Tải bản đầy đủ (.) (8 trang)

dẫn chương trình Thăng Long 1000 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.15 KB, 8 trang )

DẪN CHƯƠNG TRÌNH HÁT MỪNG CHÀO THĂNG LONG HÀ NỘI TRÒN 1000 TUỔI
Mở đầu chương trình là một ca khúc do Đỗ Văn Dũng trình bày. Ca khúc mang
tựa đề “Hà Nội niềm tin và hy vọng”
Nhiệt liệt chào mừng các thầy giáo, cô giáo cùng toàn thể các em học sinh đến
với chương trình hát mừng Thăng Long Hà Nội tròn 1000 tuổi. Về dự với chương trình
hôm nay, trân trọng giới thiệu thầy Phạm Hòa Bình – bí thư chi bộ, hiệu trưởng nhà
trường; thầy Phan Văn Phược – phó bí thư chi bộ, phó hiệu trưởng nhà trường; thầy Vũ
Đình Nhủ phó hiệu trưởng nhà trường đề nghị chúng ta nhiệt liệt chào mừng. Tham dự
chương trình hôm nay còn có toàn thể các thầy giáo cô giáo trong hội đồng giáo dục
nhà trường và hơn 1000 đồng chí đoàn viên thanh niên trong nhà trường đề nghị chúng
ta nhiệt liệt chào mừng.
Chương trình được thực hiện với mục đích tuyên truyền, giáo dục cho học sinh
biết về truyền thống, lịch sử của Hà Nội. Biết về ý nghĩa của chiếu dời đô và vị vua Lý
Công Uẩn – người có công dời kinh đô từ Cố Đô Hoa Lư của tỉnh Ninh Bình về với
thành Đại La. Từ đó củng cố niềm tự hào dân tộc, tình yêu quê hương đất nước.
Mở đầu chương trình chúng ta sẽ cùng ôn lại không khí cách đây 1000 năm khi
vua Lý Công Uẩn ban chiếu dời đô cùng những nốt thăng, nốt trầm trong bản anh hùng
ca của Hà Nội suốt 1000 năm đã qua
Thăng Long - Hà Nội: Nơi lắng hồn núi sông ngàn năm
Nằm ở phía Tây Bắc của vùng đồng bằng sông Hồng, Hà Nội có vị trí từ 20°53' đến
21°23' vĩ độ Bắc và 105°44' đến 106°02' kinh độ Đông, tiếp giáp với các tỉnh Thái
Nguyên, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Hòa Bình, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hòa Bình, Phú
Thọ. Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, thành phố có diện tích
3.324,92 km2, nằm ở cả hai bên bờ sông Hồng nhưng tập trung chủ yếu bên hữu ngạn.
Những di chỉ khảo cổ tại Cổ Loa cho thấy con người đã xuất hiện ở khu vực Hà Nội
từ cách đây 2 vạn năm, giai đoạn của nền văn hóa Sơn Vi. Thế kỷ III trước Công nguyên,
trong cuộc chiến với quân Tần từ phương Bắc, Thục Phán quyết định đóng đô ở Cổ Loa,
nay là huyện Đông Anh, cách trung tâm Hà Nội khoảng 15 km. Sự xuất hiện của thành Cổ
Loa ghi dấu Hà Nội lần đầu tiên trở thành một đô thị trung tâm về chính trị và xã hội.
Hiếm thấy ở nơi đâu trên đất nước Việt Nam lại có vị trí và địa thế đẹp như ở đất
Thăng long – Hà Nội. Đây là nơi tụ thuỷ, tụ nhân, nơi mà truyền thuyết kể lại rằng có


