Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

TÌM HIỂU VOICE OVER IP AND VOIP PROTOCOLSVÀ các ỨNG DỤNG được TRIỂN KHAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 103 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HCM
KHOA CÔNG NGHỆ - CƠ SỞ THANH HÓA

ĐỒ ÁN CHUYÊN NGÀNH
ĐỀ TÀI:
TÌM HIỂU VOICE OVER IP AND VOIP
PROTOCOLSVÀ CÁC ỨNG DỤNG ĐƯỢC TRIỂN KHAI


GIẢNG VIÊN HD : TH.S. NGUYỄN XUÂN LÔ
SINH VIÊN TH :
1. LƯƠNG SƠN HÙNG - MSSV: 10004313
2. NGUYỄN TRÍ AN - MSSV: 10012873
LỚP : CDTH12TH
THANH HÓA, THÁNG 07 NĂM 2014
Đồ án chuyên ngành GVHD: Th.S. Nguyễn Xuân Lô
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay đang diễn ra một cuộc cách mạng công nghệ trên mạng điện thoại
công cộng. Cuộc cách mạng về công nghệ này bắt đầu từ mong ước dùng một máy
tính cá nhân để truyền các gói chứa tiếng nói đi qua một mạng chuyển mạch gói
(Packet Switching Network). Đây là một ý tưởng đột phá dẫn đến truyền thoại qua
giao thức Internet (IP) được gọi là Voice over IP (VoIP). Ý tưởng thì đã rõ nhưng
thực hiện như thế nào? Việc chuyển từ các dịch vụ thoại chất lượng toll của PSTN
sang VoIP quả là điều không tầm thường. Tuy nhiên, sức hấp dẫn của VoIP khiến
cho nó được hiện thực qua từng bước phát triển vượt bậc của công nghệ và chỉ
trong một vài năm gần đây.
Chúng ta chưa thể thay thế hoàn toàn mạng điện thoại chuyển mạch công
cộng (PSTN) bằng công nghệ VoIP bởi còn nhiều điều khá phức tạp bên trong thế
giới của các giao thức mới lấy IP làm nền tảng. Tuy nhiên, gần đây các giao thức
cho báo hiệu cuộc gọi và điều khiển thiết bị đang được chuẩn hóa, chúng ta đang
gần đạt đến một môi trường có tính liên kết hoạt động cao. Giao thức điều khiển


cổng truyền thông MGCP và Megaco hiện nay đã là các tiêu chuẩn chính thức,
trong khi đó các cải tiến được thừa nhận gần đây trong phiên bản 4 của H.323 đã
tạo điều kiện thuận lợi khi kết hợp với các giao thức khác để tạo ra các giải pháp
cho hệ thống truyền thoại hoàn chỉnh và đặc tính kết nối ngang cấp cho các mạng
gói. Giao thức khởi tạo phiên (SIP) đang được xem như giao thức báo hiệu chính
trong cơ cấu chuyển mạch mềm (softswitch), điều khiển gọi trong một miền
(domain) và điều khiển gọi xuyên qua các ranh giới miền.
Trong luận văn này, chúng em tập trung nghiên cứu về: TCP/IP, công nghệ
VoIP, giao thức H.323, giao thức SIP và ứng dụng của hệ thống IVR vào tra cứu
điểm SV.
Sinh viên thực hiện: Lương Sơn Hùng – Nguyễn Trí An Trang 1
Đồ án chuyên ngành GVHD: Th.S. Nguyễn Xuân Lô
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU TCP/IP
1.1 Giới thiệu về TCP/IP
Mạng đã trở thành nền tảng, nếu không muốn nói là phần quan trọng nhất
trong hệ thống thông tin hiện nay. Chúng tạo nên cốt lõi trong việc chia sẻ thông tin
trong các doanh nghiệp, chính phủ và các nhóm nghiên cứu khoa học. Thông tin đó
có thể tồn tại dưới nhiều hình thức. Nó có thể được biểu hiện dưới dạng tài liệu, dữ
liệu được xử lý bởi máy tính khác, những tập tin và thậm chí những dạng dữ liệu
khác.
Đầu những năm 70, một nhóm những nhà nghiên cứu đã đưa ra một khái
niệm mới: Internetworking. Những tổ chức chính phủ khác đã quan tâm đến vấn đề
này như là mạng được kết nối lẫn nhau, chẳng hạn như ITU-T (tiền thân là CCITT)
và ISO. Tất cả đều cố gắng định nghĩa một tập giao thức, được phân lớp trong một
chuỗi được định nghĩa rõ ràng sao cho những ứng dụng có thể làm việc với những
ứng dụng khác mà không cần biết đến kỹ thuật mạng hiện có và các hệ điều hành
mà các ứng dụng này đang chạy trên đó.
Các giao thức mạng máy tính là những quy luật hoạt động chính thức điều
khiển truyền thông mạng. Giao thức điều khiển việc truyền (TCP) và giao thức
Internet (IP) chỉ là hai giao thức truyền dữ liệu trong chuỗi giao thức Internet.

Chuỗi giao thức này thường được gọi là TCP/IP vì TCP và IP là hai giao thức quan
trọng nhất trong chuỗi các giao thức này. TCP/IP chứa một tập các tiêu chuẩn đặc
tả các máy tính trong mạng giao tiếp như thế nào và dữ liệu được định tuyến thông
qua những máy tính đã được kết nối với nhau như thế nào.
TCP/IP cung cấp cho người lập trình ứng dụng hai dịch vụ chính: phân phối
các gói không định hướng kết nối và vận chuyển dòng tin cậy. TCP/IP có một số
các đặc điểm đặc trưng mà làm cho nó trở nên phổ biến, bao gồm:
 Không phụ thuộc dạng hình học của mạng: TCP/IP được sử dụng trên
các mạng bus, vòng và các mạng hình sao, trong các mạng cục bộ
(LAN) cũng như các mạng diện rộng (WAN).
 Không phụ thuộc phần cứng vật lý của mạng: TCP/IP có thể sử dụng
Ethernet, TokenRing hay bất kỳ các thiết bị phần cứng nào.
Sinh viên thực hiện: Lương Sơn Hùng – Nguyễn Trí An Trang 2
Đồ án chuyên ngành GVHD: Th.S. Nguyễn Xuân Lô
 Chuẩn giao thức mở: Các chuẩn của chuỗi giao thức TCP/IP luôn sẵn
sàng thực hiện một cách độc lập trên bất kỳ hệ thống phần cứng nào
của máy tính cũng như trên bất kỳ hệ điều hành nào. Sự chấp nhận
rộng rãi của TCP/IP và thực tế TCP/IP luôn có sẵn trên các hệ thống
từ những siêu máy tính đến những máy tính để bàn làm cho nó trở
thành tập giao thức lý tưởng để thống nhất các phần cứng và phần
mềm khác nhau.
 Nguyên lý định địa chỉ tổng thể: Mỗi máy tính trên mạng TCP/IP có
một địa chỉ xác định duy nhất nó sao cho bất kỳ thiết bị nào cho phép
TCP/IP có thể giao tiếp với bất kỳ các thiết bị khác trong mạng. Mỗi
gói dữ liệu được gửi qua mạng TCP/IP bao gồm một header chứa địa
chỉ của máy tính đến cũng như địa chỉ của máy tính nguồn.
 Sức mạnh của cơ cấu Client-Server: TCP/IP là cơ cấu cho những ứng
dụng Client-Server đầy sức mạnh và bền vững hoạt động trong mạng
cục bộ và mạng diện rộng.
 Chuẩn giao thức ứng dụng: TCP/IP không chỉ cung cấp cho người lập

