Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Tình hình tỷ giá hối đoái và lạm phát tại việt nam giai đoạn 2010 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.43 KB, 38 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 3
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 5
1.1 Một số lí luận cơ bản về tỷ giá hối đoái 5
1.1.1 Khái niệm và cơ chế xác định tỷ giá 5
1.1.1.1 Khái niệm 5
1.1.1.2 Cơ chế xác định tỷ giá 5
1.1.2 Phân loại tỷ giá hối đoái 6
1.1.3 Vai trò của tỷ giá hối đoái đối với nền kinh tế mở 7
1.1.4 Các nhân tố tác động đến tỷ giá 7
1.2 Một số lí luận cơ bản về lạm phát 9
1.2.1 Khái niệm về lạm phát 9
1.2.2 Phân loại lạm phát 9
1.2.3 Tác động của lạm phát đối với nền kinh tế 11
1.2.4 Nguyên nhân của lạm phát 13
1.2.5 Hậu quả của lạm phát 16
CHƯƠNG 2 18
2.1 Tình hình tỷ giá hối đoái tại Việt Nam giai đoạn 2010-2013 18
2.2 Tình hình lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2010-2013 25
2.3 Mối quan hệ của TGHĐ và LP tại Việt Nam giai đoạn 2010-2013 31
CHƯƠNG 3 34
3.1 Một số kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của chính sách TGHĐ 34
3.1.1 Kiến nghị đối với NHNN và các cơ quan quản lí vĩ mô 34
3.1.2 Kiến nghị đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu 36
3.2 Một số kiến nghị nhằm kiềm chế lạm phát 36
3.2.1 Kiến nghị nhằm kiềm chế lạm phát trong ngắn hạn 36
3.2.1 Kiến nghị nhằm kiềm chế lạm phát trong dài hạn 38
PHẦN KẾT LUẬN…………………………………………………………………… 39
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 1: Lạm phát do cầu kéo


Hình 2: Lạm phát do chi phi đẩy
Hình 3: Diễn biến tỷ giá hối đoái năm 2010
Hình 4: Biến động tỷ giá liên ngân hàng USD/VND trong năm 2011
Hình 5: Tốc độ tăng – giảm tỷ giá VND/USD trong năm 2012 (%)
Hình 6: Diễn biến tỷ giá USD/VND năm 2012
Hình 7: Diễn biến tỷ giá USD/VND trong năm 2013
Hình 8: Diễn biến lạm phát năm 2010
Hình 9: Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng CPI năm
Hình 10: Diễn biến CPI năm 2012
Hình 11: CPI tổng thể và CPI loại trừ yếu tố mùa vụ năm 2013 (%, so với cùng kì)
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHTW: Ngân hàng trung ương
LP: Lạm phát
TGHĐ: Tỷ giá hối đoái
TCTD: Tổ chức tín dụng
BQLNH: Bình quân liên ngân hàng
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách nhập môn tài chính tiền tệ của Sử Đình Thành
2. Sách kinh tế học của Lê Thế Giới (2007)
3. Tiền và hoạt động ngân hàng của Lê Vinh Danh
4. Luậnvăn.net.vn
5. Báo: Kinhdoanh.vnexpress.net
6. www.sbv.gov.vn (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
7. www.doko.vn
Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kì hội nhập kinh tế thế giới thì giá trị thực của đồng tiền ngày càng được
các quốc gia xem trọng, các nước trên thế giới đều mong muốn có được một nền kinh tế

ổn định và phát triển vững mạnh.Nền kinh tế Việt Nam ta cũng không thoát khỏi xu thế
chung càng ngày càng hội nhập với nền kinh tế thế giới. Các vấn đề về hoạt động xuất
nhập khẩu và đầu tư nước ngoài luôn luôn là các chủ điểm trong các cuộc hội thảo kinh
tế. Do đó, cân bằng ngoại tệ của nền kinh tế nâng cao giá trị của đồng nội tệ là vấn đề
đáng quan tâm của các nhà hoạch định. Việc nâng cao vai trò của tỉ giá hối đoái và kiểm
soát được tỉ lệ lạm phát lại hết sức quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu này.
Không chỉ vậy, tỷ giá hối đoái còn là công cụ để các doanh nhân và các nhà kinh tế
phân tích, xác định cho mình đối sách thích hợp trong buôn bán quốc tế. Từ đó tạo nên
khả năng dự trữ ngoại tệ cũng như mở rộng buôn bán ngoại tệ hình thành nên giá cả của
các đồng tiền.
Tùy vào điều kiện xuất phát và đặc điểm phát triển kinh tế của mỗi quốc gia mà xác
định cho mình một chích sách tiền tệ khác nhau, thông qua đó Ngân hàng Trung ương sẽ
thực hiện được chính sách thích hợp đối với thị trường ngoại hối để đạt được mục tiêu
cuối cùng là ổn định giá trị đồng tiền, tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm…Tuy
nhiên muốn đưa ra một chính sách điều hành tỷ giá hối đoái và kiềm chế được lạm phát là
vô cùng khó khăn.
Vì vậy, nghiên cứu về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát trong thời gian
qua và tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng trong thời gian tới, từ đó đề xuất một số giải pháp
nhằm ổn định tỷ giá và kiềm chế lạm phát là hết sức cần thiết.
Do vậy em xin chọn đề tài “Tình hình tỷ giá hối đoái và lạm phát tại Việt Nam giai đoạn
2010-2013” để thưc hiện đề án nhập môn tài chính tiền tệ.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Hệ thống hóa một số vấn đề cơ bản về lý luận chung liên quan đến tỷ giá hối đoái và
lạm phát.
Đánh giá thực trạng chung của tỷ giá hối đoái và lạm phát, mối quan hệ giữa tỷ giá hối
đoái và lạm phát giai đoạn 2010-2013.
Trên cơ sở lý luận đánh giá đúng đắn thực trạng về mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái
và lạm phát, kết hợp với quá trình phân tích và căn cứ vào thực tiễn đề xuất một số giải
pháp ổn định chính sách tỷ giá hối đoái và lạm phát ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

- Đối tượng: Nghiên cứu về tỷ giá hối đoái và lạm phát.
- Phạm vi: Nghiên cứu về tỷ giá hối đoái và lạm phát của Việt Nam giai đoạn 2010-
2013
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp tổng quát là phân tích, tổng hợp, đánh giá dựa trên những lí luận cơ
bản về tỷ giá hối đoái và lạm phát.
- Phương pháp thống kê so sánh và khái quát hóa vấn đề cần nghiên cứu phân tích.
5. Kết cấu của đề án:
Nội dung đề tài gồm ba chương ngoài mở đầu và kết luận:
Chương 1: Một số lý luận cơ bản về tỷ giá hối đoái và lạm phát.
Chương 2: Tình hình mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát tại Việt Nam giai đoạn
2008-2010
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của chính sách tỷ giá hối đoái và kiềm
chế lạm phát ở Việt Nam trong những năm tới
Chương 1: Một số lí luận cơ bản về tỷ giá hối đoái và lạm phát
1.1 Một số lí luận cơ bản về tỷ giá hối đoái.
1.1.1 Một số khái niệm và cơ chế xác định tỷ giá hối đoái.
1.1.1.1 Khái niệm
Trong phạm vi thị trường của một nước, các phương tiện thanh toán quốc tế được mua và
bán trên thị trường ngoại hối bằng tiền tệ quốc gia của một nước theo một tỉ giá nhất định.
Đồng tiền của một nước là công cụ chi trả bắt buộc và chỉ có giá trị lưu thông trên lãnh
thổ nước đó. Vì thế để có thể mua bán, trao đổi hàng hóa và dịch vụ trang trải nợ nần…
giữa các nước, đòi hỏi phải chuyển đổi tiền tệ nước này ra tiền tệ nước khác.
Hối đoái là việc đổi tiền nước này ra tiền nước khác và ngược lại. Muốn đổi tiền phải
căn cứ vào quan hệ tỉ lệ nhất định để chuyển đổi gọi là tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái là
quan hệ so sánh về giá trị (sức mua) giữa các ngoại tệ. Nói cách khác tỷ giá hối đoái là
giá cả của ngoại tệ (giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này thể hiện bằng số lượng tiền tệ
của nước khác).
Có hai phương pháp biểu thị tỷ giá hối đoái:
- Phương pháp thứ nhất: lấy ngoại tệ làm đơn vị so sánh với đồng tiền tệ trong nước