Rồng bay. Chính vì thế đất đẹp “trời cho” như thế, nên vào mùa hè năm Canh Tuất (năm
1010), vua Lý Công Uẩn đã ban Chiếu dời đô từ Hoa Lư – Ninh Bình về thành Đại La và
đổi tên là thành Thăng Long. Chiếu dời đô có viết “Thành Đại La, ở vào nơi trung tâm
của trời đất, được cái thế rồng cuộn, hổ ngồi. Đã đúng ngôi Nam, Bắc, Đông, Tây, lại
tiện đường nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng. Dân cư
khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng phong phú tốt tươi. Xem khắp đất
Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất
nước, cũng là nơi bậc nhất của các bậc đế vương muôn đời".Nhà vua chọn nơi đây làm
kinh đô của nước Đại Việt, với ý nguyện mong muốn xây dựng kinh đô cho muôn đời
ngày càng phồn thịnh theo thế Rồng bay lên. Và quả thật, tạo hoá đã ban tặng cho nơi đây
có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển văn hoá, kinh tế, chính trị. Điều này đã được
chứng minh trải qua mười thế kỷ.
Trên cơ sở thành Đại La, Vua Lý khẩn trương cho xây dựng quần thể kiến trúc
thành Thăng Long theo kiểu tam trùng thành quách với vòng ngoài là La Thành, vòng
giữa là Hoàng Thành và vòng trong cùng là Cấm Thành. Lúc đầu trong Cấm Thành có
8 điện, 4 cung, trung tâm là điện Càn Nguyên trên núi Nùng (sau đổi tên thành điện
Thiên An), ngoài ra còn điện Long An, điện Long Thụy, điện Nhật Quang, điện Nguyệt
Minh, điện Hàm Quang Năm 1054 đổi tên nước thành Đại Việt. Lý Thái Tổ cho dựng
cung Long Đức ở ngoài Hoàng Thành để Hoàng Thái tử trước khi nối ngôi có điều kiện
gần gũi và hiểu biết dân chúng.
Thăng Long sau khi trở thành kinh đô đã dần xuất hiện rất nhiều phường thủ
công, phố xá, chợ búa. Nhiều bến cảng được hình thành ven sông Hồng và sông Tô
Lịch tạo ra cảnh trên bến, dưới thuyền sầm uất. Ngày nay sau khi khai quật khu vực
Hoàng Thành đã phát hiện thấy nhiều đồ gốm sứ, đất nung với các hình rồng, phượng,
cầm thú, sen, cúc, sóng nước, mây trời , ngói ống, ngói bản, ngói tráng men với
trình độ mỹ thuật vừa cao vừa độc đáo.
Năm 1070 nhà Lý lập Văn Miếu thờ các bậc Tiên Nho và lập Trường Quốc Tử
Giám để đào tạo lớp trí thức đầu tiên cho nước nhà. Năm 1075 triều đình cho mở khoa
thi Nho đầu tiên và trong vòng 138 năm nhà Lý đã tổ chức 6 kỳ thi đại khoa để tuyển
lựa nhân tài. Vương triều Lý mở rộng nhiều quan hệ đối ngoại và kinh đô Thăng Long

