Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

tự học chụp ảnh, học chụp ảnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.69 MB, 92 trang )

Tự học chụp ảnh
Để có một bức ảnh tốt
(TG@) Tạp chí nhiếp ảnh Digital Photography School đã tổng hợp 5 yếu tố cơ bản mà người chụp ảnh cần để
nâng cao chất lượng ảnh của mình

Ánh sáng và màu sắc là yếu tố quyết định để có một bức ảnh đẹp
Ánh sáng
Ánh sáng đã và vẫn sẽ là một yếu tố sống còn đối với nhiếp ảnh. Hiểu được nó, người chụp sẽ nắm
được lợi thế dù bị rơi vào bất cứ hoàn cảnh nào. Để hoàn thiện khả năng của mình. hãy xem lại những
bức ảnh thành công của những người đi trước để xem ánh sáng trong bức ảnh đã được xử lý thế nào,
ánh sáng mạnh hay yếu, thẳng hay xiên, nó sẽ ra sao nếu bị thay đổi góc chụp, thời điểm chụp Hãy
tập trung vào những vùng đổ bóng xem ánh sáng đến từ góc nào và hiệu ứng của nó dựa trên góc đó.
Sau đó mang tất cả những gì học hỏi được áp dụng trên hoàn cảnh thực tế.
Màu sắc
Màu sắc cũng có những ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng tiếp cận đối tượng của con người. Nó có
thể tác động đến tâm trạng hoặc đồng cảm với cảm giác của bạn. Hãy tự trang bị cho mình một vài
kiến thức về lý thuyết màu sắc. Nghiên cứu kỹ các thông số cơ bản như sắc độ, giá trị, mật độ màu và
nhiệt độ màu. Khám phá ngôn ngữ bí ẩn của màu sắc cũng như ý nghĩa nội tại của nó. Sau đó là thời
gian luyện tập để chuyển tải thông điệp mình muốn nói tới mọi người.
Tập hợp các hình khối
Tất cả mọi cảnh vật thực chất đều là sự tập hợp các hình khối. Người chụp không phải chụp một cái
cây mà là chụp một hình dạng và màu sắc, nhằm chuyển tải một thông tin nào đó của nó. Vì thế, điều
quan trọng đối với một nhiếp ảnh gia là khả năng nhìn đối tượng dưới dạng một hình khối. Hãy rèn
luyện cho mình một khả năng chia sẻ cảnh tượng trước mắt thành những vùng màu sắc đơn giản. Từ
đó sẽ giúp tạo nên những bức ảnh với những thông điệp muốn nói rõ ràng nhất chỉ bằng màu sắc và
hình khối.

Khối hình tạo nên sự tương tác trong bố cục ảnh
Đường nét
Đường nét cũng là những yếu tố rất cơ bản của nhiếp ảnh. Hãy chú ý tới những ấn tượng cảm xúc gây
nên bởi những đường nét vô hình trong khuôn hình. Ví dụ: Các đường ngang luôn gợi đến sự phẳng


lặng, yên bình, hay những đường dọc thì tạo cảm giác cân bằng, còn đường chéo thì hay liên quan đến
chuyển động Để có một bức ảnh hiệu quả, hãy nhớ phải biết cách nhìn ra được các đường nét trong
ảnh, kết hợp hoặc tách chúng trong khuôn hình sao cho nhìn vào ảnh là người xem có thể cảm thấy
được ý nghĩa nó thể hiện.
Kỹ thuật chụp ảnh
Kỹ thuật chụp cũng quyết định không nhỏ đến chất lượng của một bức ảnh. Hãy luyện tập liên tục đến
mức thành thạo như một kỹ năng, để khi cần là có thể đưa máy lên chụp ngay mà không phải băn
khoăn xem đặt thông số sáng như thế nào. Có như thế mới có được cảm giác tự do sáng tạo. Chỉ nên
lưu ý một điều, đừng quá lệ thuộc vào kỹ thuật, hãy luôn nghĩ kỹ thuật chỉ giúp chuyển tải thông điệp
một cách rõ ràng hơn chứ không hẳn là yếu tố quyết định nên sự thành công của một bức ảnh.
Tìm hiểu về máy ảnh
Chuyên đề hướng dẫn chụp ảnh cho những người mới sử dụng máy của Số Hóa được bắt đầu với máy ảnh
compact. Bài đầu tiên là những hướng dẫn cơ bản nhất về máy ảnh.
Máy ảnh số du lịch (dạng ngắm-chụp) ngày càng phổ biến với mức giá hầu như ai cũng có thể sở hữu
một chiếc. Mặc dù đã được thiết kế tự động tối ưu để người dùng chỉ việc ngắm là chụp, đúng như tên
gọi của sản phẩm, nhưng để có được những bức ảnh đẹp, một chút kiến thức về máy ảnh và nhiếp ảnh
là điều cần thiết. Tạp chí công nghệ Cnet đã thiết kế một khóa học với những bài học ngắn gọn và dễ
hiểu cho những người mới bắt đầu làm quen với máy ảnh, giúp họ có thể nhanh chóng nắm vững
những vấn đề kỹ thuật cơ bản trong một thời gian ngắn ngủi.
Yêu cầu chuẩn bị
- Thiết bị: Máy ảnh ngắm - chụp.
- Mục tiêu: Học về các bộ phận chủ yếu của máy ảnh và làm quen về cách bố trí các nút chức
năng trên một máy ảnh thông thường, giúp người học nắm vững nút nào dùng để làm gì.
- Thời gian nắm bắt: Khoảng 15 phút.
Trước khi học về nhiếp ảnh, điều đầu tiên cần biết là hiểu máy ảnh của mình, hiểu chức năng của từng
nút bấm, biết khi nào sử dụng chúng để có được bức hình mong muốn. Bài này sẽ chỉ trình bày những
chức năng cơ bản nhất của một chiếc máy ảnh. Mỗi máy ảnh gồm 13 bộ phận chính. Nếu máy ảnh bạn
đang sở hữu không có đủ hoặc có nhiều hơn 13 bộ phận này, bạn cần đọc thêm về chức năng của
chúng trong sách hướng dẫn sử dụng máy ảnh của mình.
Máy ảnh compact có 13 bộ phận chính. Ảnh: Cnet.