(ngoại tệ/nội tệ). Rất nhiều nước yết giá theo phương pháp này, nên người ta gọi phương
pháp yết giá này là phương pháp yết đa số
1 ngoại tệ = x nội tệ
Vd: Tại Nhật Bản ngân hàng công bố: USD/JPY = 112,34
Tại Singapore ngân hàng công bố: USD/SGD =1,8345
- Phương pháp thứ hai: lấy tiền tệ trong nước làm đơn vị so sánh với tiền tệ nước
ngoài (nội tệ/ngoại tệ). Ít nước yết giá theo phương pháp này nên người ta gọi phương
pháp yết giá này là phương pháp thiểu số.
1 nội tệ = x ngoại tệ
Vd: Tại Anh quốc ngân hàng công bố: GBP/USD = 1,7654
Tại Australia ngân hàng công bố: AUD/USD = 0,7482
1.1.1.2 Cơ chế xác định tỷ giá.
Tùy theo cơ chế của mỗi quốc gia, thì tỷ giá sẽ chia thành những loại như sau:
- Cơ chế thị trường: Tỷ giá cũng là một loại giá cả, nó dược xác định dựa trên các lực
lượng cung cầu nội ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Thị trường ngoại hối là nơi mua
bán trao đổi đồng nội và ngoại tệ.
+ Xuất hiện việc cung tiền của nước A trên thị trường ngoại hối so với đồng tiền nước B
khi người dân nước A mua hàng nhập khẩu hoặc khi người dân nước A đầu tư sang nước B.
Đường cung về tiền có độ dốc dương trong không gian hai chiều giữa tỷ giá và lượng cung
tiền.
+ Xuất hiện về cầu tiền nước A trên B mua hàng xuất khẩu từ nước A hoặc khi người dân
nước B đầu tư sang nước A. Đương cầu về có độ dốc âm trong không gian hai chiều giữa tỷ
giá và lượng cung tiền.
- Cơ chế hành chính: Ở những nước theo đuổi chính sách kiềm chế tài chính và kiểm
soát chặt chẽ nguồn vốn thường đưa ra một mức tỷ giá cố định. Tỷ giá này có thể thay đổi
điều chỉnh song không phải do các lực lượng thị trường quyết định. Nó được ấn định lại khi
các nhà quản trị cần thấy phải thay đổi nó nhằm một mục đích nào đó.
1.1.2 Phân loại tỷ giá hối đoái
- Căn cứ vào phương tiện di chuyển ngoại hối
+ Tỷ giá điện hối (Telegraphic transfer – T/T): là tỷ giá mua bán ngoại hối mà ngân hàng

có trách nhiệm chuyển ngoại hối bằng điện.
+ Tỷ giá thư hối (Mail transfer – M/T): là tỷ giá mua bán ngoại hối mà ngân hàng có
trách nhiệm chuyển ngoại hối đi bằng thư.
- Căn cứ vào chế độ quản lí ngoại hối tỷ giá bao gồm:
+ Tỷ giá hối đoái chính thức: Là tỷ giá do ngân hàng trung ương của mỗi nước công bố.
Tỷ giá này được công bố hàng ngày vào đầu giờ làm việc của ngân hàng trung ương. Dựa
vào tỷ giá này các NHTM, các tổ chức tín dụng sẽ ấn định tỷ giá mua bán ngoại tệ giao ngay,
có kỳ hạn, hoán đổi.
+Tỷ giá kinh doanh: là tỷ giá dùng để kinh doanh mua bán ngoại tệ, tỷ giá này do các
NHTM hay các tổ chức tín dụng đưa ra. Cơ sở xác định tỷ giá này do NHTW công bố xem
xét đến các yếu tố liên quan đến kinh doanh như: quan hệ cung cầu ngoại tệ, tỷ suất lợi
nhuận, tâm lý của người giao dịch đối với ngoại tệ cần mua hoặc bán. Tỷ giá kinh doanh bao
gồm tỷ giá mua và bán.
+Tỷ giá chợ đen (tỷ giá tự do): là tỷ giá được hình thành bên ngoài thị trường chính
thức.
- Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế
+ Tỷ giá séc: là tỷ giá mua bán loại séc ngoại tệ
+ Tỷ giá hối phiếu: gồm
 Tỷ giá hối phiếu trả tiền ngay: là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu trả tiền ngay bằng
ngoại tệ
 Tỷ giá hối phiếu có kỳ hạn: còn gọi là tỷ giá trả sau, là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu
có kỳ hạn bằng ngoại tệ.
+ Tỷ giá chuyển khoản: Là tỉ giá mua bán ngoại hối trong đó việc di chuyển ngoại hối
không phải bằng tiền mặt, mà bằng cách chuyển khoản qua ngân hàng.
+ Tỷ giá tiền mặt: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc chuyển trả bằng tiền mặt.
- Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối
+ Tỷ giá mua: là tỉ giá mà ngân hàng mua vào ngoại hối.
+ Tỷ giá bán: là tỷ giá mà ngân hàng bán ra ngoại hối.
1.1.3 Vai trò của tỷ giá hối đoái đối với nền kinh tế mở.
Tỷ giá có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế. Sự vận động của nó có tác động sâu

