Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

4 CÂU HỎI ÔN TẬP TRIẾT HỌC CAO HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.28 KB, 12 trang )

4 CÂU HỎI ÔN TẬP TRIẾT HỌC
Thời gian làm bài 120 phút, học viên được sử dụng tài liệu và tư liệu của đồng nghiệp.
Câu 1: Phân tích thực chất cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ănghen thực hiện?
1. Vấn đề cơ bản của triết học
Triết học là hệ thống những quan điểm chung về thế giới, nó xuất hiện vào thời kỳ phát sinh và phát
triển của xã hội chiếm hữu nô lệ ở thời cổ đại, vào khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước công nguyên
với những thành tựu rực rỡ trong các nền triết học cổ đại ở Trung Quốc, ấn Độ và Hy Lạp.
Trong gần 3000 năm tồn tại và phát triển, triết học có nhiều trường phái và hệ thống khác nhau. Các
hệ thống và trường phái đó phản ánh trình độ phát triển về kinh tế – xã hội, chính trị và trình độ phát triển
của các tri thức khoa học tự nhiên của các nước. Lẽ đương nhiên, sự phản ánh đó tuỳ thuộc vào lập trường
của các giai cấp nhất định.
Khi nghiên cứu các hệ thống, các trường phái triết học, chủ nghĩa Mác cho rằng, vấn đế quan trọng
hàng đầu, “vấn đề cơ bản lớn” hay “vấn đề tối cao” của triết học là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại,
giữa tinh thần và thế giới tự nhiên. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
Thứ nhất, giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau và cái nào quyết định?
Thứ hai, ý thức của chúng ta có thể phản ánh trung thực thế giới khách quan không? Hay nói một
cách khác, con người có khả năng nhận thức thế giới hay không?
Vấn đề quan hệ giữa tồn tại và tư duy hay giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản trong tất cả vấn
đề mà triết học tập trung giải quyết. Bởi vì, một là, đó là vấn đề triết học rộng nhất, chung nhất; hai là, nếu
không giải quyết được vấn đề này thì không thể tiếp tục giải quyết các vấn đề khác, những vấn đề ít chung
hơn; ba là, giải quyết vấn đề này như thế nào sẽ quyết định tính chất của thế giới quan của các nhà triết
học. Và thế giới quan ấy là cơ sở tạo ra phương hướng để xem xét và giải quyết tất cả những vấn đề còn
lại. Các học thuyết triết học được chia thành hai trào lưu cơ bản: duy vật hay duy tâm, điều đó tuỳ thuộc
vào việc giải quyết vấn đề cơ bản này.
Các hệ thống triết học thừa nhận tồn tại, tự nhiên, vật chất là cái có trước; ý thức, tinh thần, tư duy
là cái có sau, đó là chủ nghĩa duy vật. Còn các hệ thống triết học coi ý thức là cái có trước, tồn tại là cái có
sau là trào lưu duy tâm. Việc xem xét và giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là tiêu chuẩn khoa học duy
nhất để xác định các học thuyết triết học đã, đang và sẽ tồn tại là thuộc trào lưu nào: duy tâm hay duy vật.
Các trào lưu cơ bản trong triết học – chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm – luôn luôn đấu tranh
với nhau. Cuộc đấu tranh giữa các trào lưu triết học là biểu hiện về mặt tư tưởng của cuộc đấu tranh giai
cấp và phản ánh tồn tại xã hội của các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội. Thông thường, chủ nghĩa duy


vật là biểu hiện về mặt triết học của hệ tư tưởng các giai cáp và các tầng lớp tiến bộ, các lực lượng xã hội
quan tâm đến sự phát triển xã hội. Chủ nghĩa duy tâm là biểu hiện về mặt triết học của các giai cấp, các
nhóm xã hội bảo thủ, các đảng phái chính trị phản động, không quan tâm đến sự phát triển xã hội. Các nhà
duy vật với tư cách là các nhà tư tưởng của các lực lượng xã hội tiến bộ thường lấy những thành tựu, kết
quả của khoa học tiến tiến mà thực tiễn làm cơ sở cho thế giới quan của mình. Còn các nhà duy tâm luôn
luôn gắn với tôn giáo, củng cố vị trí của tôn giáo bằng những luận cứ triết học duy tâm.
Sự xuất hiện các giai cấp đối kháng và chế độ người bóc lột người, việc tách lao động trí óc khỏi
lao động chân tay là những nguyên nhân xã hội làm cho chủ nghĩa duy tâm xuất hiện. Các đại biểu của các
giai cấp bóc lột, thống trị độc quyền hoạt động trí óc luôn mong muốn tạo ra ấn tượng rằng, dường như lao
động chân tay, hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng lao động là cái thứ yếu, cái phụ thuộc của lao
động trí óc. Họ cho rằng lao động trí óc đóng vai trò chủ yếu trong đời sống xã hội. Sự khẳng định này của
các tư tưởng gia của giai cấp phản động không tránh khỏi dẫn tới chủ nghĩa duy tâm triết học, tới những
mưu toan, luận chứng các hiện tượng tinh thần là cái có trước, các hiện tượng vật chất là cái có sau.
Nguồn gốc ra đời của triết học Mác xít
Triết học Mác (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử) là bộ phận cấu thành và
là cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác, đồng thời là chìa khoá để giải thích trên cơ sở khoa học quá trình phát
triển của tư tưởng nhân loại.
Quê hương của chủ nghĩa Mác là nước Đức. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất ở Anh,
Pháp, Đức và các nước tư bản chủ nghĩa khác đã chứng tỏ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ưu việt
hớn hẳn phương thức sản xuất phong kiến. Song, cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, những mâu
thuẫn giai cấp – xã hội vốn có của bản thân nó cũng nảy sinh và ngày càng bộc lộ gay gắt, trước hết là mâu
thuẫn giữa hai giai cấp vô sản và tư sản. Mâu thuẫn này là biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn cơ bản
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mẫu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá và trình độ phát triển ngày
càng cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Trong thời kỳ này, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản phát triển mạnh mẽ. Cuộc đấu tranh
của giai cấp vô sản ở nhiều nơi đã trở thành cuộc khởi nghĩa với những yêu sách giai cấp rõ ràng. Khởi
1
nghĩa của công nhân Liông (Pháp) năm 1831 và năm 1834, cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở Xilêdi (Đức)
năm 1844, phong trào Hiến chương ở Anh vào cuối những năm 30 đầu những năm 40 của thế kỷ XIX đã
thu hút sự chú ý của các đại biểu tiên tiến của các tầng lớp tri thức tư sản tiến bộ, trước hết là C.Mác và

Ph.Ănghen tới vấn đề nguyên nhân, bản chất của các cuộc đấu tranh giai cấp – xã hội và những triển vọng
của các cuộc đấu tranh giai cấp ấy. Rõ ràng những cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa tiên
tiến ở châu Âu những năm 30-40 của thế kỷ XIX là nhân tố khách quan chứng tỏ rằng đã có những tiền đề
xã hội- giai cấp và những điều kiện để xuất hiện chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử; là chứng cứ để nói rằng nhu cầu xã hội đã chín muồi đề xuất hiện một thế giới quan triết học mới – triết
học mácxít.
Những tư tưởng xã hội trực tiếp xuất hiện trước chủ nghĩa Mác và biểu hiện rõ ràng nhất và kinh tế
chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng pháp, triết học cổ điển Đức. Trong những học thuyết
ấy chứa đựng những giá trị về mặt lịch sử. Đó là, lý luận giá trị lao động của Smith và Ricardo, là những
dự đoán thiên tài của Xanh ximông và Phuriee về một số đặc điểm của xã hội xã hội chủ nghĩa tương lai và
sự phê phán của các ông đối với xã hội tư bản. Đó là phép biện chứng duy tâm của Hêghen và kiến giải
duy vật về vấn đề cơ bản của Triết học trong các tác phẩm của Phoiơbắc. Những học thuyết đó là những
đỉnh cao của sự phát triển tư tưởng lý luận xã hội loài người trong thời kỳ trước Mác. Sự phát triển hơn nữa
về kinh tế chính trị học, lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học và triết học chỉ có thể có được với sự ra đời
của phép biện chứng duy vật. Song, rõ ràng những thành tựu đã đạt tới của nhân loại lại là những tiền đề lý
luận tất yếu về mặt lịch sử và là nguồn gốc của chủ nghĩa Mác nói chung, của triết học mácxít nói riêng.
Vào giữa thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt tời những đỉnh cao trong khoa học tự nhiên. Các nhà khoa
học tự nhiên như R.Maye (Đức), P.P Giulơ (Anh), E.Kh. Lenxơ (Nga), L.A.Cônđinh (Đan Mạch) đã xác
định sự thật về chuyển hoá năng lượng. R.Maye và P.P Giulơ đã nên lên thành định luật bảo toàn và
chuyển hoá năng lượng, đã chứng minh sự phát triển của vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển
biến những hình thức vận động của chúng. Các nhà sinh vật học người Đức như Svan và Slâyđen đã đưa ra
lý luận tế bào, chứng minh rằng các tế bào là cơ sở của kết cấu và sự phát triển của tất cả các cơ thể động
vật và thực vật, và do vậy tìm ra bản chất sự phát triển của cơ thể động vật, thực vật đều là sự phát triển
bằng sự hình thành tế bào.
Nhà khoa học người Anh là Đácuyn cũng đã phát hiện là lý luận duy vật về nguồn gốc và sự phát
triển của các loài thực vật và động vật. Chính định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, lý luận tế bào,
học thuyết về sự xuất hiện và phát triển các loài là tiền đề về mặt khoa học tự nhiên của chủ nghĩa duy vật
biện chứng.
Chủ nghĩa Mác ra đời trong bối cảnh ấy và nó là sản phẩm mang tính quy luật của khoa học và triết
học mà nhân loại đã đạt tới, nó được hình thành như là kết quả của các phát hiện của Mác và Ăngghen về