trình một phương pháp để di chuyển dữ liệu quanh một mạng trong
số những ứng dụng khách hàng, nó cũng cung cấp cho nhiều giao
thức cấp ứng dụng thực hiện những chức năng chung như email và
chuyển file.
Đối với hãng phát triển phần mềm BSD, những lập trình viên không đơn
giản sử dụng TCP/IP, họ thêm một lớp trừu tượng được những người phát triển ứng
dụng dùng gọi là socket. Socket tạo điều kiện thuận lợi cho những lập trình viên
ứng dụng viết code cho mạng. Những lập trình viên BSD cũng thêm một vài công
cụ đến hệ điều hành UNIX của họ được xây dựng trên những lệnh đã tồn tại trước
trong những môi trường tính toán độc lập. Với sự phổ biến của BSD UNIX ở các
trường đại học, phạm vi của Internet được kết nối ngày càng lớn mạnh. Ngày nay,
Internet đã kết nối hơn hai triệu máy tính và bốn mươi triệu người trên toàn thế
giới.
Sinh viên thực hiện: Lương Sơn Hùng – Nguyễn Trí An Trang 3
Đồ án chuyên ngành GVHD: Th.S. Nguyễn Xuân Lô
1.2 Khối giao thức TCP/IP
Bảy lớp trong mô hình OSI và cách mà chúng thể hiện như một khối mà lớp
này xếp chồng lên lớp kia dẫn tới khái niệm khối giao thức hay đơn giản là khối.
Khối giao thức chỉ đến một vài giao thức truyền thông mạng, có cả TCP/IP, bao
gồm nhiều lớp phần mềm luận lý mà mỗi lớp liên kết trực tiếp với lớp trên và dưới
nó. Trên cùng của khối này là lớp ứng dụng nơi mà những lập trình viên ứng dụng
cung cấp. Đáy của khối thường là lớp giao tiếp với phần cứng mạng.
TCP/IP không tuân theo hoàn toàn như mô hình OSI. Mặc dù cả hai mô hình
đều có mục đích là tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền thông giữa các mô hình
và cấu tạo máy tính khác nhau, thậm chí khi những máy này chạy trên hệ điều hành
khác nhau, mỗi mô hình mạng cũng tạo ra những sự thực hiện khác nhau. Trong
khi mô hình OSI được điều chỉnh bởi một tổ chức định chuẩn lớn mà phải mất một
thời gian dài để tạo ra và chấp nhận, TCP/IP được tạo ra bởi nhu cầu tức thời của
chính phủ Mỹ. Sự phát triển của TCP/IP không quá cồng kềnh với những yêu cầu
khắt khe như OSI. Đa số sự tiến triển của TCP/IP đều được thực hiện trên những

nhóm nhỏ và những cá nhân qua sự bảo đảm của RFC. Quá trình tạo ra và chấp
nhận cũng nhanh chóng hơn so với các thủ tục tương ứng của OSI. Điều này khiến
nhiều người nghĩ rằng TCP/IP là một kiến trúc nghèo nàn. Nhưng trên thực tế,
TCP/IP là một tập giao thức được sử dụng để kết nối các máy tính trên toàn thế giới
nhiều hơn bất kỳ giao thức nào khác.
Mặc dù OSI và TCP/IP khác nhau, mô hình bảy lớp vẫn có ích để tham khảo
khi nói về truyền dữ liệu. Kiến trúc TCP/IP chia làm 4 lớp tương đương với 7 lớp
của mô hình OSI. Sự tương đương đó được thể hiện cụ thể như sau:
Sinh viên thực hiện: Lương Sơn Hùng – Nguyễn Trí An Trang 4
Đồ án chuyên ngành GVHD: Th.S. Nguyễn Xuân Lô
Hình 1.1: Sự tương đương của TCP/IP và mô hình OSI
1.2.1 Lớp ứng dụng (Application)
Lớp ứng dụng bao gồm các ứng dụng được sử dụng trong mạng. Lớp ứng
dụng và lớp đại diện của mô hình OSI nằm trong lớp ứng dụng của kiến trúc
TCP/IP. Ví dụ, nếu dữ liệu được truyền giữa hai chương trình ngang hàng được nén
thì ứng dụng sẽ có trách nhiệm nén và giải nén. Thực ra lớp vận chuyển cũng có
liên quan đến lớp ứng dụng chứ không tách ra thành một thực thể như trong mô
hình OSI.
Các giao thức của ứng dụng là FTP, HTTP, SMTP, DNS, TFTP và SNMP.
Giao diện giữa lớp ứng dụng và lớp vận chuyển được định nghĩa bởi số cổng và
socket.
 FTP (File Transfer Protocol): giao thức truyền file.
 HTTP (Hypertext Trasnfer Protocol).
 SMTP (Simple Mail Transfer Protocol): nghi thức truyền mail đơn
giản.
 DNS (Domain Name System): hệ thống tên miền.
 TFTP (Trivial File Transfer Protocol): nghi thức truyền file đơn
giản.
 SNMP (Simple Netword Management Protocol): giao thức quản lý
mạng.

