc tăng hay giảm qui mô vốn đầu tư. Ví dụ: Khi GDP tăng nhanh sẽ
làm tăng thu nhập của người dân, do đó vừa kích thích tiêu dùng lại vừa làm tăng
tiết kiệm. Khi tiêu dùng tăng thì tổng cầu cũng tăng; tiết kiệm tăng thì cung vốn
vay tăng làm giảm lãi suất, kích thích đầu tư ( Do AD = C +I + G + NX - M)
Hơn nữa, khi toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng sẽ tạo ra tâm lí hướng về đầu tư.
Quá trình này sẽ tạo ra hiệu ứng “số nhân”, tức là: một sự tăng thêm ban đầu
trong sản lượng sẽ làm đầu tư và sản lượng tiếp tục tăng thêm nhiều lần.
1.1.2.2.5. Chu kì kinh doanh

Đó là những dao động của nền kinh tế xung quanh xu thế tăng trưởng dài hạn,
bao gồm cả những thời kì tăng trưởng nhanh xen kẽ với những thời kì suy thoái
của nền kinh tế. Mỗi chu kì kinh doanh bao gồm 4 thời kì: suy thoái, khủng hoảng,
phục hồi, hưng thịnh
- Ở mỗi thời kỳ khác nhau của chu kỳ kinh doanh sẽ phản ánh các mức chi
tiêu đầu tư khác nhau.
1.1.2.2.6. Đầu tư nhà nước
Trong tổng đầu tư xã hội bao gồm đầu tư của nhà nước và đầu tư của doanh
nghiệp.
Tổng đầu tư xã hội = Đầu tư nhà nước + Đầu tư tư nhân
Các dự án đầu tư từ nguồn vốn của nhà nước không nhằm mục đích thu lợi
mà tác dụng trợ giúp, điều tiết, định hướng cho đầu tư của toàn xã hội.
Thông qua ngân sách, chính phủ có thể đầu tư phát triển mạng lưới giao
thông, viễn thông, cơ sở hạ tầng, các khu công nghiệp…điều này nhằm cải thiện
8
môi trường đầu tư, khuyến khích các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đầu tư vào
các vùng, ngành theo quy hoạch của chính phủ, hướng nền kinh tế phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn từ ngân sách nhà nước,
nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển
của doanh nghiệp nhà nước.
Ở nước ta hiện nay các doanh nghiệp nhà nước vấn giữ vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế, nguồn vốn của họ chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư
toàn xã hội, tổng vốn vay từ các ngân hàng thương mại và từ nước ngoài. Vì vậy
mỗi động thái trong hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp này đều có tác động ít
nhiều đến các hành vi của các chủ đầu tư khác trong nền kinh tế. Nói cách khác,
đầu tư nhà nước dẫn đường cho đầu tư của tư nhân, của các doanh nghiệp đi sau.
Đầu tư nhà nước chịu ảnh hưởng của các yếu tố như thâm hụt ngân sách, nợ
nước ngoài, các quy hoạch kinh tế xã hội, tỷ lệ thất thoát, tham nhũng, tốc độ giải
ngân vốn, các thủ tục khi sử dụng vốn nhà nước.

Do vậy, đầu tư nhà nước vừa là đòn bẩy kích thích đầu tư tăng cao góp phần
làm cho tổng đầu tư xã hội tăng nếu hoạt động đầu tư nhà nước có hiệu quả. Trong
trường hợp đầu tư nhà nước không đúng hướng,không phù hợp hoặc sử dụng vốn
nhà nước không hiệu quả sẽ gây hiệu ứng ngược lại cho đầu tư tư nhân và khiến
cho tổng đầu tư xã hội giảm sút, kéo nền kinh tế đi xuống.
1.1.2.2.7. Môi trường đầu tư
Môi trường đầu tư là tổng hợp các yếu tố và điều kiện khách quan,chủ quan,
bên trong và bên ngoài của doanh nghiệp hay các nhà đầu tư có mối liên hệ tương
tác lẫn nhau,có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của nhà đầu tư.
Một môi trường đầu tư ổn định cả về kinh tế, xã hội và chính trị sẽ thúc đẩy
các nhà đầu tư bỏ vốn để đầu tư phát triển. Trong đó, việc đưa ra các chính sách
nhằm tăng lòng tin cho các nhà đầu tư cần được chính phủ quan tâm. Chính sách
và hành vi của chính phủ có ảnh hưởng mạnh thông qua tác động của nó đến chi
phí, rủi ro và các rào cản cạnh tranh.
1.2. Một số vấn đề về kích cầu và kích cầu đầu tư
1.2.1. Kích cầu
1.2.1.1.Khái niệm
Chính sách kích cầu là một loạt các biện pháp kinh tế nhằm duy trì và gia tăng
tổng cầu của một nước thông qua sự can thiệp của Nhà nước.
9
1.2.1.2. Nguồn gốc và cơ sở của chính sách
Chính sách kích cầu xuất phát từ học thuyết kinh tế của nhà kinh tế học nổi
tiếng người Anh John Maynard Keynes (1883-1946). Trong lý thuyết của mình,
Keynes rất coi trọng tổng cầu của nền kinh tế. Theo ông, nền kinh tế chịu tác động
của hai nhân tố cơ bản: Tổng cung, tức toàn bộ số hàng hóa bán trong nền kinh tế
không phải là tổng cung mà chính là tổng cầu. Tổng cung giữ vai trò thụ động, nó
chịu sự tác động của tổng cầu. Tổng cẩu phụ thuộc vào cac yếu tố: mức chi tiêu cá
nhân của mỗi gia đình, mức chi tiêu cho đầu tư, mức chi tiêu của chính phủ và chi
tiêu ròng của nước ngoài đối với hàng hóa sản xuất trong nước ( xuất khẩu ròng)