những quy luật chung nhất của sự phát triển thế giới. Chủ nghĩa Mác do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập là
một học thuyết thống nhất, hoàn chỉnh, gồm ba bộ phận cấu thành: triết học mácxít, kinh tế chính trị học
mácxít và chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Thực chất cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ăngghen thực hiện
Sự hình thành thế giới quan duy vật của Mác và Ăngghen cũng đồng thời là qúa trình nghiên cứu
những cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng của các ông diễn ra trong nửa đầu của những năm 40 thế kỷ
XIX dưới ảnh hưởng trực tiếp của phong trào công nhân và những phát minh về khoa học tự nhiên và khoa
học xã hội, trong quá trình đấu tranh chống phép biện chứng duy tâm của Hêghen và phê phán chủ nghĩa
duy vật siêu hình của Phoiơbắc.
Trong giai đoạn đầu, trước nửa năm sau của năm 1843, Mác và Ăngghen là những nhà biện chứng
duy tâm. Hai ông tiếp nhận phép biện chứng của Hêghen, song có thái độ đối lập với hệ thống siêu hình
của triết học Hêghen và các kết luận chính trị phản động xuất phát từ hệ thống triết học ấy. Quan điểm
chính trị và xã hội của Mác và Ăngghen thời kỳ này là quan điểm dân chủ cách mạng. Song, ngay từ năm
1842, khi Mác còn làm biên tập viên Báo Rainơ tại Côlônhơ và khi Ăngghen đang nghiên cứu tình cảnh
giai cấp công nhân Anh, các ông đã có những biểu hiện chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy
vật, từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản.
Đặc điểm nổi bật trong hoạt động của hai ông khi nghiên cứu các thành tựu của khoa học và triết
học là nghiên cứu một cách có phê phán và sự sáng tạo của các ông là nhằm giải quyết những vấn đề thực
tiễn chính trị – xã hội. Khi Mác làm biên tập viên Báo Rainơ, ông đã bày tỏ ý kiến của mình trên báo trí về
vai trò và ý nghĩa của các lợi ích vật chất trong đời sống xã hội, những vấn đề kinh tế xã hội đặt ra ở tỉnh
Rainơ, về vấn đề sở hữu đất, vấn đề đốn rừng, về thương nghiệp và về thuế quan bảo hộ Nhưng khi sử
dụng phép biện chứng duy tâm và học thuyết về nhà nước và pháp quyền của Hêghen, Mác đã rơi vào tình
trạng khó xử, không giải đáp được các vấn đề của thực tiễn chính trị xã hội đặt ra. Lúc này, chính Mác đã
cảm thấy rằng những lợi ích vật chất của con người trong đời sống xã hội dã đóng một vai trò quan trọng
2
đặc biệt. Mác đã đi tới kết luận rằng, phải nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề kinh tế chính trị và
phải xem xét lại một cách có phê phán những quan điểm triết học và pháp quyền của Hêghen.
Trong thời kỳ công tác tại Báo Rainơ, trong quan điểm của Mác có cả quan điểm của chủ nghĩa xã
hội không tưởng, song, vì chưa đủ những tri thức sâu sắc về những vấn đề đó, nên ông đã không thể bày tỏ
quan điểm của mình về các học thuyết xã hội chủ nghĩa của những người tiền bối.

Sau khi rời ban biên tập Báo Rainơ, Mác hoàn toàn dành thời gian để giải quyết những vấn đề đã
đặt ra cho ông trong thời kỳ công tác tại tờ báo. Ông đã biết một bài luận văn lớn dành cho việc phê phán
triết học pháp quyền của Hêghen. Tháng 10-1843, ông sang Pari, cố gắng nghiên cứu các vấn đề kinh tế –
chính trị học và lịch sử các phong trào cách mạng. Tại đây, ông đã tham gia các cuộc hội họp của công
nhân, đặt mối quan hệ với các nhà lãnh đạo của các tổ chức công nhân bí mật Pháp và Đức. Những năm
1843-1844 là thời kỳ ông chuyển hoàn toàn sang lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
cộng sản. Các bài của Mác đăng trên Niên giám Pháp – Đức mà số đầu xuất bản tại Pari vào tháng 2 –1844
đã thể hiện rõ sự chuyển biến đó. Trong thời kỳ này Mác ở Pari, Ăngghen ở Anh, hai ông độc lập trong
việc nghiên cứu tình cảnh giai cấp công nhân, sống gần gũi với họ, giải thích vai trò lịch sử thế giới của
giai cấp công nhân với tính cách là giai cấp cách mạng triệt để, tiêu biểu cho lực lượng sản xuất mới và
phương thức sản xuất mới trong tương lai, vượt chủ nghĩa tư bản. Trong thời kỳ này, qua nghiên cứu và
thực tiễn, các ông đã khắc phục được phép biện chứng duy tâm, và sự hạn chế của chủ nghĩa duy vật siêu
hình, hình thành những cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Quá trình phát triển thế giới quan của Mác là một quá trình không đơn giản, mà nó được gắn với sự
phát triển của khoa học và thực tiễn chính trị – xã hội. Đó là một qúa trình thống nhất hai mặt, cải biến theo
chủ nghĩa duy vật cái nội dung hợp lý của phép biện chứng duy tâm của Hêghen và giải thích theo phép
biện chứng cách giải quyết duy vật vấn đề cơ bản của triết học, khắc phục phép siêu hình. Đó là một quá
trình đồng thời khắc phục phép biện chứng duy tâm và chủ nghĩa duy vật siêu hình, đặt nền móng cho chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
Triết học của Mác khác về chất với triết học của Phoi ơbắc và Hêghen. Phép biện chứng của
Hêghen là phép biện chứng ý niệm. Hêghen chỉ mới phỏng đoán phép biện chứng của sự vật trong phép
biện chứng của ý niệm. Đối lập với Hêghen, Mác và Ănghen cho rằng phép biện chứng của khái niệm chỉ
là sự phản ánh phép biện chứng của thế giới khách quan trong ý thức của con người. Lời mở đầu tác phẩm
Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen đăng trong Niên giám Pháp - Đức tháng 2 –1844, đã thể hiện rõ
sự chuyển biến của Mác từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng. Mác từng viết: tác phẩm
đầu tiên mà ông dành để giải quyết những nghi ngờ đã có trong ông là sự phân tích có phê phán triết học
pháp quyền của Hêghen. Mác còn viết: nghiên cứu của ông đã dẫn ông đến kết luận rằng, những quan hệ
pháp quyền, cũng như các hình thức nhà nước, không thể hiểu từ bản thân chúng, từ cái gọi là sự phát triển
chung của tình thần con người, mà ngược lại, chúng ta có nguồn gốc từ những quan hệ vật chất của đời
sống.