Sinh viên thực hiện: Lương Sơn Hùng – Nguyễn Trí An Trang 5
Đồ án chuyên ngành GVHD: Th.S. Nguyễn Xuân Lô
1.2.2 Lớp vận chuyển (Transport)
Lớp vận chuyển cung cấp phân phối dữ liệu từ đầu cuối đến đầu cuối. Lớp
vận chuyển và lớp phiên trong mô hình OSI nằm trong lớp vận chuyển của kiến
trúc TCP/IP. Một socket TCP/IP là một đầu cuối của giao tiếp bao gồm một địa chỉ
máy tính và một cổng đặc biệt cho máy tính đó. Nhiệm vụ của lớp vận chuyển là
phân mảnh dữ liệu lớp ứng dụng để truyền đi (sender), tập hợp các segment
(receiver), nó cung cấp truyền thông tin cậy, điều khiển dòng, và cơ chế truyền lại.
Protocol sử dụng là TCP hoặc UDP.
 TCP (Transmission Control Protocol): là protocol định hướng kết
nối, thiết lập kênh truyền logic trước khi gửi dữ liệu.
 UDP (User Datagram Protocol): là protocol không định hướng kết
nối.
1.2.3 Lớp mạng (Internet)
Còn gọi là lớp Network hay Internetwork. Lớp này định nghĩa gói dữ liệu và
xử lý định tuyến cho datagram. Datagram là một gói dữ liệu được điều khiển bởi
giao thức IP. Một datdagram chứa một địa chỉ nguồn, địa chỉ đích, dữ liệu cũng
như các trường điều khiển. Chức năng của lớp này tương đương với chức năng của
lớp mạng trong mô hình OSI. Nó có trách nhiệm đóng gói vào mạng sẵn có từ
những lớp trên cũng như xử lý địa chỉ và phân phát các datagram. IP không cung
cấp tính tin cậy, điều khiển dòng và khắc phục lỗi. Những chức năng này phải được
cung cấp ở lớp cao hơn. Những giao thức lớp Internet bao gồm:
 IP (Internet Protocol): connectionless, tìm đường để chuyển
datagram đến đích.
 ICMP (Internet Control Message Protocol): cung cấp khả năng điều
khiển, cung cấp một số thông điệp điều khiển để tìm lỗi trên mạng.
 ARP (Address Resolution Protocol): xác định địa chỉ lớp datalink
(địa chỉ MAC gồm 48 bit) cho địa chỉ IP đã biết.
 RARP (Reverse Address Resolution Protocol): xác định địa chỉ mạng

khi biết địa chỉ lớp datalink.
Sinh viên thực hiện: Lương Sơn Hùng – Nguyễn Trí An Trang 6
Đồ án chuyên ngành GVHD: Th.S. Nguyễn Xuân Lô
1.2.4 Lớp giao diện mạng (Network Interface)
TCP/IP không định nghĩa những kết nối vật lý cho mạng sẵn có. Thay vào
đó, nó sử dụng những chuẩn đã tồn tại trước do các tổ chức ví dụ như IEEE định
nghĩa RS232, Ethernet và các giao diện điện tử khác dùng trong truyền dữ liệu. Lớp
này có thể hoặc không cung cấp phân phát tin cậy, có thể định hướng dòng hay
định hướng gói. TCP/IP không đặc tả bất kỳ giao thức nào ở đây nhưng có thể sử
dụng hầu hết các giao diện mạng có sẵn, thể hiện sự linh động của lớp IP.
Sự di chuyển dữ liệu giữa các lớp trong mạng TCP/IP được thể hiện trong
hình:
Hình 1.2: Sự di chuyển dữ liệu giữa các lớp trong mô hình TCP/IP
Khi một gói được gửi, nó đến lớp vận chuyển và header của lớp vận chuyển
được thêm vào. Sau đó, lớp Internet cũng thêm header của nó vào. Cuối cùng lớp
Network Interface cũng thêm header của nó vào. Khi một gói dữ liệu nhận được,
quá trình được tiến hành ngược lại để tạo ra dữ liệu ban đầu cho lớp ứng dụng.
Sinh viên thực hiện: Lương Sơn Hùng – Nguyễn Trí An Trang 7
Đồ án chuyên ngành GVHD: Th.S. Nguyễn Xuân Lô
1.3 Nguyên lý đánh địa chỉ IP
Một trong những đặc điểm đặc trưng của TCP/IP được miêu tả trước đây là
khả năng đánh địa chỉ tổng thể. Mỗi máy tính trong mạng TCP/IP có một địa chỉ
duy nhất xác định nó. Nguyên lý định địa chỉ tổng thể này mở rộng trên phạm vi
Internet toàn cầu, kết nối hơn hai triệu máy tính và hàng ngàn mạng với nhau.
Trách nhiệm của IP là phải phân phát các datagram giữa các máy tính trong
mạng TCP/IP, để sự phân phát đó có khả năng thực hiện, mỗi máy tính phải có một
địa chỉ IP duy nhất là số gồm 32 bit. Địa chỉ IP chứa những thông tin quan trọng để
phân biệt một mạng và một máy tinh cụ thể trong một mạng.
1.3.1 Các lớp mạng
Vì địa chỉ IP của máy tính xác định duy nhất không chỉ máy tính mà còn

mạng chứa máy tính đó nên địa chỉ IP phải tách thành hai phần. Một phần xác định
mạng (Net ID) và một phần xác định máy tính (Host ID). Sự tách biệt hai phần này
không phải như nhau cho tất cả các địa chỉ IP. Lớp của địa chỉ sẽ quyết định bao
nhiêu bit của địa chỉ dành cho phân biệt mạng và bao nhiêu bit dành cho phân biệt
máy. Có 5 lớp địa chỉ IP mà chỉ có 3 lớp được sử dụng chính: lớp A, B, C cho các
mục đích chung, lớp D và E cho các mục đích đặc biệt và dự trữ cho các mục đích
sau này.
Hình sau chỉ ra định dạng của một địa chỉ IP:
Hình 1.3: Định dạng của địa chỉ IP
Không có một sự khác nhau rõ ràng nào trong các lớp địa chỉ A, B, C. Một
máy tính có địa chỉ lớp A có thể giao tiếp với một máy tính có địa chỉ lớp C và một
máy tính có địa chỉ lớp A có thể giao tiếp với máy tính khác cũng có địa chỉ lớp A.
Bảng sau chỉ ra số mạng lớn nhất và số máy tính lớn nhất trong mạng đối với từng
lớp địa chỉ.
Sinh viên thực hiện: Lương Sơn Hùng – Nguyễn Trí An Trang 8
Đồ án chuyên ngành GVHD: Th.S. Nguyễn Xuân Lô
Bảng 1.1: Định vị các lớp địa chỉ IP
Lớp mạng Số mạng Số các host trong một mạng
A 126 16777214
B 16382 65534
C 2097150 254
 Lớp A:
Địa chỉ IP của lớp A được xác định bằng một bit 0 bậc cao nhất, 7 bit cao
tiếp theo sẽ xác định mạng và 24 bit còn lại xác định máy tính.
 Lớp B:
Địa chỉ IP của lớp B được xác định bằng 2 bit cao nhất là 10, 14 bit tiếp
theo xác định mạng và 16 bit cuối cùng xác định máy tính.
 Lớp C:
Địa chỉ IP của lớp C được xác định bằng 3 bit cao nhất là 110, 21 bit tiếp
theo xác định mạng và 8 bit cuối cùng xác định máy tính.