1. Đèn flash tích hợp trên thân máy giúp chiếu sáng đối tượng trong điều kiện chụp tối. Đèn có thể
được cài đặt để chớp tự động (chỉ chớp khi cần thiết), chớp cưỡng bức (luôn chớp) hay tắt.
2. Đèn hỗ trợ lấy nét chỉ bật khi điều kiện ánh sáng môi trường chụp không đủ cho máy ảnh lấy nét.
Một số máy ảnh cho phép bạn tắt tính năng này để tránh làm đối tượng mất tập trung.
3. Ống kính thu cảnh vật (ánh sáng) để hiển thị trên cảm biến. Một số ống kính máy ảnh được thiết kế
dạng thò thụt khi bật/tắt máy, trong khi một số khác lại thiết kế ống kính trong lòng máy ảnh (không
thò thụt ra ngoài).
Phần lớn màn hình LCD trên máy compact sẽ khoảng 2,5 tới 3,5 inch. Ảnh: Cnet.
4. Vòng chế độ cho phép chuyển đổi giữa các chế độ chụp khác nhau. Ngoài các chức năng mặc cảnh,
hầu hết máy ảnh đều có chế độ P và chế độ A. Ở chế độ P (Program), máy sẽ tính toán các thông số
phơi sáng, còn lại cho phép người chụp chỉnh một số thông số như đèn flash, ISO, cân bằng trắng.
Còn chế độ A (Auto) là tự động hoàn toàn, máy sẽ lo tất cả các thông số liên quan, việc của người
dùng chỉ là ngắm và bấm máy.
5. Màn hình LCD phía sau là nơi người chụp dùng để căn khung hình khi chụp cũng như xem lại ảnh
vừa chụp. Có nhiều kích cỡ màn hình LCD khác nhau, từ 2,5 inch tới 3,5 inch tùy máy. Hầu hết
thường có độ phân giải từ 230.000 điểm ảnh, nhưng ở một số máy ảnh cao cấp hơn, độ phân giải có
thể lên đến 920.000 pixel. Màn LCD có thể cố định ở thân máy, có thể ở dạng lật xoay, hoặc có thể
chỉ lật dùng trong các trường hợp chụp hất lên hoặc chúc xuống.
6. Phím điều hướng thường ở phía sau máy dùng để duyệt qua menu và các lựa chọn. Xung quanh sẽ
có một nút hiển thị thông tin trên màn LCD (thường có tên DISPLAY) và nút xem lại hình vừa chụp
(ký hiệu là hình tam giác). Các chức năng truy cập nhanh cũng được hiển thị bằng biểu tượng in trên
nút điều hướng. Lưu ý, mỗi máy ảnh khác nhau sẽ có cách sắp xếp khác nhau.
Các nút chức năng ở rìa trên máy ảnh. Ảnh: Cnet.
7. Nút chụp ảnh có hai chức năng là lấy nét và chụp. Nếu bạn nháy nhẹ nút chụp, máy ảnh sẽ điều
chỉnh ống kính để lấy nét, nếu bạn nhấn mạnh, máy sẽ chụp.
8. Nút điều chỉnh zoom dùng để thay đổi tiêu cự giữa góc rộng và tele thường được bố trí thành một
vòng bao quanh nút chụp ảnh. Có những máy lại chọn kiểu thanh bấm hai nút hai đầu ở phía sau.
9. Nút công tắc nguồn dùng để bật/tắt máy ảnh.
Nắp che pin dưới đáy máy. Ảnh: Cnet.
10. Nắp che pin thường ở dưới đáy và thường được mở kiểu kéo trượt hoặc gạt lẫy để lắp pin và thẻ