trên thị trường và tổng cầu, tức toàn thể số hàng hóa mà người ta muốn mua. Nhân
tố trực tiếp quyết định mức sản lượng và việc làm.
Theo Keynes, trong quá trình vận động của nền kinh tế, tổng cầu thường
không theo kịp so với tổng cung. Điều đó ảnh hưởng đến tình hình sản xuất, thu
hẹp đầu tư, gây ra nạn thất nghiệp cũng như khủng hoảng kinh tế. Để giải quyết
tình trạng này phải tăng tổng cầu. Tổng cầu lớn hơn tổng cung sẽ làm gia tăng đầu
tư. Do đó sẽ gia tăng việc làm và gia tăng thu nhập. Cuối cùng sản lượng quốc gia
cũng được gia tăng. Đồng thời, Keynes cũng đề cao vai trò của Nhà nước trong
việc điều tiết nền kinh tế thông qua chính sách kich cầu của Chính phủ. Ông cho
rằng để thoát khỏi khủng hoảng và thất nghiệp cần có sự can thiệp của Nhà nước
vào kinh tế để tăng tổng cầu, gia tăng việc làm và thu nhập. Sự can thiệp của Nhà
nước thông qua các công cụ như chương trình đầu tư Nhà nước; Chính sách tài
chính, tín dụng và lưu thông tiền tệ; Mở rộng việc làm bằng cách mở rộng đầu tư
thậm chí cả vào các ngành thuộc lĩnh vực quân sự, huyến khích tiêu dùng cá nhân.
1.2.1.3. Mục đích của chính sách kích cầu
Mục tiêu của gói kích cầu là tạo thêm cầu để đối ứng với năng lực sản xuất
hiện tại của nền kinh tế khi suy thoái, tránh để dư thừa năng lực sản xuất ở mức
quá cao gây lãng phí nguồn lực cũng như gây ra những vấn đề về xã hội do thất
nghiệp tăng cao gây ra. Nếu không nhanh chóng ngăn chặn, thất nghiệp sẽ tiến đến
ngưỡng nguy hiểm đẩy suy giảm kinh tế vào vòng xoáy luẩn quẩn: thất nghiệp sẽ
dẫn đến cắt giảm thu nhập (thực tế và kỳ vọng) làm giảm tiêu dùng, càng làm khó
khăn về đầu ra của doanh nghiệp phải tiếp tục cắt giảm sản xuất và lao động, đẩy
thất nghiệp tăng lên ở vòng tiếp theo và cứ tiếp tục như vậy. Do vậy mục đích lớn
nhất của gói kích cầu là duy trì việc làm.
1.2.1.4. Nguyên tắc cơ bản của kích cầu
10
Nếu một gói kích cầu được thiết kế không tốt, thì mặc dù có tên gọi là gói
kích cầu, nhưng trên thực tế những gói kích cầu này dù có thể rất tốn kém nhưng
lại không “kích thích” được nền kinh tế. Điều này đặc biệt đúng nếu gói kích cầu
không tuân theo các nguyên tắc nhất định của kinh tế học, mà lại được thiết kế để

đáp ứng các yêu cầu về chính trị hoặc theo các nhóm lợi ích. Theo Lawrence
Summers (giáo sư kinh tế, cố vấn kinh tế cho tổng thống Obama) cho rằng để một
gói kích cầu có hiệu quả thì phải đảm bảo ít nhất 3 điều kiện: Kịp thời, đúng đối
tượng và ngắn hạn (nhất thời).
1.2.1.5. Điều kiện áp dụng các biện pháp kích cầu
Khủng hoảng- phục hồi- hưng thịnh- suy thoái là các pha trong chu kì của một
nền kinh tế,đây là yếu tố khách quan mà không một chính phủ hay một tổ chức nào
có thể thay đổi được. Suy thoái kinh tế có thể liên quan đến sự suy giảm đồng thời
của các chỉ số kinh tế của toàn bộ hoạt động kinh tế như việc làm,đầu tư,lợi
nhuận.Suy thoái có thể gắn liền với hạ giá cả (giảm phát) hoặc ngược lại giá cả
tăng nhanh(lạm phát). Một sự suy thoái lâu dài và trầm trọng được gọi là khủng
hoảng kinh tế. Khi lý thuyết bàn tay vô hình của Adamsmith sụp đổ với đỉnh điểm
là cuộc đại khủng hoảng 1929-1933 phải nhường lại cho kinh tế học vĩ mô
“Keynes” với trọng tâm chính là nêu bật vai trò tăng trưởng tiền lương(để tăng
tổng cầu) và vai trò của nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế. Từ khi kinh tế
học keynes ra đời với các biện pháp can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế để
điều chỉnh những méo mó của thị trường thì nền kinh tế thị trường ở các nước có
sự chuyể biến rõ nét. Khi nền kinh tế có dấu hiệu bắt đầu suy thoái kéo dài, để
tránh tình trạng trở nên tồi tệ hơn, chính phủ các nước đã áp dụng nhiều chính sách
kinh tế vĩ mô và vi mô để kích cầu nhằm đưa nền kinh tế tăng trưởng trở lại.
Trong đó kích cầu đầu tư là biện pháp hữu hiệu của các chính phủ.
1.2.2. Kích cầu đầu tư
1.2.2.1. Khái niệm
Kích cầu đầu tư là tổng hợp tất cả các biện pháp chính sách, các công cụ pháp
lý được sử dụng một cách có hệ thống và đồng bộ nhằm thu hút ngày càng nhiều
vốn đầu tư để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội trong một
giai đoạn hay thời kì nhất định.
1.2.2.2. Phân biệt kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng
11
Kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng là hai khái niệm thường được nhắc tới

cùng nhau tuy nhiên về bản chất thì hai khái niệm này có sự khác biệt.
Trước hết là về đối tượng tác động của hai loại hình kích cầu này là khác
nhau. Đối tượng của kích cầu tiêu dùng là về phía cầu trong nền kinh tế, thông qua
các chính sách của chính phủ để kích thích tiêu dùng trong nước như chính sách
thuế thu nhập cá nhân, chính sách hỗ trợ người tiêu dùng. Mục đích của kích cầu
tiêu dùng là kích thích tiêu dùng trong nước thông qua đó tạo thêm thị trường cho
các doanh nghiệp mở rộng sản xuất giúp nền kinh tế lấy lại đà tăng trưởng trong
tình hình nền kinh tế gặp khó khăn như thời kì hậu khủng hoảng. Còn xét về kích
cầu đầu tư thì đây là các chính sách trực tiếp tác động tới hoạt động đầu tư của nền
kinh tế nhằm khuyến khích hoạt động đầu tư sản xuất của doanh nghiệp thông qua
chính sách lãi suất hay chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp.
Khác với kích cầu tiêu dùng, kích cầu đầu tư có tác động tích cực cả trong
ngắn hạn và trong dài hạn vì đầu tư không chỉ là cấu phần của tổng cầu mà còn là
yếu tố cấu thành trữ lượng vốn của tổng cung. Trong ngắn hạn,khi đầu tư tăng sẽ
tạo thêm công ăn việc làm và nhu cầu hàng hóa sản xuất trực tiếp cho ngành được
đầu tư và tiếp đến là các ngành liên quan và cuối cùng tạo tác động lan tỏa tăng
nhu cầu hàng hóa và dịch vụ sản xuất của toàn bộ nền kinh tế. Về dài hạn, đầu tư
làm tăng nguồn vốn, làm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế và do vậy tổng
cung tăng sẽ tạo động lưc bền vững cho tăng trưởng dài hạn.
Tuy nhiên hai chính sách kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng lại có quan hệ
bổ trợ lẫn nhau, bổ xung cho nhau nhằm phát huy tốt hơn hiệu quả của cả hai chính
sách,tất cả đều hướng tới mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế.
1.2.2.3. Ý nghĩa của kích cầu đầu tư
Kích cầu đầu tư có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia, nhất là
một nước đang phát triển như Việt Nam. Ở các nước đang phát triển hiện nay tồn
tại "cái vòng luẩn quẩn" với đặc điểm là : thu nhập thấp – tích lũy thấp – trình độ
công nghệ lạc hậu – năng suất thấp, và cần các biện pháp kích cầu đầu tư để phá vỡ
nó, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
12
Có những biện pháp kích cầu đầu tư cụ thể và thích hợp sẽ làm tăng lượng