 Lớp D:
Các địa chỉ lớp D được dành cho multicasting (một loại của broadcasting
nhưng trong một khu vực giới hạn và chỉ đến những máy sử dụng cùng
địa chỉ lớp D).
 Lớp E:
Các địa chỉ lớp E được dùng cho mục đích sử dụng sau này.
Hình 1.4: Các lớp địa chỉ IP
Sinh viên thực hiện: Lương Sơn Hùng – Nguyễn Trí An Trang 9
Đồ án chuyên ngành GVHD: Th.S. Nguyễn Xuân Lô
Không phải tất cả các định danh mạng và máy tính đều được sử dụng. Nếu
so sánh bảng với sự miêu tả riêng cho từng lớp thì không phải tất cả các sự tổ hợp
của các bit đều được chứa trong bảng. Chẳng hạn như đối với lớp A thì có tổng
cộng 2
7
= 128, nhưng chỉ sử dụng 126 dùng để xác định mạng và 2
24
= 16777216
dùng để xác định máy tính nhưng đã bớt đi hai tổ hợp. Một vài địa chỉ đó được
dùng cho những mục đích đặc biệt.
 Các địa chỉ IP đặc biệt
Tất cả các phần của địa chỉ IP có tất cả các giá trị đều là 0 hay 1 đều có
một ý nghĩa đặc biệt.
 Tất cả các bit 0:
Nếu Host ID = 0 thì có nghĩa là máy này. Nếu Net ID = 0 thì có
nghĩa là mạng này. Khi một máy muốn giao tiếp trên một mạng
nhưng không biết địa chỉ IP của mạng, nó gửi một gói với Net ID
= 0. Tất cả các máy khác trên mạng sẽ hiểu là mạng này. Đáp ứng
của chúng sẽ chứa địa chỉ mạng được bổ sung đầy đủ mà người
gửi sẽ lưu lại cho các mục đích sử dụng sau này.
 Tất cả các bit 1:

Đại diện cho tất cả các mạng hay tất cả các máy tính. Ví dụ, địa
chỉ sau đây có nghĩa là tất cả các máy trên mạng 128.2 (địa chỉ
lớp B): 128.2.255.255. Địa chỉ này được gọi là một địa chỉ
broadcast trực tiếp.
 Loopback:
Mạng lớp A 127.0.0.0 được định nghĩa như mạng lặp vòng.
Những địa chỉ từ mạng đó được đăng ký đến giao diện xử lý dữ
liệu trong một hệ thống cục bộ và không bao giờ truy cập một
mạng vật lý (giao diện lặp vòng).
Sinh viên thực hiện: Lương Sơn Hùng – Nguyễn Trí An Trang 10
Đồ án chuyên ngành GVHD: Th.S. Nguyễn Xuân Lô
Net ID Host ID Type of Address Purpose
All 0 All 0 This computer Bootstrap
Network All 0 Network Identify net
Network All 1 Direted broadcast Broadcast in specific net
All 1 All 1 Limited broadcast broadcast inlocal net
127 Any Loopback Testing
Hình 1.5: Địa chỉ IP đặc biệt
1.3.2 Biểu diễn thập phân cách nhau bởi dấu chấm
Định dạng của một địa chỉ IP được miêu tả dường như rất khó khăn. Nhưng
điều này sẽ được giải thoát bởi cách biểu diễn thập phân cách nhau bởi dấu chấm.
Cách biểu diễn này gồm 4 số thập phân có giá trị trong khoảng từ 0 đến 255 cách
nhau bởi dấu chấm. Mỗi giá trị đại diện 8 bit của địa chỉ IP. Bốn giá trị này tập hợp
thành địa chỉ IP gồm 32 bit.
Địa chỉ IP được biểu diễn theo dạng thập phân như sau 166.78.4.139 được
lấy làm ví dụ. Hình biểu diễn nhị phân của địa chỉ IP này.
Hình 1.6: Giải mã địa chỉ IP
Bit 31 là 1, vì vậy nó chỉ ra máy tính này có địa chỉ mạng lớp B hoặc C. Bit
30 là 0 chỉ ra rằng nó thuộc mạng lớp B. Miêu tả trước đây chỉ ra rằng địa chỉ mạng
lớp B có 14 bit dành cho Net ID và 16 bit dành cho Host ID. Đường chia cách 2

phần nằm ở giữa hai bit 15 và 16. Có thể dịch địa chỉ này như sau: máy tính nằm
trong mạng 166.78 và là host 4.139.
Những người thực hiện TCP/IP nhận ra rằng con người nên cần một phương
pháp dễ hơn để truy cập những thông tin này. Vì vậy họ đưa ra một phương pháp
mà một tên văn bản dễ nhớ sẽ đại diện cho địa chỉ IP. Sự thông dịch tên thành địa
chỉ IP được hỗ trợ bởi một vài phương pháp mà cách đơn giản nhất là sử dụng một
Biểu diễn thập phân
166.78.4.139
Biểu diễn nhị phân tương ứng
10100110 01001110 00000100 10001011
Biểu diễn thập phân
166.78.4.139
Biểu diễn nhị phân tương ứng
10100110 01001110 00000100 10001011
Sinh viên thực hiện: Lương Sơn Hùng – Nguyễn Trí An Trang 11
Đồ án chuyên ngành GVHD: Th.S. Nguyễn Xuân Lô
file ASCII với mỗi dòng của file có địa chỉ IP bên trái và tên bên phía phải. Tập tin
này thường được gọi là host file.
Việc sử dụng host file chỉ được thực hiện trong một mạng nhỏ với số máy
tính tương đối nhưng sự quản lý một file như vậy sẽ không thực hiện được và là
không thể khi số lượng máy tính lên đến hàng ngàn như Internet hay các mạng của
các tập đoàn lớn. Trong trường hợp này, một server định danh sẽ được sử dụng.
1.4 Các giao thức lớp Internet
Lớp Internet định nghĩa các datagram và xử lý định tuyến các datagram đó.
IP là giao thức quan trọng nhất của chuỗi giao thức TCP/IP vì nó được sử dụng bởi
tất cả các giao thức TCP/IP khác và tất cả dữ liệu phải đi qua nó. IP cũng đuợc xem
là khối chính xây dựng nên Internet.
1.4.1 Giao thức IP
IP là một giao thức không định hướng kết nối, có nghĩa là không có một sự
liên kết đầu cuối đến đầu cuối nào được thành lập trước khi dữ liệu được truyền.

