Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Cảnh ngày xuân và Kiều ở lầu Ngưng Bích

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.02 KB, 20 trang )

Cảnh ngày xuân
* Đề bài: Phân tích đoạn trích “ Cảnh ngày xuân”
Dàn ý
1. Mở bài:
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Tên tuổi của nhà thơ
không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn vang xa trên thi đàn thế giới. Sở dĩ tác
giả đạt được niềm vinh quang đó là vì ông đã có một sự nghiệp sáng tác giá
trị, trong đó xuất sắc nhất là Truyện Kiều - tác phẩm lớn nhất của nền văn học
Việt Nam. Cảm hứng nhân đạo và vẻ đẹp ngôn từ của truyện thơ này đã chinh
phục trái tim bao thế hệ bạn đọc trong gần hai trăm năm qua. Đọc đoạn trích
"Cảnh ngày xuân", chúng ta càng cảm phục bút pháp miêu tả cảnh vật giàu
chất tạo hình và man mác xúc cảm của tác giả:
2. Thân bài:
a. Khái quát:
Bên cạnh nghệ thuật tả người, nghệ thật tả cảnh là một thành công đặc
biệt của "Truyện Kiều". Bút pháp ước lệ tuy nghiêng về sự gợi tả, kích thích
trí tưởng tượng của người đọc nhưng vẫn giú ta hình dung rất rõ về bức tranh
thiên nhiên mùa xuân tười đẹp và tâm trạng của người du xuân trong giây
phút trở về. Đoạn thơ có kết cấu theo trình tự thời gian của một cuộc du xuân.
Bốn dòng thơ đầu là khung cảnh mùa xuân. Tám dòng thơ tiếp theo là cảnh lễ
hội trong tiết Thanh minh. Và sáu dòng thơ cuối là cảnh và nỗi lòng của chị
em Thúy Kiều lúc bóng chiều buông xuống.
b. Phân tích:
- Mở đầu đoạn thơ, tác giả đã phác họa được khung cảnh thiên nhiên ngày
xuân đẹp như một bức tranh :
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”
Nhà thơ đã lựa chọn những chi tiết tiêu biểu nhất mang nét đặc trưng
của mùa xuân để khắc họa bức tranh mùa xuân. Chim én vốn là loài chim
nhỏ bé gần gũi đến thân thương của đồng quê Việt Nam, là dấu hiệu đặc trưng
của mùa xuân đất Việt. Hình ảnh “con én đưa thoi” giàu chất tạo hình. Hai


chữ “đưa thoi” đã gợi ra hình ảnh trước mắt người đọc một không gian cao
rộng với những cánh én chao liệng rộn ràng. Nhà thơ Nguyễn Du học tập cách
nói dân gian :
“Thời gian thấm thoắt thoi đưa”
Bởi thế câu thơ này không chỉ gợi không gian mà còn gợi thời gian. Thời gian
mùa xuân đang trôi rất nhanh. Mới đó mà đã bước sang tháng thứ ba, những
ngày cuối cùng của mùa xuân đang đến rất gần.
- Nhà thơ còn điểm vào bức tranh xuân ấy chút ánh sáng của ngày xuân, khi
thời gian mùa xuân đã “ngoài sáu mươi” tức là trời đã sang tháng ba. Nếu
như trước kia, trong thơ của Trần Nhân Tông ta thấy hình ảnh những cánh
bướm bay thì ở đây Nguyễn Du lại chọn biểu tượng của mùa xuân này là ánh
nắng ấm áp. Hai chữ “ thiều quang” gợi ra màu hồng của nắng xuân, sự ấm
áp của khí xuân và cả cái mênh mang của đất trời.
- Bức tranh ngày xuân ấy còn có thêm sắc xanh của cỏ non mơn mởn :
Có non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Nguyến Du là người rất am hiểu văn chương của các bậc tiền nhân. Trong câu
thơ này ông đã tiếp thu yếu tố miêu tả trong thơ cổ.
Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa
(Cỏ thơm liền với trời xanh. Trên cành lê có vài bông hoa)
- Cả thơ cổ và thơ ND đều lấy cỏ mùa xuân làm phông nền cho bức tranh.
Trên bức tranh xuân ấy đều có sự xuất hiện của những bông hoa lê trắng. Tuy
nhiên, nếu thơ cổ chú ý đến hương vị thì thơ ND chú ý đến sắc sắc của cỏ non
mơn mởn. Sắc xanh non ấy kéo dài từ chân mây đến mặt đất tạo thành một
màu xanh bát ngát. Có lẽ nhà thơ muốn gợi kên sức sống mạnh mẽ của mùa
xuân từ sắc xanh bất tận ấy.
- Chỉ bằng hai câu thơ, Nguyễn Du đã thể hiện được cái thần thái của mùa
xuân. Nhà thơ đã khéo léo dùng phép đảo ngữ để dựa tính từ “trắng” lên
trước cụm từ “vài bông hoa” đối xứng với từ “xanh” ở câu thơ trên để tạo