nhớ.
11. Lỗ lắp chân máy được đặt phía dưới đáy máy, cạnh nắp che pin.
Các cổng kết nối bên sườn máy. Ảnh: Cnet.
12. Bên sườn máy ảnh thường là các cổng kết nối để nối máy ảnh với máy tính hoặc màn hình ngoài.
Cáp cho các cổng này thường được đi kèm máy (cáp USB, cáp AV) hoặc có thể phải mua rời (cáp
HDMI).
13. Lỗ xỏ quai đeo máy ảnh.
Trên đây là một số bộ phận cơ bản của một máy ảnh số du lịch thông dụng.
Bài tới sẽ về các kỹ thuật căn khung và tìm hiểu các chế độ mặc cảnh trên máy ảnh.
Ánh sáng trong nhiếp ảnh
(TG@O) - Nội dung và vẻ đẹp của một bức ảnh nhìn chung được tạo nên bởi các vùng tối (shadows), vùng
sáng (highlights) và phần còn lại (midtones).
Bức ảnh ngược sáng
Có người còn cho rằng không phải các vùng sáng tạo nên bức ảnh mà chính vùng tối quyết định bức
ảnh đó. Thật vậy, nếu không có vùng tối trong một bức ảnh, thì khó có thể nào nói ánh sáng đã được
xử lý như thế nào. Trên tinh thần đó tôi xin nói về ánh sáng dựa trên sự nghiên cứu các vùng tối.
Trong thực tế xử lý ánh sáng trong mỗi lần chụp, tôi chỉ quan tâm chính tới các vùng này để biết được
các nguồn sáng đã được bố trí như ý muốn chủ quan ban đầu chưa.
Tôi định trao đổi bài này bằng các tình huống cụ thể với chi tiết về bố trí đèn, tạt sáng, chủ đề…
nhưng cũng như nhiều người, tôi có nhiều sách dạng này lắm và không có cuốn sách nào có thể nói
hết được tất cả các tình huống ánh sáng. Cách tốt nhất là tách riêng ánh sáng và nghiên cứu nó, hiểu
và xác định được nó thì việc chi phối, áp dụng nó trong mọi trường hợp trở nên đơn giản hơn rất
nhiều.
Nếu bạn là một người lãng mạn, thích sự may rủi và hồi hộp cho ánh sáng của mỗi bức ảnh hay mỗi
lần chụp thì tôi khuyên bạn không nên đọc tiếp, vì khi nắm rõ các khái niệm này và làm chủ được nó
thì việc chụp ảnh cũng giống như bao việc khác: “Chán lắm… có bi nhiêu đó… mần hoài”.
+ Ghi chú: Bài viết chỉ chủ yếu nói về ánh sáng trong studio, về nguyên tắc thì ánh sáng ngoài trời cũng không có sự khác
biệt, nhưng khả năng chủ động xử lý nguồn sáng trời ít hơn nhiều. Chỉ có những người kiên trì, xử lý nhanh tình huống mới
có được nhiều ảnh đẹp khi sử dụng ánh sáng trời.
Nguồn sáng phân tích là nguồn sáng đơn. Việc xử lý đa nguồn sáng cũng bắt nguồn từ việc xử lý từng

nguồn sáng đơn này.
Mỗi nguồn sáng được quyết định bởi 5 yếu tố chính:
- Độ gắt - dịu
- Độ sáng
- Hướng sáng
- Nhiệt độ màu
- Khoảng cách từ nguồn sáng tới chủ đề
Mời bạn đọc Thế giới @ tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về 5 yếu tố chính này:
1. Độ gắt - dịu
a. Xác định:
Để biết được nguồn sáng gắt hay dịu ta dựa vào các vùng bóng đổ trên chủ đề. Các vùng này càng
đậm và rõ bao nhiêu, thì nguồn sáng gắt bấy nhiêu và ngược lại, càng mờ càng dịu. Cách đơn giản
nhất để xác định là dùng đôi tay của chính bạn. Bạn hãy đưa một ngón tay trước nguồn sáng, sao cho
bóng của ngón tay này đổ trực tiếp trên lòng bàn tay còn lại. Trong trường hợp tay kia của bạn bị bận
thì có thể nhờ tạm bàn tay của người mẫu, chỗ khác cũng được nhưng phải cẩn thận ;). Nếu bạn thấy
bóng của ngón tay đậm, rõ ràng thì nguồn sáng là gắt. Ngược lại nếu bóng của ngón tay mờ hoặc rất
mờ thì ánh sáng là dịu hoặc rất dịu.
b. Nguyên nhân:
Ánh sáng gắt: là do nguồn sáng nhỏ, xa chủ đề. Hoặc nguồn sáng lớn nhưng do cách quá xa chủ đề
nên các “tia” sáng tiếp cận chủ đề coi như song song. Cụ thể:
Đèn flash gắn trực tiếp trên máy, hướng thẳng vào chủ đề mà không qua một thiết bị/đối tượng tán
sáng nào.
Đèn flash trong studio có hoặc không có sử dụng loa che sáng thông thường. Việc dùng tổ ong
(horney comb) cũng cho kết quả tương tự.
Đèn halogen, HMI… nói chung là bất cứ loại gì mà trong khi sử dụng, cho nguồn sáng nhỏ, “tia” sáng
tiếp cận chủ đề gần như song song.
Ngoài trời thì ánh sáng mặt trời khi đã lên cao, trời không mây và chiếu thẳng trực tiếp lên chủ đề. So
với trái đất thì mặt trời to hơn rất nhiều nhưng do ở quá xa nên trong thực tế thì cũng cỡ cái đĩa to là
cùng.
Ánh sáng gắt thường cho ra các bức ảnh có độ tương phản cao, nổi rõ chi tiết của chủ đề.