Điều này trái với giao thức định hướng kết nối trao đổi thông tin điều khiển giữa
các host để thành lập kết nối trước khi dữ liệu được truyền. IP cũng không đảm bảo
phân phát dữ liệu một cách tin cậy. Các gói dữ liệu có thể đến đích sai thứ tự, trùng
dữ liệu hay các trường hợp khác. IP dựa trên những lớp khác như lớp vận chuyển
TCP để cung cấp đặc tính tin cậy.
Đơn vị cơ bản xây dựng nên IP là các datagram. Mỗi datagram có địa chỉ
nguồn và địa chỉ đích. Định tuyến dữ liệu được thực hiện ở mức datagram. Khi một
datagram được định tuyến từ mạng này qua mạng khác, nó có thể chia gói dữ liệu
thành nhiều phần nhỏ hơn. Quá trình này gọi là quá trình phân mảnh và cũng là
nhiệm vụ của lớp IP. Phân mảnh được yêu cầu ở một số mạng vì các thành phần
phần cứng tạo nên mạng có các kích thước gói lớn nhất khác nhau. Ở phía nhận, IP
phải ghép các gói này lại sao cho host đích nhận được dữ liệu ban đầu.
Sinh viên thực hiện: Lương Sơn Hùng – Nguyễn Trí An Trang 12
Đồ án chuyên ngành GVHD: Th.S. Nguyễn Xuân Lô
Hình 1.7: Header của IP Datagram
IP-header gồm nhiều từ 32 bit ghép lại, tạo thành một cấu trúc nhiều trường
(field) như sau:
 Vers: dài 4 bit, chứa version của IP. Vùng này có giá trị mặc nhiên là
4.
 HLEN (Header Length): dài 4 bit, cho biết chiều dài của header của
IP Datagram tính bằng word.
 Service Type: dài 8 bit, chứa các giá trị quy định mức độ ưu tiên của
datagram, được gán bởi protocol lớp trên.
 Total length: dài 16 bit, xác định chiều dài IP-datagram tính bằng
word.
 ID: dài 16 bit, dùng để đánh số các gói nhỏ (packet hay fragment) sau
khi phân mảnh datagram. Nhờ ID, việc tái hợp datagram mới có thể
thực hiện được.
 Flag: cờ, gồm 3 trường nhỏ sau (bit đầu không sử dụng):
 DF (Don’t Fragment): dài 1 bit, nếu có giá trị 1 thì datagram

đó không được phép chia nhỏ
Sinh viên thực hiện: Lương Sơn Hùng – Nguyễn Trí An Trang 13
Đồ án chuyên ngành GVHD: Th.S. Nguyễn Xuân Lô
 MF (More Fragment): dài 1 bit, nếu MF = 1 có nghĩa là còn
có gói nhỏ đứng sau nó trong thao tác phân mảnh datagram,
ngược lại MF = 0 có nghĩa rằng đây là gói cuối cùng trong một
lọat các gói nhỏ được phân mảnh từ một datagram.
 FO (Fragment Offset): dài 12 bit, chứa giá trị offset của gói đó trong
datagram tính theo đơn vị 8 bit (1 octet). Ví dụ sau đây là việc phân
mảnh datagram thành hai gói nhỏ (fragment) và cách tìm offset cho
các fragment.
0 … 511 512 … 1000
Hình 1.8: Sau khi chia thành hai fragment
Fragment 0
FO = 0,
offset = 0*8
Fragment 1
FO = 64,
offset = 64*8
Hình 1.9: Sự phân mảnh của datagram
 TTL (Time To Live): dài 8 bit, là tuổi thọ của datagram do nơi gởi ấn
định. Mỗi lần datagram đi qua một hop (thuật ngữ chuyên môn để chỉ
thiết bị liên kết mạng như router, gateway, ) thì tuổi thọ giảm đi một
đơn vị. Đến lúc nào đó TTL giảm đến zero thì router sẽ hủy bỏ.
 Protocol: dài 8 bit, dùng để xác định giao thức nào đang hoạt động ở
lớp Transport (TCP hay UDP).
 Header checksum: Tổng kiểm tra cho vùng header.
 Source IP Address: Địa chỉ IP 32 bit của host đã gửi datagram này.
 Destination IP Address: Địa chỉ IP 32 bit của host đích cho
datagram này.

 IP Option: Các tùy chọn để kiểm tra, debug, an toàn mạng.
Nếu một datagram có kích thước 1500 byte từ mạng net 1 sang mạng net
3 thông qua mạng net 2 làm trung gian, trong đó mạng net 1 quy định
kích thước gói (MTU) là 2000 byte, trong khi mạng net 2 có MTU = 512
và net 3 có MTU = 256. Như thế datagram bị phân mảnh hai lần trước
khi truyền đến nơi nhận.
Sinh viên thực hiện: Lương Sơn Hùng – Nguyễn Trí An Trang 14
0 … 511 512 … 1000
Đồ án chuyên ngành GVHD: Th.S. Nguyễn Xuân Lô
 Padding: Nếu một tùy chọn được dùng, datagram sẽ được đệm với
tất cả các byte 0 cho đến biên 32 bit cuối cùng, tức là thêm các bit 0
vào datagram để đủ số nguyên lần word.
 Data: Dữ liệu chứa trong datagram được đưa đến giao thức lớp cao
hơn như đã được miêu tả trong phần di chuyển dữ liệu.
1.4.2 Giao thức phân giải địa chỉ (ARP)
Hầu hết các phần cứng của mạng (các card Ethernet mà bạn cắm vào trong
máy tính) không hiểu địa chỉ IP. ARP được sử dụng để ánh xạ địa chỉ IP logic và
tên host mà người dùng thích sử dụng vào trong những địa chỉ vật lý mà chỉ có
phần cứng của mạng sẵn có mới có thể điều khiển được. Giao thức này hoạt động
bằng cách broadcast một thông điệp lên mạng cục bộ, hỏi rằng “Có máy tính nào có
địa chỉ IP là xxx.xxx.xxx.xxx ở đó không?”. Nếu máy tính có địa chỉ IP được miêu
tả đang theo dõi, nó gửi lại một thông điệp với địa chỉ vật lý phần cứng của nó đến
nguồn. Bất kỳ máy tính khác nhận được thông điệp yêu cầu broadcast sẽ bỏ qua nó.
Giao thức này chỉ hoạt động trên mạng cục bộ vì định dạng của địa chỉ mạng vật lý
phụ thuộc vào phần cứng được sử dụng trong mạng. Ví dụ, nếu một mạng Ethernet
được dùng, đáp ứng cho yêu cầu ARP sẽ là số 48 bit xác định duy nhất mọi thiết bị
Ethernet đang tồn tại.
Định dạng của gói ARP:
 Hardware address space: Đặc tả loại phần cứng, ví dụ Ethernet hay
Packet Radio Net.