vốn đầu tư toàn xã hội, tăng nhu cầu đầu tư xây dựng và cải thiện mức sống của
người dân. Đầu tư tăng sẽ làm tăng tổng cung, kích cầu tiêu dùng. Đầu tư vừa là
yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế. Vốn đầu
tư được sử dụng hiệu quả sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, góp phần
chuyển dịch cơ cấu theo ngành, vùng lãnh thổ và theo thành phần kinh tế. Đầu tư
nước ngoài còn thu hút khoa học công nghệ hiện đại của các nước trên thé giới,
làm thay đổi bộ mặt của toàn bộ nền kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội. Như vậy
kích cầu đầu tư có tác dụng rất quan trọng ở mỗi quốc gia, và mang tính tất yếu
trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn.
1.2.2.4. Tác động của kích cầu đầu tư
Khi chúng ta thi hành bất kì một chính sách nào tác động vào nền kinh tế thì
các chính sách đó bao giờ cũng có tính hai mặt, có thể là tích cực đối với yếu tố
này nhưng lại là tiêu cực với yếu tố kia, và đôi khi bản thân các yếu tố cũng có tác
động qua lại lẫn nhau. Bên cạnh việc có thể đạt được các mục đích như mong
muốn thì còn tồn tại những tiêu cực không mong muốn. Đối với chính sách kích
cầu đầu tư thường được sử dụng khi nền kinh tế lâm vào khó khăn như khủng
hoảng kinh tế cũng không nằm ngoài qui luật đó. Khi chính phủ thực hiện các
chính sách kích cầu đầu tư sẽ tác động cả mặt tích cực và tiêu cực tới nền kinh tế.
Bài toán đặt ra ở đây là làm cách nào để đạt được tối đa hiệu quả của chính sách và
giảm đến mức tối thiểu các tác động tiêu cực. Và thông qua nghiên cứu những tác
động của kích cầu đầu tư để có thể rút ra những bài học cho hoạt động kích cầu. Vì
vậy cần cân nhắc thận trọng khi đưa ra các quyết định can thiệp. Mục tiêu cuối
cùng của kích cầu đầu tư là tăng trưởng kinh tế nhưng phải đảm bảo cả về mặt văn
hóa, xã hội.
1.2.2.4.1. Tác động tích cực
a. Tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế
- Tác động đến tổng cầu: Để tạo ra sản phẩm cho xã hội, trước hết cần đầu tư.
Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế.
Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm từ 24 đến 28% trong cơ
cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu tác động của đầu tư

thể hiện rõ trong ngắn hạn. Xét theo mô hình kinh tế vĩ mô, đầu tư là bộ phận
13
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu. Khi tổng cung chưa kịp thay đổi, gia tăng đầu
tư (I) làm cho tổng cầu (AD) tăng (nếu các yếu tố khác không đổi).
- Tác động đến cung: Tổng cung của nền kinh tế gồm hai nguồn chính là cung
trong nước và cung từ nước ngoài. Bộ phận chủ yếu, cung trong nước gồm các yếu
tố sản xuất: vốn, lao động, tài nguyên, công nghệ.
Như vậy kích cầu đầu tư làm tăng quy mô vốn đầu tư là nguyên nhân trực tiếp
làm tăng tổng cung của nền kinh tế, nếu các yếu tố khác không đổi. Mặt khác tác
động của vốn đầu tư còn được thể hiện thông qua việc nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực đổi mới công nghệ…Do đó đầu tư lại gián tiếp làm tăng tổng cung của
nền kinh tế.
Mối quan hệ giữa tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế là mối quan hệ biện
chứng nhân quả, có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Đây là cơ sở lý
luận để giải thích chính sách kích cầu đầu tư và tiêu dùng ở nhiều nước trong thời
kỳ nền kinh tế tăng trưởng chậm.
b.Tác động đến tăng trưởng kinh tế
Đầu tư vừa tác động đến tốc độ tăng trưởng vừa tác động tới chất lượng tăng
trưởng. Kích cầu đầu tư làm tăng qui mô vốn đầu tư và sử dụng hợp lý những nhân
tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, tăng năng suất nhân tố tổng
hợp, tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theon hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế…do đó, nâng cao chất lượng tăng
trưởng kinh tế.
c. Tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
- Đối với cơ cấu ngành kinh tế:
Việc đầu tư vào ngành nào, quy mô vốn là bao nhiêu, đồng vốn được sử dụng
như thế nào đều tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến sự phát triển của ngành nói
riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Cụ thể, đầu tư sẽ góp phần tăng cường vật
chất kĩ thuật, nâng cao hàm lượng công nghệ qua đó nâng cao năng suất lao động
của ngành. Nhờ đó sẽ tạo ra sản lượng cao hơn với giá thành thấp hơn. Mặt khác,

đầu tư là tiền đề tập trung các nguồn lực khác của nền kinh tế (lao động,tài
nguyên,vốn dư thừa…) cho mục tiêu phát triển ngành. Chính đầu tư chứ không
phải các quyết định hành chính là nhân tố trực tiếp nhất có thể huy động tất cả các
yếu tố đầu vào cần thiết cho sự phát triển của ngành. Không những thế việc đầu tư
còn tạo ra điều kiện vật chất cho sự ra đời của những ngành mới. Sự thay đổi tỉ
trọng giữa các ngành và sự ra đời của những ngành mới chính là chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành.
- Đối với cơ cấu lãnh thổ kinh tế:
14
Có thể dễ dàng nhận thấy bất cứ vùng nào nhận được một sự đầu tư thích hợp
đều có điều kiện để phát huy mạnh mẽ những thế mạnh của mình. Những vùng tập
trung nhiều khu công nghiệp lớn đều là những vùng rất phát triển của một quốc
gia. Những vùng có điều kiện được đầu tư sẽ là đầu tàu kéo các vùng khác cùng
phát triển. Những vùng kém phát triển có thể nhờ vào đầu tư để thoát khỏi đói
nghèo và giảm dần khoảng cách với các vùng khác. Nếu xét cơ cấu lãnh thổ theo
góc độ thành thị và nông thôn thì đầu tư là yếu tố bảo đảm cho chất lượng của đô
thị hoá. Việc mở rộng các khu đô thị dựa trên các quyết định của chính phủ sẽ chỉ
là hình thức nếu không đi kèm với các khoản đầu tư hợp lý. Đô thị hoá không thể
gọi là thành công thậm chí còn cản trở sự phát triển nếu cơ sớ hạ tầng không đáp
ứng được các nhu cầu của người dân. Các dịch vụ y tế, giáo dục… cũng cần được
đầu tư cho phù hợp với sự phát triển của một đô thị.
- Đối với cơ cấu thành phần kinh tế:
Đối với mỗi quốc gia, việc tổ chức các thành phần kinh tế chủ yếu phụ thuộc
vào chiến lược phát triển của chính phủ. Các chính sách kinh tế sẽ quyết định
thành phần nào là chủ đạo; thành phần nào được ưu tiên phát triển; vai trò; nhiệm
vụ của các thành phần trong nền kinh tế…Ở đây đầu tư đóng vai trò nhân tố thực
hiện.
Việc kích cầu đầu tư cũng đi đối với việc thay đổi các biện pháp chính sách,
phương hướng phát triển của cả xã hội. Tùy và điều kiện và trình độ phát triển của
mỗi quốc gia khác nhau mà có những chiến lược phát triển các ngành nghề trọng