Ánh sáng dịu: là do nguồn sáng lớn, gần chủ đề hoặc đi xuyên qua/phản xạ từ các chất liệu/bề mặt tán
sáng, ví dụ soft box, vải dù, giấy can, tạt sáng, tường nhà, trần nhà, ánh sáng mặt trời xuyên qua mây,
hay trong những ngày trời đầy mây, v.v… Trong thực tế nguồn sáng được đặt càng gần chủ đề bao
nhiêu thì càng dịu bấy nhiêu. Nói cách khác khi các “tia” sáng tiếp cận chủ đề theo vô số hướng khác
nhau sẽ cho hiệu ứng dịu, hay còn gọi là nguồn sáng tán. Vậy nếu bạn đi mua các thiết bị tạo ánh sáng
dịu như dù, soft box, tạt sáng, thì càng to càng tốt. Trong trường hợp lâm thời bạn có thể sử dụng ngay
trần nhà, vách tường sáng để tạo ánh sáng dịu, chỉ có điều cẩn thận khi trần hay tường nhà có màu
không phải màu trung tính. Lý do là các màu khác màu trung tính sẽ ảnh hưởng đến màu sắc của bức
ảnh.
Ánh sáng dịu thích hợp cho các ảnh có độ tương phản thấp, các ảnh không có yêu cầu cao về chi tiết
vật chụp, hay thậm chí làm mờ đi chi tiết bề mặt vật chụp.
c. Ứng dụng:
Vậy là đã rõ làm sao để có ánh sáng gắt và dịu, trong thực tế chụp ảnh thì ta có thể tóm tắt như sau:
+ Ảnh chân dung: Việc đặt nguồn sáng càng gần chủ đề thì hình ảnh càng dịu (soft) che dấu hoặc làm
mờ bớt được đa số các chi tiết bất lợi như nếp nhăn, mụn… Không chỉ riêng thiếu nữ, mà bất cứ ai
yêu cầu bạn chụp cho họ những bức ảnh dịu nhẹ, ít nếp nhăn thì chỉ cần: To, tán, gần. Ngược lại nếu
muốn có những bức ảnh chân dung mà ở đó đòi hỏi lột tả chi tiết chân dung nhân vật thì: Nhỏ, gắt, xa.
+ Ảnh tĩnh vật, quảng cáo, sản phẩm: Tương tự như trong chụp chân dung nêu trên, nếu bạn mong
muốn có những hình ảnh có độ tương phản cao, nổi rõ chi tiết bề mặt vật chụp thì trong đa số các
trường hợp: Nhỏ, gắt, xa sẽ cho kết quả như ý. Ngược lại: To, dịu, gần sẽ cho các ảnh có độ tương
phản thấp, dịu, thậm chí mơ màng, chi tiết bề mặt vật chụp không rõ nét, sắc sảo. Ngoài ra, ánh sáng
gắt dễ tạo nên các điểm lóa sáng trên chủ đề, đặc biệt là các vật, thủy tinh, kim loại bóng, hay các vật
bóng nói chung. Ngược lại, ánh sáng dịu ít tạo nên các điểm lóa sáng trên các loại vật chụp/chủ đề nêu
trên.
2. Độ sáng
a. Xác định:
Độ sáng của một nguồn sáng phụ thuộc chính vào khả năng và công xuất của nguồn sáng và được xác
định bằng các thiết bị đo, hay các phép tính cụ thể. Nhiều người sử dụng kinh nghiệm của mình và đôi
khi rất chính xác. Đối với tôi, chắc chắn nhất vẫn là máy đo.
Trên thị trường có rất nhiều sản phẩm, thiết bị đo ánh sáng của các hãng khác nhau với giá từ vài chục

USD tới hơn một ngàn USD, nhưng theo tôi cứ cái nào cho kết quả đúng và chính xác là tốt rồi, nhất
là khi ngân sách cho chụp ảnh eo hẹp.
Ánh sáng của một tấm ảnh còn phụ thuộc vào các yếu tố khác trong khi chụp như độ nhạy sáng của
film hay sensor, khẩu độ ống kính, và tốc độ chụp. Tuy nhiên, để cho đơn giản ta tạm qui ước là các
thông số này giữ nguyên, chỉ có cường độ ánh sáng là thay đổi thôi.
b. Tác dụng:
Cường độ ánh sáng quyết định chi tiết cho một tấm ảnh. Film, sensor có khả năng cảm nhận ánh sáng
thấp hơn nhiều so với mắt người. Tại những khoảng của cường độ sáng nhất định, chi tiết của vật chụp
không được thể hiện trên film, hay sensor, tôi tạm gọi đó là các khoảng mù.
Có hai khoảng mù: khoảng quá tối và khoảng quá sáng. Điều này đặc biệt quan trọng nhất là các hình
ảnh của bạn được in lại bằng công nghệ in offset thông thường, nơi mà khoảng mù này rộng nhất so
với các thiết bị/chất liệu thể hiện hình ảnh thông thường (monitor, giấy ảnh, TV…).
Nhìn trên đồ thị RGB histogram của một bức ảnh (bạn có thể xem đồ thị RGB level của một bức ảnh
cũng được) thì những phần có trị số RGB thấp hơn 25 (chắc chắn nhất là 28) tạm gọi là khoảng mù
tối. Những phần của chủ đề nằm trong khoảng này gần như hay hoàn toàn không thể hiện chi tiết trên
film, sesor, nói cách khác là không thấy gì, tối đen. Những phần trên bức ảnh có trị số RGB cao hơn
249 (chắn chắn nhất là 245) tạm gọi là khoảng mù sáng. Tại những phần này chi tiết vật/chủ đề chụp
trên film, sensor gần như không được thể hiện, trắng tinh. Điểm yếu này của film trong những trường
hợp cụ thể có thể có lợi, hoặc bất lợi. Vậy ứng dụng của nó là gì?
c. Ứng dụng:
Như phân tích ở trên ta thấy rằng để có được những khoảng hoàn toàn đen thì ánh sáng chiếu đến các
vùng này phải thấp, yếu sao cho trị số những vùng đó trên film, sensor nằm trong khoảng mù tối.
Trong thực tế thường các vùng này có chỉ số đo thấp hơn ít nhất 3 khẩu (3 stop) so với khẩu độ chụp.
Trị số thực tế phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể nhưng càng ít hơn càng tốt. Vậy nếu bạn muốn có
một bức ảnh với phông đen hoàn toàn thì làm sao đó phông của bạn được chiếu sáng thiếu ít nhất là 3
khẩu.
Ngược lại để có được những vùng trắng hay phông trắng thì ánh sáng chiếu đến các vùng này phải
cao, cao sao cho trị số những vùng đó trên film, sensor nằm trong khoảng mù sáng. Trong thực tế
thường các vùng này có chỉ số đo cao hơn ít nhất 1 1/2 khẩu so với khẩu độ chụp. Trị số thực tế phụ
thuộc vào từng trường hợp cụ thể nhưng đừng quá cao. Nếu cao quá ảnh có thể bị mù, hallow hay