thành bức họa với gam màu tươi tắn. Trên cái nền xanh bát ngát của cỏ non ấy
điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng như tuyết. Hai màu “xanh - trắng” tạo
cảm giác mênh mông mà không hề quạnh vắng, trong sáng mà trẻ trung, nhẹ
nhàng mà thanh khiết. Hai chữ “trắng điểm” đã trở thành nhãn tự của câu thơ,
làm cho bức tranh xuân trở nên sinh động
=> Bốn câu thơ ngắn gọn cùng với những nét chấm phá tài hoa, ND đã vẽ lên
một bức tranh xuân với không gian khoáng đạt, rộng mở, màu sắc tươi tắn,
hương vị ngọt ngào. Một bức tranh trong trẻo, mới mẻ, tinh không và ngập
tràn sức sống.
* Cảnh lễ hội :
Đoạn thơ có sự chuyển tiếp nhịp nhàng, tự nhiên. Từ khung cảnh mùa
xuân tươi mới, êm đềm ấy, nét bút của Nguyễn Du bắt đầu tập trung khắc họa
những hoạt động của con người. Họ là những người đi tảo mộ, đi chơi xuân ở
miền quê kiểng. Và trong lễ hội dập dìu đó chị em Thúy Kiều đang thong thả
chơi xuân:
Thanh minh trong tiết tráng ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Tiết Thanh minh vào đầu tháng ba, khí trời mát mẻ, trong trẻo. Người người
đi viếng, quét dọn, sửa sang và lễ bái, khấn nguyện trước phần mộ tổ tiên. Sau
"lễ tảo mộ" là đến "hội đạp thanh", một hình ảnh quen thuộc trong các cuộc
chơi xuân đầy vui thú ở chốn làng quê. Cách sử dụng điệp từ "lễ là", "hội là"
gợi ấn tượng về sự diễn ra liên tiếp của các lễ hội dân gian, niềm vui tiếp nối
niềm vui.
Không khí lễ hội rộn ràng, huyên náo bỗng hiện ra thật sinh động trong từng
dòng thơ giàu hình ảnh và nhạc điệu:
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tải tử giai nhân
Ngựa xư như nước áo quần như nêm
Tài năng của Nguyễn Du được thể hiện qua cách sử dụng ngôn từ. Sự

xuất hiện của hàng loạt các danh từ, động từ, tính từ như: gần xa, yến anh, chị
em, tài tử, giai nhân, nô nức, sắm sửa, dập dìu, đã gợi lên bầu không khí
rộn ràng của lễ hội đồng thời làm rõ hơn tâm trạng của người đi trẩy hội. Hầu
hết các câu thơ đều được ngắt nhịp 2/2 cũng góp phần gợi tả không khí nhộn
nhịp, đông vui của lễ hội. Cách nói ẩn dụ "nô nức yến anh" gợi hình ảnh từng
đoàn người náo nức du xuân như chim én, chim oanh bay ríu rít. Câu thơ "Chị
em sắm sửa bộ hành chơi xuân", Nguyễn Du không chỉ nói lên một lời thông
báo mà còn giúp người đọc cảm nhận được những trông mong, chờ đợi của
chị em Kiều. Trong lễ hội mùa xuân, nhộn nhịp nhát là những nam thanh nữ
tú, trai thanh gái lịch vai sánh vai, chận nối chân nhịp bước. Họ chính là linh
hồn của ngày hội. Cặp tiểu đối "tài tử"/"giai nhân", "ngựa xe như nước"/"áo
quần như nêm" đã khắc họa rõ nét sự hăm hở của tuổi trẻ. Họ đến với hội
xuân bằng tất cả niềm vui sống của tuổi xuân. Trong đám tài tử giai nhân ấy
có ba chị em Thúy Kiều. Có lẽ, Nguyễn Du đã miêu tả cảnh lễ hội bằng đôi
mắt và tâm trạng của hai cô gái "đến tuổi cập kê" trước cánh cửa cuộc đời
rộng mở nên cái náo nức, dập diu từ đó mà ra. Toàn bộ dòng người đông vui,
tưng bừng đó tấp nập ngựa xe như dòng nước cuốn, áo quần đẹp đẽ, thướt tha
đống đúc "như nêm" trên các nẻo đường. Thật là một lễ hội tưng bừng, sang
trọng và phong lưu.
Cái hay, cái khéo của Nguyễn Du còn được thể hiện ở chỗ chỉ bằng vài nét
phác thảo, nhà thơ đã làm sống lại những nét đẹp văn hóa ngàn đời của người
Phương Đông nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng. Lễ tảo mộ, hội đạp
thanh không chỉ là biểu hiện đẹp của lòng biết ơn tổ tiên, của tình yêu con
người trước cảnh sắc quê hương, đất nước mà còn gợi lên một vẻ đẹp của đời
sống tâm linh với phong tục dân gian cổ truyền:
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.
Người đã khuất và người đang sống, quá khứ và hiện tại như được kéo
gần lại. Những người còn sống đang đốt giấy vàng gửi cho người đã khuất.
Họ mong cho người đã khuất có được c/s đủ đầy. Đây là một việc làm thể