sắc tới mục tiêu, chính sách kinh tế vĩ mô của mỗi quốc gia:
- Tỷ giá là phương tiện trao đổi thương mại quốc tế, nó qui định tỉ lệ trao đổi giữa các
loại tiền.
- Tỷ giá tác động trực tiếp tới hoạt động xuất nhập khẩu.Vì vậy nó tác động tới cán cân
thanh toán quốc tế: sự thâm hụt hoặc thặng dư cán cân. Khi đồng tiền của một nước tăng giá
(so với đồng tiền của các nước khác) thì hàng hóa của nước dó ở nước ngoài trở nên đắt hơn.
Ngược lại, hàng hóa nước ngoài ở nươc đó lại rẻ hơn.
- Tỷ giá là công cụ điều tiết vĩ mô, ảnh hưởng đến tổng cầu, sản phẩm quốc dân, thất
nghiệp…Tỷ giá góp phần vào việc cải thiện cung cầu về ngoại tệ, giải quyết vấn đề nợ nước
ngoài. Song việc điều hành tỷ giá không tốt có thể dẫn tới lạm phát, khủng hoảng.
1.1.4 Các nhân tố tác động đến tỷ giá
- Lạm phát: Theo thuyết ngang sức mua thì tỷ giá hối đoái giữa hai đồng tiền sẽ được điều
chỉnh phù hợp với mức giá cả hai nước. Chẳng hạn, khi mức lạm phát trong nước cao hơn
mức lạm phát ở nước ngoài thì nhu cầu về hàng nội địa giảm khiến đồng nội tệ có xu hướng
giảm giá để hàng nội địa có thể bán dược trên thị trường.
- Lãi suất: Tác động tới tỷ giá theo thuyết ngang bằng lãi suất. Thuyết này nói lên rằng
lãi suất thực giữa các nước là bằng nhau, sự khác nhau tạm thời của của lãi suất thực giữa các
nước được bù đắp bởi sự thay đổi trong tỷ giá. Khi lãi suất trong nước tăng so với lãi suất
nước ngoài sẽ dẫn đến nhu cầu đầu tư bằng đồng bản tệ tăng, ngoại tệ giảm, đồng bản tệ có
xu hướng tăng giá và ngược lại.
- Năng suất lao động: Nếu năng suất lao động của một nước cao hơn nước khác sẽ làm
cho giá cả hàng nội địa rẻ hơn so với hàng ngoại. Do vậy, nhu cầu hàng nội địa tăng, đồng
nội tệ có xu hướng tăng giá.
Tình trạng cán cân thanh toán quốc tế của một nước ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ giá thông
qua quan hệ cung cầu. Khi cán cân thanh toán quốc tế thặng dư làm cho dự trữ ngoại tệ tăng,
cung ngoại tệ tăng. Do đó đồng ngoại tệ có xu hướng giảm giá. Ngược lại, cán cân thanh toán
quốc tế bị thâm hụt, nhu cầu ngoại tệ tăng làm cho ngoại tệ có xu hướng tăng giá.
- Thay đổi mức cung tiền: Nếu lượng tiền tăng, về mặt dài hạn giá cả trong nước sẽ tăng,
do đó tỷ giá có xu hướng tăng lên, đồng bản tệ mất giá và ngược lại
- Thuế và Quota: Khi chính phủ đã ra hàng rào thuế quan, sẽ làm cho nhu cầu nhập khẩu

giảm dẫn đến cầu ngoại tệ giảm và ngoại tệ có xu hướng giảm giá
- Sự can thiệp của chính phủ trên thị trường hối đoái: Trong chế độ tỷ giá thả nổi có
quản lý, Ngân hàng trung ương sẽ can thiệp trên thị trường ngoại hối khi tỷ giá có biến động
quá mức để làm thay đổi cung cầu ngoại tệ. Khi ngân hàng trung ương bán ngoại tệ làm cho
cung ngoại tệ trên thị trường tăng, tỷ giá giảm. Ngược lại, khi mua ngoại tệ cầu ngoại tệ tăng,
tỷ giá ngoại tệ tăng lên.
Những can thiệp khác của chính như chính sách đầu tư nước ngoài, chính sách quản lý
ngoại hối cũng tác động đến tỷ giá.
- Yếu tố tâm lý cũng ảnh hưởng đến sự biến động của tỷ giá. Yếu tố này phụ thuộc vào
việc dự đoán sự biến động của tỷ giá trong tương lai. Chẳng hạn, dự đoán USD tăng giá, mọi
người muốn đầu tư USD làm cầu về USD tăng, dẫn đến sự tăng giá của USD thực sự.
1.2 Một số lí luận cơ bản về lạm phát
1.2.1 Khái niệm lạm phát
Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, ở đâu còn sản xuất hàng hóa
còn tồn tại những quan hệ hàng hóa tiền tệ thì ở đó còn tiềm ẩn khả năng xảy ra lạm phát. Vì
thế có rất nhiều quan điểm về lạm phát như sau:
- Nhà kinh tế học Samuelson cho rằng: “Lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và
chi phí tăng – giá bánh mì, dầu xăng, xe ô tô tăng, tiền lương giá đất, tiền cho thuê nguyên
vật liệu sản xuất tăng”. Ông thấy rằng lạm phát chính là sự biểu thị tăng lên của giá cả.
- Còn Milton Friedman lại quan niệm khác :”Lạm phát là việc giá cả tăng nhanh và kéo
dài”.
Một số nhà kinh tế học thuộc phái tiền tệ và phái Keynes đều tán thành ý kiến đó của
Friedman. Họ cho rằng khi thị trường tiền tệ phát triển ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc dân
của mỗi nước thì lạm phát có thể xảy ra ở bất kì thời điểm nào. Nó chính là hiện tượng tất
yếu của tài chính - tiền tệ.
Tóm lại lạm phát có những đặc trưng sau:
- Hiện tượng gia tăng quá mức của lượng tiền có trong lưu thông dẫn đến đồng tiền bị
mất giá
- Mức giá cả chung tăng lên.
Chính vì vậy, khi tính mức độ lạm phát các nhà kinh tế sử dụng chỉ số giá cả. Chỉ số dung

nhiều nhất là chỉ số tiêu dùng CPI (consumer price index). Ngoài ra người ta còn sử dụng các
chỉ số khác nhau như chỉ số giá cả sản xuất, chỉ số “giảm lạm phát GDP”. Ví dụ, nếu GDP
tăng theo mức cố định là 2% và theo mức giá danh nghĩa hiện hành là 5%, nó hàm ý mức lạm
phát trong toàn bộ nền kinh tế là 3%.
1.2.2 Phân loại lạm phát
Các nhà kinh tế có rất nhiều cách phân loại lạm phát nhưng do biểu hiện đặc trưng của
lạm phát là sự tăng lên của giá cả hàng hóa, nên các nhà kinh tế thường dựa vào tỉ lệ tăng giá
để làm căn cứ phân loại lạm phát ra thành ba mức độ khác nhau như sau:
- Lạm phát vừa phải:
Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng chậm ở mức độ một con số hàng năm
(dưới 10% một năm). Lạm phát vừa phải còn được gọi là lạm phát nước kiệu hay lạm phát
một con số. Loại lạm phát này thường được các nước duy trì như một chất xúc tác để thúc
đẩy nền kinh tế phát triển.
- Lạm phát phi mã:
Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức độ hai con số hàng năm (từ 10%
đến 100% một năm). Lạm phát cao còn được gọi là lạm phát phi mã. Thật ra cũng có một số
nhà kinh tế quan điểm cho rằng thuộc loại lạm phát phi mã bao gồm cả lạm phát ở mức độ ba
con số (100%, 200% ) lạm phát phi mã gây ra nhiều tác hại đến sự phát triển kinh tế xã hội.
- Siêu lạm phát
Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức độ ba con số hàng năm trở lên.
Siêu lạm phát này còn gọi là lạm phát siêu tốc. Không có điều gì là tốt khi nền kinh tế rơi vào
tình trạng siêu lạm phát. Người ta thường ví siêu lạm phát như căn bệnh ung thư gây chết
người, có tác hại rất lớn đến nền kinh tế - xã hội. Lịch sử lạm phát của thế giới đã ghi nhận
tác hại của siêu lạm phát xảy ra ở Đức năm 1920-1923, ở Nga sau cách mạng tháng 10, ở
Trung Quốc sau chiến tranh thế giới thứ 2
Ví dụ như ở Đức, từ tháng 1 năm 1992 đến tháng 11 năm 1923 chỉ số giá cả tăng
10.000.000 lần , vào thời kỳ đó một ngân phiếu có giá trị 30 triệu DEM , sau 2 năm 30 triệu
DEM không mua nổi một chiếc kẹo cao su, vì vậy trong một khoảng thời gian ngắn từ năm
1921 đến năm 1923 mà kho tiền của nước Đức tăng 7.000 triệu lần.
Ngoài cách phân loại trên, lạm phát còn được phân loại như sau:

- Căn cứ vào tác động của lạm phát gồm:
+ Lạm phát cân bằng và có thể dự đoán được
+ Lạm phát cân bằng và không thể dự đoán
+ Lạm phát không cân bằng và có thể dự đoán được
+ Lạm phát không cân bằng và không thể dự đoán
- Căn cứ vào nguyên nhân gây ra lạm phát gồm:
+ Lạm phát cầu kéo
+ Lạm phát do chi phí đẩy
Lạm phát siêu tốc gây nên tác hại rất lớn cho nền kinh tế - xã hội, có thể tóm tắt qua một
số điểm chính sau :
- Nền kinh tế bị phá hoại một cách trầm trọng, vì lạm phát gia tăng nên lĩnh vực lưu thông
bành tướng, trên cơ sở sản xuất không phát triển nên đẩy nền kinh tế thị trường đi theo hướng
tiêu cực
- Phá hoại các hoạt động của ngân hàng như : làm tê liệt mạng lưới thanh toán ; giảm số dư
tiền gửi lưu động ; giảm dư nợ tín dụng và các dịch vụ ngân hàng cũng bị ảnh hưởng rất xấu.
- Làm giảm mức thu nhập thực tế của ngân sách nhà nước nên không đảm bảo nhu cầu chi
tiêu trong tài khóa.
- Bần cùng hóa đời sống quần chúng nhân dân lao động, vì người lao động làm công ăn
lương, trong khi tiền lương không tăng hoặc tăng không kịp so với tỉ lệ lạm phát.
1.2.3 Tác động của lạm phát đến nền kinh tế.
Tác động của lạm phát đối với nền kinh tế như thế nào là điều mà mọi giới xã hội luôn
luôn quan tâm. Vì những tác động sau đây
 Lạm phát làm phân phối lại thu nhập và của cải giữa các giai cấp khác nhau
Khi có lạm phát những người có tài sản, những người đang vay nợ là có lợi vì giá cả các
loại tài sản, hàng hóa đều tăng lên còn giá trị tiền tệ lại giảm xuống. Những người làm công
ăn lương chỉ có nguồn thu nhập chính là tiền lương và những người gửi tiền là bị thiệt hại.
Vì vậy để tránh thiệt hại một số nhà kinh tế đưa ra bài tính đơn giản là lãi xuất cần phải
được điều chỉnh cho phù hợp với tỷ lệ lạm phát
Ví dụ: lãi xuất thực tế là 5% năm, tỷ lệ trượt giá là 9% năm thì lãi xuất danh nghĩa phải là
14% năm.

Tuy nhiên một sự điều chỉnh lãi xuất cho phù hợp với tỷ lệ lạm phát chỉ có thể thực hiện
ở mức lạm phát thấp, lạm phát ở mức một con số hàng năm.
Khuynh hướng chung là khi dự đoán có lạm phát người ta thường dự trữ vàng hoặc đầu
tư vào bất động sản hoặc đầu tư các tài sản có giá trị khác.
Nhìn chung những người dự trữ vàng vẫn có lợi nhất vì giá vàng so sánh với các loại
hàng hóa cao cấp như: ô tô, xe máy kể cả các loại hàng hóa thông thường như: gạo, muối,
đường…và ngoại tệ thì không suy giảm chút nào.Vì vậy trong thời kỳ giá vàng xuống mức
thấp họ tăng cường mua vàng và bán ra khi giá vàng được nâng lên. Trong thời kì này những
người gửi tiết kiệm là bị thiệt hại nhiều nhất
Lạm phát với mức độ phi mã hoặc siêu tốc thì nợ nần của chính phủ được giảm bớt, song
chính phủ sẽ bị áp lực chính trị của đông đảo quần chúng, nhân dân lao động bị thiệt hại do
lạm phát xảy ra.
 Tác động của lạm phát đối với phát triển kinh tế và công ăn việc làm.
Đối với nền kinh tế thị trường, khi lạm phát xảy ra cơ bản là có tác động làm tăng trưởng
nền kinh tế và tạo ra nhiều công ăn việc làm. Nhưng trong nền kinh tế bao cấp thì không như
vậy, vì việc sản xuất nhiều hay ít là tùy thuộc vào Nhà nước quy định, giá cả là do Nhà nước
ấn định, nên việc thúc đẩy của lạm phát không làm gia tăng sản xuất. Từ đó khối lượng công
ăn việc làm cũng không tăng thêm, các thành viên trong tuổi lao động của xã hội không có đủ
việc để làm dẫn đến một dạng thất nghiệp trá hình diễn ra khá phổ biến.
Trong nền kinh tế thị trường lạm phát đồng nghĩa với cung tín dụng phát triển nhanh
chóng, các nhà kinh doanh có cơ hội đầu tư thêm, công ăn việc làm cũng tạo ra nhiều hơn.
Nhưng khi lạm phát giảm thì lao động và tư bản bị bỏ không, không sử dụng hết năng lực của
nền kinh tế. Các món nợ của ngân hàng và các chủ nợ khác sẽ dễ dang thu lại trong thời kỳ
lạm phát, nhưng nếu là ngân hàng tư nhân họ sẽ không thiệt hại gì cả. Chỉ có người gửi tiền
mới bị thiệt hại. Hơn nữa nếu là ngân hàng Nhà nước sử dụng nguồn vốn chủ yếu từ ngân
sách, khi lạm phát vốn được cấp sẽ bị giảm dần cùng chiều với tốc độ của lạm phát nên càng
bổ sung vốn thì tốc độ lạm phát sẽ càng tăng lên nhanh chóng.
 Các tác động khác của lạm phát
- Lạm phát cân bằng có dự tính trước: Đây là trường hợp lí tưởng khi giá cả tăng lên 10%
chẳng hạn, thu nhập danh nghĩa cũng tăng lên 10% có nghĩa là lạm phát không ảnh hưởng gì

đến thu nhập, nó không phân phối lại thu nhập. Ở đây Nhà nước dự đoán được thu nhập và
điều chỉnh các chính sách cho phù hợp, người dân cũng vậy họ biết trước được tỷ lệ của lạm
phát và điều chỉnh hành vi kinh tế của mình cho phù hợp.
- Lạm phát không cân bằng: Thực tế là lạm phát thường đẩy các loại chi phí tăng lên, đẩy
thuế tăng lên nghĩa là nó có ảnh hưởng tới thu nhập và sản lượng.
Trong tình hình lạm phát phát triển mạnh, giá cả tăng lên thường không giống nhau ở: tỷ lệ,
các khu vực, các địa phương…Có nghĩa là các thông tin về giá cả sẽ không chính xác, quá
trình mua bán trở nên hỗn loạn, vì mọi người luôn muốn tìm đến nơi có giá thấp. Nếu lạm
phát là không cân bằng và không dự đoán trước được nó có tác hại về cả mặt hiệu quả, cả về
mặt phân phối lại thu nhập quốc dân.
1.2.4 Nguyên nhân của lạm phát
 Lạm phát theo thuyết Keynes (lạm phát do cầu kéo)
Lạm phát do cầu kéo xảy ra khi mức tổng cầu tăng nhanh hơn so với mức cung. Với
đường tổng cung AS, khi tổng đường cầu AD dịch chuyển sang phải (AD
0
-> AD
1
), kéo theo
giá cả tăng lên và lạm phát xảy ra.
Hình 1: Lạm phát do cầu kéo
P LAS SAS Chú thích :
Y: sản lượng
P