Cũng trong Lời mở đầu này, Mác đã giải thích trên cơ sở chủ nghĩa duy vật vấn đề nhà nước, pháp
quyền, triết học, tôn giáo. Khác với những nhà triết học trước Mác, ông đã hiểu một cách hoàn toàn mới
những nhiệm vụ của triết học do ông đề ra, ông đã coi triết học là thứ vũ khí để cải tạo thế giới, nó có
nhiệm vụ phục vụ cho thực tiễn đấu tranh chính trị – xã hội. Cung với việc phê phán triết học pháp quyền
của Hêghen, Mác đã phê phán trên quan điểm chính trịt thực tiễn cái mà nhà nước đương thời, cái hiện
thực “tồn tại là hợp lý” của Hêghen, Mác đã kiên quyết phủ định cả cái hình thức đang tồn tại của ý thức
pháp quyền và nền chính trị Đức đang tồn tại lúc đó. Đồng thời, Mác nhấn mạnh đến ý nghĩa to lớn của tư
tưởng tiên tiến trong cải tạo xã hội và nhà nước. Ông chỉ ra sự tất yếu phải phát triển những tư tưởng tiên
tiến trong quần chúng nhân dân, để nó trở thành một động lực thúc đẩy sự tiến bộ xã hội. Luận chứng một
cách duy vật vai trò của lý luận tiên tiến trong mối quan hệ của nó với thực tiễn cách mạng, Mác viết “ Vũ
khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phên phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có
thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó
thâm nhập vào quần chúng”
Ý nghĩa lớn lao của Lời mở đầu trong tác phẩm Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen là ở chỗ,
lần đầu tiên, Mác đã phát biểu với tư cách là nhà các mạng, trực tiếp hướng tới giai cấp vô sản, với tính
cách là lãnh tụ của quần chúng nhân dân, và coi triết học của ông là triết học của giai cấp vô sản, là vũ khí
tư tưởng của cuộc đấu tranh giai cấp vô sản để cải biến cách mạng đối với xã hội. Mác viết: “Giống như
triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khi vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh
thần của mình”
Khi phê phán triết học của Hêghen về mặt nhà nước và pháp quyền, Mác thực hiện một thể nghiệm
đầu tiên đặc biệt có kết quả là mở rộng chủ nghĩa duy vật sang lĩnh vực các hiện tượng xã hội. Lần đầu tiên
trong lịch sử, ông chỉ ra sức mạnh và hiệu lực của phép biện chứng duy vật, là phương pháp tạo ra khả
3
năng phát hiện các quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, cho phép giải quyết một cách triệt để
những nhiệm vụ nhận thức không thể giải quyết được nếu đứng trên lập trường của phép biện chứng duy
tâm, hay đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật siêu hình.
Bởi vậy, ngay trong Lời mở đầu tác phẩm trên, Mác đã bắt đầu nghiên cứu những nguyên tắc của
phép biện chứng duy vật và quan điểm duy vật lịch sử. Đồng thời với Mác, Ăngghen cũng đã nghiên cứu
những nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chứng cứ hùng hồn là bài báo Sơ thảo về phên phán kinh
tế – chính trị học cùng đăng trên Niên giám Pháp - Đức số tháng 2 – 1844. Cuộc gặp gỡ đầu tiên của

C.Mác và Ph.Ăngghen diễn ra vào tháng 11-2842, khi Mác làm biên tập viên cho Báo Rainơ. Tháng 8-
1844, tại Pari, trên đường từ Anh về Đức diễn ra cuộc gặp gỡ thứ hai. Và từ đó, hai ông đã có mối quan hệ
bền chặt, gắn bó trong cả cuộc đời. Từ đó hai ông cùng làm việc để sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sáng tạo ra kinh tế chính trị học mác xít và lý luận của chủ nghĩa xã hội
khoa học.
4. Ý nghĩa
Với sự ra đời của triết học Mác, vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí của triết học trong hệ
thống trị thức khoa học cũng biến đổi.
“Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau song vấn đề là cải tạo thế
giới” Luận điểm đó của Mác nói lên sự khác nhau về chất giữa triết học của ông với các học thuyết triết
học trước kia, kể cả những học thuyết triết học tiến bộ. Tuy vậy, Mác không hề phủ nhận, trái lại Mác đã
đánh giá cao vai trò to lớn trong sự phát triển xã hội. Chẳng hạn, Mác khâm phục và đánh giá rất cao chủ
nghĩa vô thần triết học của các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVII. Song, mặt hạn chế về tính thực tiễn là
“khuyết điểm chủ yếu” của mọi học thuyết duy vật trước Mác nên nó chưa trở thành công cụ nhận thức
khoa học để cải tạo thế giới bằng cách mạng. Nay nó đã được Mác khắc phục, vượt qua và đi tới chủ nghĩa
duy vật lịch sử làm cho chủ nghĩa duy vật trở thành triệt để.
Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, một giai cấp tiến bộ và cách mạng
nhất, một giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân dân lao động và với sự phát triển xã hội.
Sự kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân đã tạo nên bước chuyển về chất của phong
trào, từ trình độ tự phát lên tự giác. Phép biện chứng mác xít mang tính cách mạng sâu sắc nhất “vì trong
quan niệm tích cực về cái hiện tồn, phép biện chứng đồng thời bao hàm cả quan niệm về sự phủ định cái
hiện tồn đó, sự diệt vong tất yếu của nó, vì mỗi hình thái đã hình thành đều được phép biện chứng xét ở
trong sự vận động, tức là xét cả mặt nhất thời của hình thái đó; vì phép biện chứng không khuất phục trước
một cái gì cả về thực chất thì nó có tính chất phê phán và cách mangj”. Sức mạnh “cải tạo thế giới” của
triết học mác xít chính là sự gắn bó mật thiết cuộc đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân đông
đảo, nhờ đó lý luận “sẽ trở thành lực lượng vật chất”
Triết học Mác cũng đã chấm dứt tham vọng ở nhiều nhà triết học duy tâm coi triết học là “khoa
học của các khoa học” đứng trên mọi khoa học. Mác và Ăngghen đã xây dựng lý luận triết học của mình
trên cơ sở khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Theo Ăngghen, mỗi lẫn có
một phát minh vạch thời đại, ngay cả trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, thì chủ nghĩa duy vật không tránh

khỏi phải thay đổi hình thức của nó. Ngược lai, Triết học Mác lại trở thành thế giới quan khoa học và
phương pháp luận chung cần thiết cho sự phát triển của các khoa học. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
ngày nay càng chứng tỏ sự cần thiết phải có tư duy biện chứng duy vật và ngược lại phải phát triển lý luận
triết học của chủ nghĩa Mác dựa trên những thành tựu của khoa học hiện đại.
KẾT LUẬN
Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện chứng trong lịch sử phát
triển của triết học. Mác và Ăngghen đã giải thoát chủ nghĩa duy vật khỏi tính hạn chế siêu hình, Mác đã
làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ
nhận thức xã hội loài người: “Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa
học”
Câu 2: Trình bày nội dung và bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Trả lời: Trang 15-25 sách GK.
1. Nội dung: của CNDVBC với tính cách là hạt nhân lý luận của Thế giới quan khoa học bao
gồm 2 nhóm quan niệm. Đó là nhóm quan niệm duy vật về thế giới nói chung và nhóm duy vật
vầ xã hội nói riêng:
a)Quan điểm duy vật về thế giới:
4
• Tồn tại của thế giới là tiền đề thống nhất thế giới: Trước khi thế giới có thể là một thể thống nhất thì
trước hết thế giới phải tồn tại. Tính thống nhất thật sự của thế giới là ở tính vật chất của nó, tính vật chất
này được chứng minh bằng một sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên.
• Nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới, có nội dung như sau:
Thế giới vật chất tồn tại khách quan, vĩnh viễn, vô hạn, vô tận.
Trong thế giới vật chất chỉ tồn tại các quá trình vật chất cụ thể, có mức độ tổ chức nhất định; đang biến
đổi chuyển hóa lẫn nhau là nguồn gốc, nguyên nhân của nhau; cùng chịu sự chi phối bởi các quy luật
khách quan của TGVC.
Ý thức, tư duy con người chỉ là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao; thế giới thống nhất và
duy nhất.
• Phạm trù vật chất: vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách đượcđem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không phụ
thuộc vào cảm giác.