điểm khác nhau. Động lực chính của sự chuyển dịch này đó là những ngành nghề
quan trọng, mang lại thu nhập cao cho nên kinh tế quốc dân cần phải được chú
trọng phát triển.
d. Tác động đến khoa học công nghệ.
Đầu tư là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới quyết định đổi mới và phát triển
khoa học, công nghệ của một doanh nghiệp và quốc gia.Trong mỗi thời kỳ, các
nước có bước đi khác nhau để đầu tư phát triển công nghệ. Trong giai đoạn đầu,
các nước phát triển do có nhiều lao đông và nguyên liệu, thường đầu tư các loại
công nghệ sử dụng nhiều lao đông và nguyên liệu, sau đó giảm dần hàm lượng lao
động và nguyên liệu trong sản xuất sản phẩm và tăng dần hàm lượng vốn thiết bị
và tri thức thông qua việc đầu tư công nghệ hiện đại hơn và đầu tư đúng mức để
phát triển nguồn nhân lực. Đến giai đoạn phát triển, xu hướng đầu tư mạnh vốn
thiết bị và gia tăng hàm lượng tri thức chiếm ưu thế tuyệt đối.Tuy nhiên, quá trình
chuyển từ giai đoạn thứ nhất sang giai đoạn thứ ba cũng là quá trình chuyển từ đầu
tư ít sang đầu tư lớn, thay đổi cơ cấu đầu tư. Không có vốn đầu tư đủ lớn sẽ không
15
đảm bảo sự thành công của quá trình chuyển đổi và sự phát triển của khoa học và
công nghệ.
Công nghệ mà doanh nghiệp có được là do nhập khẩu từ bên ngoài hoặc tự
nghiên cứu và ứng dụng. Dù nhập khẩu hay tự nghiên cứu cũng đòi hỏi lượng vốn
đầu tư lớn. Mỗi doanh nghiệp, mỗi nước khác nhau cần phải có bước đi phù hợp để
lựa chon công nghệ thích hợp. Trên cơ sở đó, đầu tư có hiệu quả để phát huy lợi
thế so sánh của từng đơn vị cũng như toàn nền kinh tế quốc dân.
Tạo ra sự phát triển của khoa học công nghệ là góp phần quan trọng vào tăng
trưởng trong dài hạn của nền kinh tế, vì tiến bộ khoa học là động lực mạnh mẽ nhất
phá vỡ giới hạn của tăng trưởng.
e. Góp phần giảm bớt áp lực thất nghiệp và đảm bảo ổn định xã hội.
Để kích cầu đầu tư trong nước thì chính phủ đã thực hiện các chính sách tăng
chi tiêu công,đẩy nhanh giải ngân vốn cho các công trình xây dựng cơ bản. Ví dụ
như xây dựng đường giao thông vận tải, các công trình xây dựng nhà ở xã hội,các

chính sách này đã gián tiếp thông qua các công ty có liên quan tạo thêm việc làm
cho người lao động, bên cạnh việc các doanh nghiệp sau khi nhận được các gói
kích thích kinh tế đã cơ bản vượt qua các khó khăn bước đầu phục hồi và phát
triển. Như vậy nhìn chung các biện pháp kích cầu nói chung và các biện pháp kích
cầu đầu tư nói riêng đã có tác động tốt tới tình hình việc làm và giảm bớt tỷ lệ thất
nghiệp của nền kinh tế. Bởi lẽ thất nghiệp là một trong các yếu tố kìm hãm tốc độ
tăng trưởng kinh tế.
1.2.2.4.2. Tác động tiêu cực
Bên cạnh những tác động tích cực của kích cầu nói trên thì việc lạm dụng và
sử dụng không hiệu quả các gói kích cầu có thể gây ra một số hiệu ứng tiêu cực.
Mặt trái của kích cầu được biểu hiện ở các phương diện sau:
a. Nguy cơ sa vào bẫy thanh khoản
Bẫy thanh khoản là hiện tượng trong đó chính sách tiền tệ được nới lỏng bằng
biện pháp giảm lãi suất để rồi lãi suất xuống thấp quá một mức nhất định khiến cho
mọi người quyết định giữ tài sản của mình dưới dạng tiền mặt và chính sách tiền tệ
trở nên bất lực. Hậu quả là đầu tư tư nhân khó có thể được thúc đẩy vì ngân hàng
không huy động được tiền gửi thì cũng không thể cho xí nghiệp vay và chứng
khoán không bán được thì xí nghiệp cũng không huy động được vốn. Chính sách
tiền tệ trở nên bất lực trong việc thúc đẩy đầu tư tư nhân và do đó là bất lực trong
kích thích tổng cầu. Trong khi đó, chính sách tài chính thường không phát huy
được hiệu lực đầy đủ do hiện tượng thoái lui đầu tư thì lúc này lại phát huy đầy đủ
hiệu lực do hiện tượng thoái lui đầu tư không còn (vì lãi suất thấp). Tuy nhiên khi
16
đó sẽ dẫn tới tình trạng trì trệ trong đầu tư tư nhân, kéo theo toàn bộ nền kinh tế trì
trệ.
b. Thâm hụt ngân sách và gia tăng gánh nặng nợ.
Chi ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng quỹ ngân sách nhà
nước cho việc thực hiện các nhiệm vụ của chính phủ. Thực chất của nó là việc
cung cấp các phương tiện tài chính cho các nhiệm vụ của chính phủ.Thâm hụt ngân
sách nhà nước là tình trạng các khoản chi của ngân sách Nhà nước vượt qua các