hiện niềm tin thánh thiện của con người vào những hành động tốt đẹp trong
c/đ chứ không hoàn toàn là mê tín.
Cảnh ra về:
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
- Lời thơ gợi ra khung cảnh hoàng hôn vào thời điểm chiều tà. Hai tiếng “tà
tà” như kéo dài ánh nắng chiều tạo ra một cảm giác se buồn. Nhịp câu thơ
chậm rãi diễn tả nhịp sống như ngừng trôi. Chị em Thúy Kiều bây giờ mới có
thể “lần xem phong cảnh”. Cảnh vật hiện lên thật cụ thể :
Nao nao dòng nước uống quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
- Khung cảnh mang nét thanh tú, êm đềm của chiều xuân : Nắng nhạt, khe
suối nước trong veo,một dịp cầu nho nhỏ bắc ngang cuối ghềnh. Mọi chuyển
động hết sức nhẹ nhàng : mặt trời từ từ ngả bóng, bước chân người chầm
chậm thơ thẩn, dòng nước róc rách uốn quanh không gian đang tĩnh lặng
dần. Sự nhộn nhịp của cảnh lễ hội không còn nữa .Những từ láy tà tà, thơ
thẩn, thanh thanh, nao nao không chỉ biểu đạt sắc thái của cảnh vật mà con
bộc lộ tâm trạng của con người. Hai chữ “nao nao” đã nhuốm màu tâm trạng.
Đó là cảm xú bâng khuâng, lưu luyến, nuối tiếc về một ngày vui vừa tàn. Cảm
xúc tươi vui mà khung cảnh lễ hội mùa xuân để lại cho mỗi người vừa mới
đây thôi. vậy mà nó như chưa đựng một linh cảm về một điều gì đó đáng
buồn sắp xảy ra. Và dòng nước uốn quanh đã dẫn Thúy Kiều tới nấm mồ
hoang lạnh của Đạm Tiên và sau đó nàng sẽ gặp chàng Kim phong tư tài mạo
tót vời. Nguyễn Du đã từng viết: "Ngư ời buồn cảnh có vui đâu bao giờ?". Vì
vậy, khivào lễ hội, người vui thì cảnh sắc rộn ràng tươi mới. Lúc lễ hội tan
rồi, người về sao tránh khỏi sự xao xuyến, cảnh sắc sao tránh khỏi màu ảm
đạm! Dường như có một nỗi niềm man mác, bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa
trong tâm hồn vốn đa tình, đa cảm như Thúy Kiều. Và ở sáu dòng cuối này,
Nguyễn Du không chỉ nhằm nói tâm trạng buồn tiếc khi lễ hội vừa tàn, mà
hình như, ông chuẩn bị đưa nhân vật của mình vào một cuộc gặp gỡ khác, một

thế giới khác. Như ta đã biết, ngay sau buổi Thanh minh, Nguyễn Du đã sắp
đặt để Thúy Kiều gặp Đạm Tiên và Kim Trọng. Vì thế, cảnh vật trong hoàng
hôn này cũng là một dự báo, một linh cảm cho đoạn trường mà đời kiều sắp
phải bước qua. Tả cảnh, tả tình như thế thật khéo, cách chuyển ý cũng thật
tinh tế, tự nhiên.
=> Qua đoạn trích ta thấy được nghệ thuật miêu tả điêu luyện của Nguyễn
Du. Nhà thơ đã kết hợp khéo léo giữa tả và kể, sử dụng từ ngữ giàu tính tạo
hình để miêu tả cảnh ngày xuân. Qua đó làm hiện lên bức tranh xuân đẹp và
đẹp trong trẻo, tinh khôi. Đặc biệt bút pháp tả cảnh ngụ tình tinh tế đãkhiến
cho cảnh thấm màu tâm trạng. Miêu tả cảnh nhưng gợi được tâm trạng nhân
vật chính là cái tài điêu luyện của ND.
3. Kết bài:

Kiều ở lầu Ngưng Bích
Đề bài : Có ý kiến cho rằng : Đoạn trích “ Kiều ở lầu Ngưng ích là bức
tranh tâm tình đầy xúc động” ý kiến của em như thế nào. Hãy phân tích đoạn
thơ để làm rõ ý kiến của mình.
Dàn ý
1.Mở bài: Truyện Kiều của Nguyễn Du là kiệt tác thơ nôm lớn nhất của nền
văn học trung đại. Xét về mặt nghệ thuật, Truyện Kiều thành công trên nhiều
phương diện. Nếu ở đoạn trích “ Mã Giám Sinh mua Kiều”, qua ngôn ngữ
miêu tả, nhà thơ làm nổi bật tính cách thì ở đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng
Bích” nhà thơ rất tinh tế khi diễn tả tâm trạng nhân vật. Bởi thế khi đọc đoạn
thơ có ý kiến cho rằng đoạn “ Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một bức tranh tâm
tình đầy xúc động”
2.Thân bài :
*a. Bày tỏ ý kiến của mình về nội dung, ý nghĩa của lời nhận định.
- Theo em, lời nhận xét đánh giá trên là hoàn toàn đúng. Người viết đã
nhận xét về những điểm thành công về nội dung cũng như nghệ thuật của bài
thơ. Bởi lẽ nói đến chữ tâm tình là nói đến tâm tư, tình cảm, tâm trạng còn

nói đến bức tranh là nói đến những hình ảnh cụ thể chân thực. Bởi vậy ta
hiểu ý nghĩa khái quát lời nhận định là: Đoạn thơ “ Kiều ở lầu Ngưng bích”
đã diễn tả hoàn toàn chân thực cụ thể diễn biến tâm trạng của nàng Kiều khi
phải sống ở lầu Ngưng Bích. Đó là tâm trạng buồn lo, sợ hãi vì Mã Giám Sinh
không phải mua nàng về làm vợ thiếp, mà làm gái lầu xanh cho cửa hàng
thanh lâu của Tú Bà. Vốn là con gái của một gia đình lương thiện, gia giáo,
Thúy Kiều đã phản ứng một cách quyết liệt bằng cách dùng dao tự vẫn nhưng
vẫn không thành. Sợ vốn liếng mình bị mất, Tú Bà đã đưa Thúy Kiều ra lầu
Ngưng Bích chăm sóc thuống thang dỗ dành nàng sau này bình phục sẽ gả
chồng cho nàng về nơi tử tế. Nhưng thực chất là giam lỏng nàng để chuẩn bị
một âm mưu mới. Bởi vậy, đây chỉ là những giờ phút, những thời khắc yên
thân tạm thời của Thúy Kiều. Trong hoàn cảnh một mình một bóng ấy, tâm
trạng của Thúy Kiều ngổn ngang trăm mối tơ vò. Nhà thơ Nguyễn Du đã theo
sát nhân vật thân yêu của mình để thấu hiểu và miêu tả những diến biến phức
tạp trong tâm trạng của Thúy Kiều.
b. Phân tích đoạn thơ để thấy rõ tâm trạng Kiều.
- Mở đầu đoạn thơ, ND đã giúp người đọc hiểu được hoàn cảnh của Kiều
“ Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân”
“ Khóa xuân” mang nét nghĩa là khóa kín tuổi xuân, những cô gái “ xấp xỉ
cập kê” đang chờ ngày xuất giá. Nhưng ở câu thơ này, ND đã dùng hai chữ “
khóa xuân” để mỉa mai cảnh ngộ trớ trêu của Kiều. Bởi thực chất là nàng bị
giam lỏng, bị cách biệt với thế giới bên ngoài, bị dập tắt mọi ước mơ và khát
vọng.
- Thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích hiện lên trước mắt nàng:
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
- Trước mắt người đọc như hiện lên một khung cảnh thiên nhiên rộng lớn.
Phía xa kia là núi, trên đầu là vầng trăng lạnh lẽo, xung quanh là “ bốn bề bát
ngát”. Từ ghép “ Bốn bề” kết hợp với từ láy “ bát ngát” gợi cho ta hình dung