không trong.
Theo nguyên lý trên thì, trong chụp ảnh chân dung, việc chiếu sáng chủ đề sao cho các vùng muốn che
dấu khuyết điềm nằm trong các khoảng mù, hoặc gần sát với khoảng mù. Cụ thể nếu bạn chiếu sáng
khuôn mặt của người mẫu hơi dư sáng một chút thì sẽ không thấy được các khuyết điểm về da của
người mẫu, cũng như các nếp nhăn trở nên không rõ ràng, khó xác định và ngược lại bạn có thể che
các khuyết điểm này trong khoảng mù tối.
Trong chụp ảnh sản phẩm thì việc có các khoảng mù tối hay mù sáng xuất hiện trong ảnh không được
ủng hộ lắm, nhất là hình dùng trong bao bì sản phẩm. Nơi mà mọi thứ cần phải rõ ràng, trung thực.
Trong quảng cáo thì vô cùng, nhưng các khoảng mù sáng không nên có, lý do là các thiết bị in offset
sẽ tạo nên các bước nhảy gắt từ vùng an toàn đầy đủ thông tin sang vùng mù sáng và làm cho bức ảnh
không êm, hiếm có nhà làm thiết kế/quảng cáo chuyên nghiệp nào chấp nhận điều này.
3. Hướng sáng
Trực diện (frontal lighting), ngược (back lit), xiên (side lighting), trên xuống (top lighting), dưới lên
(lighting from the bottom) là những từ người ta dùng để nói về hướng sáng. Đọc các từ này thì chắc
các bạn cũng có thể mường tượng được vấn đề. Ở đây tôi chỉ bàn về các ứng dụng của từng loại.
Trực diện, với vị trí nguồn sáng chiếu trực tiếp vào đối tượng, hay nguồn sáng nằm trên trục của ống
kính, ví dụ rõ ràng nhất đó là đèn flash gắn trực tiếp trên thân máy, hay ống kính (đèn flash tròn, ring
flash), hay bạn treo đèn ngay phía trên hay dưới ống kính, hay bất cứ vị trí nào miễn là luồng sáng
chiếu trực tiếp lên chủ đề được coi như trực diện. Khi đó mọi bóng đổ đều nằm khuất phía sau vật
chụp. Tại vị trí này, cái gì nằm trong “khoảng nhìn” của ống kính đều được chiếu sáng gần như nhau.
Với cách bố trí đèn như vậy thì chủ đề xuất hiện trong bức ảnh sẽ rất rõ về hình dạng, bù lại thì chi
tiết, cấu trúc bề mặt vật chụp không bật lên được, bức ảnh bẹt (flat), không nổi khối, nhất là nguồn
sáng là nguồn sáng dịu. Cách bố trí ánh sáng này chỉ phù hợp với hình nghiên cứu, khoa học, hình
chụp lại (copy) các văn bản giấy tờ, hình ảnh không phản sáng. Nói thế không có nghĩa cách bố trí đèn
này không phù hợp trong chụp chân dung thời trang.
Trong ảnh chân dung và thời trang thì cách bố trí này đa số dùng để làm đèn phụ (fill light) để xóa bớt
các bóng do các nguồn sáng chính tạo nên. Nếu nguồn sáng là nguồn sáng dịu/tán thì việc nâng cao vị
trí đèn về phía trên ống kính sẽ cho bạn một kiểu ánh sáng chân dung, thời trang rất đẹp. Nếu bạn xem
báo thời trang nước ngoài thì đa số hình bìa hay các hình người mẫu chính được chụp với nguồn sáng
chính tại vị trí này. Đơn giản vì hình sẽ có bố cục ánh sáng đều, ưa nhìn, các khiếm khuyết về da và

