I. Phần mở đầu:
Nước Việt Nam ta là nước có nhiều dân tộc anh em cùng chung sống. vì
thế vấn đề dân tộc mà trong đó trước hết là vấn đề ngơn ngữ văn hóa các dân tộc
đã, đang và sẽ là vấn đề nóng bỏng của đất nước ta. Vì thế có một chính sách
ngơn ngữ văn hóa dân tộc hợp lí là một nhiệm vụ thực sự cấp bách, vừa là một
cơng việc khơng ít khó khăn. Bởi lẽ các dân tộc rất đa dạng về mặt dân số, trình
độ phát triển xã hội khơng đồng đều nhau, điều kiên tự nhiên nơi các dân tộc anh
em cư trú lại rất khác nhau. Trong khi đó, mục tiêu cơng nghiệp hóa – hiện đại
hóa của Nhà nước ta đòi hỏi các dân tộc phải phát triển như nhau. Đây cũng
chính là nhân tố tác động đến việc hoạch định chính sách cũng như việc thực thi
các nhiệm vụ để hiện thực hóa chính sách ngơn ngữ văn hóa dân tộc.
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trọng yếu nhất của xã hội và là công cụ
tư duy của con người. Cho đến hiện nay và trong tương lai, khơng ai có thể phủ
nhận được vai trị đặc biệt quan trọng trong sự phát triển văn hóa của từng cá
nhân con người trong một tập thể, trong một dân tộc.
1
II. Phần nội dung
1. Vấn đề song ngữ ở Việt Nam
Ngôn ngữ là phương tiện quan trọng nhất của xã hội con người. Mỗi một
cộng đồng xã hội hay dân tộc khác nhau có những hình thức giao tiếp khác nhau.
Có những dân tộc trong xã hội chỉ dùng một ngôn ngữ duy nhất để giao tiếp với
nhau. Trường hợp ấy người ta gọi là tình trạng đơn ngữ. Lại có những dân tộc
trong xã hội để giao tiếp với nhau người ta sử dụng nhiều hơn hai ngôn ngữ
trong sinh hoạt hàng ngày. Trường hợp ấy người ta gọi là tình trạng song ngữ.
Việt nam là một quốc gia đa dân tộc và là một địa bàn thu nhỏ của bức
tranh ngơn ngữ - văn hóa khu vực Đơng Nam Á . Theo tài liệu số 121 – TCTK
của Tổng cục thống kê ngày 2 – 3 – 1979, nước Việt Nam có 54 dân tộc gồm dân
tộc Kinh (Việt) và 53 dân tộc thiểu số khác. Như vậy Việt Nam là một quốc gia
đa dân tộc. Các dân tộc thiểu số ở nước ta cư trú từ Bắc vào Nam, ở miền núi,
trung du và đồng bằng tạo thành một bức tranh đa dạng và phức tạp về địa vực
cư trú.Ngoại trừ cộng đồng người Việt là một cộng đồng đơn ngữ thì có thể nói
tất cả các dân tộc thiểu số trên lãnh thổ Việt Nam đều là những cộng đồng song
ngữ. Ngoài tiếng mẹ đẻ của mình được sử dụng trong những mơi trường nhất
định, dân tộc thiểu số còn dùng tiếng Việt với tư cách là ngơn ngữ quốc gia
throng những mơi trường khác. Ngồi ra có những dân tộc, bên cạnh tiếng mẹ
2
đẻ, tiếng Việt lại có thể sử dụng những ngơn ngữ khác nữa trong một vài môi
trường giao tiếp nào đó. Trong tình hình như vậy, việc nghiên cứu ngơn ngữ các
dân tộc thiểu số ở nước ta không thể khơng chú ý tới vấn đề giao tiếp song ngữ.
