CHUYÊN ĐỀ TRUYỆN KIỀU – NGUYỄN DU
I. Tác giả:
* Thời đại: - Sinh trưởng trong một thời đại có nhiều biến động dữ dội, xã hội
phong kiến VN bước vào thời kì khủng hoảng sâu sắc, khởi nghĩa Tây Sơn
"một phen thay đổi sơn hà". Tây Sơn thất bại, chế độ phong kiến triều
Nguyễn được thiết lập. Những thay đổi lớn lao của lịch sử đã tác động sâu sắc
tới tình cảm và nhận thức của Nguyễn Du khiến ông hướng ngòi bút vào hiện
thực.
* Gia đình:
- Sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan to và có
truyền thống về văn học. Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ chức tể
tướng. Anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản cũng từng làm quan to dưới
triều Lê - Trịnh. Nhưng cuộc sống "êm đềm tướng rủ mang che" với Nguyễn
Du không được bao lâu.
* Bản thân:
- Nguyễn Du sinh năm 1765, mất năm 1820.
- Tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê làng Tiên Điền, huyện Nghi
Xuân, Hà Tĩnh.
- Nhà thơ mồ côi cha năm 9 tuổi và mồ côi mẹ năm 12 tuổi.
- Trưởng thành:
+ Khi thành Thăng Long bị đốt, tư dinh của Nguyễn Khản cháy, Nguyễn Du
đã phải lưu lạc ra đất Bắc (quê vợ ở Thái Bình) nhờ anh vợ là Đoàn Nguyễn
Tuấn 10 năm (1786-1796)
+ Từ một cậu ấm cao sang, thế gia vọng tộc, từ một viên quan nhỏ đầy lòng
hăng hái phải rơi vào tình cảnh sống nhờ, 10 ấy tâm trạng Nguyễn Du vừa
ngơ ngác vừa buồn chán, hoang mang, bi phẫn.
+ Khi Tây Sơn tấn công ra Bắc (1786), ông phò Lê chống lại Tây Sơn nhưng
không thành. +
Năm 1796, định vào Nam theo Nguyễn Ánh chống lại Tây Sơn nhưng bị bắt
giam 3 tháng rồi thả. + Từ năm 1796 đến
năm 1802, ông ở ẩn tại quê nhà.
+ Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, trọng Nguyễn Du có tài, Nguyễn Ánh
mời ông ra làm quan. Từ chối không được, bất đắc dĩ ông ra làm quan cho
triều Nguyễn.
+ 1802: Làm quan tri huyện Bắc Hà.
+ 1805-1808: làm quan ở Kinh Đô Huế.
+ 1809: Làm cai bạ tỉnh Quảng Bình.
+ 1813: Thăng chức Hữu tham tri bộ Lễ, đứng đầu một phái đoàn đi sứ
sang Trung Quốc lần thứ nhất (1813 - 1814).
+ 1820, chuẩn bị đi sứ sang Trung Quốc lần 2 thì ông nhiễm dịch bệnh
ốm rồi mất tại Huế (16-9-1802). An táng tại cánh đồng Bàu Đá (Thừa
Thiên - Huế).
+ 1824, con trai ông là Nguyễn Ngũ xin nhà vua mang thi hài của ông về an
táng tại quê nhà.
- Cuộc đời ông chìm nổi, gian truân, đi nhiều nơi, tiếp xúc nhiều hạng người.
Cuộc đời từng trải, vốn sống phong phú, có nhận thức sâu rộng, được coi là
một trong 5 người giỏi nhất nước Nam.
- Là người có trái tim giàu lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc với những
người nghèo khổ, với những đau khổ của nhân dân. Tác giả Mộng Liên
Đường trong lời tựa Truyện Kiều đã viết: “Lời văn tả ra hình như máu chảy ở
đầu ngọn bút, nước mắt thấm tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía,
ngậm ngùi, đau đớn đến dứt ruột. Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo,
tả cảnh cũng hệt, đàm tình đã thiết. Nếu không phải con mắt trong thấu cả
sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy”.
=> Những yếu tố trên đã góp phần tạo nên một Nguyễn Du - thiên tài văn học
của VN, được công nhận là “Danh nhân văn hóa thế giới”
II. Sự nghiệp văn chương
- Chữ Hán: Ba tập thơ có tổng số 243: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp
ngâm, Bắc hành tạp lục.
- Chữ Nôm: Có Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh), Văn chiêu hồn (Văn tế
thập loại chúng sinh)….
III. Tác phẩm Truyện kiều
1 Thời gian sáng tác: Từ 1805 - 1809
2- Nguồn gốc: Dựa theo cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm
Tài Nhân - TQ.
3 - Sáng tạo của Nguyễn Du:
+ Nội dung: Từ một câu chuyện tình biến thành khúc ca đau lòng thương
người bạc mênhk, nói lên "những điều trông thấy" trong giai đoạn lịch sử đầy
biến động của VN cuối Lê đầu Nguyễn.
+ Nghệ thuật:
- Chuyển thể từ văn xuôi sang thể thơ lục bát.
- Lược bỏ một số chi tiết về mưu mẹo và một số chi tiết khác của nhân vật
trong "Kim Vân Kiều truyện"
- Sáng tạo thêm một số chi tiết mới để tô đậm về tình người.
- Biến các sự kiện chính của tác phẩm thành đối tượng để bộc lộ cảm xúc, tình
cảm của nhân vật và người kể.
- Chuyển trọng tâm của truyện từ sự kiện sang nội tâm nhân vật chính.
- Ngòi bút tả cảnh, tả tình, tả người rát điêu luyện đã làm cho các nhân vật
sống động hơn, sâu sắc hơn.