AD: tổng cầu
P
0 E
AD
1
LAS: tổng cung dài hạn

AD
0
SAS: tổng cung ngắn hạn
P: giá cả
0 Y
P
Y
1
Y
Có nhiều lý do khác khiến cho tổng cầu tăng lên. Để thấy được vấn đề, chúng ta tách tổng
cầu theo các thành phần chi tiêu trong nền kinh tế:
AD = C + I + G + (X – M)
Trong đó C là chi tiêu của người tiêu dùng, I là đầu tư, G là chi tiêu của chính phủ, X là
xuất khẩu, M là nhập khẩu.
Chi tiêu của Nhà nước tăng thường xuyên cho y tế, giáo dục, quốc phòng, … và do nhu
cầu khếch trương nền kinh tế. Nhà nước chủ trương phát hành tiền vào lưu thông để bù đắp
cho các chi phí nói trên đang bị thiếu hụt.
Như vậy, sự tăng lên của tổng cầu có thể do nhiều nhân tố tác động như cung tiền tệ
tăng, thuế giảm, xuất khẩu ròng tăng,…thông thường vẫn là do các yếu tố sau:
- Do bội chi ngân sách nhà nước thường xuyên và kéo dài.
- Do việc kiểm soát khối lượng tiền trong lưu thông của ngân hàng trung ương không chặt
chẽ, làm cho khối lượng tiền trong lưu thông vượt quá khối lượng tiền cần thiết cho lưu
thông trong một thời gian.
- Do chất lượng tín dụng kém, không thu hồi được vốn, làm mất cân bằng quan hệ tiền -
hàng.Do tiền lương quá cao, tạo sức cầu hàng hóa lớn, vượt quá khả năng cung ứng hàng hóa
của nền kinh tế.
Ngoài ra có thể do các nguyên nhân về tâm lí, như ảnh hưởng của các cuộc khủng
hoảng về chính trị, quân sự, kinh tế, hoặc do thiên tai như động đất, bão, núi lửa, sụt bùn, lở
núi … làm cho dân chúng hoang mang đổ xô đi mua hàng hóa làm sức cầu hàng hóa gia tăng
nhanh chóng kéo giá cả hàng hóa tăng lên.

Bản chất của lạm phát cầu kéo là do nhu cầu hàng hóa tăng nhanh vượt quá khả năng
cung ứng hàng hóa nên kéo giá cả hàng hóa tăng lên.
 Lạm phát do nguyên nhân chi phí đẩy.
Lạm phát do chi phí đẩy (Cost – push inflation) khi chi phí gia tăng một cách độc lập
với tổng cầu. Chúng ta cần lưu ý, chi phí gia tăng trong thời kì bùng nổ kinh tế, nói chung đó
là hiện tượng lạm phát cầu kéo chứ không phải là hiện tượng lạm phát chi phí đẩy. Có thể
xem các trường hợp sau:
- Lợi nhuận: Nếu doanh nghiệp có quyền lực thị trường( độc quyền , nhóm độc quyền) có
thể đẩy giá tăng lên độc lập với tổng cầu để kiếm lợi nhuận cao hơn.
- Nhập khẩu lạm phát:
Trong nền kinh tế toàn cầu các doanh nghiệp phải nhập một lượng không nhỏ nguyên
nhiên liệu từ nước ngoài. Nếu chi phí của những nguyên liệu gia tăng do nhiều nguyên nhân
không thuộc sự kiểm soát trong nước thì khi đó doanh nghiệp phải chấp nhận mua nguyên
liệu với cao. Với các lí do như về tỷ giá hối đoái, thay đổi giá cả hàng hóa, những cú sốc từ
bên ngoài.
- Chi phí tiền lương:
Vấn đề đặt ra là tại sao chi phí sản xuất lại tăng lên? Nhiều nhà kinh tế cho rằng tiền
lương là nguyên nhân đẩy chi phí tăng lên, vì chi phí đầu vào có liên quan đến tiền lương
tăng. Theo các nhà kinh tế học việc đẩy chi phí tiền lương tăng lên là do các công đoàn gây
sức ép đòi tăng lương, giảm giờ làm.Tuy nhiên một số nhà kinh tế khác cho rằng chính công
đoàn ở các nước tư bản đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm giảm tốc độ tăng lạm phát
và giữ không cho lạm phát giảm xuống quá nhanh, vì các hợp đồng tiền lương của các công
đoàn thường là dài hạn và khó thay đổi.
Chúng ta vẫn có thể thấy rằng nếu tốc độ tăng tiền lương nhanh hơn tốc độ của năng suất
lao động sẽ đẩy chi phí sản xuất tăng lên. Có nghĩa là chi phí tiền công trong một đơn vị sản
phẩm tăng lên đã đẩy giá cả hàng hóa tăng lên.
Tuy nhiên nếu tiền lương gia tăng là do áp lực từ quyền lực của công đoàn từ chính sách
điều chỉnh tăng lương của chính phủ. Đó là chi phí đẩy. Đường tổng cung dịch chuyển sang
trái do chi phí tăng (AS
0

->AS
1
), vì thế đẩy giá cả tăng. Chi phí đẩy được minh họa trên hình 2
sau:
Hình 2: Lạm phát do chi phí đẩy
P LAS
SAS
1
P
1
SAS
0
P
0
AD
0
0 Y
1
Y
*
Y
- Thiếu hụt các nguồn tài nguyên:
Một khi các nguồn tài nguyên khai thác bị cạn kiệt không tránh khỏi tình trạng giá cả dần
dần sẽ gia tăng. Điều này làm gia tăng chi phí của doanh nghiệp và đẩy giá cả hàng hóa tăng
lên cho đến khi doanh nghiệp tìm kiếm nguồn lực khác thay thế (nếu có thể).
Trong điều kiện hiện nay, xu hướng tăng giá cả các loại hàng hóa và tiền lương công nhân
luôn luôn diễn ra trước khi nền kinh tế đạt được một khối lượng công ăn việc làm ổn
định.Điều đó có nghĩa là chi phí sản xuất đã đẩy giá cả tăng lên ngay cả trong khi các yếu tố
sản xuất chưa được sử dụng đày đủ. Lạm phát xảy ra như vậy có nguyên nhân là do sức đẩy
của chi phí sản xuất.

 Và nguyên nhân cuối cùng được xét tới đó là lạm phát ỳ:
Một số nhà kinh tế cho rằng : lạm phát ỳ là lạm phát chỉ tăng với một tỷ lệ không đổi
hàng năm trong một thời gian dài.Ở những nước có lạm phát ỳ xảy ra có nghĩa là nền kinh tế
của nước đó có một sự cân bằng trông đợi tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ được trông đợi và được dự
kiến trong các kế hoạch phát triển hàng năm của Chính phủ.
Tỷ lệ lạm phát đó được ngân hàng trung ương, giới Tư bản và cả giới lao động thừa nhận
và phê chuẩn nó. Đó là một sự lạm phát hoàn toàn nằm trong kết cấu biểu hiện một sự cân
bằng trung hòa và nó chỉ biến đổi khi có sự chấn động kinh tế xảy ra (tỷ lệ tăng hoặc giảm ).
Nếu như không có sự chấn động nào về cung hoặc cầu thì lạm phát có xu hướng tiếp tục theo
tỷ lệ cũ.
1.2.5 Hậu quả của lạm phát
Lạm phát để lại hậu quả rất nghiêm trọng cho nền kinh tế, đặc biệt là một số hậu
quả sau:
- Xã hội không thể tính toán hiệu quả hay điều chỉnh các hoạt động kinh doanh một cách
bình thường do tiền tệ không còn giữa chức năng thước đo giá trị hay nói đúng hơn là thước
đo này bị co giãn thất thường.
- Phân phối lại thu nhập làm cho một số người nắm giữ các hàng hóa có giá cả tăng lên đột
biến giàu lên nhanh chóng và những người mà có giá cả không tăng hoặc tăng chậm và người
giữ tiền bị nghèo đi.
- Kích thích tâm lí đầu cơ tích lũy hàng hóa, bất động sản, vàng bạc… gây ra tình trạng
khan hiếm hàng hóa không bình thường và lãng phí.
- Đối với ngân hàng, lạm phát làm cho hoạt động bình thường của ngân hàng bị phá vỡ,
ngân hàng không thu hút được các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội.
- Đối với tiêu dùng: làm giảm sức mua thực tế của nhân dân về hàng hóa tiêu dùng, đời sống
cán bộ công nhân viên ngày càng khó khăn.
- Ngân sách bội chi ngày càng tăng trong khi các khoản thu ngày càng giảm về mặt giá trị.
Chính vì các tác hại trên của lạm phát nên việc kiểm soát lạm phát và giữ lạm phát ở mức
độ vừa phải đã trở thành một trong những mục tiêu lớn của mọi nền kinh tế hàng hóa.Và nó
là một công cụ giúp điều tiết và phát triển kinh tế hiệu quả.