Có những cộng đồng song ngữ, ngôn ngữ thứ nhất là tiếng mẹ đẻ của cộng
đồng ấy. Ở đây tiếng mẹ đẻ được dùng phổ biến ở quê hương, vùng lãnh thổ mà
cộng đồng song ngữ ấy sinh sống. Tuy nhiên do một điều kiên nào đó, cộng
đồng này phải sử dụng thêm một ngôn ngữ thứ hai không phải tiếng mẹ đẻ để
làm công cụ giao tiếp. Việc cần phải sử dụng ngơn ngữ thứ hai có thể là do tiếng
mẹ không thỏa mãn yêu cầu phát triển tư duy, yêu cầu giao tiếp ở một không
gian lớn hơn…Trong trường hợp này ngơn ngữ thứ hai có tác dụng tích cực bổ
sung cho ngôn ngữ thứ nhất là tiếng mẹ đẻ. Bên cạnh đó có những cộng đồng
song ngữ mà mối quan hệ giữa tiếng mẹ đẻ với ngôn ngữ thứ hai không như vậy.
Ở đây ngôn ngữ thứ nhất không phải tiếng mẹ đẻ. Các cá nhân song ngữ không
thể sử dụng tiếng mẹ đẻ làm công cụ giao tiếp thường xuyên và rộng rãi trong xã
hội. Ngược lại ngôn ngữ không phải là tiếng mẹ đẻ lại trở thanhf ngơn ngữ thứ
nhất, đóng vai trị là cơng cụ giao tiếp chính của cộng đồng hay cá thể người này.
Ở một khía cạnh khác người ta cịn nói đến một trạng thái nữa là trạng thái song
ngữ tự nhiên. Ở trạng thái này các thành viên trong cộng đồng song ngữ tuy sử
dụng tiếng mẹ đẻ là ngôn ngữ thứ nhất nhưng trình độ sử dụng chủ yếu là ở dạng
3
nói mà chưa sử dụng ở dạng viết, trình độ năm bắt và sử dụng tiếng mẹ đẻ chưa
ở trình độ hồn chỉnh. Đồng thời ngơn ngữ thứ hai mà họ sử dụng cũng ở trình
độ thấp. Nếu xem xét ở địa bàn các dân tộc thiểu số nước ta, hình như phần lớn
cộng đồng song ngữ đang ở trạng thái tự nhiên này. Các dân tộc ở Bắc Trung Bộ
cũng thuộc trạng thái đó.
2. Khái quát về vùng Bắc Trung Bộ
2.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội ở Bắc Trung Bộ
Bắc Trung Bộ là phần phía bắc của Trung Bộ Việt Nam có địa bàn từ Nam
dãy núi Tam Điệp tới Bắc đèo Hải Vân gồm sáu tỉnh: Thanh Hố, Nghệ An. Hà
Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Huế.
Vùng Bắc Trung Bộ nằm kề bên vùng KTTĐ Bắc bộ và vùng KTTĐ miền
Trung, trên trục giao thông Bắc Nam về đường sắt, bộ; nhiều đường ô tô hướng
Đông Tây (7,8,9,29) nối Lào với Biển Đơng. Có hệ thống sân bay (Vinh, Đồng
Hới, Phú Bài), bến cảng (Nghi Sơn, Cửa Lò, Cửa Hội, Vũng Ánh, Sơn Dương,
Cửa Gianh, Nhật Lệ, Cửa Việt, Thuận An, Chân Mây...)có các đầm phá thuận lợi
cho việc nuôi trồng thủy hải sản,là trung tâm du lịch quan trọng của đất
4
nước(động Phong Nha-KẻBàng,Cố đô Huế.v.v.)tạo điều kiện cho viêc giao lưu
kinh tế giữa VN và các nước Lào,MianMa.v.v..
Lãnh thổ kéo dài, hành lang hẹp, Tây giáp Trường Sơn và Lào, phía Đơng
là biển Đơng(Vịnh Bắc Bộ)cả rung du và miền núi, hải đảo dọc suốt lãnh thổ, có
thể hình thành cơ cấu kinh tế đang dạng phong phú. Địa hình phân dị phức tạp,
thời tiết khắc nghiệt, nhiều biến động, cần phải lợi dụng hợp lí. Nhiều vũng nước
sâu và cửa sơng có thể hình thành cảng lớn nhỏ phục vụ việc giao lưu trao đổi
hàng hoá giữa các tỉnh trong vùng, với các vùng trong nước và quốc tế.