4. Thể loại: Truyện Nôm: loại truyện thơ viết bằng chữ Nôm. Truyện có khi
được viết bàng thể thơ lục bát. Có hai loại truyện Nôm: truyện nôm bình dân
hầu hết không có tên tác giả, được viết trên cơ sở truyện dân gian; truyện
Nôm bác học phần nhiều có tên tác giả, được viết trên cơ sở cốt truyện có sẵn
của văn học Trung Quốc hoặc do tác giả sáng tạo ra. Truyện Nôm phát triển
mạnh mẽ nhất ở nửa cuối thể ký XVIII và thế kỷ XIX.
5. Ý nghĩa nhan đề:
Truyện Kiều có 2 tên chữ bán và 1 tên chữ nôm.
- Tên chữ hán: Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân: tên của 3
nhân vật trong truyện: Kim Trọng, Thuý Vân, Thuý Kiều.
Đoạn trường tân thanh: tiếng kêu mới về nỗi đau thương đứt ruột: bộc lộ
chủ đề tác phẩm (tiếng kêu cứu cho số phận người phụ nữ).
- Tên chữ nôm: Truyện Kiều: Tên nhân vật chính - Thuý Kiều (do nhân
dân đặt).
6. Tóm tắt Truyện Kiều.
a. Phần thứ nhất : Gặp gỡ và đính ước.
Vương Thuý Kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, con gái đầu lòng một
gia đình trung lưu lương thiện, sống trong cảnh "êm đềm trướng rủ màn che"
bên cạnh cha mẹ và hai em là Thuý Vân, Vương Quan. Trong buổi du xuân
nhân tiết Thanh minh, Kiều gặp chàng Kim Trọng "phong tư tài mạo tót vời".
Giữa hai người chớm nở một mối tình đẹp. Kim Trọng dọn đến ở trọ cạnh nhà
Thuý Kiều. Nhân trả chiếc thoa rơi, Kim Trọng gặp Kiều bày tỏ tâm tình. Hai
người chủ động, tự do đính ước với nhau.
b. Phần thứ hai : Gia biến và lưu lực
Trong khi Kim Trọng về Liêu Dương chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc
oan. Kiều nhờ Vân trả nghĩa cho Kim Trọng còn nàng thì bán mình chuộc
cha. Nàng bị bọn buôn người là Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt, đẩy
vào lầu xanh. Sau đó, nàng được Thúc Sinh – một khách làng chơi hào phóng
– cứu vớt khỏi cuộc đời kỹ nữ. Nhưng rồi nàng lại bị vợ cả của Thúc Sinh là
Hoạn Thư ghen tuông, đầy đoạ. Kiều phải trốn đến nương nhờ nơi cửa Phật.
Sư Giác Duyên vô tình gửi nàng cho Bạc Bà - một kẻ buôn người như Tú Bà,
nên Kiều lần thứ hai rơi vào lầu xanh. Tại đây, nàng gặp Từ Hải, một anh
hùng đội trời đạp đất. Từ Hải lấy Kiều, giúp nàng báo ân báo oán. Do mắc lừa
quan tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến. Từ Hải bị giết. Kiều phải hầu đàn hầu
rượu Hồ Tôn Hiến rồi ép gả cho viên thổ quan. Đau đớn, tủi nhục, nàng trẫm
mình ở sông Tiền Đường và được sư Giác Duyên cứu, lần thứ hai Kiều nương
nhờ cửa Phật.
c. Phần thứ ba: Đoàn tụ:
Sau nửa năm về chịu tang chú, Kim Trọng trở lại tìm Kiều. Hay tin gia
đình Kiều gặp tai biến và nàng phải bán mình chuộc cha, chàng vô cùng đau
đớn. Tuy kết duyên với Thuý Vân nhưng chàng vẫn không thể quên mối tình
đầu say đắm. Chàng quyết cất công lặn lội đi tìm Kiều. Nhờ gặp được sư Giác
Duyên mà Kim, Kiều tìm được nhau, gia đình đoàn tụ. Chiều theo ý mọi
người, Thuý Kiều nối lại duyên cũ với Kim Trong nhưng cả hai cùng nguyện
ước “Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.
7: Giá trị
7.1 Giá trị nội dung
a. Giá trị hiện thực:
a1. Truyện Kiều phản ánh bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và thế lực
hắc ám chà đạp lên quyền sống của con người.
* Bọn quan lại :
- Quan lại xử kiện vụ án Vương Ông vì tiền chứ không vì lẽ phải.
- Quan tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến là kẻ bất tài, nham hiểm, bỉ ổi và
trâng tráo.
* Thế lực hắc ám:
- Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh… là những kẻ táng tận lương tâm. Vì
tiền, chúng sẵn sàng chà đạp lên nhân phẩm và số phận con người lương
thiện.
a2. Truyện Kiều phơi bày nỗi khổ đau của những con người bị áp bức, đặc
biệt là người phụ nữ.
- Vương Ông bị mắc oan, cha con bị đánh đập dã man, gia đình tan nát.
- Đạm Tiên, Thuý Kiều là những người phụ nữ đẹp, tài năng, vậy mà kẻ thì
chết trẻ, người thì đoạ đày, lưu lạc suốt 15 năm.
=> Truyện Kiều là tiếng kêu thương của những người lương thiện bị áp
bức, bị đoạ đày.
a3- Lên án sức mạnh tác oai tác quái của đồng tiền là tha hóa con người.
Đồng tiền làm đảo điên xã hội: "Dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì". Đồng
tiền giẫm lên lương tâm con người "Có ba trăm lạng việc này mới xuôi"
b.Giá trị nhân đạo :
- Truyện Kiều là tiếng nói thương tâm, là niềm cảm thương sâu sắc, là tiếng
khóc đau đớn trước số phận bi kịch của con người. Thúy Kiều là nhân vật mà
Nguyễn Du yêu quý nhất. Khóc Thúy Kiều Nguyễn Nguyễn Du khóc cho
những đau đớn của con người : Tình yêu tan vỡ, cốt nhục lìa tan, nhân phẩm
bị chà đạp, thân xác bị đầy đọa.