đã tiếp kiến nhiều sứ giả phương Bắc và các nước Đông Nam Á. Suốt 215 năm cầm
quyền, nhà Lý đã không để quân xâm lược tiến quân được vào đất Thăng Long thiêng
liêng nhưng đất kinh kỳ vẫn phải hứng chịu nhiều cơn binh lửa, xung đột cung đình và
chiến tranh phe phái.
Năm 1226 nhà Trần thay thế nhà Lý và thiết lập lại được trật tự chính trị-xã hội.
Thăng Long ghi danh 3 lần đại thắng quân Nguyên Mông (1258, 1285 và 1288). Nhà
Trần trị vì được 175 năm thì lâm vào suy thoái.
Năm 1397 Hồ Quý Ly cho xây dựng Tây Đô ở Thanh Hóa và đổi tên Thăng
Long thành Đông Đô. Dù vậy Đông Đô tuy không có vua quan triều thần nhưng vẫn là
trung tâm kinh tế lớn nhất của đất nước. Nhà Hồ trị vì được 7 năm thì bị nhà Minh xâm
lược và đô hộ trong suốt 20 năm. Đông Đô bị đổi thành Đông Quan.
Năm 1418 Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa ở Lam Sơn và sau 9 năm kháng chiến,
mùa thu năm 1426 nghĩa quân tiến ra vây hãm thành Đông Quan. Cuối năm 1426
Vương Thông đưa 5 vạn quân sang cứu viện và năm 1427 lại thêm 15 vạn quân nhà
Minh sang cứu giúp Vương Thông. Từ Chi Lăng đến Xương Giang quân Minh bị rơi
vào trận địa mai phục của nghĩa quân Lam Sơn. Liễu Thăng và 10 vạn quân Minh bị
tiêu diệt. Vương Thông ra hàng, lần đầu tiên tại Hội thề Đông Quan tướng lĩnh phong
kiến phương Bắc phải làm lễ thề từ bỏ dã tâm xâm lược và rút quân về nước.
Ngày 29/4/1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, khôi phục lại quốc hiệu Đại Việt và
định đô ở Đông Đô. Đến năm 1430 đổi tên thành Đông Kinh và đến năm 1446 lại đổi
tên tiếp thành Phủ Trung Đô. Dưới triều Lê Thánh Tông đất nước đạt tới đỉnh cao của
một quốc gia phong kiến độc lập.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung phế truất Vua Lê và lập triều Mạc. Trong 65 năm
tồn tại nhà Mạc đã tổ chức được 21 khoa thi, đào tạo được 460 tiến sĩ, trong đó có 11
trạng nguyên nổi tiếng. Các thế lực đối lập lấy danh nghĩa vương triều Lê nổi dậy ở
nhiều nơi. Năm 1545 quyền bính triều Lê Trung Hưng ở trong tay họ Trịnh. Nước ta rơi
vào cảnh Vua Lê-Chúa Trịnh kéo dài suốt từ 1592 đến 1786. Tuy có nhiều biến động
liên tục về chính trị nhưng Thăng Long vẫn là thành thị và thương cảng sầm uất nhất
nước và thuộc vào loại lớn ở châu Á, quan hệ giao thương quốc tế phát triển.
Mùa hè năm 1786 quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy tiến công ra Bắc, sau

khi hạ thành Phú Xuân tiến ra Thăng Long lật đổ chính quyền Chúa Trịnh lập lại nền
thống nhất quốc gia, xóa bỏ tình trạng chia cắt Đàng Trong-Đàng Ngoài kéo dài tới 241
năm. Ngày 22/12/1788, Quang Trung lên ngôi Hoàng đế và xuất quân ra Bắc. Đúng
đêm Giao thừa Tết Kỷ Dậu đại quân Tây Sơn tiến về Thăng Long và sáng mồng 5 Tết
năm ấy (30/1/1789) quân Tây Sơn đại thắng 29 vạn quân Thanh và tiến vào thành
Thăng Long ăn mừng thắng lợi, giải phóng đất nước, chấm dứt nạn xâm lược của
phong kiến phương Bắc.
Năm 1792 vua Quang Trung qua đời. Năm 1801 Nguyễn Ánh đánh chiếm Phú
Xuân và năm 1802 đánh chiếm Thăng Long. Thăng Long được đổi thành Bắc Thành
tổng trấn. Hoàng thành bị phá bỏ và xây nên Trấn Thành hình vuông với chu vi 4km.
Năm 1803, Minh Mạng bỏ các trấn, chia đất nước thành 31 tỉnh trong đó có tỉnh Hà
Nội thay thế cho Thăng Long. Thăng Long không còn 61 phường như thời Trần và 36 phường
như thời Lê mà được chia thành nhiều phường nhỏ và thôn, trại. Danh từ Hà Nội bắt đầu có từ
(1831). Hà Nội có nghĩa là phía trong các con sông, vì tỉnh mới Hà Nội được bao bọc bởi 2
con sông: sông Hồng và sông Đáy.
Năm 1835 Minh Mạng cho hạ thấp tường thành Hà Nội xuống chỉ còn 3m. Năm
1848 Tự Đức phá dỡ cung điện trong thành Hà Nội mang các đồ chạm trổ quý giá về
xây dựng kinh thành Huế. Nhà Nguyễn cho xây Khuê Văn Các ở khu Văn Miếu, dựng
chùa Báo Ân, sửa đền Ngọc Sơn, đình Trấn Bá, cầu Thê Húc, đài Nghiên, tháp Bút để
biểu dương truyền thống văn hiến của Thăng Long. Hà Nội vẫn tiếp tục là trung tâm
văn hóa-kinh tế lớn nhất đất nước.
Năm 1858 thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta và bắt đầu hai lần tấn công
đánh chiếm thành Hà Nội. Tổng đốc Hoàng Diệu đã tuẫn tiết vì không giữ được thành
Hà Nội. Năm 1883 nhà Nguyễn công nhận sự đô hộ của Pháp trên toàn cõi Việt Nam.
Hà Nội trở thành một thành phố theo chế độ nhượng địa. Thành cổ Hà Nội bị phá để
xây các khu nhà binh, các công sở. Điện Kính Thiên bị phá hủy để làm Sở chỉ huy pháo
binh Pháp. Nhiều khu phố Tây được hình thành. Nhiều công trình được xây dựng theo
phong cách châu Âu như Phủ Toàn quyền, Phủ Thống sứ, Nhà hát Lớn, Nhà thờ Lớn,
Ngân hàng Quốc gia, nhà Bưu điện, ga Hà Nội, Trường Viễn Đông Bác Cổ Vào năm
1921, toàn thành phố Hà Nội có khoảng 4.000 dân châu Âu và 100.000 dân bản địa.