 Protocol address space: Đặc tả loại giao thức.
 Hardware address length: Đặc tả chiều dài của địa chỉ phần cứng
theo byte trong gói này. Đối với IEEE 802.3 và IEEE 802.5 chiều dài
này là 6.
 Protocol address length: Đặc tả chiều dài của địa chỉ giao thức theo
byte trong gói này. Trong IP nó là 4.
 Mã hoạt động: Xét xem liệu rằng nó là một yêu cầu hay một đáp ứng
ARP.
 Source/target hardware address: Chứa địa chỉ phần cứng mạng vật
lý. Đối với IEEE 802.3 chúng là địa chỉ 48 bit.
Sinh viên thực hiện: Lương Sơn Hùng – Nguyễn Trí An Trang 15
Đồ án chuyên ngành GVHD: Th.S. Nguyễn Xuân Lô
 Source/target protocol address: Chứa địa chỉ giao thức. Đối với
TCP/IP chúng là địa chỉ IP 32 bit.
Hình 1.10: Gói ARP yêu cầu/trả lời
1.5 Các giao thức lớp vận chuyển
IP có nhiệm vụ đưa các datagram từ máy này đến máy khác. Lớp vận
chuyển có nhiệm vụ đưa dữ liệu đó đến chương trình hay quá trình thích hợp trên
máy đích. Hai giao thức quan trọng nhất của lớp vận chuyển là UDP và TCP. UDP
cung cấp phân phát datagram không định hướng kết nối. TCP cung cấp các dịch vụ
định hướng dòng tin cậy với việc phát hiện và sửa lỗi đầu cuối đến đến đầu cuối.
Để dễ dàng phân phát dữ liệu đến chương trình thích hợp trên máy host, khái
niệm về cổng và socket phải được sử dụng.
1.5.1 Cổng và Socket
1.5.1.1 Cổng
Mỗi quá trình muốn giao tiếp với một quá trình khác phải xác nhận chính nó
với chuỗi giao thức TCP/IP bởi một hoặc nhiều cổng. Một cổng là một số 16 bit,
được sử dụng bởi giao thức host-to-host để xác định giao thức lớp cao nào hay
chương trình ứng dụng nào (quá trình) nó phải phân phát các thông điệp đến đó. Có
hai loại cổng:

 Cổng đã biết: các cổng này dành cho các Sever chuẩn, ví dụ như
Telnet sử dụng cổng 23. Cổng đã biết được đánh số từ 1 đến 1023
Sinh viên thực hiện: Lương Sơn Hùng – Nguyễn Trí An Trang 16
Đồ án chuyên ngành GVHD: Th.S. Nguyễn Xuân Lô
(đến năm 1992, các cổng từ khoảng 255 đến 1023 được sử dụng cho
các server dùng UNIX).
 Cổng tạm thời: các client không cần các cổng đã biết vì chúng khởi
tạo giao tiếp với những server và cổng mà chúng đang sử dụng được
chứa trong datagram UDP được gửi đến server. Mỗi quá trình khách
được xác định một cổng miễn là nó cần bởi host mà nó đang chạy
trên đó. Cổng tạm thời có giá trị lớn hơn 1023, thường trong khoảng
từ 1024 đến 65535.
1.5.1.2 Socket
Giao diện socket là một trong số các giao diện lập trình ứng dụng (API) để
giao tiếp với những giao thức. Được thiết kế như một giao diện lập trình truyền
thông, nó được giới thiệu lần đầu tiên bởi hệ thống 4.2 BSD UNIX.
Một sự kết hợp địa chỉ IP và cổng tạo nên sự kết nối mạng duy nhất trong
một quá trình.
1.5.2 Giao thức gói người sử dụng (UDP)
UDP cho phép dữ liệu truyền qua mạng với thời gian tiền xử lý cực tiểu.
Thời gian tiền xử lý của UDP rất thấp vì nó chỉ cung cấp phân phát dữ liệu không
tin cậy. Không có phương pháp nào trong giao thức xác định rằng dữ liệu đã đến
đích một cách chính xác như khi nó được gửi. Dữ liệu có thể bị mất, bị trùng hoặc
bị sai thứ tự.
Tuy nhiên, những giới hạn này không làm cho UDP trở nên kém hiệu quả.
Thời gian tiền xử lý ít trong truyền UDP (vì không phải thành lập một kết nối) và
thiếu tính tin cậy đã làm cho UDP trở nên rất hiệu quả. UDP có thể được sử dụng
khi người lập trình ứng dụng đặt việc xử lý lỗi vào trong ứng dụng. Ví dụ, giả sử
rằng bạn có một mối quan hệ Client-Server đơn giản, client gửi một phần nhỏ đến
server và mong đợi một đáp ứng dưới dạng một phần dữ liệu nhỏ sau hai giây. Nếu

client không nhận được đáp ứng sau hai giây, có thể dữ liệu đã không được đưa đến
server một cách thành công và vì vậy nó có thể truyền lại yêu cầu. Nếu client nhận
được đáp ứng từ server, điều đó có thể được sử dụng như một sự chấp nhận rằng dữ
liệu đã đến đích. Việc định nghĩa UDP là một giải pháp hay của nhóm đề án ARPA
nhằm tiết kiệm thời gian truyền thông. Nếu dịch vụ nào đó chỉ cần gởi đi một gói là
Sinh viên thực hiện: Lương Sơn Hùng – Nguyễn Trí An Trang 17
Đồ án chuyên ngành GVHD: Th.S. Nguyễn Xuân Lô
đủ, ví dụ DNS nếu dùng TCP thì tốn rất nhiếu thời gian. Đôi khi thời gian dành cho
việc hand shaking còn lớn hơn thời gian truyền gói đó. Do vậy trong lập trình nếu
thấy rằng dữ liệu có thể chia thành những gói độc lập nhau thì nên mở UDP port
thay vì TCP port. Xét thông điệp UDP sau:
Hình 1.111: Datagram UDP
Datagram UDP có header 16 byte:
 Source Port: chỉ ra cổng để gửi quá trình. Nó chính là cổng mà đáp
ứng nên định địa chỉ đến đó.
 Destination port: đặc tả cổng của quá trình đích trên máy đích.
 Length: là chiều dài theo byte của datagram UDP có chứa cả header.
 Checksum: chứa các thông tin sửa lỗi.
Các ứng dụng chuẩn sử dụng UDP bao gồm:
 Giao thức chuyển tập tin thông thường (TFTP).
 Server định danh dùng hệ thống tên miền (DNS).
 Quá trình gọi từ xa (RPC), sử dụng bởi hệ thống file của mạng.
 Giao thức quản lý mạng đơn giản (SNMP).
 Giao thức truy cập thư mục thường (LDAP).
1.5.3 Giao thức điều khiển việc truyền (TCP)
TCP xác nhận rằng dữ liệu được truyền đến theo thứ tự và không bị ngắt.
Cùng với ưu điểm này là khoảng thời gian tiền xử lý quá lâu của việc tạo ra và giữ
các kết nối. TCP cung cấp truyền thông tin cậy, theo các dòng byte có định hướng
kết nối. Tính tin cậy của TCP xuất phát từ việc chứa một checksum sửa lỗi trong
mỗi gói dữ liệu được truyền. Ở phía nhận, một checksum được tạo ra và so sánh