- Truyện Kiều đề cao con người từ phẩm giá đến hình thức, phẩm chất đến
ước mơ, những khát vọng chân chính.
+ Ca ngợi Thúy Kiều với tài sắc vẹn toàn, hiếu hạnh đủ lường, là nhân vật lí
tưởng tập trung vẻ đẹp của con người.
+ Là bài ca về tình yêu tự do, trong sáng, thủy chung, vượt ra khỏi lễ giáo
phong kiến, những quy tắc thánh hiền về sự cách biệt nam nữ.
+ Là giấc mơ tự do và công lý. Qua hình tượng Từ Hải Nguyễn gửi gắm ước
mơ anh hùng "đội trời đạp đất" làm chủ cuộc đời, trả ân báo oán, thực hiện
công lí ở đời.
=> Phải là người giàu lòng yêu thương, biết trân trọng và đặt niềm tin
vào con người Nguyễn Du mới sáng tạo nên Truyện Kiều với giá trị nhân
đạo lớn lao như thế.
7.2. Giá trị nghệ thuật : TK là kết tinh thành tựu nghệ thuật văn học dân tộc
trên tất cả phương diện:
- Thể loại: Thể thơ lục bát đã đạt đến đỉnh cao rực rỡ.
- Ngôn ngữ: Ngôn ngữ trong TK có sự kết hợp của ngôn ngữ dân gian và
ngôn ngữ bác học để trở thành ngôn ngữ văn chương vô cùng tinh trong sáng
và mĩ lệ, đạt đến đỉnh cao ngôn ngữ nghệ thuật vừa có chức năng biểu đạt
(phản ánh), biểu cảm (bộc lộ cảm xúc) và thẩm mĩ (vẻ đẹp của ngôn từ).
- Nghệ thuật kể chuyện: Có bước phát triển vượt bậc.
+ Ngôn ngữ kể chuyện có 3 hình thức: trực tiếp (lời nhân vật), gián tiếp
(lời tác giả), nửa trực tiếp (lời tác giả mang suy nghĩ, giọng điệu nhân vật).
Nhân vật trong truyện xuất hiện với cả con người hành động và con người
cảm nghĩ, có biểu hiện bên ngoài và thế giới bên trong sâu thẳm.
+ Thành công ở thể loại tự sự, có nhiều cách tân sáng tạo, phát triển vượt
bậc trong ngôn ngữ thơ và thể thơ truyền thống.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Khắc hoạ nhân vật qua phương thức tự sự,
miêu tả chỉ bằng vài nét chấm phá mỗi nhân vật trong Truyện Kiều hiện lên
như một chân dung sống động. Cách xây dựng nhân vật chính diện thường
được xây dựng theo lối lý tưởng hoá, được miêu tả bằng những biện pháp ước
lệ, nhưng rất sinh động. Nhân vật phản diện của Nguyễn Du chủ yếu được
khắc hoạ theo lối hiện thực hoá, bằng bút pháp tả thực, cụ thể và rất hiện thực
(miêu tả qua ngoại hình, ngôn ngữ, hành động… của nhân vật).
- Nghệ thuật miêu tả tài tình , bên cạnh bức tranh thiên nhiên chân thực
sinh động (Cảnh ngày xuân), có những bức tranh tả cảnh ngụ tình đặc sắc
(Kiều ở lầu Ngưng Bích).
Chị em Thúy Kiều
I. Vị trí đoạn trích: Từ câu 15 – 38.
II. Kết cấu đoạn trích: 4 phần
+ Bốn câu đầu: giới thiệu khái quát hai chị em Thuý Kiều. ( Chân dung
chung của hai chị em)
+ Bốn câu tiếp: gợi tả vẻ đẹp Thuý Vân.
+ Mười hai câu còn lại: gợi tả vẻ đẹp thuý Kiều.
+ Bốn câu cuối: nhận xét chung về cuộc sống của hai chị em.
III: Giá trị nội dung và nghệ thuật:
* Nội dung: Khắc hoạ rõ nét chân dung tuyệt mĩ của chị em Thuý Kiều, ca
ngợi vẻ đẹp, tài năng và dự cảm về số phận nhân vật, đặc biệt là kiếp người
tài hoa bạc mệnh của Thuý Kiều.
* Nghệ thuật: Sử dụng bút pháp ước lệ - lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm
nổi bật vẻ đẹp của con người. Nhà văn không miêu tả chi tiết cụ thể mà chủ
yếu là tả để gợi. Sử dụng biện pháp đòn bẩy làm nổi bật hình ảnh Thuý Kiều.
* Giải nghĩa từ ngữ:
- Tố Nga: chỉ người con gái đẹp.
- Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần:
tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên
dáng, thanh cao, trong trắng.
- Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như trăng tròn; nét ngài nở
nang: ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp
phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Tiếng Việt có câu “mắt phượng mày
ngài”.
- Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về người phụ nữ)…
- Làn thu thuỷ: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu
thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp thanh thoát
như nét núi mùa xuân.
- Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là:
ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì
nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có
thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
IV. Đề Tập làm văn:
*Đề 1: Phân tích đoạn trích “ Chị em Thúy Kiều”.