Suốt 80 năm dưới sự đô hộ của thực dân Pháp, nhân dân ta đã nhiều lần phản
kháng mãnh liệt và xuất hiện rất nhiều anh hùng dân tộc. Tại Hà Nội các cuộc đấu tranh
của công nhân, nông dân, trí thức liên tục nổ ra thông qua việc thành lập các hội ái hữu,
các nghiệp đoàn, các cuộc biểu tình, đình công Thực dân Pháp đã ra tay đàn áp và tính
đến cuối năm 1939 hầu hết các tổ chức cách mạng ở Hà Nội đều bị tổn thất nặng nề.
Tháng 9/1940 phát xít Nhật kéo quân vào Hà Nội. Ngày 9/3/1945 Nhật đảo
chính Pháp và đến ngày 15/8/1945 Nhật đầu hàng quân Đồng minh. Chớp đúng thời cơ
quân dân ta đã đứng lên thực hiện cuộc Tổng khởi nghĩa mà tiêu biểu là cuộc tuần hành
của nhân dân Hà Nội vào ngày 17/8/1945 và cuộc mít tinh khổng lồ tại quảng trường
Nhà hát Lớn vào ngày 19/8/1945. Cách mạng tháng Tám thành công rực rỡ và ngày
2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn
độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau cuộc Tổng tuyển cử ngày
6/1/1946 Quốc hội tại phiên họp đầu tiên đã quyết định Hà Nội là Thủ đô của cả nước.
Ngay sau khi giành được độc lập, tự do, Hà Nội và cả nước phải gánh chịu muôn vàn
khó khăn bởi thù trong, giặc ngoài và nạn đói lịch sử. Riêng nhân dân Thủ đô đã đóng
góp cho Tuần lễ vàng hơn 2.000 lạng vàng và 100 tấn thóc cứu đói. Ngày 19/12/1946
Hồ Chủ tịch ra Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi thiêng liêng
ấy, nhân dân Hà Nội đã nhất tề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” và 60 ngày đêm
quân dân Thủ đô đã chiến đấu anh dũng để tạo điều kiện cho các lực lượng cách mạng
rút lên căn cứ địa Việt Bắc và bắt đầu cuộc kháng chiến 9 năm trường kỳ và gian khổ.
Sau chiến thắng Điện Biên rực rỡ năm châu, chấn động địa cầu, giặc Pháp đã phải rút
khỏi Hà Nội và kết thúc chiến tranh. Ngày 10/10/1954, Hà Nội rực rỡ cờ hoa đón đoàn
quân tiến về, mở đầu cho một trang mới trong lịch sử.
Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1960-1965) đang được thực hiện thì đế quốc Mỹ
mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. Hà Nội cùng nhân dân cả nước chuyển sang
thời kỳ vừa chống Mỹ cứu nước, vừa xây dựng và bảo vệ miền Bắc, góp phần giải
phóng miền Nam. Giai đoạn này thế hệ chúng ta đều chứng kiến. Ngày 2/9/1969 Hồ
Chủ tịch từ trần. Hơn 10 vạn nhân dân Thủ đô đã đến quảng trường Ba Đình đau xót
tiễn đưa Người và sau đó Đảng và Nhà nước đã quyết định xây lăng để bảo quản vĩnh
viễn thi hài Người.