với checksum trong header của gói dữ liệu. Nếu các checksum không phù hợp thì
bên nhận thông báo cho bên gửi và dữ liệu được truyền lại một cách tự động.
Những người lập trình ứng dụng không quan tâm đến điều này vì các lớp dưới đã
thực hiện điều đó. TCP được xem là có định hướng kết nối vì hai hệ thống cuối của
Sinh viên thực hiện: Lương Sơn Hùng – Nguyễn Trí An Trang 18
Đồ án chuyên ngành GVHD: Th.S. Nguyễn Xuân Lô
quá trình giao tiếp trao đổi một cuộc hội thoại thương lượng trước khi việc truyền
dữ liệu có thể bắt đầu. Việc bắt tay này bảo đảm với người gửi rằng người nhận
đang rảnh và sẵng sàng nhận dữ liệu. Xét một thông điệp TCP:
Hình 1.12: Segment TCP
Các trường cấu trúc được mô tả như sau:
 Source Port: cổng nguồn 16 bit, được sử dụng bởi nơi nhận để đáp
lại.
 Destination Port: cổng đến 16 bit.
 Sequence number: chứa vị trí byte đầu tiên của segment trong luồng
dữ liệu (segment đồng nghĩa với frame và packet).
 ACK number: cho biết số lượng byte đã nhận được.
 Data offset: khoảng cách bỏ qua tính từ segment đến bắt đầu dữ liệu
(tính bằng đơn vị word), nó chỉ ra nơi nào dữ liệu bắt đầu.
 Reset: không dùng.
 Các vùng cờ (dài 1 bit):
 SYN = 1 : nếu có yêu cầu thiết lập kết nối.
 ACK = 1: nếu ACK number hợp lệ.
 PSH = 1 : yêu cầu đưa tức thời dữ liệu lên lớp application.
 RST = 1: thiết lập lại kết nối.
 FIN = 1: không có dữ liệu nào từ phía gửi.
Sinh viên thực hiện: Lương Sơn Hùng – Nguyễn Trí An Trang 19
Đồ án chuyên ngành GVHD: Th.S. Nguyễn Xuân Lô
 Window: lượng buffer cấp cho nút này.
 Checksum: tổng kiểm tra.

TCP thích hợp cho các ứng dụng mà ở đó cần có sự kiểm soát hoạt động lẫn
nhau giữa hai process ở hai đầu truyền tin .Cũng vì lẽ đó mà các dịch vụ Telnet,
FTP, SMTP… cần phải dựa trên TCP trong khi DNS thì không cần đến TCP.
TCP là giao thức fullduplex, hoạt động theo kiểu hướng kết nối. Nó cung
cấp các kết nối data giữa các application trên mạng và có trách nhiệm quản lý
segment (gói dữ liệu) đến lớp IP (lớp Internetwork) giao cho IP tiếp tục truyền đi.
Khi nhận, TCP nhận dữ liệu đến từ lớp IP, sau đó phân tích segment để biết dữ liệu
được gửi cho application nào để chuyển giao cho đúng.
Chú ý ở mô hình OSI, lớp Transport không chuyển trực tiếp các segment
cho Application như TCP mà chỉ chuyển giao cho lớp Session. Đến lượt lớp
Session mới có trách nhiệm setup và quản lý các kết nối application to application.
Trong khi đó thì TCP đảm nhiệm luôn kết nối. TCP cung cấp những thuận lợi sau
cho những ứng dụng sử dụng nó:
 Truyền dữ liệu dòng.
 Tính tin cậy.
 Điều khiển dòng.
 Chồng kênh.
 Kết nối luận lý.
 Truyền song công.
1.6 Mô hình Client/Server
Các giao thức lớp ứng dụng sử dụng UDP hay TCP cho các cơ chế vận
chuyển, cần lưu ý rằng UDP là giao thức không tin cậy và không cung cấp điều
khiển dòng. Chính vì vậy trong trường hợp này ứng dụng phải cung cấp quá trình
khắc phục lỗi và điều khiển dòng riêng cho nó. Thường dễ xây dựng các ứng dụng
trên TCP hơn. TCP là một giao thức định hướng kết nối tin cậy. Đa số các giao
thức ứng dụng sử dụng TCP nhưng cũng có các ứng dụng dùng UDP để cung cấp
hiệu suất tốt hơn qua việc giảm thời gian tiền xử lý của giao thức. Hầu hết chúng
đều sử dụng mô hình tương tác Client/Server.
Sinh viên thực hiện: Lương Sơn Hùng – Nguyễn Trí An Trang 20
Đồ án chuyên ngành GVHD: Th.S. Nguyễn Xuân Lô

Trong mô hình này, một server là một ứng dụng cung cấp dịch vụ đến những
người sử dụng Internet, một client là một yêu cầu cho dịch vụ. Một ứng dụng bao
gồm cả hai phần client và server có thể chạy trên cùng hệ điều hành hay khác.
Người sử dụng thường đòi hỏi phần client của ứng dụng thiết lập một yêu cầu đến
một dịch vụ đặc biệt và gửi đến phần server của ứng dụng, sử dụng TCP/IP như
một phương tiện vận chuyển. Server là một chương trình nhận yêu cầu, thực hiện
các dịch vụ được yêu cầu và gửi kết quả trong đáp ứng lại. Một server có thể làm
việc với nhiều yêu cầu tại cùng một thời điểm.
Hình 1.13: Mô hình Client/Server của các ứng dụng
Một số server chờ các yêu cầu tại một cổng đã biết trước để cho các client
biết socket IP nào chúng phải gửi trực tiếp yêu cầu đến đó. Client sử dụng một
cổng tùy ý để giao tiếp. Client muốn giao tiếp với một server mà server đó không
sử dụng cổng đã biết trước thì phải sử dụng một cơ chế khác để biết cổng nào mà
chúng phải định địa chỉ để gửi yêu cầu đến đó. Cơ chế này có thể sử dụng dịch vụ
đăng ký như Portmap, sử dụng một cổng đã biết.
Sinh viên thực hiện: Lương Sơn Hùng – Nguyễn Trí An Trang 21
Đồ án chuyên ngành GVHD: Th.S. Nguyễn Xuân Lô
CHƯƠNG 2: GIỚI THIỆU CÔNG NGHỆ VOIP
2.1 Tổng quan về VoIP
Trong những bước phát triển của ngành viễn thông những năm gần đây, điện
thoại IP được đánh giá là một bước tiến quan trọng về công nghệ. Hiện nay điện
thoại IP đang là một mối quan tâm lớn trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của
ngành viễn thông.
Dịch vụ điện thoại IP được xây dựng trên công nghệ VoIP. Đây là một công
nghệ rất mới nhưng thu hút được rất nhiều sự quan tâm của các nhà khai thác và
nhà sản xuất. VoIP được đánh giá là một bước đột phá trong công nghệ, nó sẽ là cơ
sở để xây dựng một mạng tích hợp thực sự giữa thoại và số liệu. Đây là một hướng
phát triển tất yếu của mạng viễn thông.
Do các ưu điểm giá thành rẻ và có nhiều dịch vụ mở rộng, điện thoại IP đã
và đang tạo ra một thị trường rộng lớn gồm mọi đối tượng sử dụng gồm các thuê