Chương 2: Tình hình tỷ giá hối đoái và lạm phát tại Việt Nam giai
đoạn 2010-2013
2.1Tình hình tỷ giá hối đoái tại Việt Nam giai đoạn 2010-2013
Khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009 và suy thoái kinh tế sau đó đã gây
tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế trong nước, với biểu hiện rõ nét là dòng vốn đầu tư
nước ngoài giảm mạnh, gây áp lực đến lạm phát và tỷ giá, buộc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam (NHNN) phải liên tục điều chỉnh tỷ giá USD trong các năm để ổn định tỷ giá.
Cụ thể qua từng năm như sau:
Đối với năm 2010, được xem là năm có những biến đổi thất thường về tỷ giá nhất
làm cho không riêng các nhà quản lý mà cả ngân hàng, doanh nghiệp và người tiêu dùng
phải chịu ảnh hưởng lớn. Với diễn biến tỷ giá USD/VND năm 2010 thông qua hình 3
dưới đây:
Tháng 1/2010 tỷ giá VNĐ/USD giảm nhẹ, đứng ở mức 18,479 đồng/USD. Sự
giảm giá này của đồng USD là do nguồn ngoại tệ nhiều, xuất phát từ các nguyên nhân
như: nguồn vốn đầu tư nước ngoài (cả trực tiếp và gián tiếp, có vốn hỗ trợ phát triển
chính thức), kiều hối… tăng. Bên cạnh đó các tập đoàn, các tổng công ty lớn của nhà
nước bán ngoại tệ cho ngân hàng.
Đến tháng 2/2010, NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ
mức 17,941 đồng/USD nhằm khuyến khích các tập đoàn, các tổng công ty lớn của nhà
nước bán lại ngoại tệ cho các ngân hàng, cải thiện thị trường ngoại tệ vốn đang căng
Hình 3: Diễn biến tỷ giá hối đoái năm 2010
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Ngân hàng Nhà nước
thẳng. Trước đó NHNN có quyết định giảm mạnh tỉ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ
7% xuống 4% đối với kỳ hạn dưới 12 tháng, từ 3% xuống 2% đối với kỳ hạn trên 12
tháng đã làm tăng nguồn vốn khoảng 500 triệu USD cho các NHTM để vay trên thị
trường. Sau đó, để tăng thêm nguồn cung USD, NHNN quy định mức lãi suất tiền gửi tối
đa bằng USD của các tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng là 1%/năm. Lúc này sự dư thừa
ngoại tệ khiến lãi suất vay vốn bằng VND và USD có sự chênh lệch rất lớn.
Vào tháng 4/2010 tỷ giá trên thị trường tự do lần đầu tiên đã thấp hơn mức tỷ giá
niêm yết của các NHTM, và các tỷ giá do các NHTM luôn thấp hơn mức trần cho phép

của NHNN, đứng ở mức 18,950 – 18.970 đồng/USD.
Trước sức ép của thị trường, tháng 8/2010, NHNN buộc phải tăng tỷ giá bình quân
liên ngân hàng thêm 2.1%, lên mức 18,932 đồng/USD. Chênh lệch giữa tỷ giá chính thức
và tự do vẫn thấp với khoảng 500 VND.
Tới tháng 9/2010, lạm phát bắt đầu tăng nhanh, đi cùng đó là tăng trưởng tín dụng
ngoại tệ tiếp tục bùng nổ, giá vàng thế giới tăng cao tác động tới nhiều mặt, cầu ngoại tệ
lớn cho nhập khẩu, nhập siêu cao, lãi suất huy động tăng cao và hoạt động đầu cơ ngoại tệ
trở nên nổi bật.
Và cuối tháng 11/2010 tỷ giá tăng vọt lên mức 21,380 – 21,450 đồng/USD, thị
trường ngoại hối bắt đầu đón nhận một cơn sốt thực sự của tỷ giá USD/VND trên thị
trường tự do và kéo dài cho đến hết năm. Lúc này, trên thị trường tự do tỷ giá vượt qua
mức 21,500 đồng/USD. Chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự do so với tỷ giá chính thức
đến 10%. Đây là mức lịch sử cao nhất trong thị trường tài chính Việt Nam từ năm 1990.
Tuy nhiên một phần cũng nhờ vào giá vàng (ăn theo giá vàng thế giới và chịu tác
động tâm lý mạnh của người dân) đạt đỉnh điểm 38 triệu đồng/lượng, lãi suất VND (trở
lại ngưỡng 20%/năm của năm 2008) và CPI (bắt đầu tăng tốc từ tháng 9/2010). Sự bất
thường của tỷ giá còn cho thấy sức mạnh của tâm lý yếu tố người dân. Bất chấp sự mất
giá của USD trên thế giới, người dân, doanh nghiệp vẫn nắm giữ USD. Tình trạng đô la
hóa của Việt Nam ngày càng trầm trọng, lúc này khoảng 23%
Tiếp theo là năm 2011, gắn với sự chuyển giao giữa hai nhiệm kỳ Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước. Về hình thức biến động của tỷ giá, năm 2011 được chia thành ba
giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1 : tháng 1 của năm 2011, được bắt đầu từ sự tăng lên của tỷ giá
USD/VND trên thị trường tự do với 21,000 VND/USD. Trước sức ép liên tục về phá giá
VND, nhưng NHNN vẫn tiếp tục kiềm giữ tỷ giá bình quân liên ngân hàng tại mức
18,932 VND/USD trong khi các NHTM niêm yết tỷ giá tại mức trần 19,500 VND/USD.
Diễn biến này khiến cho chênh lệch tỷ giá giữa thị trường chính thức và thị trường tự do
lên tới 1,500 – 1,600 VND (tương đương khoảng 8% so với tỷ giá chính thức). Dựa vào
diễn biến ta có thể thấy được thị trường ngoại hối đang mong NHNN điều chỉnh chính
sách tỷ giá.