khoản thu không mang tính hoàn trả ( thu trong cân đối ngân sách).
Như đã biết trong kích cầu nói chung hay kích cầu đầu tư nói riêng chính sách
tài khóa mở rộng được áp dụng thông qua biện pháp cụ thể là giảm thuế và tăng
chi tiêu ngân sách nhà nước, biện pháp thứ hai được cho rằng có hiệu suất kích
thích tổng cầu cao hơn Một khi gói kích cầu quá lớn hệ quả tất yếu là sẽ càng
khoét sâu thêm vào thâm hụt ngân sách nếu như không có chính sách kịp thời,
thậm chí nó sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới lòng tin của các nhà đầu tư.
Việc kích cầu đầu tư đòi hỏi phải chấp nhận một mức thâm hụt ngân sách, tuy
nhiên sẽ phải có nguồn bù đắp trong thời gian sau đó. Hai nguồn chính bù đắp cho
thâm hụt ngân sách là vay trong nước và ngoài nước, nếu như các khoản chi ngân
sách để kích thích sản xuất có hiệu quả sẽ tạo ra nguồn thu để trả các khoản nợ
nhưng nếu chúng không được sử dụng hiệu quả sẽ tạo ra sự lãng phí lớn và làm gia
tăng gánh nặng nợ quốc gia cũng như gánh nặng nợ chính phủ. Trong dài hạn, bội
chi ngân sách sẽ tạo áp lực tăng lãi suất và sẽ dẫn tới thoái lui đầu tư làm giảm hiệu
quả của chính sách kích cầu đầu tư.
c. Áp lực lạm phát cao
Trong điều kiện ngân sách nhà nước hạn hẹp, sử dụng chi ngân sách nhà
nước lớn sẽ dẫn tới thâm hụt ngân sách, mà việc bù đắp thâm hụt ngân sách lớn
như vậy thực tế vẫn làm cho cung tiền tăng, nguy cơ lạm phát cao sau kích cầu.
Chính sách tiền tệ và tín dụng nới lỏng nhằm phục vụ chính sách kích thích kinh tế,
hỗ trợ kích cầu đã đẩy nhanh tốc độ gia tăng của các phương tiện thanh toán, tốc
độ đưa tiền ra lưu thông tiếp tục được đẩy mạnh. Tuy nhiên, việc tăng quá nhanh
và quá mạnh tín dụng cũng là dấu hiệu cảnh báo nguy cơ lạm phát. Kinh nghiệm
cho thấy nếu tăng trưởng tín dụng đột biến, thì chỉ sau 2-3 tháng sẽ tác động tới
tăng giá cả và lạm phát là điều có thể thấy trước. Hơn nữa, việc đổ một lượng tiền
đầu tư lớn ra nền kinh tế, nếu như được sử dụng kém hiệu quả sẽ không hấp thụ
được lượng tiền trong nền kinh tế và lạm phát tiền tệ sẽ xảy ra. Điều này đặt ra yêu
cầu trong việc sử dụng chính sách kích cầu phải đảm bảo tính ngắn hạn, các giải
pháp chính sách tiền tệ cần được giảm thiểu đúng lúc đồng thời việc sử dụng vốn
17

đúng mục đích và cho hoạt động của nền kinh tế. có hiệu quả sẽ góp phần làm
giảm nguy cơ lạm phát cao, tạo ra sự ổn định vĩ mô.
1.2.2.5. Nguồn vốn cho kích cầu đầu tư
Vốn là nhân tố vô cùng quan trọng cho việc kích cầu nói chung và kích cầu
đầu tư nói riêng bởi nếu không có vốn đầu tư thì không thể tiến hànhcác hoạt động
đầu tư và nền kinh tế cũng không thể tăng trưởng được. Vì thế chính phủ mỗi nước
trước khi tung ra các gói kích cầu cần nghiên cứu, xem xét chi tiết đến các nguồn
vốn có thể cung ứng để đảm bảo cho họat động kích cầu đầu tư hiệu quả nhất.
Dưới đây là một số nguồn vốn chủ yếu cho kích cầu đầu tư:
1.2.2.5.1. Vốn trái phiếu chính phủ
* Vay nợ từ công chúng
- Số tiền huy động được để tài trợ cho gói kích cầu. Trái phiếu phát hành bằng
nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì chính phủ có thể tăng thuế thậm chí
in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. Trái phiếu chính phủ phát
hành bằng ngoại tệ ( thường là ngoại tệ mạnh có nhu cầu lớn) có rủi ro tín dụng
cao hơn so với khi phát hành bằng nội tệ vì chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ
để thanh toán và ngoài ra còn có rủi ro về tỷ giá . Tuy nhiên, việc tài trợ này gặp
phải những khó khăn nhất định :
- Nếu lãi suất không hấp dẫn thì khó có thể huy động được vốn trong dân do
không cạnh tranh được với lãi suất của các định chế tài chính khác.
- Chính phủ có thể phát hành trái phiếu chính phủ để vay từ các tổ chức, cá
nhân và Lạm phát kỳ vọng có thể tăng.
- Việc tài trợ cho gói kích cầu này thông qua vay nợ sẽ đẩy lãi suất lên cao và
gây sức ép xấu đến khu vực tư nhân và tăng trưởng kinh tế. Huy động với lãi suất
cao còn làm tăng các khoản trả lãi thêm hàng chục ngàn tỷ đồng mỗi năm trong
tương lai, và làm trầm trọng thêm vấn đề thâm hụt ngân sách.
* Vay nợ từ hệ thống các ngân hàng thương mại
Việc vay nợ này tuy có thể vay được lượng vốn lớn nhưng cũng gặp những hạn
chế không nhỏ :
- Gây sức ép đối với dự trữ của các ngân hàng này và các ngân hàng sẽ đòi hỏi

trợ giúp về khả năng thanh khoản từ Ngân hàng Nhà nước. Nếu những đòi hỏi này
được đáp ứng, cơ sở tiền tệ sẽ tăng và lạm phát sẽ quay trở lại.
- Nếu Ngân hàng Nhà nước không đáp ứng những đòi hỏi về tính thanh khoản
này, các ngân hàng thương mại buộc phải giảm các nguồn tín dụng cho khu vực
doanh nghiệp tư nhân và lao vào một cuộc cạnh tranh lãi suất huy động, đây chính là
hiện tượng chi tiêu chính phủ lấn át đầu tư của khu vực tư nhân.
18
Do vậy, việc thực hiện gói kích cầu có thể không đạt được mục tiêu như mong
đợi khi biện pháp tài trợ thông qua vay nợ trong nước được lựa chọn. Việc vay nợ sẽ
đẩy lãi suất lên cao và gây khó khăn thêm cho các doanh nghiệp tư nhân và không
thúc đẩy được tăng trưởng kinh tế.
1.2.2.5.2. Vốn ngân sách nhà nước
Thông qua hoạt động chi Ngân sách, Nhà nước sẽ cung cấp kinh phí đầu tư cho
cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt trên
cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, trong những điều kiện cụ thể, nguồn kinh phí
trong ngân sách cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh
nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển sang cơ cấu
mới hợp lý hơn. Thông qua hoạt động thu, bằng việc huy động nguồn tài chính
thông qua thuế, ngân sách nhà nước đảm bảo thực hiện vai trò định hướng đầu tư,
kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh.
1.2.2.5.3. Quỹ dự trữ ngoại hối
Ngoại tệ sẽ được bán ra công chúng cho tới khi dự trữ giảm xuống ngưỡng an
toàn. Việc tài trợ này cực kỳ rủi ro nếu công chúng tin rằng dự trữ ngoại hối đang
cạn dần và có thể dẫn đến sự tháo chạy của tư bản nước ngoài và đầu cơ ngoại tệ.
Cuối cùng sẽ là sự phá giá đồng nội tệ và sức ép lạm phát.
Việc kích thích đầu tư và tiêu dùng thường kéo theo sự gia tăng mạnh của nhập
khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng… thì phải đảm bảo mức dự
trữ ngoại hối đảm bảo an toàn của hệ thống tỷ giá (đặc biệt về mặt tâm lý).
Rõ ràng, việc sử dụng dự trữ ngoại hối tài trợ toàn bộ cho gói kích cầu vài tỷ