bao, các doanh nghiệp, các tổ chức và cơ quan nhà nước.
Để hiểu vấn đề này, chúng ta xem xét hệ thống điện thoại truyền thống, điển
hình là PSTN (Public Switching Telephone Network: Mạng thoại chuyển mạch
công cộng). Đó là kiểu mạng chuyển mạch kênh SCN (Switching Circuit Network)
và được phát triển lên từ mạng analog, nghĩa là để thiết lập một cuộc gọi, cần phải
có một kênh truyền riêng và giữ kênh truyền cho đến chừng nào cuộc nói chuyện
kết thúc. Kiểu truyền thông như vậy không tận dụng một cách có hiệu quả băng
thông hiện có, công suất giới hạn là 64kbit/s/kênh và thực hiện 30 cuộc điện thoại
trên một đường E1.
Sinh viên thực hiện: Lương Sơn Hùng – Nguyễn Trí An Trang 22
Đồ án chuyên ngành GVHD: Th.S. Nguyễn Xuân Lô
Hình 2.1: Lưu lượng thoại IP quốc tế
Vậy VoIP khác với hệ thống điện thoại truyền thống thế nào? Tiếng nói thay
vì được truyền qua mạng chuyển mạch kênh, thì lại được truyền qua mạng chuyển
mạch gói phát triển lên từ mạng số, điển hình là mạng IP. Tiếng nói được số hoá,
đóng gói, rồi được truyền đi như là các gói tin thông thường được truyền trên mạng
IP. Dung lượng truyền dẫn được tất cả các thông tin chia sẻ và bằng cách đó băng
thông được sử dụng có hiệu quả hơn mà không cần phải cung cấp cho từng kênh
riêng lẻ. Mỗi kênh hoặc mỗi đường trung kế cung cấp nhiều khả năng ứng dụng
như số liệu, thoại, fax và hội nghị video. Dễ dàng thấy công nghệ thoại này ưu
điểm hơn hẳn công nghệ thoại truyền thống ở chỗ nó tận dụng được triệt để tài
nguyên hệ thống, dẫn đến một điều chắc chắn là chi phí cho cuộc gọi được giảm
đáng kể, đặc biệt là những cuộc gọi ở khoảng cách địa lý rất xa hiện nay vẫn còn
quá đắt đỏ trong mạng điện thoại chuyển mạch kênh.
Nhưng như vậy không phải là điều dễ dàng. Ta biết rằng thoại là một ứng
dụng mang tính thời gian thực, nghĩa là yêu cầu dòng tiếng nói phải được truyền đi
tới phía nhận một cách gần như tức thì. Trong mạng chuyển mạch kênh điều đó là
đơn giản vì mỗi cuộc thoại không phải chia sẻ với các ứng dụng khác, đường
truyền nói chung luôn được đảm bảo thông giữa hai đầu dây, hiếm khi xảy ra
những trục trặc như tắc nghẽn hay bị mất thông tin. Còn với mạng chuyển mạch gói

như IP thì sao? Mạng IP được xem như là mạng truyền số liệu, nghĩa là thông tin
dữ liệu tới đích không có yêu cầu về mặt thời gian thực. Vả lại trên mạng IP, do
đường truyền được chia sẻ bởi nhiều ứng dụng, hoặc bản thân các gói tin tiếng nói
lại đi theo nhiều con đường khác nhau tới đích, tình trạng tắc nghẽn, trễ, mất dữ
Sinh viên thực hiện: Lương Sơn Hùng – Nguyễn Trí An Trang 23
Đồ án chuyên ngành GVHD: Th.S. Nguyễn Xuân Lô
liệu thường xuyên xảy ra. Những điều đó nếu không được giải quyết tốt sẽ gây ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng tiếng nói nhận được. Đây là vấn đề hết sức quan trọng
trong công nghệ VoIP.
Ngoài ra mạng IP và mạng chuyển mạch kênh còn có thể giao tiếp với nhau
thông qua Gateway, cho phép một đầu cuối ở mạng này có thể thoại với một đầu
cuối của mạng kia (hình 2.2), mà vẫn trong suốt đối với người sử dụng, sự phát
triển này đem lại khả năng tích hợp nhiều dịch vụ của hai loại mạng với nhau.
Hình 2.2: Các Terminal của mạng IP có thể giao tiếp với các Telephone trong
mạng SCN thông qua Gateway.
2.2 Lợi ích của VoIP
Các lợi ích quan trọng nhất do VoIP mang lại là:
 Giảm cước phí truyền thông. Đặc biệt là các cuộc gọi đường dài cũng
như tận dụng hiệu quả hơn tài nguyên giải thông đường truyền. Đây
là yếu tố quan trọng nhất thúc đẩy sự phát triển của công nghệ VoIP.
 Hợp nhất hóa. Hệ thống mạng chuyển mạch kênh rất phức tạp, cần
phải có một đội ngũ nhân viên vận hành và giám sát hoạt động của
nó. Với một cơ sở hạ tầng tích hợp các phương thức truyền thông cho
phép hệ thống được chuẩn hóa tốt hơn, hoạt động hiệu quả hơn và
giảm tổng số thiết bị, nhân lực cần thiết. Điều này cũng làm giảm
thiểu sai sót trên hệ thống hiện thời.
 Sử dụng công nghệ thoại trên IP đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho
các nhà truyền tải:
Sinh viên thực hiện: Lương Sơn Hùng – Nguyễn Trí An Trang 24

×