gương mặt ít lộ rõ nhất. Trong thực tế sử dụng thì phải bố trí các nguồn sáng phụ khác để xóa bóng
phía sau chủ đề.
Ngược, nguồn sáng đặt phía sau chủ đề và hướng thẳng về phía ống kính. Với vị trí bố trí này thường
thì toàn bộ phần biên của chủ đề sẽ nổi rõ, phía trước chủ đề tối đen. Cách bố trí này nhằm tạo đường
ven cho chủ đề, hay dùng để tách chủ đề ra khỏi phông. Nếu bố trí cao thì có thể coi như đèn tóc (hair
light), chếch sang hai bên thì để tạo ven hay kicker (thứ lỗi cho tôi không bíết gọi bằng gì trong tiếng
Việt). Bố trí thì dễ nhưng khai thác và làm chủ loại ánh sáng này thì khó do rất dễ bị lóa sáng (flare)
hay bức ảnh nhìn giả tạo, chát. Tuy nhiên nếu làm chủ được loại ánh sáng này thì ảnh sẽ rất dễ đẹp. Ở
Việt Nam thì hay được dùng trong chụp ảnh nude, nhiều bức đẹp vô cùng!
Trên xuống, nguồn sáng nằm trực diện phía trên đỉnh đầu vật chụp. Cách bố trí này ít được dùng trong
ảnh chân dung nó tạo nên các khoảng tối thui phía dưới hốc mắt, dưới mũi, và dưới cằm, có thể là vài
chỗ nữa (tùy theo trang phục của người mẫu ;), nhất là khi nguồn sáng nhỏ và xa chủ đề. Nếu đặt hơi
chếch về phía sau thì có vai trò làm đèn tóc. Trong chụp hình sản phẩm thì cách bố trí này cũng hay
được dùng nhưng thường là hơi chếch về phía trước chủ đề và nguồn sáng thường to, tán/dịu, gần.
Dưới lên, nguồn sáng được chiếu trực tiếp từ dưới lên. Cách bố trí đèn như thế này rất ít dùng trong
ảnh chân dung, nó làm cho người xem khó chấp nhận, do đi ngược lại trong tự nhiên. Trong tự nhiên
ít khi nào bạn gặp thứ ánh sáng này. Trong phim thì nhiều hơn, và đa số là trong các phim ma, kinh dị.
Trong chụp ảnh sản phẩm thì loại ánh sáng này có chỗ đứng nhất định, nó được dùng để xóa bóng, soi
sáng vật chụp, tuy nhiên phải cẩn thận, do như đã nói dễ cho ảnh không thật, giả tạo.
Xiên, đây là loại cho hiệu quả dễ đẹp nhất, an toàn nhất trong tất cả các loại. Vị trí của đèn nằm ngoài
các vị trí đặc biệt nêu trên và ngang hay quá lắm là hơi sau chủ đề một tí thôi.
Trong thực tế, con mắt và thần kinh của chúng ta quen nhất với loại ánh sáng này. Nó làm cho việc
phân biệt bề mặt chi tiết đối tượng, hình khối của đối tượng dễ dàng nhất. Nếu không phải nhằm tạo
hiệu ứng gì quan trọng, cầu kỳ hay thậm chí cải lương thì tôi thích sử dụng loại ánh sáng này nhất.
Nhiều khi chúng ta cứ tự làm khó mình khi bắt ép chính chúng ta phải tạo ra các bức ảnh với hiệu ứng
đặc biệt, sử dụng quá nhiều nguồn sáng khác nhau cùng một lúc. Đặc biệt thì đôi khi đặc biệt thật,
nhưng đẹp, ưa nhìn hay không thì lại là chuyện khác. Loại hướng sáng như thế này đã được các bậc
thầy về hội họa sử dụng hàng thế kỷ trước khi có phát minh ra máy chụp ảnh và các bức họa của họ thì
tới bây giờ hậu thế cũng phải thán phục.
Do nằm chếch về một phía so với trục máy ảnh-chủ đề nên các bóng đổ do nguồn sáng ở các hướng

này luôn được tạo ra. Chính sự xuất hiện của các bóng này mà ta biết được hướng của nguồn sáng,
hình khối của vật chụp, chi tiết, cấu trúc bề mặt vật chụp. Vấn đề còn lại là đặt ở đâu là đẹp nhất theo
quan điểm của người chụp là điều đáng để quan tâm. Trong chụp ảnh chân dung, thường thì nguồn
sáng này được đặt chếch một hướng 45 độ so với trục máy ảnh-người mẫu và hơi cao lên phía trên
người mẫu và máy ảnh.
Điều cuối cùng tôi muốn nói ở đây là, trong chụp ảnh chân dung việc đặt nguồn sáng xê xích, qua lại,
lên xuống đôi ba tấc không quan trọng nhưng trong chụp ảnh quảng cáo, thực phẩm, và các sản phẩm
nhỏ, việc xê dịch nguồn sáng vài phân thôi cũng có thể làm nên bức ảnh đạt nhưng cũng có thể phá
hỏng một bức ảnh đúng ra rất đẹp.
4. Nhiệt độ màu
Nói tới ánh sáng không thể không nói tới nhiệt độ màu. Không chỉ nhiệt độ màu có tác động trực tiếp
tới màu sắc của vật chụp trong bức ảnh mà nó còn tạo hiệu ứng thời điểm, tâm trạng (mood), xúc cảm
cho bức ảnh. Bức ảnh tông sáng với ánh sáng hơi xanh cho ta cảm giác nó được chụp vào buổi sáng,
trong lành. Cũng với bức ảnh đó nhưng ám sắc vàng óng cho ta cảm giác của một buổi hoàng hôn lãng
mạn. Và cũng với bức ảnh đó nhưng ánh sáng xanh xao, nhờ nhờ cho ta cảm giác nó được chụp vào
buổi tối dưới ánh đèn neon yếu ớt. Vậy cụ thể nhiệt độ màu là gì.
Người ta dùng nhiệt độ K để chỉ nhiệt độ màu. Khi nung nóng một thanh sắt, thì tại một nhiệt độ bất
kỳ nào đó, thanh sắt sẽ phát ra một màu nhất định. Dựa trên hiện tượng này người ta đo đạc và đưa ra
khái niệm nhiệt độ màu. Về cơ bản thì nhiệt độ càng thấp, ánh sáng càng đỏ, nhiệt độ càng cao thì ánh
sáng càng xanh. Ví dụ khi ta bật bật lửa gaz lên thì phần màu vàng phía trên ngọn lửa có nhiệt độ thấp
hơn phần màu xanh của ngọn lửa, trong hàn hơi (gió đá) cũng vậy. Vậy lần sau khi mồi thuốc lá bạn
nên dí điếu thuốc vào phần có lửa xanh nhé, nhanh hơn cỡ vài phần của giây đấy :).
Thế nào là một bức ảnh/hình đúng nhiệt độ màu? Lấy gì làm chuẩn? Trong nhiếp ảnh và in ấn một
bức ảnh/hình được gọi là đúng nhiệt độ màu nếu những vật thể, chủ đề trong bức ảnh/hình đó có màu
sắc giống như vật thể, chủ đề thực khi so sánh trong cùng điều kiện ánh sáng trắng (day light), hay ánh
sáng có nhiệt độ 5,500 độ K.
Làm sao để xác định được nhiệt độ màu của nguồn sáng? Chắc bạn sẽ nghĩ ngay tới máy đo. Vâng
đúng như thế, nhưng nếu bạn không muốn hay không sẵn sàng chi cho khoản tiền vài trăm tới trên
dưới một ngàn USD thì cũng ổn thôi. Thực ra chụp ảnh không phải là một ngành đòi hỏi chính xác
tuyệt đối. Việc chênh nhau vài chục độ K hay thậm chí 100 độ K thì cũng chả khác nhau là mấy.