tới không gian của lầu Ngưng Bích mênh mông rộng lớn, rợn ngợp. Tất cả
gợi h/ả lầu Ngưng Bích đứng đơn độc, chơi vơi giữa mênh mông trời nước.
Những dãy núi xa cùng vầng trăng trên bầu trời cao rộng như đóng khung qua
ô cửa nhỏ. Từ điểm nhìn trên lầu cao, chỉ thấy thiên nhiên và thiên nhiên,
không một bóng người. Cảnh đẹp, rộng lớn nhưng vắng vẻ, đượm buồn.
Dường như cảnh vật bị bao trùm bởi một nỗi buồn nặng trĩu, u uất. Nỗi buồn
đau trong Kiều đang thấm vào cảnh vật, hòa vào cảnh sắc thiên nhiên. Cảnh
như tương phản với con người. Cảnh rộng lớn, mênh mông, vô hạn, con
người thì nhỏ bé, cô đơn, hữu hạn. Cảnh vật tĩnh lặng càng làm nổi bật nỗi cô
đơn của Thúy Kiều.
- Cảnh thiên nhiên ở lầu Ngưng Bích không chỉ mênh mông mà còn ngổn
ngang cảnh vật với “ cát vàng, cồn nọ, bụi hồng”. Hình ảnh non xa, trăng gần,
cát vàng, bụi hồng ở đoạn thơ này có thể là cảnh thực mà cũng có thể chỉ là
hình ảnh mang tính ước lệ nhằm gợi nên sự mênh mông rợn ngợp, qua đó
diễn tả tâm trạng cô đơn, ngổn ngang của Kiều.
- ND không chỉ gián tiếp miêu tả cảnh ngộ cô đơn của Kiều mà ông còn trực
tiếp bộc lộ tâm trạng đó:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya.
- Nhà thơ đã dùng từ láy “ bẽ bàng” để đặc tả tâm trạng cô đơn, tủi thẹn của
Kiều. Kiều thấy hổ tủi với mây và thẹn với trăng. Cụm từ “mây sớm đèn
khuya” mà Nguyễn Du đã sử dụng trong câu thơ đã cho ta hiểu rằng thời
gian tuần hoàn khép kín hết sớm rồi lại khuya, khuya rồi lại sớm, đêm rồi lại
ngày, hết ngày rồi lại đêm. Thúy Kiều chỉ một mình thui thủi ở nơi đây. Như
vậy không gian thì vắng lặng, thời gian thì tuần hoàn, khép kín vây hãm Thúy
Kiều, cảnh ngộ thì trớ trêu, tình cảm thì đau đớn tủi hổ. Hai nỗi buồn như cứa
như cắt tâm trạng của nàng nên lại càng đau đớn xót xa :
“Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”
Bốn chữ “như chia tấm lòng” diễn tả nỗi niềm chua xót, nỗi lòng tan nát của
Kiều.
* Tác giả đã diễn tả tâm trạng nhớ thương của nàng Kiều với những

người yêu thương.
- Đó là nỗi nhớ chàng Kim:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
- Để diễn tả niềm thương nhớ người yêu của Thúy Kiều, Nguyễn Du đã sử
dụng động từ “tưởng”, đứng ở vị trí đầu câu thơ. Chữ “tưởng” ở đây được
hiểu là hồi tưởng, là nhớ lại những gì tốt đẹp của quá khứ. Đó là những kỉ
niệm đẹp của mối tình đầu trong sáng giữa nàng và chàng Kim, lời hứa hẹn và
chén rượu thề nguyền dưới đêm trăng sáng vằng vặc:
“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song”
- Nàng còn hình dung thấy ở nơi Liêu Dương cách trở, chàng Kim cũng đang
hướng về phía nàng, ngày đêm đau đáu mong tin.
“Tin sương luống cũng rày trông mai chờ”
- ND đã mượn điển tích “ tin sương” để diễn tả nối trong ngóng, đợi tin của
KT. Đây là tiếng nói trong sâu thẳm trái tim của nàng. Nhà thơ đã sử dụng
thành công ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Bởi thế lời thơ ít, ý thơ nhiều. Trong
lời thơ như có nhịp thổn thức của một trái tim yêu thương đang nhỏ máu,
thương nhớ tha thiết người mình yêu dấu. Càng nghĩ về kỉ niệm nàng lại càng
đau đớn xót xa. Chén rượu thề còn đó mà nay mỗi người mỗi ngả. Bởi thế,
nàng càng thấm thía nỗi cô đơn của mình:
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
- Nàng nhủ thầm với lòng mình không bao giờ quên được hình bóng chàng
Kim. H/ả “ tấm son” là ẩn dụ sâu sắc cho sự thủy chung son sắt của Thúy
Kiều với mối tình đầu trong sáng. Và nàng lại càng đau đớn xót xa vì tấm
lòng son của mình đã bị mã Giám Sinh làm nhục. Do vậy, nỗi day dứt đau xót
của nàng lại tăng lên khi nhớ tới người yêu. Hơn thế nàng còn biết rằng, dù có
phải xa nơi chân trời góc bể thì t/c của nàng với chàng Kim sẽ không bao giờ
phai nhạt. Và như vậy thì nàng càng đau khổ. Trong nỗi nhớ chàng Kim có cả