Giai đoạn 2: Tháng 2 và tháng 3/2011.
Đến tháng 2/2011, NHNN đã quyết định tăng tỷ giá một cách mạnh mẽ với 9,3%
từ 18,932 lên 20,693 VND/USD và siết chặt biên độ từ 3% xuống còn 1%. NHNN còn
đưa ra cơ chế áp và siết trần lãi suất huy động USD, thực hiện kết nối và mở rộng kết nối,
xử lí loạt giao dịch bất hợp pháp trên thị trường tự do…
Thêm vào đó tín dụng ngoại tệ vẫn tăng cao tạo nguồn cung thương mại từ vốn
chuyển đổi cho thị trường sự chuyển đổi vốn ngoại tệ sang VND cũng có ở các ngân hàng
thương mại khi chênh lệch lãi suất cho vay quá hấp dẫn với khoảng 300% càng tạo cung
cho thị trường…Với chính sách này, NHNN muốn giải phóng áp lực dồn nén quá lớn sau
một thời gian tương đối dài hơn thế nữa còn muốn một bước để nhanh chóng thu hẹp
khoảng cách giữa hai tỷ giá và xóa bớt kỳ vọng sẽ tiếp tục phá giá trong năm 2011 ở giới
đầu cơ, hay trong tâm lí thị trường.
Các biện pháp trên đã có hiệu quả khi vào thời điểm đầu tháng 3/2011tỷ giá giao
dịch trên thị trường tự do liên tục giảm từ 22,000 USD/VND xuống chỉ còn 21,100 –
21,150 USD/VND, đưa chênh lệch tỷ giá chính thức và tự do xuống còn 210 – 250 VND.
Giai đoạn 3 : tháng 4/2011 đến tháng 12/2011, đây là giai đoạn tương đối ổn định
của tỷ giá về sau… Giá USD liên tục giảm chóng mặt, từ 20.590 VND rơi xuống còn
20.409 VND. Lúc này Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước bất ngờ tăng mạnh giá mua vào
USD. Đây chính là điểm đánh giá cho” nửa sau bình yên” của tỷ giá 2011 với câu nói
trọng điểm là “Tỷ giá không tăng quá 1% từ đây đến cuối năm” của tân Thống đốc ngân
hàng Nhà nước
Tuy nhiên, NHNN sẽ khó thực hiện được với cam kết “không quá 1%” của mình
nếu không có sự gia tăng trở lại của dự trữ ngoại tệ trước đó. Từ tháng 4 đến tháng
6/2011, ngân hàng nhà nước liên tục điều chỉnh chính sách kinh tế để hạn chế tình trạng
đô la hóa và bình ổn thị trường ngoại hối như: áp trần lãi suất huy động USD từ 3%
xuống còn 2%, tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi ngoại tệ từ 4% lên 7%. Điều này
sẽ thu hút được nguồn ngoại tệ do người dân nắm giữ, vì điều này giúp người dân nhận
thấy nắm giữ USD không có lợi bằng VND nên có xu hướng bán USD để gửi tiết kiệm
bằng VND, giúp tăng ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
Năm 2012 là năm có nền tỷ giá USD/VND diễn biến ổn định góp phần đem lại

những kết quả tích cực cho sự cân đối kinh tế vĩ mô. Nhìn chung, diễn biến tỷ giá
USD/VND trong năm 2012 có thể chia thành hai giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: từ tháng 1 – 6 /2012, tỷ giá tăng nhẹ. Trong 6 tháng đầu năm diễn
biến tỷ giá VND/USD diễn ra với chiều hướng tăng nhẹ khoảng 0,55%. Tỷ giá bình quân
liên ngân hàng (TGBQLNH) tiếp tục được duy trì ở mức 20,828 VND/USD.
Hình 4: Biến động tỷ giá liên ngân hàng USD/VND trong năm 2011
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Ta có thể thấy vào tháng 2/2012 tỷ giá bình quân mua vào – bán ra trên thị trường
tự do xuống mức thấp hơn tỷ giá niêm yết trên thị trường chính thức
Vào những ngày đầu tháng 6/2012, các NHTM đồng loạt nâng giá bán ra USD.
Lúc này chênh lệch giữa thị trường tự do và tỷ giá giao dịch của NHTM ở mức 20 – 70
VND/1 USD. Vì diễn biến tỷ giá trên thị trường tự do luôn bám sát với tỷ giá giao dich
của NHTM nên sự chênh lệch này là không đáng kể nếu so với năm 2011 (mức chênh
lệch là 1.000 – 2.000 VND/ USD). Tỷ giá giao dịch của ngân hàng thương mại giảm và
dừng ở mức 20,860 -20,920 VND/USD vào thời điểm cuối tháng 6/2012.
Tỷ giá bình quân liên ngân hàng và tỷ lệ mua ngoại tệ của NHNN theo hướng ổn
định, hoạt động mua bán ngoại tệ của NHNN được thực hiện linh hoạt góp phần định
hướng tỷ giá giao dịch của các tổ chức tín dụng, hỗ trợ thanh toán trên thị trường, tăng dự
trữ ngoại hối Nhà nước và góp phần khuyến khích xuất khẩu.
Đồng thời NHNN đã triễn khai các giải pháp hướng tới mục tiêu giảm dần quan hệ
huy động- cho vay ngoại tệ sang quan hệ mua- bán ngoại tệ, giảm tình trạng đô la hóa và
tăng niềm tin vào đồng Việt Nam như: thu hẹp đối tượng được vay ngoại tệ trong nước,
tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng, quy định mức lãi
suất huy động vốn tối đa bằng đôla Mỹ của các tổ chức kinh tế và cá nhân tại tổ chức tín
dụng, ban hành thông tư mới quy định việc mua, bán ngoại tệ của một số Tập đoàn,Tổng
công ty nhà nước…
Hình 5: Tốc độ tăng - giảm tỷ giá VND/USD trong năm 2012 (%)
Nguồn: Tổng cục thống kê
Giai đoạn 2 : Từ tháng 7 – 12/2012, tỷ giá VND/USD có xu hướng duy trì ở mức
độ ổn định và giảm dần

Tháng 8/2012, tỷ giá giao dịch trên thị trường tự do có tăng nhẹ và kéo dài khoảng
cách chênh lệch với tỷ giá giao dịch của các NHTM ở mức gần 70 VND/1USD, nhưng
sang tháng 9/2012 bắt đầu xu hướng giảm dần đều cho tới cuối năm 2012 khi xoay
quanh mức 20.850-20.870 VND/1USD. Tỷ giá BQLNH vẫn được duy trì một đường kẻ
thẳng kể từ tháng 11/2011 cho đến nay
Tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại không còn biểu hiện căng thẳng
luôn ở sát mức trần như giai đoạn trước.
Năm 2012, tỷ giá USD/VND diễn biến ổn định, tỷ giá BQLNH liên tục duy trì ổn
định ở mức 20.828VND/USD và dao động trong biên độ cho phép +1%/-1%.Tỷ giá bình
quân niêm yết mua vào-bán ra của các NHTM phổ biến ở mức 20.855-20.903 VND/USD.
Các TCTD chấp hành tốt các quy định về mua bán ngoại tệ, tâm lý thị trường ổn định
hơn, các nhu cầu ngoại tệ cấp thiết đã được đảm bảo.
Tất nhiên, một yếu tố khác cực kỳ quan trọng chính là giảm tổng cầu, đã góp phần
làm cho tỷ giá yên ổn hơn. Trong điều kiện kim ngạch xuất khẩu đạt 114,6 tỷ USD trong
khi kim ngạch xuất khẩu chỉ 114,3 tỷ USD cộng với lượng kiều hối ước khoảng 10,5 tỷ
USD và một số lợi thế khác, lần đầu tiên kể từ năm 2007 cán cân thanh toán tổng thể đã
thặng dư 10 tỷ USD.
Hình 6: Diễn biến tỷ giá USD/VND năm 2012
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Bước sang năm 2013, NHNN tiếp tục quản lý thị trường ngoại hối và điều hành tỷ
giá chặt chẽ theo tín hiệu thị trường, phù hợp với các cân đối vĩ mô và cán cân thanh toán
quốc tế, thực hiện các biện pháp tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước và chống đôla hóa. Nhờ
đó thị trường ngoại tệ 8 tháng đầu năm giữ được sự ổn định, tỷ giá giao động trong biên
độ cho phép.
Vào tháng 4/2013, một số ngân hàng thương mại đã nâng giá USD lên 21,036
VND/USD, lúc này giá bán USD trên thị trường tự do lên đến 21,320 VND. Cũng trong
thời gian này lãi suất tiền gửi VND tiếp tục giảm, tuy nhiên người dân vẫn có lợi khi gửi
VND hơn là USD.
Tháng 6/2013, NHNN đã điều chỉnh tỷ giá BQLNH thêm 1% lên mức 21,036
VND/USD, điều này cho thấy quyết tâm ổn định tỷ giá. Lúc này nhu cầu USD tại các