USD là điều vừa không khả thi vừa không sáng suốt. Nếu sử dụng một phần thì cần
phải thận trọng và minh bạch để không gây những bất ổn tâm lý không đáng có.
1.2.2.5.4. In tiền
Có 2 trường hợp xảy ra :
- Một là Chính phủ có thể trực tiếp thông qua Ngân hàng Trung ương in tiền để
tài trợ cho chi tiêu. Biện pháp tài trợ này ngay lập tức sẽ dẫn đến tăng trưởng cơ sở
tiền tệ và cung tiền.
- Hai là Chính phủ ban đầu có thể vay tiền của công chúng và hệ thống ngân
hàng thương mại thông qua phát hành trái phiếu. Nhưng nếu sau đó Ngân hàng
Trung ương can thiệp mua lại các khoản nợ này của chính phủ thông qua nghiệp vụ
thị trường mở, hoặc nhằm đáp ứng sức ép thanh khoản gia tăng của hệ thống ngân
hàng thương mại, thì một lượng tiền tương tự như khi in tiền trực tiếp cũng sẽ được
bơm vào nền kinh tế.
19
Trong cả hai trường hợp, cơ sở tiền tệ và cung tiền sẽ tăng, gây ra lạm phát và
bất ổn kinh tế vĩ mô trong tương lai.
Việc tài trợ cho chi tiêu qua gói kích cầu thông qua Ngân hàng Trung ương
còn có thể làm trầm trọng hơn những rủi ro kinh tế khi Ngân hàng Trung ương theo
đuổi chế độ tỷ giá gắn chặt với đồng USD (như Việt Nam hiện nay).
Như đã nói ở trên, kích thích đầu tư và tiêu dùng thường kéo theo sự gia tăng
mạnh của nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng. Vì vậy, việc
tài trợ cho gói giải pháp kích cầu thông qua Ngân hàng Trung ương, một mặt làm
tăng cung nội tệ, mặt khác làm tăng cầu ngoại tệ do nhu cầu nhập khẩu tăng.
Khi đó, Ngân hàng Trung ương sẽ buộc phải can thiệp vào thị trường ngoại
hối bằng cách bán ra ngoại tệ nhằm duy trì tỷ giá, gây sức ép về tính thanh khoản đối
với hệ thống ngân hàng thương mại, thâm thủng dự trữ ngoại hối, phá giá đồng nội
tệ, và cuối cùng là lạm phát.
1.2.2.5.5. Vay nợ nước ngoài
Khả năng vay nợ thêm nước ngoài trong bối cảnh khủng khoảng kinh tế toàn
cầu là rất khó khăn cùng với đó là việc giảm cấp vốn ODA từ các nhà tài trợ

Tác động của việc tài trợ cho gói kích cầu thông qua biện pháp vay nợ nước
ngoài, nếu có, sẽ phụ thuộc nhiều vào chủ trương theo đuổi chế độ tỷ giá của Ngân
hàng trung ương.
Nếu Ngân hàng Nhà nước theo đuổi chính sách ổn định tỷ giá quanh mức công
bố, điều này có nghĩa Ngân hàng trung ương sẽ phải can thiệp mua vào lượng dư
cung ngoại tệ do Chính phủ đã bơm vào nền kinh tế sau khi vay nước ngoài. Cơ sở
tiền tệ và cung tiền cuối cùng sẽ tăng và gây ra lạm phát.
Tuy nhiên, nếu Ngân hàng trung ương chủ động thả lỏng mức kiểm soát tỷ giá
thì hậu quả của việc làm này sẽ là sự lên giá của đồng nội tệ và tác động xấu đến
khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới của hàng xuất khẩu.
Mặc dù vậy, đây vẫn là nguồn mà các chính phủ vẫn thường phải sử dụng khi
cần nhằm có nguồn vốn cho kích cầu.
1.2.2.5.6. Trì hoãn trả nợ
Đây là một trong những biện pháp quan trọng và thường xuyên được thực hiện
ở các nền kinh tế chuyển đổi.
Việc tích lũy thêm nợ làm trì hoãn những tác động xấu có thể có của các biện
pháp tài trợ gói kích cầu. Tuy nhiên, nó sẽ tác động đến kỳ vọng của khu vực tư
20
nhân về sự phát triển trong tương lai của nền kinh tế. Các cá nhân và tổ chức kinh tế
sẽ dự đoán về sự gia tăng của thuế và lạm phát, và làm xấu đi tình hình tài chính.
Chính phủ có thể kết hợp các nguồn tài trợ nói trên để tài trợ cho gói kích cầu.
1.2.2.6. Các công cụ, biện pháp sử dụng
Để thực hiện kích cầu đầu tư có hiệu quả,trong tay chính phủ có hai công cụ
quan trọng là chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Mỗi chính sách đều có
những ưu, nhược điểm khác nhau và tùy từng tình hình của từng nước mà chính
phủ có thể sử dụng một hoặc cả hai chính sách để kích cầu đầu tư đạt hiệu quả
nhất. Ngoài ra còn có một số những chính sách khác hỗ trợ cho hai chính sách
trên,thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Dưới đây là chi tiết của các chính sách
đó:
1.2.2.6.1. Nhóm chính sách tiền tệ