nỗi đau đớn vò xé tâm can. Trong bi kịch tình yêu của nàng có cả bi kịch về
nhân phẩm.
* Sau đó nhà thơ Nguyễn Du đã diễn tả nỗi nhớ của nàng với cha mẹ.
Xót người tựa của hôm mai
Quạt lồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vửa người ôm.
Để gợi tả nỗi nhớ của nàng với cha mẹ ND đã sử dụng từ “ xót. “ Xót”
cũng có nghĩa là nhớ thương nhưng trong nỗi nhớ thương đó có cả sự xót xa
của tình cốt nhục.
Nhà thơ đã dùng hàng loạt các điển cố của văn học TQ kể về lòng hiếu thảo
của con đối với cha mẹ để diễn tả một cách sinh động và đau xót nỗi nhớ cha
mẹ của Thúy Kiều. Hình ảnh sao hôm, sao mai gợi thời gian tuần hoàn khép
kín. Nàng lo lắng xót xa nghĩ đến hình bóng tội nghiệp của cha mẹ, khi sáng
sớm, lúc chiều hôm tựa cửa ngóng tin con nhưng càng mong lại càng bặt vô
âm tín.
Nàng đau xót khi đến cha mẹ không có người chăm lo, phụng dưỡng. Điển
tích “gốc tử” kết hợp với cụm từ “ đã vừa người ôm” có nghĩa là cha mẹ
nàng đã già yếu . Vậy mà nàng xa xôi, cách trở nên không chăm sóc được cha
mẹ già. Nàng tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay. Tuy xa nhà chưa lâu
nhưng nàng ngỡ như “ cách mấy nắng mưa”. Đó là thời gian tâm lí khi TK
nghĩ về gia đình, về cha mẹ. Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa cho thấy sự
xa cách bao mùa mưa nắng, vừa gợi được sự tàn phá của thời gian, của thiên
nhiên lên con người và cảnh vật. Lần nào nhớ về cha mẹ, Kiều cũng “nhớ ơn
chín chữ cao sâu” và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành, phụ công
nuôi dạy của cha mẹ.
Trong hoàn cảnh trớ trêu nhưng Kiều như quên hẳn nỗi đau hiện tại để
sống trong tâm tưởng với người yêu, với cha mẹ. Nguyễn Du miêu tả rất chân
thực, cụ thể nỗi nhớ của nàng. Mặt khác, ta còn thấy ngòi bút của ông rất tinh
tế khi miêu tả tâm trạng nhân vật. Ông đã thể hiện nỗi nhớ của người yêu của

Thúy Kiều lên trước nỗi nhớ cha mẹ tức là chữ “ tình” đặt trước chữ “hiếu”,
đảo ngược trật tự của lễ giáo phong kiến. Nhưng cách miêu tả này hoàn toàn
phù hợp với logic tâm trạng. Bởi lẽ chữ” hiếu” phần nào nàng đã đền đáp.
Nàng đã bán thân mình có tiền cứu cha và em, cảnh nhà đã tạm yên. Còn chữ
“tình” đối với Kim Trọng, nàng Kiều cứ day dứt, vì mình đã lỡ hẹn với chàng
kim, vì mình mà chàng Kim dang dở. Hơn nữa trước khi bước vào con đường
lưu lạc, thúy Kiều chưa từng nói lời từ biệt. Do vậy, trong hoàn cảnh ở lầu
Ngưng Bích cô đơn, nàng nghĩ tới người yêu trước khi nghĩ tới cha mẹ cũng
là hợp lẽ. Điều đó còn thể hiện Nguyễn Du rất hiểu tình cảm và rất thông cảm
với nỗi đau xót xa của Thúy Kiều, như chia sẻ cùng nàng mối tình đầu tan vỡ.
=> Nỗi nhớ thương của Kiều đã nói lên nhân cách đáng trân trọng của nàng.
Hoàn cảnh của nàng lúc này thật xót xa, đau đớn. Nhưng quên đi cảnh ngộ
bản thân, nàng đã hướng yêu thương vào những người thân yêu nhất. Trái
tim nàng thật giàu yêu thương giàu đức hi sinh. Nàng thật sự là một người
tình thuỷ chung, một người con hiếu thảo, một người có tấm lòng vị tha cao
cả đáng quý.
* Tám câu thơ cuối: - Đây là 8 câu thơ thực cảnh mà cũng là tâm cảnh.
Mỗi biểu hiện của cảnh đồng thời là một ẩn dụ về tâm trạng của người – mỗi
một cảnh lại khơi gợi ở Kiều những nỗi buồn khác nhau, với những lý do
buồn khác nhau trong khi nỗi buồn đã đầy ắp tâm trạng để rồi tình buồn lại
tác động vào cảnh, khiến cảnh mỗi lúc lại buồn hơn, nỗi buồn mỗi lúc một
ghê gớm, mãnh liệt hơn.
* Bức tranh thứ nhất:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”
- Nguyễn Du đã rất tinh tế khi mượn tứ thơ dân gian. “Chiều hôm” là tứ thơ
xuất hiện nhiều trong ca dao xưa. nhiều bài ca dao đã bắt đầu bằng mô típ
này:
“Chiều chiều ra đứng bờ sông
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều

Chiều chiều ra đứng bờ sông
Muốn về quê mẹ mà không có đò”
- Bức tranh thiên nhiên rộng lớn nơi “ cửa bể” được vẽ vào thời điểm “ chiều
hôm”. Hình ảnh chiều hôm và cửa bể không chỉ có tính chất gợi không gian
và thời gian mà còn là những hình chỉ không gian và thời gian nghệ thuật.
Bản thân những hình ảnh đó đã gợi nhớ, gợi buồn, gợi tâm trạng. Từ đó các
hình ảnh này đã góp phần đặc tả tâm trạng của thúy Kiều khi nhìn ra phía
ngoài khơi xa. Trong ánh nắng chiều nhạt nhòa nàng thấy cửa biển mênh
mông, chỉ có một cánh buồm thấp thoáng. Từ láy “xa xa, thấp thoáng” gợi ra
hình ảnh cánh buồm lúc ẩn lúc hiện như một thứ ảo ảnh. Nhìn cảnh đó tâm
trạng của Thúy Kiều rất buồn. Phải chăng cảnh buồm ngoài khơi xa khiến
thúy Kiều liên tưởng tới thân phận trôi nổi bấp bênh của mình. Cũng giống
như cánh buồm, nàng cũng lẻ loi đơn côi ở nơi đây. Cánh buồm kia rồi cũng
có ngày cập bến, còn nàng không biết đến bao giờ trở về quê hương, gặp lại
những ngươi thân yêu.Trong lòng nàng dâng lên một nỗi buồn cô đơn, xa
vắng. Đó là nỗi buồn của kẻ tha hương, nỗi nhớ gia đình người thân và khát
khao xum họp, một nỗi khát khao vô vọng.
* Bức tranh thứ 2:
- Đọc tiếp cặp thơ thứ hai ta thấy ánh mắt nàng Kiều gần hơn, nàng thấy trên
dòng nước đang chảy có cánh hoa trôi. Một câu hỏi thiết tha đã được đặt ra
trong tâm trí nàng:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Ở đây, thi hào Nguyễn Du đã cực tả, đặc tả tâm trạng bi thương của Kiều qua
những hình ảnh ẩn dụ giàu giá trị biểu cảm. “Dòng nước mới sa” hay chính là
dòng đời, bể đời vô định; hình ảnh “hoa trôi man mác” phải chăng là thân
phận người con gái đang trôi dạt, đang bị vùi dập trư ớc sóng gió cuộc đời?
Câu hỏi tu từ “biết là về đâu?”cất lên như một tiếng than diễn tả tâm trạng
xót xa, hoang mang, lo sợ của Kiều: không biết cuộc đời sẽ trôi nổi đến đâu,
tương lai rồi sẽ thế nào hay lại tan tác, bị dập vùi như cánh hóa mỏng manh