1. Mở bài: Nguyễn Du là một thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
Tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm “Truyện Kiều” - kiệt tác số một của
văn học trung đại Việt Nam. Truyện Kiều là một bài ca lớn về giá trị nhân
đạo, một bản cáo trạng nghiệm khắc về cái ác, cái xấu trong xã hội - một tập
đại thành của nghệ thuật văn chương. Chỉ xét riêng về nghệ thuật miêu tả
nhận vật, Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao chói lọi nhất trong lịch sử tiểu
thuyết bằng thơ trích đoạn “Chị em Thúy Kiều” đả thể hiện được trọn vẹn vẻ
đẹp, tài năng và đức hạnh của hai chị em Thúy kiều. Chỉ bằng 24 câu thơ lục
bát, Nguyễn Du đã miêu tả cả tài, sắc và đức hạnh của hai chị em Kiều với tất
cả lòng quý mến, trân trọng của nhà thơ.
a- Bốn câu đầu:
Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã giới thiệu chung về vị trí, thứ bậc và
đánh giá khái quát về hai Kiều:
“ Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân”
Lời thơ ngắn gọn, súc tích, với phương thức tự sự gói gọn trong 14
chữ nhà thơ đã giới thiệu chúng ta biết đầy đủ thông tin về hai Kiều. Đó là hai
người con gái đầu lòng của gia đình họ Vương. Thuý Kiều là chị, em là Thuý
Vân. Cách giới thiệu theo đúng trình tự chị trước, em sau. Việc sử dụng kết
hợp các đại từ nhân xưng “ ả, chị, em” với danh từ riêng “Thuý Kiều, Thuý
Vân”, giữa từ thuần Việt với từ Hán – Việt khiến cho lời giới thiệu vừa tự
nhiên vừa trang trọng. Tuy lời thơ chỉ đơn thuần giới thiệu vị trí, thứ bậc hai
cô gái nhưng đã giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của hai nàng. Qua hai
từ “ tố nga” ta biết đây là hai cô gái đẹp. Nhân vật chưa xuất hiện nhưng vẻ
đẹp đã ngời sáng, tỏa rạng như ánh trăng rằm.
Đến câu thơ sau nhà thơ tập trung miêu tả vẻ đẹp chung của hai nàng
“Mai cốt cách, tuyết tinh thần”.
Bằng bút pháp miêu tả qua hai hình ảnh ước lệ, ẩn dụ, thiên tài Nguyễn
Du đã phác hoạ vẻ đẹp toàn mĩ trong cốt cách và phẩm hạnh của hai chị em. “
Mai, tuyết” vốn là biểu tượng cho vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời được so sánh
với vẻ đẹp của hai nàng, Qua đó ta thấy cả hai Kiều đều có cốt cách yểu điệu,
duyên dáng, mềm mại như mai; tâm hồn, phẩm hạnh thanh cao, trắng trong
như tuyết. Đó là vẻ đẹp hoàn mĩ từ hình thức đến tâm hồn, phẩm giá. Biểu
tượng thiên nhiên “ mai”, “tuyết” đã tôn vẻ đẹp của hai chị em lên đến độ
toàn bích trong cách nói kiệm lời, cô đúc của thi sĩ. Từ việc gợi tả khái quát
vẻ đẹp chung của hai người con gái, ông đã khẳng định:
“Mỗi người một vẻ / mười phân vẹn mười”
Với cách ngắt nhịp 4/4, nghệ thuật tiểu đối, cách sử dụng thành ngữ
Tiếng Việt (mười phân vẹn mười) và phương thức biểu đạt biểu cảm, tác giả
đã khẳng định cả hai đều là những trang tuyệt sắc giai nhân. Lời khen của thi
nhân chia đều cho cả Kiều và Vân. Nhưng nét bút lại muốn đậm nhạt “ mỗi
người một vẻ”, vì thế, những lời thơ tiếp theo, thi sĩ đã tập trung rọi sáng chân
dung của từng người.
2/ Mười sáu câu tiếp theo: Nguyễn Du khắc hoạ cụ thể hai bức chân
dung Thuý Vân và Thuý Kiều.
a/ Thuý Vân- người con gái phúc hậu, đoan trang:
*Nhan sắc: Bốn câu thơ đầu là bức tranh gợi tả nhan sắc của Thúy Vân. Đó
là một trang giai nhân tuyệt sắc. Khi giới thiệu về thứ bậc trong gia đình,
Nguyễn Du đã viết: “Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân”. Lẽ thường bao giờ
cũng vậy, đặc biệt trong xã hội phong kiến khi mà mọi lễ nghi phải đúng theo
quy tắc. Nhưng ở đây thì khác, tác giả muốn muốn đặt vấn đề đường nét, màu
sắc đậm nhạt lên hàng đầu nên đã không tuân thủ điều này. Vì vậy, nét bút
đầu tiên thi sĩ đã dành cho Thuý Vân nét bút khái quát vẻ đẹp của nàng:
“Vân xem trang trọng khác vời”
Mỗi câu thơ là một nét vẽ tài hoa về bức chân dung của giai nhân.Từ
Hán Việt “ trang trọng” gợi cảm nhận chung về vẻ đẹp của Thúy Vân. Đó là
vẻ đẹp Thuý Vân, đó là vẻ đẹp cao sang, quý phái. Nhưng vẻ đẹp của Vân
khác với vẻ đẹp của những cô gái khác. Vẻ “trang trọng” của nàng có nét
riêng. Từ thuần Việt “ khác vời” gợi tả vẻ đẹp vượt lên, trội hẳn và khó lẫn.
Từ lời nhận xét chung đó, Nguyễn Du tiếp tục phác hoạ những nét cụ thể
hơn.
“Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang.