Bắc Trung Bộ là nơi cư trú của 12 dân tộc khác nhau (Thái, Mường, Tày,
Mông, Bru-nây Kiều...) sống ở Trường Sơn. Phân bố không đều từ đông sang
tây. Người Kinh sinh sống chủ yếu ở đồng bằng ven biển.
Bắc Trung Bộ có nhiều khống sản q , đặc biệt là đá vơi nên có điều
kiện phát triển ngành khai thác khoáng và sản xuất vật liệu xây dưng . Đây là
ngành quan trọng nhất của vùng.
Ngồi ra vùng cịn có các ngành khác như chế biến gỗ , cơ khí , dệt may ,
chế biến thực phẩm . Phân bố khơng đồng đều . Các trung tâm có nhiều ngành
cơng nghiệp : Thanh Hóa , Vinh , Huế với qui mô vừa và nhỏ.
Cơ sở hạ tầng , công nghệ , máy móc , nhiên liệu cũng đang được cải thiện
. Cung ứng được nhiên liệu , năng lượng.
5
Bắc Trung Bộ có rất nhiều cửa khẩu biên giới giữa Việt - Lào :Nậm Cắn ,
Cầu Treo , Cha Lo , Lao Bảo.
Có bờ biển dài tạo điều kiện cho các tàu bn hàng hóa nước ngồi xuất
nhập khẩu và các tàu chở khách du lịch nước ngoài vào nước ta .
Du lịch đang trên đà phát triển . Số lượng khách du lịch đang tăng lên mỗi
ngày nhiều.
Theo hệ thống phân vùng địa lí Việt Nam, Bắc Trung Bộ là khu vực
chuyển tiếp giữa Bắc Bộ và Nam Trung Bộ. Lịch sử cho thấy cư dân nơi đây có
nguồn gốc chủ yếu là người Thanh- Nghệ- Tĩnh thiên di vào Bình Trị Thiên từ
thời Lý- Trần- Lê. Do đó, mối quan hệ của người Việt nơi đây liên quan, gắn bó
với các sinh hoạt văn hố dân gian nói chung.
2.2. Cảnh huống ở Bắc Trung Bộ
Bắc Trung Bộ là một vùng đất rộng lớn có lịch sử từ rất lâu đời bao gồm
sáu tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Huế. Đây là
địa bàn cư trú của 12 dân tộc thiểu số: Thái, Mường, Mông, Dao, Thổ, Khơ Mú,
Bru – Vân Kiều, Cơ Tu, Tà Ôi, Lào, Chứt, Ơ Đu. Người Kinh sống chủ yếu ở
đồng bằng ven biển và chiếm một số lượng lớn. Nên tiếng Việt có vai trị quan
trọng nhất đơí với sự phát triển xã hội. Tiếng Việt là ngôn ngữ phổ thông dùng
6
chung cho tất cả các dân tộc thiểu số ở Bắc Trung Bộ. Họ chỉ dùng tiếng mẹ đẻ
khi sinh hoạt trong cộng đồng dân tộc của họ, còn khi giao tiếp với xã hội, đa
phần đồng bào dân tộc thiểu số ở đây đều dùng tiếng Việt.
Ở Bắc Trung Bộ, bên cạnh những cộng đồng ngừơi Kinh sinh sống khá
đơng đúc thì cịn có những cộng đồng dân tộc thiểu số có trình độ kinh tế xã hội
phát triển khá mạnh. Đáng chú ý nhất là hai dân tộc Thái và Mường.
Về tiếng Thái, đây là dân tộc thiểu số đông thứ hai ở Việt Nam (1040549 số liệu điều tra 1999) sau dân tộc Tày (1477514 - số liệu điều tra năm 1999).