• Phạm trù ý thức, quan hệ giữa ý thức và vật chất: Ý thức của con người tồn tại trước hết trong bộ óc
con người, sau đó thông qua thực tiễn lao động nó tồn tại trong các vật phẩm do con người sáng tạo ra.
Ý thức gồm nhiều yếu tố: tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí… trong đó tri thức và tình cảm có vai trò rất
quan trọng. Thông qua hoạt động thực tiễn, ý thức con người xâm nhập vào hiện thực vật chất tạo nên
sức mạnh tinh thần tác động lên thế giới góp phần biến đổi thế giới.
b. Quan điểm duy vật về xã hội:
• Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên, nó là kết quả phát triển lâu dài của tự nhiên, có quy luật vận
động, phát triển riêng, sự vận động, phát triển của xã hội phải thông qua hoạt động thực tiễn.
• Sản xuất vật chất là cơ sở đời sống xã hội: Nền sản xuất vật chất trong từng giai đoạn lịch sử gắn liền
với một phương tiện sản xuất nhất định, sự thay đổi PTSX sẽ làm thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội.
• Sự phát triển của xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên, là lịch sử phát triển các hình thái kinh tế xã hội một
cách đa dạng nhưng thống nhất từ thấp đến cao, mà thực chất là lịch sử phát triển của xã hội.
LLSX pt QHSX pt  PTSX pt  (CSHT + KTTT) pt  HTKTXH pt
• Quần chúng nhân dân (QCND) là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử: QCND là lực lượng trực tiếp
sản xuất ra của cải vật chất, sáng tạo ra mọi giá trị tinh thần, quyết định thành bại của mọi cuộc cách
mạng. Vai trò chủ thể QCND biểu hiện khác nhau ở những điều kiện lịch sử khác nhau và ngày càng lớn
dần; sức mạnh của họ chỉ được phát huy khi họ được hướng dẫn, tổ chức, lãnh đạo.
2. Bản chất của CNDVBC:
• CNDVBC đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm thực tiễn: CNDV cũ thiếu quan điểm
thực tiễn, máy móc à không thấy được tính năng động của ý thức; riêng CNDVBC khẳng định vật chất
có trước và quyết định ý thức; trong hoạt động thực tiễn ý thức tác động tích cực làm biến đổi hiện thực
vật chất theo nhu cầu của con người.
• CNDVBC đã thống nhất TGQDV với phép biện chứng: CNDV cũ mang nặng tính siêu hình, PBC được
nghiên cứu trong hệ thống triết học duy tâm à Mác cải tạo CNDV cũ, giải thoát PBC ra khỏi tính thần
bí, tư biện à xây dựng nên CNDVBC; thống nhất giữa TGQDV với PBC.
• CNDVBC là CNDV triệt để; nó không chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên mà còn trong lĩnh vực xã hội.
CNDVLS là cống hiến vĩ đại của C.Mác cho kho tàng tư tưởng của loài người: CNDV cũ không triệt
để; CNDV lịch sử ra đời là kết quả vận dụng CNDV vào nghiên cứu lĩnh vực xã hội, tổng kết lịch sử, kế
thừa có phê phán toàn bộ tư tưởng xã hội trên cơ sở khái quát thực tiễn mới của giai cấp vô sản. Với
CNDVLS nhân loại tiến bộ có được một công cụ vĩ đại trong nhận thức, cải tạo thế giới.

• CNDVBC mang tính thực tiễn - cách mạng, nó hướng dẫn con người trong hoạt động thực tiễn cải tạo
thế giới:
CNDVBC là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản: Lợi ích giai cấp vô sản phù hợp lợi ích nhân loại tiến
bộ, được luận chứng bằng những cơ sở lý luận khoa học à CNDVBC trở thành hệ tư tưởng của giai cấp
vô sản có sự thống nhất tính khoa học và tính cách mạng.
CNDVBC không chỉ giải thích thế giới mà còn góp phần cải tạo thế giới.
CNDVBC khẳng định sự tất thắng của cái mới: nó xóa bỏ cái cũ lỗi thời, xây dựng cái mới tiến bộ.
CNDVBC là một hệ thống mở, là kim chỉ nam cho mọi hành động.
Câu 3: Trình bày những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật và sự vận dụng
những nguyên tắc đó vào sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.
2. Các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật
a. Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn
Trong nhận thức và thực tiễn cần quán triệt quan điểm toàn diện.
5
Với tư cách là một nguyên tắc phương pháp luận trong nhận thức các sự vật, hiện tượng, quan điểm
toàn diện đòi hỏi phải xem xét sự vật như một chỉnh thể của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc
tính, cùng các mối liên hệ của chúng trong bản thân sự vật; mối liên hệ giữa sự vật với các sự vật khác và với
môi trường xung quanh, kể cả các mặt các mối liên hệ trung gian, gián tiếp.
Trong nhận thức, tính toàn diện là yêu cầu tất yếu của cách tiếp cận khoa học, cho phép tính đến mọi
khả năng của vận động có thể có của đối tượng nghiên cứu trong tính toàn vẹn của nó. V.I.Lênin viết:
“muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiêm cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ
và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”; phải tính đến “tổng hoà những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy với
những sự vật khác”. Nghĩa là phải xem xét khách thể trong tất cả những mối liên hệ và quan hệ của nó với
khách thể khác.
Tuy nhiên, theo V.I.Lênin, “chúng ta không thể làm được điều đó một cách hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự
cần thiết phải xem xét tất cả mọi vật sẽ đề phòng cho chúng ta không phạm sai lầm và sự cứng nhắc”. Sở dĩ
chúng ta không làm được điều đó một cách đầy đủ là với hai lý do: một là, sự vật trong quá trình tồn tại phải
trải qua rất nhiều giai đoạn khác nhau, trong mỗi giai đoạn tồn tại và phát triển không phải bao giờ sự vật cũng
bộc lộ tất cả các mối quan hệ và liên hệ của nó cũng như các quan hệ của sự vật với các sự vật khác, hơn nữa tất
cả những mối quan hệ và liên hệ ấy chỉ được biểu hiện ra trong những điều kiện nhất định. Hai là, bản thân

chúng ta, - những chủ thể nhận thức, - những phẩm chất và năng lực của chúng ta luôn bị chế ước bởi những
điều kiện xã hội lịch sử, do đó không bao giờ có thể bao quát được hết những mối liên hệ và quan hệ của sự vật
với các sự vật khác. Ví dụ, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang thực hiện còn
sơ khai, các yếu tố của thị trường mới được tạo lập chưa đồng bộ, các quan hệ thị trường đang trong giai đoạn
hình thành và phát triển, còn đang biến động, do đó, nhận thức về kinh tế thị trường của chúng ta còn chưa đầy
đủ. Do đó quan điểm toàn diện gắn chặt với quan điểm lịch sử -cụ thể.
Tuy nhiên về mặt nguyên tắc, trong những điều kiện cho phép, cần phải nắm được thông tin đầy đủ nhất
về sự vật để có nhận thức toàn diện nhất và đúng đắn nhất về sự vật.
Quan điểm toàn diện còn đòi hỏi để nhận thức được sự vật chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ
với nhu cầu thực tiễn của con người. Cùng một sự vật, xuất phát từ nhu cầu khác nhau chủ thể sẽ phản ánh
những mặt khác nhau của sự vật và do vậy, nó biểu hiện ra là những cái khác nhau.
Mối liên hệ giữa sự vật với nhu cầu của chủ thể rất đa dạng, trong một hoàn cảnh nhất định, con người
chỉ phản ánh một số mối liên hệ xác định của sự vật với nhu cầu nhất định của mình, nên nhận thức về sự vật
cũng mang tính tương đối, không đầy đủ, không trọn vẹn. Nắm được điều đó chúng ta sẽ tránh được việc tuyệt
đối hoá những tri thức đã có về sự vật và tránh xem đó là những chân lý bất biến, tuyệt đối cuối cùng về sự vật,
không thể bổ sung, không thể phát triển.
Xem xét toàn diện tất cả các mặt của những mối quan hệ của sự vật đòi hỏi phải chú ý đến sự phát triển
cụ thể của các quan hệ đó. Chỉ có như vậy chúng ta mới thấy được vai trò của các mặt trong từng giai đoạn
cũng như của toàn bộ quá trình vận động, phát triển của từng mối quan hệ cụ thể của sự vật.
V.I.Lênin viết: “Phép biện chứng đòi hỏi người ta phải chú ý đến tất cả các mặt của những mối
quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó, chứ không phải lấy một mẩu ở chỗ này, một
mẩu ở chỗ kia”.
Như vậy xem xét toàn diện nhưng không bình quân dàn đều mà có trọng tâm, trọng điểm; phải tìm ra vị
trí từng mặt, từng yếu tố, từng mối liên hệ ấy trong tổng thể của chúng; phải từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối
liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát để rút ra cái chủ yếu nhất, bản chất nhất, quan trọng nhất chi phối sự tồn
tại và phát triển của sự vật.
Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện. Quan điểm phiến diện chỉ thấy một mặt mà
không thấy mặt khác, hoặc giả chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét tràn lan, dàn đều, không thấy được
bản chất của sự vật. Quan điểm này cuối cùng rơi vào thuật nguỵ biện và chủ nghĩa chiết trung. Chủ nghĩa
chiết trung cũng tỏ ra chú đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật nhưng lại không biết cách rút ra mặt