Có thể thấy bút pháp ước lệ tượng trưng được sử dụng vô cùng hiệu quả
khi gợi tả nhan sắc của Thúy Vân. “Khuôn trăng”, “nét ngài” là hai hình ảnh
ước lệ giúp người đọc thấy được Thúy Vân có khuôn mặt phúc hậu, tròn trịa,
tươi sáng như trăng rằm, lông mày sắc nét, đậm như con ngài. Khuôn mặt như
đẹp hơn, rạng rỡ và tươi sáng hơn khi Thuý Vân cười. “ Hoa cười” là hình
ảnh có sức gợi một nụ cười tươi tắn, rạng rỡ như cánh hoa mới nở. Đó không
chỉ là sự tươi tắn của nụ cười mà còn là sự tươi tắn của khuôn mặt, của nhan
sắc giai nhân.
Vẻ đẹp đoan trang, quý phái của Thuý Vân còn bộc lộ trong ngôn ngữ, lời
nói của nàng. Mỗi khi Thuý Vân “thốt” ra thì âm thanh nghe nhẹ nhàng,
trong trẻo như “ngọc” vậy. Động từ “thốt” thể hiện cách nói năng của nàng
rất đúng mực…Điều này phù hợp với tính cách của nhân vật. Vẻ đẹp của
Thuý Vân có cái bằng nhưng cũng có cái hơn thiên nhiên, tạo hoá:
“Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Nguyễn Du đã dùng nghệ thuật so sánh để làm nổi bật vẻ đẹp của TV.
Mái tóc của Vân óng ả, bồng bềnh, mềm mại hơn cả mây. Làn da của nàng
mịn màng, trắng sáng hơn cả tuyết. Nguyễn Du đã mượn những hình ảnh đẹp
đẽ tinh khôi của thiên nhiên đất trời để so sánh với vẻ đẹp của nàng, có cái
bằng và có cái hơn. Nhưng vẻ đẹp đó lại tạo nên một sự hoà hợp với thế giới
xung quanh. Với vẻ đẹp ấy, thiên nhiên sẵn sàng chấp nhận chịu “thua”, chịu
“nhường”. Nghệ thuật nhân hoá khiến thiên nhiên như có hình thể và tính
cách như con người.
=>Rõ ràng, Thuý Vân đẹp - một vẻ đẹp khá sắc nét nhưng vẫn hồn hậu,
thuỳ mị. Vẻ đẹp viên mãn ấy như lọt giữa đường của cái chân và cái thiện.
Đó là vẻ đẹp rất dễ chiếm được cảm tình. Nó trong trẻo như suối đầu nguồn,
như trăng đầu tháng. Tất cả ngôn từ như đều muốn làm nổi bật điều này. Nó
nhất quán trong phạm trù chuẩn mực, ai cũng chấp nhận, kể cả khuôn phép lễ
giáo và sự tuyệt đối của thiên nhiên.
* Tính cách: Với bút pháp ước lệ, Nguyễn Du đã giúp người đọc cảm nhận
được chân dung của TV. Qua bức chân dung ấy ta còn thấy được tính cách
của nàng. Đó là một cô gái đoan trang, thùy mị.
* Số phận: Đặc biệt bức chân dung ấy còn có sức gợi liên tưởng đến số phận
của Thúy Vân. Các từ “ đầy đặn”, “ nở nang” sử dụng thật giản dị nhưng sức
diễn tả lại rất lớn. Nó không chỉ gợi tả sự đầy đặn, nở nang trong nhan sắc mà
đây còn là sự đầy đặn, mĩ mãn của số phận, của cuộc đời nàng
Hai từ “ thua”, “ nhường” khi miêu tả nhan sắc TV được sử dụng rất tinh
diệu. Nó vừa đặc tả vẻ đẹp, vừa thể hiện sự dự cảm của Nguyễn Du về số
phận của nàng – một số phận, một cuộc đời bình lặng, êm ả Nàng sinh ra
dường như là để hưởng cuộc sống phong lưu, an nhàn, phú quý.
=> Với bốn dòng thơ thôi vậy mà cũng đủ vẽ lên một sắc đẹp tươi tắn,
trẻ trung, kiều diễm của một cô gái đang độ trăng tròn. Qua bức chân dung đó
ta cảm nhận được vẻ đẹp tính cách và số phận của nhân vật. TV có nhan sắc
sang trọng, đoan trang, quý phái, tính cách thùy mị, số phận phong lưu, an
nhàn, suôn sẻ.
Bức chân dung ấy đã phần nào thể hiện được con mắt nhìn người sâu
sắc và nghệ thuật miêu tả bậc thầy của Nguyễn Du.
b/ Thuý Kiều- một giai nhân tài sắc vẹn toàn:
Mặc dù tả Thuý Vân khá kĩ lưỡng nhưng Nguyễn Du vẫn còn chỗ
dành cho Thuý Kiều. Cái chỗ ấy chiếm một khoảng không gian không lớn
nhưng rất quan trọng. Đến đây, chúng ta mới hiểu rõ vì sao tác giả lại tả cô
em trước, cô chị sau. Thì ra tả Vân mục đích là làm nổi bật Kiều:
‘Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Nhà thơ dùng nghệ thuật so sánh, đòn bẩy, nghệ thuật “tả khách hình
chủ” (mượn khách để nói chủ, mượn Vân để tả Kiều). Với nghệ thật đó, Thuý
Vân trở thành điểm tựa để chân dung Thuý Kiều nổi lên, trội hẳn. Thuý vân
đã được tả như một cô gái đẹp hoàn hảo, đằm thắm nhưng chưa đến mức mặn
mà, thông tuệ nhưng chưa phải là sắc sảo. Vẻ đẹp của Thuý kiều vượt lên trên
cái hoàn hảo ấy để trở thành cái đẹp tuyệt mĩ, toàn bích. Chính phó từ “càng”
đã khẳng định điều đó. Kiều không chỉ sắc sảo mặn mà trong hình sắc mà
còn sắc sảo về trí tuệ và “ mặn mà” trong tình cảm, trong tình người. Và
chính cái đẹp sắc sảo, mặn mà đó mới là cái đẹp tuyệt đỉnh của người con gái.