Ngưòi Thái tại Bắc Trung Bộ đang sống tập trung ở miền Tây Thanh Hoá
(117836 người) , Nghệ An ( 213604 người) . Ở Việt Nam, người Thái có tên gọi
chính thức là Thái, nhưng tên tự gọi của họ là Táy / Tãy. Tuỳ thuộc vào từng địa
danh cụ thể, nguời Thái có tên gọi khác nhau. Ở Thanh Hố ngươì Thái chia làm
hai nhóm có tên gọi là Tãy Do và Tãy Đeng (Thái Đỏ) nhưng đồng bào vẫn lờ
mờ nghĩ rằng mình là người Tãy dón. Riêng ở Nghệ An, việc chia thành đen hay
trắng khơng cịn ý nghĩ mà họ chia thành ba nhóm Tãy Hàng Tổng/ Tãy Mường (
Thái hàng Tổng / Thái Mường), Tãy Thanh / Man Thanh (Thái Thanh / thái Man
Thanh) và Tãy Mươi (Tày Mười). Đôi khi nhóm Thái Hàng Tổng ở Quỳ Châu Nghệ An cũng tự nhận mình là Tãy Do. Người Thái có Một nền văn hoá dân tộc
phong phú và đa dạng. Họ khơng chỉ có chữ viết cổ mà cịn có nhiều kiểu chữ
7
khác nhau ở những địa phương khác nhau. Thái là một dân tộc thống nhất với
một ngôn ngữ thống nhất.
Về tiếng Mường, đây là dân tộc đứng thứ ba về dân số trong các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam ( 914596 người - số liệu năm 1989). Người Mườn ở BẮc
Trung Bộ sống tập trung ở Thanh Hoá (các huyện Ngọc Lạc, thạch Thành, Cẩm
Thuỷ, Bá Thước, Như Xuân, Lang Chánh – 260404 người) và Nghệ An. Người
Mường có tên tự gọi là Mol, Mual, Muon với nghĩa là “người”. Ở một số địa
phương người Mường có những tên gọi khác nhau, ở Nghệ An họ tự nhận là Thổ
và được gắn với những địa điểm cụ thể (Thổ Lâm La, Thổ Sơng Con...). Người
Mưịng có một hệ thống văn hoá, đặc biệt là văn học dân gian rất phát triển.
Chính sự phát triển của nền văn học dân gian ấy cho phép chúng ta nói rằng
tiếng Mường ở một phương diện nào đó là một ngơn ngưc khá phát triển. Tiếng
Muờng là một hệ thống ngôn ngữ thống nhất. Tính thống nhất này khơng loại trừ
ở một số địa phương. Tiếng Mường là bà con ngôn ngữ gần nhất với tiếng Việt.
Ngoài hai dân tộc kể trên, Bắc Trung Bộ cịn có những dân tộc thiểu số
khác với số dân khá nhiều nhưng vẫn chưa thực sự phát triển mạng.
Dân tộc Mông tại Bắc Trung Bộ sinh sống chủ yếu ở Nghệ An (17435
người) và Thanh Hoá. Tiếng Mơng là một ngơn ngữ thống nhất, bao gồm nhiều
nhóm địa phương khác nhau. Nền văn học của dân tộc Mông rất phong phú, bao
8
gồm nhiều thể loại đến ca, truyện cổ. đặc điểm này cho thấy tiếng Mông cũng là
một ngôn ngữ khá phát triển. Trước đây tiếng Mơng khơng có chữ viết. Bây giờ
người ta đã xây dựng một bộ chữ Latinh cho dân tộc này. Nhưng việc phổ biến
chữ viết Mông Latinh gặp rất nhiều khó khăn.
Dân tộc Dao sinh sống ở Bắc Trung Bộ tập trung chủ yếu ở Thanh Hố
nhưng số lượng rất ít.
Dân tộc Thổ bao gồm những người sống ở phía Tây tỉnh Nghệ An: Nghĩa
Đàn (17399 người), Tân Kỳ (10723 người), Quỳ Hợp (10700 người), Con Cng
(1127 người) và Như Xn - Thanh Hố (6758 người). Về mặt ngơn ngữ, chúng
ta khó có thể nói đến tiếng Thổ. Nó chỉ là tiếng Cuối, tiếng Poọng, tiếng Mường
trong cái gọi là dân tộc Thổ. Tiếng Cuối, tiếng Poọng chưa có chữ viết cổ mà
cũng khơng có chữ Latinh.