Trong thực tế thì ta có thể tạm dùng các loại film chụp ảnh, filter trên ống kính hay trên đèn để có
được bức ảnh đúng nhiệt độ màu trong những trường hợp cụ thể. Dùng như thế nào, loại nào thì chắc
bạn phải hỏi nhà sản xuất, tôi thì chịu. Đối với đa số các máy kỹ thuật số thì thường máy sẽ có cách để
tự động nhận biết nhiệt độ màu của chủ đề sắp chụp (Auto White Balance) mặc dù đôi lúc các tính
năng này dở vô cùng, thường là trong môi trường ánh sáng nhân tạo, hay ánh sáng yếu. Trong các máy
kỹ thuật số chuyên nghiệp thì việc đạt được cân bằng trắng dễ dàng hơn, do có nhiều lựa chọn hơn cho
người sử dụng, những nhà chuyên nghiệp. Cụ thể bạn có thể chọn các tùy chọn định trước, auto, hay
xác lập nhiệt độ màu chính xác theo như nhiệt độ màu mà bạn đã biết hay đo được. Nếu bạn vẫn
không thành công thì tôi có trình bày một cách đơn giản để có bức ảnh cân bằng trắng
www.vnphoto.net/forums/showthread.php?t=5110.
Đa số các đèn flash thông thường có nhiệt độ màu khoảng từ 5,000 độ K tới 5,500 độ K. Đèn halogen,
đèn tóc (tungsten) thì thấp hơn, khoảng 2,800 tới 3,200 độ K. Ngoài trời thì nhiệt độ ánh sáng trời
không mây, vào buổi trưa có nhiệt độ khoảng 5,500 độ K. Trong bóng râm khoảng 7,500 độ K, trời
đầy mây khoảng 6,500 độ K, ánh sáng đèn neon trắng thông thường khoảng 3,800 độ K.
Biết được nhiệt độ màu của nguồn sáng rồi thì việc bắt bức ảnh có sắc màu theo ý mình không khó
lắm. Trong máy kỹ thuật số, hay trong khi xử lý ảnh trong các chương trình chuyển đổi file raw thì
muốn bức hình đúng cân bằng trắng, thì bạn phải chọn đúng nhiệt độ màu của nguồn sáng dùng tại
thời điểm chụp. Muốn hình ám sắc vàng thì chọn nhiệt độ màu cao hơn thực tế, ngược lại nhiệt độ
màu thấp hơn thực tế sẽ cho ảnh ám sắc xanh. Đối với tôi, trong chụp ảnh người mẫu tôi chụp với đèn
flash và chọn nhiệt độ màu khoảng 6,000 độ K. Như vậy thường những ảnh của tôi luôn có sắc vàng
như chụp dưới ánh sáng mặt trời lúc hoàng hôn.
Trình bày vấn đề về nhiệt độ màu này một cách đơn giản trên giấy thật khó đối với tôi, nhất là phần áp
dụng, theo tôi cách đơn giản nhất là chịu khó chụp thật nhiều với các tùy chọn khác nhau và bạn sẽ có
được kinh nghiệm về vấn đề này. Tôt hơn cả là trước khi tiến hành thực tập bạn nên đọc thật kỹ các
cách thức lấy cân bằng trắng trên máy từ sách hướng dẫn của nhà cung cấp.
5. Khoảng cách từ nguồn sáng tới chủ đề
Bao xa đó chính là câu hỏi ở đây. Ảnh hưởng của nó như thế nào trong thực tế?
Như trên đã nói, nguồn sáng càng gần chủ đề thì càng dịu, càng xa chủ đề thì càng gắt. Nếu chỉ có vậy
thì không nói làm gì, nhưng khoảng cách của nguồn sáng tới chủ đề sẽ quyết định cường độ sáng của
nguồn sáng. Cường độ này tăng, giảm theo bình phương sự tăng giảm theo khoảng cách giữa nguồn