Một chữ “mặn mà” thật đúng với con người Thuý kiều biết bao!
* Nhan sắc:
Khác với Thuý Vân, khi gợi tả vẻ đẹp của Thuý Kiều, Nguyễn Du
không liệt kê, không miêu tả chi tiết, cụ thể. Ngòi bút của ông chỉ ngưng đọng
ở đôi mắt – một đôi mắt hoàn mĩ:
“ Làn thu thuỷ, nét xuân sơn”
Đôi mắt ấy đẹp như một bức tranh, long lanh, trong sáng như làn
nước mùa thu gợn sóng. Nó không chỉ đẹp, có sức cuốn hút mãnh liệt mà nó
còn có tình, ẩn chứa một sự tinh anh trong tâm hồn và trí truệ. Như vậy, khi
miêu tả chân dung Thuý Kiều, Nguyễn Du không chỉ gợi tả “sắc” mà còn thể
hiện cái “tình” của nàng. Đôi mắt ấy lại ẩn dưới lớp lông mày thanh tú, tươi
tắn như dáng núi mùa xuân. Sự kết hợp tuyệt diệu đó càng làm cho vẻ đẹp của
Thuý Kiều thêm hài hoà, kiều diễm hơn nhiều phần. Cũng là nét ngài nhưng
thay cho “nét ngài nở nang” là sự mơn mởn của “nét xuân sơn”. Để rồi “sơn”
đi với “thuỷ” thật là hữu tình. Những hình ảnh trong trẻo mỹ lệ của thiên
nhiên dưới hình thức nghệ thuật ẩn dụ, ước lệ, tượng trưng, tiểu đối được sử
dụng tuyệt vời như đúc lại vẻ đẹp của giai nhân trong câu thơ sáu chữ để rồi
mở rộng hơn, nâng cao hơn vẻ đẹp ấy đến tột đỉnh trong một so sánh khái
quát:
“ Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
- Với Thuý Vân – một người con gái có vẻ đep đoan trang, phúc hậu, có tính
chất thung dung điềm đạm, thiên nhiên sẵn sàng “thua” và “ nhường” còn vẻ
đẹp của Kiều khiến cho hoa cũng phải “ghen”, liễu cũng phải “ hờn”, hay nói
cách khác nhìn vẻ đẹp của Thuý Kiều thiên nhiên, tạo hoá nhận ra khuyết
điểm của mình, để rồi mặc cảm với chính mình. Từ đó mới nảy sinh thái độ
ghen ghét, đố kị. Nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, nhân hoá, tiểu đối được sử dụng
một cách tài tình khiến cho tính chất đố kị của thiên nhiên với vẻ đẹp của
Kiều càng tăng thêm gấp bội.
- Với việc sử dụng thành ngữ Tiếng Việt và điển cố văn học “Một hai
nghiêng nước nghiêng thành”, Nguyễn Du đã khẳng định: Kiều có một vẻ
đẹp tuyệt thế giai nhân, trên đời không ai sánh bằng (Sắc đành đòi một – nhan
sắc thì chỉ có một mình kiều mà thôi). Nhan sắc của Thuý Kiều rõ ràng thuộc
đẳng cấp khác, ở bên kia của giới hạn thông thường.
* Tài năng: Kiều không chỉ đẹp mà còn là một cô gái thông minh và rất
mực tài hoa. Nguyễn Du đề cao sắc đẹp của Kiều nhưng ông chỉ miêu tả sắc
đẹp trong ba câu thơ, trong khi đó lại dành tới sáu câu thơ để nói về tài năng
của nàng. Phải chăng đó là một dụng ý nghệ thuật của ông. Nếu như khi nói
về Thuý Vân, nhà thơ chỉ miêu tả nhan sắc thì với Thuý Kiều ông lại rất chú
trọng đến tài năng . Sáu câu thơ liên tiếp miêu tả tài năng trên mọi phương
diện của nàng :
" Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ắn đứt hồ cầm một chương
Khúc nhà tay lựa nên chương.
Một thiên tài bạc mệnh lại càng não nhân”.
Kiều là một cô gái " thông minh vốn sẵn tính trời", đó là một trí thông
minh thiên bẩm - một quà tặng của tạo hóa. Không chỉ thông minh, Thúy
Kiều còn rất nhiều tài năng. Theo quan niệm thẩm mỹ phong kiến, một người
con gái có tài năng phải giỏi “ cầm, kì, thi, hoạ” ( đánh đàn, chơi cờ, làm thơ,
vẽ tranh). Kiều đã đạt đến mức lý tưởng ấy. Nàng có một tài năng hiếm có,
một năng khiếu trời. Những chữ “ pha nghề”, “ đủ mùi”, “lầu”, “ ăn đứt”,
“nghề riêng”, “khúc nhà” đã nói đã khẳng định tài của Kiều là toàn diện, tài
nào cũng tuyệt đỉnh. Đặc biệt sở trường hơn người của nàng là đánh đàn:
“Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương”. Nàng còn giỏi nhạc đến mức soạn
riêng cho mình khúc nhạc bạc mệnh ai nghe cũng buồn thảm. Với vẻ đẹp và
tài năng ây, nhà thơ đã khẳng định: “ Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai”
-> Dùng 6 câu thơ để nói về cái tài chính là Nguyễn Du muốn nhấn mạnh
thêm cái sắc đẹp của Thuý Kiều. Đó là vẻ đẹp hoàn mĩ, toàn bích.