Dân tộc Khơ Mú hiên nay sống tập trung đông nhất ở tỉnh NGhệ An
(19441 nguời), tập trung ở hai huyện Kỳ Sơn (13009 người), Tương Dương
(5452 người) và rải rác ở Quế Phong (gần 1000 người). Khơ Mú là một ngôn
ngữ rất quan trọng đối với việc nghiên cứu lịch sử tiếng Việt. Từ trước dến nay,
ngôn ngữ này chưa có chữ viết.
Dân tộc Bru – Vân Kiều ở Bắc Trung Bộ sống tập trung ở Quảng Trị
(40132 người), Quảng Bình (8045 người) và Thừa Thiên Huế (609 người). Hiện
9
nay chưa thể nói có một ngơn ngữ Bru – Vân Kiều thống nhất bởi ngơn ngữ của
các nhóm Khùa, Trì và Măng Cong chưa được nghiên cứu ở mức độ cần thiết.
Tiếng Bru – Vân Kiều khơng có chữ viết cổ. Người Mỹ đã có một phương an
Latinh tiếng Bru (nhóm Vân Kiều) và cũng có một phương án khác do cán bộ
Mặt trân Dân tộc giải phóng miền Nam làm.
Dân tộc Cơ Tu sinh sống chủ yếu ở vùng Trunh và Bắc Trung Bộ: Quảng
Nam (gần 30 000 người), ở Huế có huyện Nam Đơng (6378 người) và A Lưới
(2481 người). Là một dân tộc đã tương đối thống nhất nên ngơn ngữ của nó cũng
tương đối thống nhất. Người Cơ Tu chưa có chữ viết cổ. Người Mỹ đã làm một
bộ chữ Latinh cho người Cơ Tu.
Dân tộc Tà Ơi có 26044 người (số liệu 1989) cứ trú trong địa banf của hai
tỉnh THừa Thiên - Huế và Quảng Trị. Người Tà Ơi chưa có chữ viết.
Dân tộc Lào ở Bắc Trung Bộ sinh sống chủ yếu ở Kỳ Sơn - NGhệ An (437
người). Chữ Lào đã có từ lâu đời .
Dân tộc Chứt sống chủ yếu ở Tây Bắc Quảng Bình và nam Hà Tĩnh. Chứt
có ba ngôn ngữ riêng lẻ: Tiếng Chứt chỉ gồm các nhóm Sách, Mày, Rục; Tiếng
Arem là nhóm Arem riêng ở Bố Trạch - Quảng Bình; Tiếng Mã Liềng bao gồm
các nhóm Mã Liềng ở Quảng Bình và Hà Tĩnh. Cả ba ngơn ngữ này hiện nay đều
chưa có chữ viết.
10
Dân tộc Ơ Đu là dân tộc có số lượng người ít nhất ở Việt Nam : 137 người
(số liẹu 1989) sống ở Tương Dương - Nghệ An. Tiếng Ơ Đu thuộc ngơn ngữ
Mơn – Khơmer và có một số yếu tố Việt Muờng trong từ vựng cơ bản. Tiếng Ơ
Đu là ngơn ngữ chưa có chữ viết.
Trên đây là 12 dân tộc thiểu số sinh sống ở Vùng Bắc Trung Bộ. Thái và
Mường là hai dân tộc lớn với số dân rất đơng và trình độ kinh tế xã hội cũng phát
triển. Hiên nay ở Bắc Trung Bộ đây là hai dân tộc duy nhất có chữ viết. Cịn tất
cả những dân tộc cịn lại chỉ có chữ viết dạng Latinh (Mơng, Bru – Vân Kiều, Cơ
Tu, Tà Ơi, Lào, Mường, Dao) hoặc khơng có chữ viết (Thổ, KHơ Mú, Chứt, Ơ
Đu)
Ở Bắc Trung Bộ hiện nay Thái là dân tộc duy nhất đã có các chuơng trình
truyền hình chuyên về tiếng Thái và đã có mặt trên hệ phát thanh dân tộc VOV4.
Những dân tộc còn lại đều chưa có.