Chính sách tiền tệ là công cụ quản lý hỗ trợ đồng tiền của chính phủ hay
NHTW để đạt được những mục đích đặc biệt như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn
định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế. Chính
sách tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay
gián tiếp hông qua các nghiệp vụ thị trường mở,qui định mức dự trữ bắt buộc hoặc
trao đổi trên thị trường ngoại hối. Các công cụ của chính sách tiền tệ gồm: tái cấp
vốn, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, hạn mức tín dụng và lãi suất
tín dụng. Tuy nhiên, hai công cụ chủ yếu của chính phủ tác động mạnh đến kích
cầu đầu tư là công cụ lãi suất tín dụng và tăng hạn mức tín dụng cho các NHTM.
a. Công cụ lãi suất tín dụng
Các nhà kinh doanh thường vay vốn để đầu tư, lãi suất phản ánh giá khoản
vay mượn. Vì vậy, nếu giá của tiền vay ( lãi suất) lớn hơn tỷ suất lợi nhuận bình
quân thì nhà đầu tư sẽ cắt giảm qui mô đầu tư và ngược lại.
Sự tăng giảm tỷ lệ lãi suất thực tế là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến
sự tăng giảm qui mô đầu tư. Vì vậy vó thể dùng các chính sách tác động đến lãi
suất trên thị trường vốn để từ đó kích cầu đầu tư.
Đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự
thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu
thông, mà chỉ có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Nó là một công cụ rất
hiệu quả.
b. Tăng hạn mức tín dụng cho các NHTM
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHTW buộc các NHTM phải chấp
hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Khác với loại vay thong thường ngân hang
không xác định kì hạn nợ cho từng món vay mà chỉ khống chế theo hạn mức tín
21
dụng, có nghĩa là vào một thời điểm nào đó nếu dư nợ vay của khách hàng lên đến
mức tối đa cho phép,khi đó ngân hàng sẽ không phát tiền vay cho khách hàng. Khi
chính phủ tăng hạn mức tín dụng sẽ kích thích các chủ doanh nghiệp vay vốn để
đầu tư phát triển. Trong điều kiện nền kinh tế suy thoái hoặc khủng hoảng, các
doanh nghiệp gặp phải khó khăn rất lớn nhưng đó cũng là cơ hội để doanh nghiệp

khẳng định mình, gia tăng thị phần, xây dựng thương hiệu, thu hút được lao động
có tay nghề…
Như vậy với các ưu đãi về lãi suất hoặc các khoản vay tín dụng là các cơ hội
cho các doanh nghiệp sống và sống khỏe trong khủng hoảng và cũng góp phần
giúp nền kinh tế tăng trưởng trở lại sau suy thoái.
1.2.2.6.2. Nhóm chính sách tài khóa
Các nguồn vốn hỗ trợ từ kênh chính sách tài khoán có tác dụng bù đắp sự
giám sát nguồn thu do suy thoái kinh tế của các chủ thể trong nền kinh tế, hạn chế
tốc độ sụt giảm nhu cầu tiêu dung của cả tư nhân và doanh nghiệp, bằng cách đó
cho phép các chủ thể này tồn tại qua các giai đoạn khó khăn và khôi phục năng lực
tiêu dung khi nền kinh tế qua khỏi giai đoạn suy giảm.
a. Tăng chi tiêu chính phủ
Nhà nước với nguồn vốn lớn từ thuế và các khoản vay trong và ngoài nước
khi phát hành trái phiếu chính phủ chính là nhà đầu tư và tiêu dung lớn trong nền
kinh tế. Khi kinh kinh tế gặp khó khăn, chính phủ có thể tăng chi tiêu ngân sách để
tác động vào tổng cầu, kích thích việc mua bán hàng hóa, giúp các doanh nghiệp
có khả năng cạnh tranh tốt, đứng vững trong suy thoái đồng thời đào thải những
doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, mô hình hoạt động lạc hậu. Mặt khác, chính
phủ cũng có thể kích cầu đầu tư thông qua các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng
đầu tư cho công nghệ,mang lại lợi ích lợi lớn cho xã hội cũng như doanh nghiệp.
Ngoài ra những khu vực kinh tế khó khăn,đời sống nhân dân khó khăn, khu vực
nhân dân không sẵn sang đầu tư thì chính phủ cần có chính sách khuyến khích, hỗ
trợ đầu tư, xây dựng các cơ sở vật chất cần thiết,tạo động lực cho các nhà đầu tư để
thúc đẩy khu vực tăng trưởng, phát triển.
b. Các chính sách thuế
Thuế là một nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận kì vọng, cũng như lợi nhuận thực
tế của doanh nghiệp. Do đó công cụ hữu hiệu là miễn hoặc giảm thuế,đặc biệt là
thuế thu nhập doanh nghiệp và các khoản thu từ khu vực sản xuất. Công cụ này
không chỉ có ý nghĩa tích cực trong kích thích khu vực sản xuất mà đồng thời góp
phần giảm giá thành, kích thích người dân tiêu dung. Việc giảm thuế và các khoản

thu từ nhà nước sẽ kích thích các thành phần kinh tế bình đẳng hơn, tạo nên sự cân
22
bằng giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân. Ngoài ra xu hướng giảm thuế khi
nền kinh tế tăng trưởng chậm lại còn là xu hướng chung của thế giới, cũng như tạo
ra môi trường kinh doanh hấp dẫn hơn thu hút đầu tư nước ngoài.
1.2.2.6.3. Nhóm chính sách giải pháp khác
Đây là những chính sách mang tính chất đòn bẩy để tiến hành chính sách tài
khóa và chính sách tiền tệ một cách thuận lợi và hiệu quả, kích thích đầu tư trong
và ngoài nước:
a. Biện pháp thu hút đầu tư nước ngoài
Vốn đầu tư nước ngoài này càng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển
kinh tế xã hội của tất cả các quốc gia nói chung và của hoạt động đầu tư nói riêng.
Để có thể kích cầu đầu tư hiệu quả thì vốn là điều kiện cần không thể thiếu,vì thế
tăng cường thu hút ĐTNN sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư của mỗi quốc
gia. Để thu hút được ĐTNN cần chú ý một số giải pháp sau:
+ Phải cải thiện môi trường pháp lý về đầu tư, một môi trường pháp lý thong
thoáng chặt chẽ có tác dung lôi cuốn các nhà đầu tư nước ngoài hơn là một môi
trường pháp lý rắc rối, chồng chéo, bất hợp lý.
+ Tuy nhiên có môi trường đầu tư tốt mà ít được thế giới biết đến thì cũng
kém thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy xúc tiến đầu tư nhằm giới thiệu
quảng cáo cơ hội đầu tư nhằm cung cấp thong tin cần thiết để hấp dẫn các nhà
ĐTNN.
+ Xây dưng và cải tạo cơ sở hạ tầng là điều kiện tiên quyết để thu hut ĐTNN
bởi một công nghệ kĩ thuật hiện đại chỉ được phát huy trong một cơ sở hạ tầng
thích hợp.
+ Phải có chương trình đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
b. Biện pháp nâng cao sử dụng vốn ngân sách nhà nước
Vốn NSNN là nguồn vốn đóng góp đáng kể vào hoạt động đầu tư, tuy nhiên
hiệu quả sử dụng nguồn vốn này vào hoạt động đầu tư còn nhiều bất cập và lãng
phí dẫn đến hạn chế hiệu quả và thành quả của đầu tư, nó còn làm mất khả năng