* Tình: Tả sắc, kể tài là để gợi cái tình. Kiều không chỉ có một vẻ đẹp mặn
mà, tài năng thiên bẩm mà còn có một tâm hồn đa sâu đa cảm. Bởi vậy không
ngẫu nhiên mà Nguyễn Du là đặc tả đôi mắt của nàng. Và đôi mắt của Thúy
Kiều không chỉ đẹp mà đó còn là một đôi mắt có hồn. Đôi mắt của một con
người đa sầu, đa cảm.
- Sự đa cảm của Kiều còn được thể hiện ngay trong khúc " Bạc mệnh" của
nàng. Cung đàn mà Kiều sáng tác ấy chính là sự ghi lại tiếng lòng của một
trái tim đa sầu, đa cảm, là tiếng nói nội tâm sâu sắc Điều đó không những
chứng tỏ cái “tài” mà còn thể hiện cái “tình” của nàng đối với cuộc đời.
c. Đánh giá nâng cao: Chỉ trong 12 câu thơ ngắn gọn, Nguyễn Du đã ca ngợi
và khẳng định một nhan sắc mặn mà, một tài năng hiếm có, một cái tình
đằm thắm. Tất cả đều đạt đến mức tuyệt mĩ. Tạo hóa đã ban tặng cho nàng
quá nhiều mà ở đời vốn có lẽ công bằng, ca dao đã từng nói :
"Một vừa phải ai ơi
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen".
Bản thân Nguyễn Du cũng đã từng quan niệm : "Chữ tài chữ mệnh
khéo là ghét nhau ; Chữ tài liền với chữ tai một vần". Vậy mà dưới ngòi bút
của Nguyễn Du, vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp cả sắc – tài – tình. Một lần
nữa, chúng ta lại thấy nghệ thuật sử dụng ngôn từ của Nguyễn Du tuyệt vời
đến mức nào. Chỉ với hai chữ “ghen”, “hờn” vậy thôi mà vừa gợi tả được
vẻ đẹp tuyệt mĩ của Thuý Kiều lại vừa dự báo được tương lai, số phận, cuộc
đời của nàng. Đó là một số phận không yên ổn, lênh đênh chìm nổi trong
gió bụi cuộc đời. Ở đây, Nguyễn Du đã lồng sự linh cảm đó trong nét bút tài
hoa gợi tả nhan sắc của Kiều. Hình như một số phận bạc bẽo, éo le đã dành
sẵn trước cho Thuý Kiều.
- Khẳng định tài năng NT của ND: Đoạn trích đã thể hiện bút pháp nghệ
thuật bậc thầy của ND trong việc khắc họa và xây nhân vật. Vẽ chân dung
Thuý Kiều cũng như Thuý Vân, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ,
tượng trưng quen thuộc trong thơ Nôm thời Trung đại. Qua đó, chân dung
mỗi nhân vật hiện lên rất sống động, có hồn. Đặc biệt qua mỗi chân dung đó,
người đọc cảm nhận được tính cách và dự cảm số phận nhân vật.
- Đoạn trích còn thể hiện thái độ trận trọng, ca ngợi của ND đối với người phụ
nữ trong xã hội. Đó là sự thể hiện một phương diện của giá trị nhân đạo.
Giáo sư Đặng Thanh Lê đã nhận xét: Nguyễn Du khắc hoạ chân dung
Thuý Kiều, Thuý Vân để “thể hiện khuynh hướng tâm lí hoá ngoại hình và
hơn thế nữa khuynh hướng thân phận hoá phẩm cách nhân vật”.
c/ Đến bốn câu thơ cuối, Nguyễn Du nhận xét chung về cuộc sống của hai
chị em:
“Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”
Ở đây, ông đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ (Phong lưu rất mực
hồng quần; Êm đềm trướng rủ màn che) để nhấn mạnh cuộc sống phong lưu,
êm đềm của chị em Thuý Kiều. Họ đều đã “ xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập
kê”. Cái hay của câu thơ này là ở cách sử dụng phối hợp các phụ âm một cách
tài tình. Một câu thơ mà thi sĩ đã dùng tới bốn phụ âm “x” ( xuân xanh xấp
xỉ), hai phụ âm “t” ( tới tuần), hai phụ âm “ c – k” (cập kê). Sự cộng hưởng
của các phụ âm này trong một dòng thơ đã tạo nên âm điệu nhẹ nhàng, êm
đềm của cuộc sống yên vui, êm ấm của thiếu nữ phòng khuê. Với việc dùng
một loạt từ Hán – Việt: “Phong lưu”, “hồng quần”, “cập kê” và thành ngữ
Tiếng việt “trướng rủ màn che”, tác giả đã nhấn mạnh cả hai chị em đã đến
tuổi yêu, tuổi lấy chồng. Mặc dù vậy, họ vẫn giữ được nền nếp gia đình:
“ Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Sự đối lập giữa khát vọng và thái độ của chị em Thuý Kiều càng làm tăng
thêm vẻ đẹp về đức hạnh của hai người, khiến ai cũng động lòng trắc ẩn.
Tóm lại, đoạn thơ nói về “ chị em Thuý kiều” là một trong những đoạn thơ
hay nhất, đẹp nhất trong Truyện Kiều. Nó đã để lại cho người đọc biết bao
rung cảm thẩm mĩ. Đoạn trích thể hiện một tài năng nghệ thuật bậc thầy của
Nguyễn Du. Ngôn ngữ cô đúc, lời thơ giàu cảm xúc. Các phép tu từ ẩn dụ, so
sánh, nhân hoá, nghệ thuật đòn bẩy….được Nguyễn Du vận dụng một cách tài
tình. Vì thế, dù ông sử dụng ngôn ngữ hình ảnh ước lệ, tượng trưng, công
thức nhưng bức chân dung của hai thiếu nữ Vân – Kiều vẫn hiện lên một cách
cụ thể hấp dẫn, sinh động và có hồn. Hàm ẩn sau bức chân dung mĩ nhân là cả
một tấm lòng trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp con người là một trong những biểu
hiện của cảm hứng nhân đạo ở Truyện Kiều.