Hiện nay ở Bắc Trung Bộ chỉ có tiếng Thái đã và đang được giảng dạy
trong nhà trường. Những dân tộc cịn lại đều chưa có.
11
2.3. Ý kiến về chính sách ngơn ngữ cho vùng Bắc Trung Bộ
Bắc Trung BỘ là một khu vực có số lượng dân tộc thiểu số sinh sống khá
đông đúc. Vì vậy việc có một chính sách ngơn ngữ hợp lí là điều rất cần thiết và
cấp bách trong tình trạng hiện nay.
Đảng và Nhà nuớc ta đã có rất nhiều chính sách khác nhau cho vấn đề dân
tộc trên cả nước. Trước tiên, cần phải có một chính sách về vấn đề song ngữ hợp
lí. Chính sách này coi vấn đề bình đẳng giữa các dân tộc lên hàng đầu. Cần phải
xoá bỏ tận gốc sự chên lệch giữa các dân tộc, nhất là giữa các dân tộc rất phát
triển như Thaí, Muờng với các dân tộc kém phát triển như Ơ Đu, Chứt, Tà
ôi...Phải hỗ trợ kinh tế cho các dân tộc thiểu số ít người, đảm bảo về đời sống vật
chất cho bà con, từ đó nâng cao đời sống cho họ.
Chúng ta cần thức đẩy sự nghiệp giáo dục ngơn ngữ, trong đó có giáo dục
tiếng mẹ đẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt là những dân tộc có số lượng
cực ít như Ơđu.
Ngồi ra, các cấp chính quyền của các tỉnh Bắc Ttung Bộ phải có kế hoạch
từng bước ổn dịnh, phát triển kinh tế xã hội vùng có nhièu dân tộc miền núi.
Quốc hội hoặc Chính Phủ cần có Nghị quyết mang tính pháp lí quy định
cán bộ cơng chức ở một số ngành làm việc ở vùng dân tộc miền núi phải nắm
được ngôn ngữ dân tộc phổ biến ở vùng đó. Nhất là các vùng có đơng dân tộc
12
Thái (miền Tây Thanh Hóa, Nghệ An) và Mường (Thanh Hoá và rải rác ở NGhệ
An, Hà Tĩnh).
Giáo viên ở các vùng có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống và học tập phải
có hiểu biết về tiếng dân tộc nơi mà họ đang công tác để không những giúp đỡ
họ trong việc giảng dạy tốt các học sinh mà cịn giúp họ có được vị thế quan
trong trong đời sống vùng dân tộc thiểu số.
Nhà nước và Bộ Giáo Dục và Đào Tạo nên thấy vấn đề giáo dục tiếng mẹ
đẻ cho dồng bào dân tộc thiểu số là thực sự cấp bách. Và để thực hiện nhiẹm vụ
này, công việc đầu tiên là phải chuẩn bị một đội ngũ giáo viên sẵn sàng đáp ứng
các công việc ấy. Phải dẩy mạnh việc đào tạo và bồi dưỡng giáo viên dạy tiếnh
dân tộc. Chính quyền địa phuơng nên có một chương trình đào tạo cán bộ nịng
cốt là nguời dân tộc thiểu số, bồi dưỡng cho họ những kiến thức sư phạm, xã hội
rồi đưa họ trở lại công tác, giảng dạy tại chính vùng dân tộc thiểu số mà họ đang
sinh sống.
Cần phải xây dựng chương trình bộ môn tiếng dân tộc, biên soạn sách giáo
khoa, tài liệu cần thiết
Cần xác lập một hệ thống đào tạo tiếng dân tộc trong các trường đại học,
các trường cao đẳng ở trung ương và địa phương và dành kinh phí thích đáng
cho việc đào tạo này. Ở Bắc Trung Bộ, dân tộc Thái và Muờng sinh sống đông
13
đúc nhất, vì vậy việc đưa hai ngơn ngữ dân tộc thiểu số này vào chuơng trình
giảng dạy ở một số khoa tại trường đạihọc lớn như Đại học Vinh, Đại học Huế là
rất cần thiết. Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy phải tơn trọng ngun tắc trong
giáo dục tiếng mẹ đẻ cho người dân tộc, phải xuất phát từ lợi ích tự thân của
người thụ hưởng giáo dục. Cần phải điều chỉnh lại chuơng trình ngữ văn tại một
số trường, trong đó phải tính đến chương trình ngữ văn dân tộc.