Sau 12 ngày đêm chiến đấu ác liệt, Thủ đô chúng ta đã lập nên kỳ tích Điện Biên
Phủ trên không, đánh bại cuộc tập kích bằng máy bay B52 của Mỹ vào tháng 12/1972,
góp phần buộc Mỹ ký Hiệp định Paris để cút khỏi Việt Nam (1973). Hàng chục vạn
thanh niên Hà Nội đã lên đường vào Nam cùng đồng bào cả nước thực hiện lời tiên
đoán thiêng liêng của Hồ Chủ tịch là đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào và ngày
30/4/1975, đất nước đã hoàn toàn thống nhất.
Tháng 4/1976 Quốc hội chung của cả nước đã quyết định Hà Nội là thủ đô của
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong công cuộc xây dựng Thủ đô sau ngày thống nhất, Hà Nội đã lớn lên từng
ngày. Để xứng đáng là một đô thị văn minh, hiện đại, xứng đáng là thủ đô của một quốc
gia trên 100 triệu dân trong thế kỷ XXI, ngày 29/5/2008, Quốc hội đã ban hành Nghị
quyết số 15/2008/QH12 về việc mở rộng địa giới hành chính của Thủ đô Hà Nội với
diện tích rộng tới 3.324,92 km2, là một trong những thủ đô lớn nhất thế giới, chỉ sau
Tokyo và Bắc Kinh (Matxcơva 1.081 km2,

London 1.706,8 km2).
Trải qua 1000 năm, Kinh đô của Đại Việt xưa và Thủ đô của Việt Nam nay đã
khoác trên mình những niềm kiêu hãnh: “Thăng Long Hà Nội 1000 năm văn hiến”,
“Thủ đô Hà Nội, trái tim của cả nước”, “Hà Nội - lương tri, phẩm giá loài người”,
“Hà Nội - thành phố vì hòa bình”, “Hà Nội - thành phố anh hùng”. Người Việt Nam
dù ở đâu, dù đi khắp bốn phương trời, nhưng vẫn nhớ về Hà Nội, Hà Nội cổ kính ngàn
văn hiến, Thủ đô yêu dấu đó từng làm nên những chiến tích huy hoàng 1000 năm lịch
sử; và hôm nay người Việt Nam mong muốn cháy bỏng sớm tạo ra một Hà Nội bề thế,
văn minh, hiện đại, năng động và có đầy đủ sức mạnh về chính trị, kinh tế, văn hóa,
khoa học kỹ thuật, an ninh quốc phòng, xứng tầm Thủ đô của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, sánh vai cùng Thủ đô cùng các cường quốc trên thế giới.
Hà Nội hôm nay và ngày mai của một ngàn năm Thăng Long. Gió đang chở mùa
qua chậm rãi, hương hoa - hương lá ngập tràn các phố. Hà Nội như cựa mình trong
dòng chảy quyện ấy “Ai về Bắc ta đi với;Thăm lại non sông giống Lạc Hồng;Từ độ
mang gươm đi mở cõi;Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long”.Lời thơ da diết và