kia. H/ả cánh hoa đã gợi trong lòng nàng nỗi buồn não nề đến vô vọng.
* Bức tranh thứ 3:
- Sau đó, ánh mắt của nàng hướng ra xung quanh lầu Ngưng Bích.
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Lại một cảnh mênh mông hoang vắng… “nội cỏ rầu rầu” dàn trải típ tắp
tới tận chân trời xa. Vẫn không có một bóng cây, chẳng một bóng nhà để phá
bớt cái màu xanh đơn điệu ấy. Màu cỏ không phải là màu xanh tươi tốt mà
“rầu rầu” buồn bã, héo hắt không chút sức sống. Ấy thế mà màu xanh ấy cứ
trải rộng ra mãi, nối tiếp với vùng trời mênh mang mờ mịt. Màu xanh ấy nhợt
nhạt, xa xôi làm gợi lên một nỗi niềm ngao ngán tẻ nhạt vô cùng. Và có lẽ,
màu xanh ấy là màu của tâm trạng được nhìn từ đôi mắt đẫm ướt khổ đau của
Thúy Kiều. Màu xanh nhạt nhòa của chân mây, mặt đất hay là ẩn dụ cho
tương lai mịt mờ vô vọng của nàng. Bởi thế nàng cảm thấy như không cósức
sống, không niềm tin, vô vọng và đầy ngao ngán
* Bức tranh thứ tư: Trước mắt nàng là biển trời bão tố:
Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh
Ầm ầm sóng vỗ kêu quanh ghế ngồi
Dường như đến đây, nỗi buồn đã dâng cao đến đỉnh điểm, đang trào dâng
mạnh mẽ như vỡ ra trong lòng Kiều. Gió cuốn ào ào khiến mặt biển nổi đầy
sóng lớn, trắng xóa một màu. Sóng gào thét “ầm ầm” như chực cuốn phăng đi
tất cả mọi thứ hiện hữu, kể cả Kiều. Từ láy “ầm ầm” được đảo lên câu thơ để
nhấn mạnh sự gầm gào hãi hùng của biển cả. Kiều cảm nhận thấy tiếng sóng
đang bủa vây xung quanh, như bao bọc lấy nàng, xiết chặt, gào thét trong tâm
hồn nàng. Thúy Kiều dường như không còn lối thoát. Từng lớp sóng như
muốn nhấn chìm nàng xuống vực thẳm đáng sợ! Tiếng sóng kêu ấy hay là
tiếng kêu sợ hãi của thúy Kiều khi nghĩ đến chặng đường sắp tới của mình.
Cái “gió cuốn mặt dềnh” kia là hình ảnh ước lệ chỉ những tai họa cuộc đời
sắp đổ xuống đầu nàng. Câu thơ dự báo về cuộc đời của mình sẽ gặp nhiều
sóng gió, trắc trở.

- Tám câu thơ được chia đều làm bốn cặp và mở đầu bằng hai chữ” Buồn
trông”.Tác giả đã sử dụng điệp ngữ “buồn trông” tạo âm hưởng trầm buồn
cho cả đoạn thơ và nhấn mạnh, khắc sâu thêm tâm trạng buồn đến đau đớn,
tuyệt vọng của Thúy Kiều. Nỗi buồn ấy dâng lên trùng trùng điệp điệp kéo dài
theo thời gian, lan tỏa khắp không gian kết thành một chuỗi nỗi buồn kế tiếp
nhau không dứt.
- Như vậy cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm
thanh từ tĩnh đến động để diễn đạt nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo
âu, kinh sợ, dồn đến bão táp nội tâm cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều .
Tất cả là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi bế tắc, sự chao
đảo, nghiêng đổ dữ dội. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất.
Cũng vì thế mà nàng đã mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời
"thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần".
=> Tóm lại: Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” quả thực là một bức tranh
tâm tình đầy xúc động với cách sử dụng từ ngữ rất chính xác kết hợp với
ngôn ngữ độc thoại nội tâm, cách sử dụng những điển tích văn học cùng
với bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, nhà thơ Nguyễn Du đã diễn tả chân
thực cụ thể tinh tế diễn biến tâm trạng của nàng Kiều khi nàng sống ở lầu
Ngưng Bích. Đó là nỗi cô đơn buồn tủi, thương nhớ người thân da diết, nỗi
buồn lo hãi hùng. Có thể thấy đây là bức tranh không chỉ có cảnh đẹp, tình
sâu mà hồn nhà thơ cũng thấm sâu vào nhân vật. Thấu hiểu và miêu tả tâm
trạng nhân vật Kiều cũng có nghĩa là Nguyễn Du cũng đồng cảm với nhân vật
cảm thông chia sẻ nỗi đau của nàng Kiều, đó chính là biểu hiện của giá trị
nhân văn. Đoạn thơ không chỉ được viết lên bằng tài năng văn học mà còn
bằng cả cái tâm của người nghệ sĩ. Chính sự kết hợp giữa cái “ tài” và cái “
tâm đó” khiến cho mỗi khi ta đọc lại TK đều thấy xót xa cho người con gái tài
hoa bạc mệnh.

×