NHTM bắt đầu giảm dần và giá USD trên thị trường tự do phổ biến ở mức 21,180 –
21,200 VND.
Vấn đề tỷ giá năm 2013 NHNN đã điều chỉnh 1% tỷ giá, còn 1% nữa NHNN cho
phép thị trường tự điều chỉnh. Tuy nhiên lúc thị trường điều chỉnh cao nhất cũng chỉ 0,5%
- 0,7% mà thôi. Điều chỉnh đó có nghĩa chính thị trường đang tự điều chỉnh, còn NHNN
chỉ mới điều chỉnh một lần là 1%. Cụ thể như hình 7 sau:
Hình 7: Diễn biến tỷ giá USD/VND trong năm 2013
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Năm 2013, NHNN đã hoàn thành sứ mệnh trong việc quản lý thị trường vàng, bao
gồm ổn định được giá vàng. Không còn các cơn sốt về giá vàng nhu năm 2012. Bên cạnh
đó là chống vàng hóa triệt để, thể hiện ở chỗ đóng trạng thái vàng ở các NHTM, chấm dứt
không còn huy động và cho vay vàng, nghĩa là bước vào 2013 NHNN đã loại bỏ đươc
nhiều rủi ro của khủng hoảng. cụ thể như thanh khoản của các NHTM được đảm bảo, lạm
phát được kéo từ 18% xuống khoảng 7%. Duy trì được tỷ giá ổn định lãi suất cũng giảm
từ 20% xuống còn 10%, dữ trữ ngoại tệ từ 7 tỷ USD năm 2008 đến nay lên 218 tỷ USD,
tạo lập cán cân thanh toán thặng dư và dự kiến năm 2014 trên 5 tỷ USD.
2.2Tình hình lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2010-2013
- Diễn biến lạm phát năm 2010.
Năm 2010, lạm phát cả nước ở mức 11,75% do chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng
12/2010 của cả nước tăng 1,98%, qua đó đẩy mức lạm phát của cả nước năm 2010 lên
11,75% so với 2009. Con số này vượt gần 5% so với chỉ tiêu được Quốc hội đề ra hồi đầu
năm (khoảng 8%).
Trong khi đó,nếu tính bình quân theo từng tháng (cách tính mới của Tổng cục
thống kê) thì lạm phát năm 2010 tăng 9,19% so với 2009.
Hình 8: Diễn biến lạm phát năm 2010
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Ta có thể thấy lạm phát tăng cao trong các tháng đầu năm và cuối năm, mức tăng
có độ chênh lớn, tháng cao nhất so với tháng thấp nhất lệch nhau tới 1,5%.
+ Ba tháng đầu năm CPI tăng cao, các mức CPI hai tháng đầu đều trên 1% và tiến
gần 2%. Tuy nhiên vào tháng 3/2010 chỉ số tiêu dùng CPI lại giảm mạnh xuống dưới 1%.

+ Nhưng sau đó từ thánh 4/2010 đến tháng 8/2010, có liền 5 tháng tăng thấp về
gần mức 0% (tháng 7/2010 chỉ tăng 0,06% so với tháng 6/2010). Mức tăng này lập kỉ lục
về độ thấp kể từ 2004 đến nay. Điều này cũng nhờ vào sự điều tiết có hiệu quả của chính
sách vĩ mô.
+ Sau đó lại vượt lên trên 1% trong 4 tháng còn lại của năm. Các tháng từ tháng 9
đến tháng 11/2010, mức tăng đều đạt mức kỉ lục của 15 năm trở lại đây.
Tính chung CPI năm 2010, CPI giáo dục tăng mạnh nhất gần 20%. Tiếp đó là hàng
ăn (16,18%), nhà ở - vật liệu xây dựng (15,74%). Các nghành giao thông, hàng hóa và
dịch vụ khác, thực phẩm đều ở mức tăng trên 10%. Bưu chính viễn thông là nhóm duy
nhất giảm giá với mức giảm gần 6% trong năm 2010. Chỉ số giá vàng tăng 36,72%, chỉ số
giá USD tăng 7,63%. Về CPI của các vùng miền, đáng chú ý là chỉ số CPI khu vực nông
thôn tháng 12 tăng 2,04% cao hơn 1,87% của khu vực thành thị.
Có thể tóm tắt các yếu tố tác động đến lạm phát từ 3 nguyên nhân chính sau đây:
cung tiền tăng quá mức (từ năm 2000 đên 2009, tín dụng trong nền kinh tế tăng hơn 10
lần, cung tiền M2 tăng lên 7 lần, trong khi đó GDP thực tế chỉ tăng lên 1 lần. đều này tất
yếu dẫn đến đồng tiền bị mất giá và dẫn đến lạm phát). Giá hàng hóa thế giới tăng cao đột
ngột:, và sức cầu về hàng hóa trong nước tăng trong khi sản xuất chưa đáp ứng kịp.
- Diễn biến lạm phát năm 2011
Tính chung từ đầu năm , lạm phát của cả nước đã tăng 15,68% so với thời điểm
cuối năm 2010. So với cùng kỳ năm ngoái, mặt bằng giá hiện tại cao hơn 23,02%. Lạm
phát của nước ta đã có xu hướng tăng đáng kể từ đầu năm.
+ Chỉ số giá tiêu dùng CPI tăng mạnh từ tháng 1/2011 với 1,87% so với tháng
trước và đã tăng 1,74% so với tháng 12/2010, đỉnh điểm là 3,32% vào tháng 4/2011.
Thời gian tiếp theo chỉ số CPI có xu hướng giảm khi các thời điểm tháng 5/2011, tháng
6/2011, tháng 7/2011 có giá trị lần lượt so với tháng trước là 2,21%, 1,09%, 1,17%. Đặc
biệt với hai tháng 8, 9/2011 con số này đã giảm xuống dưới 1% hạn chế sử dụng sự tăng
trưởng của lạm phát.
+ Đỉnh cao của lạm phát năm 2011 rơi vào tháng 4/2011 với tỷ lệ 9,64% so với
cuối năm 2010, vượt xa ngưỡng 7% mà chính phủ đặt làm mục tiêu cho cả năm vào thời
điểm đó. Nếu so với cùng kỳ năm ngoái lạm phát đã tăng 17,51% cao hơn mức đỉnh lạm

phát 16% mà ngân hàng Phát triển Á châu đưa ra cho Việt Nam. Nhóm hàng và dịch vụ
giao thông tăng giá mạnh tới 6,04%

×