phát triền nhanh, hiệu quả và bền vững của nền kinh tế.Vì vậy những biện pháp để
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN là cần thiết trong hoat động đầu tư:
+ Thực hiện tốt công tác quản lý và điều hành NSNN một cách hợp lý,đầu tư
có trọng tâm trọng điểm,tránh đầu tư vào các dự án không hiệu quả và dàn trải.
+ Thường xuyên kiểm tra giám sát quá trình sử dụng vốn NSNN để kịp thời
phát hiện những sai phạm,tránh được những tổn thất vốn NSNN không đáng có.
+ Cần có những cơ chế thẩm định đánh giá chính xác mức độ khả thi của các
dự án đầu tư sử dụng vốn NSNN nhằm đem lại hiệu quả nhanh và tác động tích
cực đến các dự án tư nhân.
23
c. Biện pháp phát triển thị trường tài chính tạo nhiều kênh huy động vốn
Thị trường tài chính là bộ phận quan trọng bậc nhất, chi phối toàn bộ hoạt
động của nền kinh tế hàng hóa. Thị trường tài chính phát triển góp phần thúc đẩy
mạnh mẽ sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Sức sản xuất của xã hội
ngày càng tăng và qui mô sản xuất ngày càng mở rộng, nhu cầu tiền vốn ngày càng
tăng trong khi nguồn vốn nội lực của doanh nghiệp hay vay qua các Ngân hàng
truyền thống không đáp ứng được về mặt thời gian cũng như số lượng. Vì vậy phát
triển thị trường tài chính sẽ tạo ra nhiều kênh huy động vốn đáp ứng nhu cầu vốn
cho hoạt động đầu tư phát triển kinh tế.
Trong bối cảnh hiện nay, muốn phát triển thị trường tài chính cần phải thực
hiện một số chính sách sau:
+ Phải xác định được một cơ chế lãi suất linh hoạt và chịu sự điều tiết của thị
trường.
+ Phải có các công cụ tài chính phong phú, đa dạng để mở rộng phạm vi giao
dịch cũng như qui mô thị trường tài chính.
+ Xây dựng và đa dạng hóa các tổ chức tài chính ngân hàng, các công ty tài
chính để đẩy nhanh quá trình luân chuyển vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
+ Phải xây dựng được hệ thống pháp luật toàn diện đảm bảo ổn định kinh tế
xã hội.
d. Ổn định môi trường đầu tư cả về kinh tế xã hội và chính trị

Mọi hoạt động đầu tư suy ra cho cùng là để thu lợi nhuận, vì thế môi trường
đầu tư hấp dẫn phải là một môi trường có hiệu quả đầu tư cao, mức độ rủi ro thấp.
Điều này lại chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố như: chính sách, cơ chế ưu đãi đầu
tư của địa bàn được đầu tư, điều kiện phát triển về kết cấu hạ tầng, mức độ hoàn
thiện về thể chế hành chính – pháp lý, khả năng ổn định về mặt chính trị - xã hội,
độ mở cửa nền kinh tế, sự phát triển của hệ thống thị trường… Các nhân tố trên có
mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, vì vậy để nâng cao chất lượng và hiệu quả
của môi trường đầu tư nhât thiết phải quan tâm xử lý đồng bộ các yếu tố ảnh
hưởng trên.
Một môi trường đầu tư ổn định cả về kinh tế, xã hội và chính trị sẽ thúc đẩy
các nhà đầu tư bỏ vốn để đầu tư phát triển. Trong đó, việc đưa ra các chính sách
nhằm tăng lòng tin cho các nhà đầu tư cần được chính phủ quan tâm. Chính sách
và hành vi của chính phủ có ảnh hưởng mạnh thông qua tác động của nó đến chi
phí, rủi ro và các rào cản cạnh tranh.
Môi trường đầu tư tốt không chỉ thể hiện qua chất lượng của yếu tố, mà còn
phải thể hiện qua sự quản lý tốt. Nó không chỉ tốt cho cả doanh nghiệp mà tốt cho
cả toàn xã hội. Có biện pháp cải thiện môi trường đầu tư, phù hợp với từng nơi,
24
từng thời kỳ sẽ thu hút được nhiều đầu tư, và nó sẽ là một biện pháp kích cầu đầu
tư hữu hiệu.
1.2.2.7. Nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kích cầu đầu tư
Hiệu quả của các chính sách kích cầu đầu tư phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố,
trong đó có những nhân tố khách quan cũng có những nhân tố chủ quan. Tuy nhiên
có những nhân tố rất khó điều tiết tùy từng điều kiện và tình hình phát triển của
mỗi nước. Do vậy những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kích cầu đầu tư có thể
kiểm soát được sẽ được trình bày cụ thể hơn dưới đây:
1.2.2.7.1. Độ trễ chính sách
Độ trễ của chính sách kích cầu đầu tư: chính sách kích cầu đầu tư hay bất cứ
chính sách nào đều có độ trễ nhất định, trước hết là độ trễ về thời gian bởi quá trình
ra quyết định, quá trình thực hiện chính sách phải trải qua nhiều giai đoạn với

nhiều thủ tục. Do đó khoảng cách thời gian từ khi ra quyết định đến khi thực hiện
tạo ra tính trễ của chính sách. Thứ hai, do bản chất và đặc điểm của hoạt động đầu
tư : thời kỳ đầu tư kéo dài, thời gian vận hành kết quả đầu tư kéo dài do đó không
phải bất cứ sự gia tăng đầu tư nào cũng đem lại kết quả ngay trong ngắn hạn nhất
là đối với các dự án thực hiện trong nhiều năm. Đây là đặc điểm riêng có của hoạt
động đầu tư có ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý hoạt động đầu tư.
Như vậy, độ trễ của quá trình ra quyết định chính sách và độ trễ trong thực
hiện đầu tư có ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của chính sách kích cầu. Chính
sách sẽ có hiệu quả khi chúng ta có thể giảm tối đa độ trễ chính sách và trong thực
hiện đầu tư của các dự án, có nghĩa là chính sách phải được quyết định và thực
hiện nhanh chóng giảm bớt các thủ tục hành chính và có sự phối hợp giữa cơ quan
ra quyết định với các đối tượng thụ hưởng chính sách. Đồng thời khi các doanh
nghiệp, các dự án được hưởng lợi ích từ chính sách phải làm sao nhanh chóng tạo
ra kết quả đầu tư đáp ứng mục tiêu đề ra của chính sách kích cầu đầu tư.
1.2.2.7.2. Quá trình tổ chức thực hiện chính sách
Theo các nhà kinh tế, để biện pháp kích cầu có hiệu quả thì việc thực hiện nó
phải đảm bảo: đúng lúc, trúng đích và vừa đủ. Hiệu quả chính sách phụ thuộc
nhiều vào việc áp dụng các nguyên tắc này.
Đúng lúc tức là phải thực hiện kích cầu ngay khi các doanh nghiệp chưa thu
hẹp sản xuất và các hộ gia đình chưa thu hẹp tiêu dùng. Nếu thực hiện sớm quá,
kích cầu có thể làm cho nền kinh tế trở nên nóng và tăng áp lực lạm phát. Nhưng
nếu thực hiện chậm quá, thì hiệu quả của kích cầu sẽ giảm. Việc thực hiện kích cầu
đúng lúc càng phải được chú ý nếu các quá trình chính trị và hành chính để cho
25

×