hùng tráng đậm chất sử thi của nhà thơ Huỳnh Văn Nghệ như bao quát được tình
cảm của nhiều thế hệ suốt chiều dài lịch sử cũng như chiều sâu của cảm xúc.
Đại thi hào Nguyễn Du phác họa thành Thăng Long vào những năm cuối đời:
Sông Lô núi Tản y nguyên
Bạc đầu còn được ngắm nhìn Thăng Long
Nhà lớn cũ, đường cái chồng
Một tòa thành mới, dấu cung xưa mờ
Cao Bá Quát lý giải sâu xa nguyên cớ vì sao không gian thành Thăng Long trở
thành nguồn cảm hứng vô tận cho thi ca:
Mạn Bắc đồng hợp núi liền
Phía Nam mây tản nhập miền hoang vu.
Thế hùng Long đỗ trời cho
Hoa đào sóng cuốn đất phô đỏ ngời
Ý kim cổ núi sông khơi
Thân này sao hóa ra người làm thơ.
Có người nói Ở nơi này, con người ta không thể không lương thiện.Quả thật
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
Tôi xin mượn lời phần tổng kết về Thăng Long Hà Nội như sau
Thăng Long – Hà Nội là một trong những Thủ đô lâu đời nhất trên thế giới, với bề dày nghìn
năm lịch sử, qua bao biến thiên trọng đại có tầm quyết định đến vận mệnh dân tộc, nên càng
được bồi đắp thêm về tầm cao và thế đứng.Thăng Long – Hà Nội luôn nhận thức được vai
trò và sứ mệnh của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng con người
thanh lịch, văn minh xứng đáng với niềm tin của đồng bào cả nước, xứng đáng với sự kỳ
vọng của bạn bè quốc tế
Tiếp theo chương trình chúng ta sẽ đến với ca khúc mang tựa đề “Hà Nội mùa
này vắng những cơn mưa” do một ca sĩ có rất nhiều triển vọng đến từ chi đoàn 10 B5
trình bày. Xin nổ một tràng pháo tay để đón chào Thanh Thảo với ca khúc Hà Nội mùa

này vắng những cơn mưa
Tiếp nối chương trình sẽ là phần xem hình đoán chữ. Ban tổ chức chương trình
sẽ mời 1 đồng chí đoàn viên thanh niên lên, lựa chọn đáp án, sau đó có 2 phút để mô tả
đáp án bằng hình ảnh lên trên bảng phóc. Khi người chơi hoàn thành xong phần thi của
mình, các đồng chí phía dưới có cơ hội trả lời đáp án. Nếu trả lời đúng, hai người tham
gia sẽ nhận được phần thưởng từ ban tổ chức của chương trình. (Mời 01 thí sinh lên
chọn đáp án – Chùa một cột – giải nghĩa)
Tiếp theo chương trình sẽ là phần thi hát về Hà Nội. Ban tổ chức mời 6 thí sinh,
đại diện cho 3 khối, mỗi khối 2 thí sinh tham dự. Các thí sinh sẽ cùng thi hát về chủ đề
Hà Nội theo thứ tự. Trong bài hát phải có từ Hà Nội. Thí sinh không hát được, hoặc hát
vào bài hát đã được các thí sinh khác trình bày, thí sinh đó sẽ phải dời cuộc chơi. Và
ngày bây giờ, rất cần những cánh tay tham dự chương trình của các bạn (mời 02 thí
sinh của khối 10, 02 thí sinh của khối 11 và 02 thí sinh của khối 12)
Và kết thúc chương trình Hát mừng Hà Nội tròn 1000 tuổi hôm nay, chúng ta
cùng đến với một giọng ca vừa lạ, vừa quen, vừa trầm ấm, vừa thánh thót, vừa âm
vang, vừa trầm bổng, vừa trẻ trung giàu sức sống, vừa vang vọng sâu sa. Vâng, xin
một tràng pháo tay thật lớn đón chào giọng ca đặc biệt của chúng ta: thầy Phan Văn
Phược với bài hát “Bài ca Hà Nội”

×