bản chất, mối liên hệ căn bản của sự vật, xem xét một cách bình quân, kết hợp một cách vô nguyên tắc các
mối liên hệ khác nhau, tạo thành một mớ hỗn tạp các sự kiện, cuối cùng sẽ lúng túng, mất phương hướng
và bất lực trước chúng.
Trong tác phẩm “Lại bàn về công đoàn ”, V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Sai lầm của Bukharin về mặt lý
luận- trong trường hợp này về mặt nhận thức luận- là đã thay thế phép biện chứng bằng chủ nghĩa chiết
trung”. Điều đó làm cho Bukharin lung túng mất phương hướng và rơi vào chủ nghĩa công đoàn. Còn “Sai
lầm của Trốtxki là tính phiến diện, sự thiên lệch, thổi phồng, ngoan cố”. V.I.Lênin cho rằng: “Nếu cứ giữ
mãi sai lầm đó, thì kết quả không phải là cái gì khác hơn là một thiên hướng công đoàn chủ nghĩa chống lại
chủ nghĩa cộng sản”.
Thuật nguỵ biện cũng để ý đến nhiều mặt nhiều mối liên hệ khác nhau của sự vật nhưng lại đưa cái
không cơ bản thành cái cơ bản, cái không bản chất thành cái bản chất.
6
Cả chủ nghĩa chiết trung lẫn thuật nguỵ biện đều là những biểu hiện của phương pháp luận sai lầm
trong xem xét các sự vật, hiện tượng.
Vạch rõ đặc điểm của chủ nghĩa chiết trung và phép nguỵ biện khác với phép biện chứng, V.I.Lênin
viết: “Tính linh hoạt toàn diện, phổ biến của các khái niệm, áp dụng một cách chủ quan = chủ nghĩa chiết
trung và nguỵ biện. Tính linh hoạt áp dụng một cách khách quan nghĩa là phản ánh tính toàn diện của quá
trình vật chất và sự thống nhất của quá trình đó, thì đó là phép biện chứng, là sự phản ánh chính xác sự phát
triển vĩnh viễn của thế giới ”.
Trong bối cảnh quốc tế cuối những năm 1980 đầu những năm 1990 của thế kỉ XX, khi chủ nghĩa xã
hội hiện thực ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ và tan vỡ, chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào khủng hoảng và
thoái trào, một số nước tư bản lại có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất. Trong bối cảnh đó, lối xem
xét phiến diện, một chiều sẽ làm người ta dễ hoang mang dao động, phủ nhận tính tất yếu diệt vong của
chủ nghĩa tư bản, phủ nhận nội dung và tính chất của thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới.
Rõ ràng nguyên tắc toàn diện không đồng nhất với cách xem xét dàn đều, liệt kê những tính quy
định khác nhau của sự vật hay hiện tượng đó; nó đòi hỏi phải làm nổi bật cái cơ bản, cái quan trọng nhất
của sự vật hay hiện tượng đó.
Từ những phân tích trên cho thấy, lôgíc của quá trình hình thành quan điểm toàn diện trong nhận
thức, xem xét sự vật sẽ phải trải qua nhiều giai đoạn cơ bản là đi từ ý niệm ban đầu về cái toàn thể đến

nhận thức một mặt, một mối liên hệ cụ thể của sự vật rồi đến nhận thức nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự
vật đó, và cuối cùng đi tới khái quát những tri thức phong phú đó để rút ra tri thức về bản chất của sự vật.
Từ nguyên tắc toàn diện trong nhận thức, chúng ta đi đến nguyên tắc đồng bộ trong hoạt động thực
tiễn. Nguyên tắc này đòi hỏi muốn cải tạo sự vật, hiện tượng phải áp dụng đồng bộ một hệ thống các biện
pháp, các phương tiện khác nhau để tác động làm thay đổi các mặt, các mối liên hệ tương ứng của sự vật.
Song trong từng bước, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu trọng tâm, then chốt. Nghĩa là phải kết hợp chặt
chẽ giữa “chính sách dàn đều” và “chính sách có trọng điểm” trong cải tạo sự vật.
Trước đây, trong giai đoạn cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân Đảng ta trên cơ sở phân tích toàn
diện bản chất xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Từ đó, Đảng chỉ rõ hai mâu thuẫn cơ
bản của xã hội Việt Nam mà cách mạng phải giải quyết: mâu thuẫn giữa nhân dân ta với thực dân Pháp,
mâu thuẫn giữa nhân dân mà trước hết là nông dân với giai cấp địa chủ, phong kiến. Trong đó, mâu thuẫn
giữa nhân dân với chủ nghĩa đế quốc và bọn tay sai phản bội dân tộc là mâu thuẫn chủ yếu, cân tập trung
lực lượng giải quyết, để làm cơ sở giải quyết các mâu thuẫn khác. Nhờ đó cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ
nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành thắng lợi trọn vẹn.
Ngày nay, trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở nhấn mạnh tính tất yếu phải đổi mới cả lĩnh vực kinh tế và
lĩnh vực chính trị, Đảng ta luôn xác định phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Thực
tiễn gần hai mươi năm đổi mới vừa qua đã xác nhận tính đúng đắn của những quan điểm trên. Khi đề cập
đến vấn đề này, Đại hội lần thứ VIII của Đảng khẳng định: “Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc
đổi mới từ về tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Không
có sự đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Song, Đảng ta đã đúng khi khi tập trung trước hết vào
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh tế-xã hội, tạo tiền đề cần thiết
về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo
thuận lợi đổi mới các mặt khác của đời sống xa hội”.
Tuy nhiên để tiếp tục phát triển kinh tế-xã hội, ổn định chính trị đưa đất nước tiếp tục tiến lên, Đại
hội IX của Đảng đã xác định: “Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đồng bộ nền tảng
cho một nước công nghiệp là yêu cầu bức thiết”. Trong đó “Tập trung đột phá những lĩnh vực then chốt để
làm chuyển động toàn bộ tình hình kinh tế - xã hội:
- Xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà trọng tâm là đổi mới
cơ chế, chính sách nhằm giải phóng triệt để lực lượng sản xuất, mở rộng thị trường trong và ngoài nước.

- Tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực, trọng tâm là giáo dục và đào tạo, khoa học
và công nghệ.
- Đổi mới tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, trọng tâm là cải cách
hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh”.
Đối với nhiệm vụ của khoa học xã hội và nhân văn, Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010
cũng chỉ rõ: “Khoa học xã hội và nhân văn đặt trọng tâm vào tổng kết thực tiễn, đi sâu nghiên cứu những
vấn đề lớn của đất nước, khu vực và toàn cầu, giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, cung cấp luận cứ cho việc hoạch định đường lối, chiến lược, chính sách
phát triển kinh tế - xã hội, phát huy nhân tố con người và văn hoá Việt Nam”. Như vậy quan điểm toàn
7
diện đã được Đảng ta quán triệt và vận dụng xuyên suốt thời kỳ đổi mới, nhờ đó mà làm cho thế và lực của
ta lớn mạnh lên rất nhiều.
Ngày nay, xã hội càng phát triển càng cần phải bao quát toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội.
b. Nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn.
Theo V.I.Lênin, muốn thực sự hiểu được sự vật “đòi hỏi phải xem xét sự vật trong sự phát triển,
trong “sự vận động” , trong sự biến đổi của nó”; phải phát hiện các xu hướng biến đổi và chuyển hoá của
nó. Đối với sự vật cụ thể, ở một thời điểm cụ thể, theo V.I.Lênin “thì ta không thể lập tức thấy rõ ngay điều
ấy”. Bởi vì không phải lúc nào các khuynh hướng phát triển của sự vật cũng bộc lộ đầy đủ. Trong những
điều kiện khác nhau sự vật biểu hiện các khuynh hướng biến đổi và phát triển khác nhau. Khi được bổ sung
bằng những điều kiện mới, sự vật có thể xuất hiện những khuynh hướng phát triển mới. Hơn nữa, trong quá
trình phát triển của sự vật thường đồng thời bao hàm cả hai khuynh hướng biến đổi tiến lên và biến đổi thụt
lùi. Hai khuynh hướng biến đổi này vừa thống nhất lại vừa đấu tranh với nhau trong suốt quá trình vận
động, phát triển của sự vật. Do đó con người không thể nhận thức được các khuynh hướng phát triển của sự
vật ngay một lúc. Song, với phương pháp tư duy khoa học, con người có thể khái quát làm rõ khuynh
hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đó. Quan điểm phát triển sẽ cho phép ta nắm được các
mối liên hệ, nguồn gốc, khuynh hướng vận động, biến đổi và phát triển của sự vật, hiện tượng đang nghiên
cứu.
Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến: tuyệt đối hoá một
nhận thức nào đó về sự vật có được trong một hoàn cảnh lịch sử phát triển nhất định, ứng với giai đoạn
phát triển nhất định của nó và xem đó là nhận thức duy nhất đúng về toàn bộ sự vật trong quá trình phát