* Một số câu hỏi:
Câu 1: Cảm hứng nhân đạo của tác giả Nguyễn Du thể hiện qua đoạn
trích:
- Trong truyện Kiều, một trong những biểu hiện của cảm hứng nhân đạo là
việc ca ngợi, đề cao những giá trị, phẩm chất của con người như nhan sắc, tài
hoa, nhân phẩm, khát vọng, ý thức về thân phận, nhân phẩm cá nhân.
- Một trong những ví dụ điển hình của cảm hứng nhân đạo ấy là đoạn trích
"Chị em Thuý Kiều". Nguyễn Du sử dụng những hình ảnh đẹp nhất, những
ngôn từ hoa mĩ nhất để miêu tả vẻ đẹp con người, phù hợp với cảm hứng
ngưỡng mộ, ngợi ca giá trị con người. Tác giả còn dư cảm về kiếp người tài
hoa bạc mệnh của Kiều. Đó chính là cảm hứng nhân văn cao cả của Nguyễn
Du xuất phát từ lòng đồng cảm sâu sắc với mọi người.
Câu 2: So sánh đoạn thơ “Chị em Thuý Kiều” với trích đoạn trong
“Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, ta càng thấy được sự
sáng tạo tài tình của Nguyễn Du.
- Nếu như Thanh Tâm Tài Nhân kể về hai chị em Thuý Kiều bằng văn xuôi
thì Nguyễn Du miêu tả họ bằng thơ lục bát.
- Thanh Tâm Tài Nhân chủ yếu là kể về hai chị em Kiều; còn Nguyễn Du
thì thiên về gợi tả sắc đẹp Thuý Vân, tài sắc Thuý Kiều.
- Thanh Tâm Tài Nhân tả Kiều trước, Vân sau: “Thuý Kiều mày nhỏ mà
dài, mắt trong mà sáng, mạo như trăng thu, sắc tựa hoa đào. Còn Thúy Vân
thì tinh thần tĩnh chính, dung mạo đoan trang, có một phong thái riêng khó
mô tả”. Đọc lên ta cảm giác như tác giả tập trung vào Vân hơn, hình ảnh của
Vân nổi bật hơn. Ngay ở đoạn giới thiệu đầu truyện, hình ảnh Kiều cũng
không thật sự nổi bật. Còn Nguyễn Du tả Vân trước làm nền tô đậm thêm vẻ
đẹp của Kiều theo thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy.
- Khi miêu tả, Nguyễn Du đặc biệt chú trọng đến tài năng của Kiều, qua
việc miêu tả ngoại hình, tài hoa còn thể hiện được tấm lòng, tính cách và dự
bảo được số phận nhân vật. Thanh Tâm Tài Nhân không làm được điều đó,
bút pháp cá thể hoá nhân vật của ông không rõ nét bằng của Nguyễn Du.
Nhưng sự khác biệt này đã giải thích vì sao cùng một cốt chuyện mà “Kim
Vân Kiều truyện” chỉ là cuốn sách bình thường, vô danh còn “Truyện Kiều”
được coi là một kiệt tác, Thanh Tâm Tài Nhân chỉ là tác giả không có danh
tiếng, ít người biết đến trong khi Nguyễn Du là một tác giả lớn, một đại thi
hào.
Câu 3: Chỉ ra sự giống và khác nhau trong nghệ thuật miêu tả ngoại hình
nhân vật Thúy Vân, Thúy Kiều ở trích đoạn “ Chị em Thúy Kiều” ( trích “
Truyện Kiều”- Nguyễn Du)
G ợi ý
Học sinh có thể làm theo những cách khác nhau nhưng phải nêu được các ý
sau:
- Đều sử dụng bút pháp ước lệ quen thuộc trong văn học cổ (dùng hình
tượng thiên nhiên đẹp nói vẻ đẹp của con người) để làm nổi bật vẻ đẹp lí
tưởng của 2 chị em, cảm hứng ngợi ca của nhà thơ. Nhưng với mỗi một nhân
vật, tác giả lại tạo một điểm nhấn khác nhau: Thúy Vân là sự “ trang trọng”,
Thúy Kiều là sự “ sắc sảo, mặn mà”. Vì vậy, khi miêu tả Thúy Vân, tác giả
tập trung miêu tả ngoại hình cụ thể sinh động, đầy đủ- những nét gợi vẻ đẹp
tôn quý của nàng: gương mặt, nét ngài, nụ cười, giọng nói, mái tóc, làn da.
Còn khi tả Thúy Kiều tác giả chỉ đặc tả vẻ đẹp đôi mắt của Thúy Kiều làm
nổi bật sự tinh anh, khác thường trong vẻ đẹp của nàng.
- Đều xây dựng chân dung số phận nhưng với cách sử dụng từ ngữ tinh
tế tác giả đã làm nổi bật thái độ khác nhau của thiên nhiên trước vẻ đẹp của
hai nàng và ngầm dự báo số phận khác nhau của họ: Vẻ đẹp của Vân khiến
“mây thua”, “tuyết nhường” báo hiệu một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ; vẻ đẹp
của Kiều khiến “ hoa ghen”, “liễu hờn” báo hiệu một cuộc đời nhiều éo le,
trắc trở.
=> Nghệ thuật khắc họa ngoại hình nhân vật linh hoạt, tinh tế khiến hai
nhân vật hiện lên rất sinh động, đa dạng, “ mỗi người một vẻ”, thể hiện tài
năng bậc thầy của thiên tài Nguyễn Du.