Ngay bây giờ cần phải xây dựng một đề tài nghiên cứu để xác định chủ
thuyết khoa học cho vấn đề dạy tiếng mẹ đẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số. Nhất
là đối với những dân tộc ít người nhu Ơđu, Chứt, Lào,...
Đối với những dân tộc đã có phát thanh, phát hình như Thái, Mường
chúng ta cần phải tăng thời lượng phát sóng, phong phú các chương trình. Phải
có kế hoạch, chương trình lâu dài, đi sâu vào đời sống của bà con dân tộc, lấy họ
làm đối tượng chính để khai thác các chương trình. Cần phải xây dựng các
chương trình có ảnh hưởng tích cực đến lối sống, nhận thức của bà con các dân
tộc thiểu số tại đây. Thêm vào đó, với các dân tộc thiểu số có đơng dân cư như
Lào, Dao, Mơng, THổ, Bru-Vân Kiều, Cơ Tu, Tà Ơi cần phai xây dựng chuong
trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc này để nó ngày càng phát triển.
Ngồi ra, cần phải tiếp tục đưa tiếng Thái, tiếng Mường vào chương trình
giảng dạy khơng chỉ trong các trường Cao đẳng Đại học tại địa phưong mà còn
14
cần phải đưa vào các trường Trung học cơ sở, Trung học phổ thơng, nơi có đơng
con em hai dân tộc này sinh sống và theo học, để từ đó thấy được tầm quan trọng
của tiếng dân tộc và khiến cho học sinh và sinh viên ở đây thêm yêu và trân
trọng tiếng nói của đồng bào mình.
Bên cạnh đó, với những dân tộc chưa có chữ viết như Ơđu, Chứt, Khơ mú,
Đảng và chính quyền địa phương cần gấp rút đề ra các phương án thiết thực để
xây dựng chữ viết riêng cho các dân tộc ấy.
Để sử dụng tiếng nói và chữ viết của các dân tộc thiểu số được phát truển
rộng rãi và vững chắc, Sở Giáo dục và Đào tạo và các ban ngành ở các tỉnh BẮc
Trung Bộ phải tăng cường việc tuyên truyền và sử dụng tiếng dân tộc trong đời
sống, làm phong phú thêm nền văn hoá vùng. Thường xuyên tổ chức các chương
trình giao lưu, gặp gỡ, các buổi sinh hoạt văn hố giữa các dân tộc trong vùng để
đồng bào có thể tìm hiểu kinh nghiệm của nhau, tăng thêm tinh thần đoàn kết
giữa các dân tộc trong vùng.
III. Kết luận
Trong thời đại hiện nay, vấn đề dân tộc mà trong đó trước hết là vấn đề
ngơn ngữ văn hố dân tộc đã, dang và sẽ là vấn đề nóng bỏng của nhiều quốc gia
khác nhau, trong đó khơng thể thiếu Việt Nam. Đẻ đảm bảo cho sự phát triển bền
15
vững trong tương lai, mỗi dân tộc hay mỗi quốc gia nhất thiết phải xây dựng
chiến lược phát triển ngôn ngữ văn hố dân tộc của riêng mình. Xuất phát từ mục
tiêu phát triển bình đẳng các dân tộc anh em trong một quốc gia đa dân tộc, đem
lại no ấm, hạn phúc cho mọi người, Đảng và Nhà nước ta đã sơm hoạch định cho
mình một chính sách ngơn ngữ văn hoá dân tộc. Tuy nhiên đây là một vấn đề
khơng phải một sớm một chiều có thể giải quyết xong được mà nó cần sự đồng
lịng của tồn thể nhân dân các dân tộc trên đất nước, cùng quyết tâm thực hiện
xây dựng một khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng vững mạnh hơn.
16