triển tiếp theo của nó sẽ đưa chúng ta đến những sai lầm nghiêm trọng.
V.I.Lênin đã phê phán quan điểm tĩnh tại: xem xét sự vật, hiện tượng chỉ thấy những mặt tĩnh, ổn
định mà không thấy mặt vận động, phát triển của chúng. Cách xem xét này chỉ có thể “đưa ra được những
định nghĩa hình thức, căn cứ vào cái phổ thông nhất, hoặc những cái thường đập vào mặt nhất, và ngừng lại
ở đó”. Quan điểm này cuối cùng cũng rơi vào nguỵ biện, chiết trung. Trong tác phẩm “Lại bàn về công
đoàn ”, V.I.Lênin đã phê phán lập luận của Bukharin về cái cốc: “chỉ thấy thuộc tính này (một hình trụ
bằng thuỷ tinh) hoặc thuộc tính kia (một dụng cụ dùng để uống) hoặc chỉ có hai thuộc tính hoặc có hai tính chất,
hai mặt đó mà không thấy được vô số những thuộc tính khác, những tính chất khác, những mặt khác, cùng
những mối quan hệ vô cùng phong phú của nó; không thấy được thuộc tính nào là cơ bản nói lên chất của sự
vật, hiện tượng trong một mối quan hệ cụ thể, trong sự phát triển cụ thể của nó”. Về vai trò, nhiệm vụ của công
đoàn, Bukharin cũng phạm sai lầm phương pháp luận tương tự.
Trong thực tế sự phát triển của các sự vật, hiện tượng là một quá trình biện chứng của mâu thuẫn. Do
đó, vận dụng quan điểm phát triển vào quá trình nhận thức cũng đòi hỏi chúng ta phải thấy được tính chất
quanh co, phức tạp của quá trình phát triển như là một hiện tượng phổ biến. Có như vậy, chúng ta mới tránh
được bi quan, dao động khi tiến trình cách mạng nói chung và sự tiến triển của từng lĩnh vực xã hội cũng như
của mỗi cá nhân nói riêng tạm thời gặp khó khăn, trắc trở.
Thực tế những năm gần đây cho thấy, trước những khó khăn của đất nước, một số người muốn nhân
dân ta từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa, hoặc lùi lại giai đoạn cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân. Quan
điểm trên đây hoàn toàn không đúng cả về mặt lý luận và thực tiễn. Kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa là sự
lựa chọn duy nhất đúng đắn, đây là sự lựa chọn của lịch sử. Sự lựa chọn này đã được dứt khoát từ năm 1930
trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, đó là kết quả của sự phân tích khoa học bối cảnh lịch sử và điều kiện
khách quan, chủ quan của phong trào cách mạng nước ta.
Vận dụng quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận của hoạt động thực tiễn
nhằm thúc đẩy các sự vật phát triển theo đúng các quy luật vốn có của nó đòi hỏi chúng ta phải tìm ra mâu
thuẫn của sự vật, và bằng hoạt động thực tiễn mà giải quyết mâu thuẫn. Chỉ bằng cách đó chúng ta mới góp
phần tích cực vào sự phát triển.
Hơn nữa, sự phát triển biện chứng của các quá trình hiện thực và của tư duy được thực hiện bằng
con đường thông qua những sự tích luỹ về lượng mà tạo ra sự thay đổi về chất, thông qua phủ định của phủ
định. Do vậy việc vận dụng quan điểm phát triển vào hoạt động thực tiễn nhằm cải tạo sự vật đòi hỏi chúng
ta phải phát huy nỗ lực của mình trong việc hiện thực hoá hai quá trình nêu trên.

Khái quát phương pháp biện chứng trong nhận thứcc và hoạt động thực tiễn, Ph.Ăngghen viết:
“Phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của
chúng trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự
phát sinh và sự tiêu vong của chúng”. V.I.Lênin cũng cho rằng, để có tri thức đúng đắn về sự vật, “bản
thân sự vật phải được xem xét trong những quan hệ của nó và trong sự phát triển của nó”.
c. Nguyên tắc lịch sử cụ thể trong nhận thức và thực tiễn.
- Một số quan điểm không đúng về tính lịch sử cụ thể của tồn tại các sự vật hiện tượng, quá trình.
8
Những nhà triết học duy tâm và tôn giáo không thừa nhận sự tồn tại khách quan của các sự vật hiện
tượng, quá trình. Chính vì vậy, họ có quan điểm sai lầm phản động duy tâm, thần bí về sự tồn tại, vận
động, phát triển. Họ không thấy tính lịch sử cụ thể của các giai đoạn phát triển cũng như của toàn bộ quá
trình tồn tại, vận động phát triển của các sự vật hiện tượng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng mácxít là thế giới quan, phương pháp luận đúng đắn khoa học và
cách mạng nhất trong thời đại ngày nay có quan điểm đúng đắn về tính lịch sử cụ thể trong nhận thức và
thực tiễn. Tính đúng đắn của nó được xác nhận bởi thành tựu các khoa học hiện đại và thực tiễn lịch sử.
Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành những
mâu thuẫn trong bản thân nó; sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của mọi sự vận
động và phát triển, làm cho cái cũ mất đi, cái mới ra đời.
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, hai khuynh hướng khác nhau trong sự vật, hiện tư-
ợng tạo thành mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng đó.
Những mặt đối lập những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến
đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong mỗi giai đoạn của
quá trình vận động biến đổi, các sự vật, hiện tượng, những thuộc tính, những tính quy định lại vận động
biến đổi rất phong phú đa dạng. Chính vì vậy, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải luôn quán triệt quan
điểm lịch sử cụ thể, dự báo được sự biến đổi của mỗi thuộc tính tại những thời điểm khác nhau chúng ta mới có
thể cải tạo hiệu quả nhất.
Sự thống nhất của mâu thuẫn là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau, sự tồn tại của
mặt đối lập này phải lấy mặt đối lập kia làm tiền đề tồn tại cho mình. Sự nương tựa, liên hệ, phụ thuộc, tác
động qua lại, quy định lẫn nhau của các mặt đối lập trong mỗi thời điểm và trong không gian khác nhau là
không giống nhau. Muốn cải tạo sự vật có hiệu quả phải tìm hiểu sự vật thật tỉ mỉ, cụ thể, tránh chung

chung trừu tượng, không cụ thể.
Các mặt đối lập của sự sự vật hiện tượng tác động qua lại theo xu hướng xâm nhập ,bài trừ, phủ
định, chuyển hoá lẫn nhau. Giữa các mặt đối lập của một sự vật hiện tượng quá trình vừa thống nhất, vừa
có sự đấu tranh; sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập làm thành mâu thuẫn biện chứng, nguồn
gốc động lực của sự vận động phát triển.
Mâu thuẫn của sự vật hiện tượng mang tính khách quan, sự tồn tại luôn vận động biến đổi, chuyển
hoá, bài trừ, phủ đinh nhau của các mặt đối lập lai diễn ra cụ thể trong không gian và thời gian cụ thể.
Trong xem xét, cải tạo các sự vật, hiện tượng phải tuân thủ nguyên tắc lịch sử cụ thể cũng là bảo đảm
nguyên tắc khách quan của chính sự tồn tại sự vật.
Sự thống nhất của các mặt đối lập của mâu thuẫn còn biểu hiện ra ở sự “tác động ngang nhau”. Đó
là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập, tạo
ra sự đứng im tương đối của các sự vật, hiện tượng, tiền đề điều kiện cho sự đấu tranh của các mặt đối lập
của mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng đó. Nhận thức sự vật, hiện tượng phải thấy cả sự vận động và sự
đứng im tương đối, sự thống nhất, sự tác động ngang nhau của các mặt đối lập trong những không gian,
thời gian cụ thể
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau
giữa các mặt đối lập.
Quá trình phát triển của mâu thuẫn diễn ra từ sự thống nhất, sự “đồng nhất” sự tác động“ngang
nhau”. Do sự xâm nhập theo hai chiều hướng trái
ngược nhau dẫn tới sự “khác biệt”, khác nhau ngày càng phát triển tất yếu dẫn tới sự “đối lập” khi đó mâu
thuẫn phát triển tới đỉnh cao gọi là xung đột gay gắt, hai mặt đối lập khi đó có sự chuyển hoá giữa. Nhận
thức đúng sự vật hiện tượng phải nhận thức quá trình phát triển của mâu thuẫn của sự vật trong không gian
thời gian, các giai đoạn “đồng nhất”, “khác biệt”, “đối lập”, “chuyển hoá”.
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác nhau của các mặt đối
lập tạo thành mâu thuẫn. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập không tách rời nhau trong quá trình vận
động và phát triển của sự vật. Sự thống nhất gắn liền với đứng im, sự ổn định tạm thời; sự đấu tranh gắn liền với sự
vận động và phát triển lên tục, vận động tuyệt đối của sự vật, hiện tượng
Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập trong sự vật, người ta phân loại các mâu thuẫn thành
những mâu thuẫn bên trong và bên ngoài.
Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại gữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự

vật. Mâu thuẫn bên trong có vai trò to lớn, quyết định đối với sự vận động và phát triển của sự vật, hiện t-
ượng.
Mâu thuẫn bên ngoài của một sự vật hiện tượng là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ giữa sự vật
đó với các sự vật khác. Mâu thuẫn bên ngoài có vai trò to lớn, quyết định gián tiếp đối với sự vận động và
phát triển của sự vật, hiện tượng. Vai trò của mâu thuẫn bên trong và bên ngoài đối với sự vận động và phát
9
triển của sự vật, hiện tượng là không ngang bằng nhau. Trong mỗi không gian thời gian cụ thể thì mâu
thuẫn bên trong và mâu thẫn bên ngoài có thể thay thế vị trí cho nhau trong quy định sự vận động phát triển
của sự vật hiện tượng quá trình. Như vậy, để nhận thức đúng sự vật phải quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể
thì cải tạo sự vật mới đạt hiệu quả cao.
Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triẻn của toàn bộ sự vật, người ta chia mâu thuẫn
thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn
của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật chuyển
thành sự vật khác. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự
vật. Nó không quy định bản chất của sự vật. Giữa mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cỏ bản có thể
chuyển hoá thay đổi vị trí cho nhau. Do vậy, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải nhận thức sự vật
rất cụ thể trong không gian, thời gian, mâu thuẫn nào là mâu thuẫn cơ bản mâu thuẫn nào là chủ yếu và sự
chuyển hoá giữa chúng trong điều kiện nhất định.
Căn cứ vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, các mâu thuẫn được chia
thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu (mâu thuẫn thứ yếu).
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu trong một giai đoạn phát triển của sự vật. Mâu
thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn không giữ vai trò quyết định ở một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật, nó
chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó. Mỗi giai đoạn phát triển của sự vật, hiện tượng có một vài
mâu thuẫn chủ yếu cần tập trung giải quyết, giải quyết mâu thuẫn chủ yếu này chính là từng bước giải
quyết mâu thuẫn cơ bản ở thời điểm cụ thể. Mâu thẫn chủ yếu có thể thay đổi tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ
thể và quá trình phát triển của sự vật hiện tượng. Hoạt động thực tiễn và nhận thức sẽ mắc phải sai lầm
nghiêm trọng nếu có quan điểm máy móc và giáo điều trong nhận thức và phân loại mâu thuẫn của sự vật
hiện tượng.
Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, người ta chia mâu thuẫn trong xã hội thành mâu thuẫn

đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người có lợi ích cơ bản đối
lập nhau. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng xã hội có lợi ích cơ bản thống
nhất với nhau, chỉ đối lập về những lợi ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời. Do bản chất của mâu thuẫn đối
kháng và mâu thuẫn không đói kháng là khác nhau do vậy việc giải quyết mâu thuẫn đối kháng và mâu
thuẫn không đối kháng cũng rất khác nhau. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn để có chủ trương giải
pháp giải quyết mâu thuẫn đúng đắn, trước tiên phải nhận thức cho được đâu là mâu thuân đối kháng và
không đối kháng trong nhữg hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Muốn nhận thức đúng bản chất của sự vật, hiện tượng, tìm ra phương hướng và giải pháp đúng cho
hoạt động thực tiễn phải nhận thức đúng mâu thuẫn của sự vật, tìm ra những mặt những mối liên hệ, tác
động qua lại lẫn nhau giữa chúng trong không gian thời gian cụ thể. Thấy rõ quá trình phát triển của từng
mâu thuẫn, xem xét vai trò và mối quan hệ của từng mâu thuẫn, điều kiện chuyển hoá giữa chúng, tạo ra
những điều kiện thúc đẩy mâu thuẫn chín muồi tìm phương thức phù hợp để giải quyết, không điều hoà
mâu thuẫn. Phải tìm các hình thức giải quyết mâu thuẫn linh hoạt phù hợp với từng loại mâu thuẫn và điều
kiện cụ thể.
Bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng không nằm ngoài mối liên hệ với các sự vật hiện tượng khác, sự
liên hệ biểu hiện dưới nhiều hình thức, là biểu hiện đặc thù của mối liên hệ phổ biến. Trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn luôn phải quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể, phải nhận thức sự vật với đầy đủ các mối
liên hệ trong sự tồn tại khách quan vốn có của nó, vị trí vai trò của từng mối liên hệ trong sự quy định sự
vận động phát triển của sự vật. Trong hoàn cảnh lịch sử này, sự vật chịu sự tác động của các mối liên hệ
này, thì sang thời điểm lịch sử khác sự vật lại chịu sự tác động chi phối của các mối liên hệ khác.
Các sự vật hiện tượng có mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài. Sự phân biệt bên trong và
bên ngoài cũng có tính tương đối. Trong quá trình vận động và phát triển của sự vật hiện tượng, mối liên hệ
bên trong và bên ngoài có thể thay thế cho nhau. Mặt khác, vai trò của mối liên hệ bên trong và bên ngoài
không ngang bằng nhau trong chi phối sự vận động và phát triển của sự vật. Trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn phải quán triệt mguyên tắc lịch sử cụ thể. Trong hoàn cảnh lịch sử này, mối liên hệ này là bên
trong và có vai trò quyết định sự phát triển của sự vật hiện tượng thì vào thời điểm khác ở không gian khác,
chính mối liên hệ này lại có thể trở thành mối liên hệ bên ngoài và chỉ giữa vai trò tác động ảnh hưởng đối
với sự vận động phát triển của chính sự vật hiện tượng đó.
Chi phối sự vận động phát triển của sự vật, hiện tượng và quá trình các mối liên hệ có vai trò

không ngang bằng nhau, có mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu. Để cải tạo sự vật, hiện tượng và
quá trình có hiệu quả, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xem xét cụ thể từng mối liên hệ, vị trí
vai trò của nó trong sự vận động phát triển ở những không gian, thời gian nhất định. Phải khắc phục bệnh
10
giáo điều, sách vở, chung chung, trừu tượng không lịch sử cụ thể, tỉ mỉ trong nhận thức cũng như trong
hoạt động thực tiễn
Các giai đoạn phát triển của sự vật hiện tượng luôn có mối quan hệ chi phối lệ thuộc lẫn nhau.
Trong mỗi hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong các giai đoạn phát triển ở những không gian và thời gian xác định
mối liên hệ giữa các mặt, thuộc tính của sự vật chịu sự tác động chi phối của các mặt các mối liên hệ, các
thuộc tính ở giai đoạn trước cũng như giai đoạn sau. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xác định
mối liên hệ cụ thể giữa các mặt, thuộc tính của sự vật hiện tượng và quá trình.
Mối liên hệ cụ thể trong sự vật hện tượng có vai trò không ngang bằng nhau trong việc quy
định chất cũng như sự vận động phát triển của sự vật. Trong thời điểm này mối liên hệ này có vai trò quan
trọng trong chi phối vận động phát triển của sự vật hiện tượng thì trong không gian thời gian khác mối liên
hệ khác lại có vai trò quan trọng chi phối. Chính vì thế, trong nhận thức và hành động phải quán triệt yêu
cầu lịch sử cụ thể trong xem xét vai trò của của từng mối liên hệ trong sự vật trong không gian thời gian cụ
thể.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải tìm hiểu nguyên nhân, điều kiện cụ thể đã sinh ra sự vật;
muốn xoá bỏ một hiện tượng tiêu cực, không có lợi cần xoá bỏ nguyên nhân cụ thể sinh ra nó.
Nhận thức các sự vật hiện tượng cần phân tích các nguyên nhân, phân loại nguyên nhân chỉ ra mối
quan hệ giữa các nguyên nhân, chiều hướng tác động của các nguyên nhân để có biện pháp thích hợp thúc
đẩy các nguyên nhân dẫn đến kết quả có lợi, hạn chế, hoặc triệt tiêu các nguyên nhân bất lợi.
Trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo sự vật phải xem xét nội dung cụ thể và hình
thức cụ thể, để cải tạo sự vật phải đi từ nội dung, tác động vào cả nội dung và hình thức của sự vật, hiện
tượng. Cần tạo ra hình thức cụ thể phù hợp với nội dung đang biến đổi để thúc đẩy sự vật theo nhu cầu
nhiệm vụ thực tiễn
Muốn hiểu biết đúng đắn về sự vật, nhận thức không dừng ở hiện tượng mà phải đi từ hiện tượng để
tìm ra bản chất. Phải xác định các hiện tượng điển hình trong hoàn cảnh cụ thể để có kết luận chính xác bản
chất sự vật ở thời điểm xác đinh về không gian và thời gian cụ thể. Chống chủ nghĩa hình thức coi nhẹ,
không thấy hết vai trò quan trọng của nội dung.

Trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn, cần dựa vào hiện thực, không dựa vào khả năng, cần
tính đến các khả năng để có thể đề ra chủ trương, kế hoạch hành động cụ thể sát đúng. Sau khi xác định đ-
ược các khả năng phát triển của sự vật, cần kiên quyết thực hiện khả năng đã lựa chọn, tạo ra các điều kiện cụ
thể để hiện thực hoá nó.
Tóm lại, để làm cho triết học Mác-Lênin thực sự là hạt nhân thế giới quan, phương pháp luận cho nhận
thức và hành động trước hết phải tôn trọng sự tồn tại khách quan của các sự vật hiện tượng. Nhận thức sự vật
hiện tượng phải quán triệt nguyên tắc lịch sử cụ thể của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhận thức phải thấy các
mối quan hệ, sự biến đổi các mối liên hệ theo thời gian, cũng như trong những không gian tồn tại khác nhau của
mỗi mặt, mỗi thuộc tính, đặc trưng của sự vật hiện tượng và quá trình.
Nguyên tắc lịch sử-cụ thể cũng đòi hỏi phải tránh khuynh hướng giáo điều, chung chung, trừu tượng
không cụ thể. Mặt khác, cũng cần đề phòng khuynh hướng tuyệt đối hoá tính cụ thể không thấy sự vật trong quá
trình vận động biến đổi. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải vừa thấy tính lịch sử cụ thể vừa thấy cả
quá trình phát triển của sự vật./.
c. Nguyên tắc lịch sử cụ thể trong nhận thức và thực tiễn.
- Nguyên tắc "xem xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động trong sự tự biến đổi của nó”
(V.I.Lê-nin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.42, tr.364), nghĩa là phải nghiên cứu những mối
liên hệ lịch sử cơ bản của khách thể nhận thức: xem xét trong lịch sử xem khách thể đó đã xuất hiện như
thế nào, đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào và hiện nay chủ thể đó là gì? Cơ sở của nguyên
tắc này là nguyên lý về sự phát triển.
Nói như vậy không có nghĩa nguyên tắc lịch sử chỉ dừng lại ở chỗ liệt kê những giai đoạn phát triển
lịch sử mà khách thể nhận thức đã trải qua. Nguyên tắc lịch sử còn đòi hỏi chủ thể nhận thức phải vạch ra
cho được tính tất yếu và các qui luật chi phối sự thay thế lẫn nhau của các khách thể nhận thức (nghĩa là
khách thể nhận thức chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác), đặc biệt là phải tách ra được “cái cơ bản
nhất trong chiều hướng phát triển, hay trong cái dây xích phát triển” của khách thể nhận thức.
V.I.Lênin viết: “Làm một nhà cách mạng, một người tán thành chủ nghĩa xã hội hay một người cộng
sản nói chung là chưa đủ. Trong mỗi thời kỳ đặc biệt, cần phải tìm cho ra cái mắt xích đặc biệt mà người ta
phải đem toàn lực ra nắm lấy để giữ vững được toàn bộ cái xích và chuẩn bị để chuyển vững chắc sang mắt
xích kề bên; hơn nữa, trình tự nối tiếp, hình thức, mối liên hệ của các mắt xích và những đặc điểm khác
nhau của các mắt xích này với các mắt xích khác trong cái xích những biến cố lịch sử đều không đơn giản
và cũng không sơ sài như trong cái xích do người thợ rèn làm ra” (t.36,tr.252). Qua đoạn trích này,

V.I.Lênin nhắc nhở rằng, nhận thức của chúng ta về một khách thể nào đó- nhất là trong lĩnh vực xã hội-
11
dù cho nhận thức đó đã là chân lý, không phải là một cái gì cứng nhắc, luôn luôn đúng trong mọi biến cố
của lịch sử.
Lịch sử chính là bản thân khách thể nhận thức ở trong quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của
mình. Có hai loại lịch sử: Đó là lịch sử đã được nhận thức và lịch sử hiện thực (lịch sử các sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên, trong xã hội và lịch sử nhận thức, tư tưởng). Lịch sử hiện thực bao giờ cũng diễn ra
trong tính liên tục về thời gian với toàn bộ tính cụ thể, tính phong phú, bao gồm cả những bước quanh co
và những bước nhảy, cả những cái tất nhiên và những cái ngẫu nhiên, tuy vậy, dù là lịch sử của sự vật, hiện
tượng hay là lịch sử của sự nhận thức khách thể nhận thức thì nó bao giờ cũng có tính tất yếu, bao giờ cũng
tuân thủ những qui luật bên trong của nó. Thí dụ, Lịch sử xã hội loài người không phải là tổng số những
biến cố ngẫu nhiên, mà là một quá trình vận động đi lên tất yếu khách quan, hợp qui luật. Người ta cũng
gọi tính tất yếu khách quan, tính hợp qui luật này là lôgíc khách quan của sự vật, hiện tượng.
- Nguyên tắc đi từ cái trừu tượng đến cái cụ thể. Quá trình nhận thức bản chất của khách thể
nhận thức (sự vật, hiện tượng) của chủ thể nhận thức (con người) là quá trình cái cụ thể (nhận thức cảm
tính về sự vật, hiện tượng) di chuyển vào não người, được cải biến đi ở trong đó và chuyển thành cái cụ thể
trong tư duy.
Cái cụ thể cảm tính là những cái tồn tại trong hiện thực khách quan và chính nó là điểm xuất phát của
nhận thức, của trực quan, của biểu tượng và của lý thuyết khoa học. Cái cụ thể cảm tính là khách thể nhận
thức, là kết quả của nhận thức và cũng là sản phẩm của sự tổng hợp lại các tài liệu do trực quan sinh động
đưa lại bằng tư duy lý luận. Đó là “cái cụ thể được tư duy”, “cái cụ thể trong tư duy”.
Từ cái cụ thể xuất phát (từ nhận thức cảm tính), chủ thể nhận thức- thông qua sự phân tích và trừu
tượng hoá- đi tới những tính qui định, những sự trừu tượng giản đơn, phản ánh những mặt, những thuộc
tính, những mối quan hệ chung của cái cụ thể cảm tính: Đó là giai đoạn mà nhận thức đi từ cái cụ thể đến
cái trừu tượng. Cái trừu tượng được gọi là trừu tượng bởi vì nó là yếu tố của cái cụ thể, vì mỗi bộ phận
được tách riêng ra từ cái toàn bộ mới chỉ phản ánh được một mặt, một khía cạnh, một đặc điểm nào đó của
khách thể nhận thức mà thôi.
Tuy nhiên, cái cụ thể của tư duy không phải là một tổng số giản đơn, một sự kết hợp máy móc những
cái trừu tượng. Do vậy phải tổng hợp những cái trừu tượng thế nào đó để từ những tính qui định trừu tượng
sẽ tái tạo được cái cụ thể biểu hiện trong tư duy như “một tổng thể phong phú với rất nhiều tính qui định và

quan hệ”, như là “sự thống nhất của cái đa dạng”. Sự tổng hợp đặc biệt đó được thực hiện theo nguyên tắc
đi từ cái trừu tượng đến cái cụ thể, tức là “phương pháp mà nhờ nó tư duy quán triệt được cái cụ thể và tái
tạo ra nó với tư cách là cái cụ thể trong tư duy”.
Theo nguyên tắc này, sự nghiên cứu không phải bắt đầu từ cái cụ thể mà từ cái trừu tượng phản ánh
mối quan hệ thông thường nhất, giản đơn nhất nhưng lại là mối quan hệ cơ bản chứa mâu thuẫn cơ bản của
khách thể nhận thức. Từ mối quan hệ cơ bản này, tư duy theo dõi những khâu chủ yếu, những trạng thái
quá độ trong sự phát triển của khách thể nhận thức để phản ánh chúng trong những khái niệm ngày càng cụ
thể. Theo cách này, tư duy từng bước tái hiện quá trình hình thành và phát triển của khách thể nhận thức,
nhận thức nó trong tổng thể những mối liên hệ bên trong vốn có của nó và trong tính nguyên vẹn của nó./.
Vận dụng
Nắm vững phương pháp luận mác-xít, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tổng kết
thực tiễn hơn 80 năm qua Đảng ta lãnh đạo cách mạng, đặc biệt là thực tiễn 25 năm đổi mới, Đảng không
ngừng làm giàu trí tuệ, góp phần bổ sung, phát triển lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Một trong những biểu hiện rõ nét về điều này là sự phát
triển và hoàn thiện nhận thức của Đảng về những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội, phù hợp với điều
kiện nước ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển
năm 2011) xác định: 'Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị
và hợp tác với các nước trên thế giới'
Câu 5: Anh chị hãy trình bày nội dung nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và thực tiễn vận
dụng những nguyên tắc này trong sự nghiệp cách mạng VN?
12

×