sáng và vật chụp. Cụ thể khi khoảng cách gần hơn gấp đôi thì cường độ sáng tăng lên gấp bốn lần.
Ngược lại khi khoảng cách này xa đi gấp đôi thì cường độ sáng giảm đi gấp bốn lần.
Vậy, nếu bạn muốn ánh sáng giảm trên phông thì không phải là kéo đèn ra xa vật chụp mà ngược lại,
kéo lại gần vật chụp hơn nữa. Giả thiết ở đây là vật chụp nằm giữa phông và đèn.
Nắm được đặc điểm này của ánh sáng đôi khi bạn có thể tiết kiệm được khá nhiều tiền cho việc sắm
đèn của bạn. Đơn giản để khép thêm một khẩu trên ống kính bạn phải tăng gấp đôi công xuất đèn hiện
có tại cùng một vị trí bố trí đèn (trong khi các thông số khác không đổi). Nếu đèn hiện tại bạn đang có
đã xử dụng hết công xuất thì có nghĩa là phải mua thêm một cái đèn nữa có cùng công suất hay thay
bằng một đèn khác có công xuất gấp đôi. Trong khi đó bạn chỉ phải kéo đèn gần lại thêm một ít thôi
miễn là điều kiện cho phép.
Trên đây là những khái niệm cơ bản của ánh sáng trong nhiếp ảnh mà tôi đúc kết được trong quá trình
tham gia vào lĩnh chụp ảnh, hy vọng ít nhiều giúp ích cho những ai mới bước chân vào lĩnh đẹp đẽ và
tốn kém này. Để hiểu tường tận vấn đề tôi đề nghị bạn nên mua hẳn một cuốn sách chuyên đề hay
tham dự một khóa đào tạo chuyên nghiệp. Và quan trọng nhất đó là chụp thật nhiều, thử thật nhiều.
Một khi bạn nắm vững được vấn đề thì điều tưởng là khó hóa ra thật dễ dàng.
Các nguyên tắc cơ bản
Ở bài này, người học sẽ học một số nguyên tắc cơ bản nhất của nhiếp ảnh và cách tận dụng những chế độ mặc
cảnh thông dụng để chụp ảnh.
Chuẩn bị
Thiết bị: Bất cứ máy ảnh du lịch nào.
Mục tiêu: Nắm được những nguyên tắc cơ bản của nhiếp ảnh để giúp chụp những bức
ảnh đẹp cũng như tận dụng được các chức năng mặc cảnh của máy ảnh.
Thời gian cần thiết: 20 phút.
Các nguyên tắc cơ bản

Nguyên tắc phần ba.
Một số máy ảnh tích hợp sẵn đường lưới căn khung. Bạn chỉ việc bật lên bằng cách bấm nút DISPLAY hoặc DISP liên tục
đến khi các đường này xuất hiện. Nếu không bạn phải xem thêm ở sách hướng dẫn. Ảnh: Cnet.
Đây là nguyên tắc cơ bản và nguyên thủy nhất của nhiếp ảnh, vốn bắt nguồn từ các họa sĩ của những
năm 1797. Nguyên tắc này thực ra rất đơn giản, đó là chia cảnh thành 9 vùng bằng nhau với hai đường

dọc, hai đường ngang (như hình trên). Sau đó người chụp chỉ việc đặt đối tượng chụp vào bất kỳ điểm
giao nhau nào (4 điểm). Việc này nhằm tạo sự hợp lý về bố cục thay vì đặt cân đối trong khuôn hình.

Căn khung
Cảnh sẽ trở nên đẹp hơn nếu bạn sử dụng kỹ thuật tạo khung cho ảnh. Ảnh: Cnet.
Đôi khi một cảnh sẽ trở nên đẹp hơn nếu bạn sử dụng kỹ thuật tạo khung cho ảnh. Chụp qua nan hoa
bánh xe đạp hoặc sử dụng các cành lá phía trên, dưới hoặc hai bên làm khung che bớt những cảnh
xung quanh, cảnh ở giữa khung trông sẽ nổi bật hơn và sẽ thu hút được sự chú ý của người xem hơn.
Phối cảnh
Cố gắng thử nhiều góc độ để tìm góc đạt phối cảnh ấn tượng nhất. Đặt máy ảnh xuống đất rồi hất lên hoặc giơ thẳng máy
lên trời sẽ tạo một cách nhìn thú vị hơn là để máy ngang tầm mắt như thông thường. Ảnh: Cnet.
Sử dụng các đường nét để tạo cho ảnh có một độ sâu nhất định. Ví dụ khi chụp một tòa nhà từ dưới
chân hất lên, bức ảnh sẽ tạo nên một cảm giác tòa nhà này cao hơn bình thường. Hoặc bạn cũng có thể
dùng các đường nét để dẫn hướng người xem tới phần chính của đối tượng chụp. Với những cảnh kiểu
này, bạn nên sử dụng tiêu cự rộng nhất có thể của máy để ảnh bao quát được nhiều đối tượng.
Bản mẫu (Patterns)
Nên sử dụng những mẫu đơn giản cho khung hình không quá rối rắm, gây mất tập trung cho người xem. Ảnh: Cnet.
Hãy tìm mẫu với các đối tượng lặp đi lặp lại trong khung cảnh và đưa nó vào khung hình. Nếu ít, bạn
có thể zoom lại gần để nó chiếm phần lớn khung hình và loại bỏ được các đối tượng gây mất tập
trung. Như bức hình trên, người chụp đã zoom lại gần bức tường chắn trước khu nhà cao tầng với các
lỗ gạch để tạo nên một mẫu nền rất thú vị.
Các chế độ mặc cảnh cơ bản
Các chế độ mặc cảnh trên máy của bạn có thể giúp cải thiện chất lượng chụp ảnh nếu biết sử dụng
đúng nơi đúng chỗ. Dù tự động, nhưng các chế độ này vẫn cần thêm một chút điều chỉnh từ người
chụp thì mới phát huy được hết tính năng.
Chế độ chân dung (Portrait)
Ảnh chụp bằng chế độ Portrait. Ảnh: Shawn Low/Cnet.
Một số người chụp thích để phía hậu cảnh mờ để nhấn mạnh hơn vào đối tượng. Thông thường, chế
độ nhận diện khuôn mặt sẽ tự động canh nét vào mặt người chụp và chọn độ mở thích hợp (độ mở
lớn) để tạo một ảnh chân dung nổi hơn trên nền hậu cảnh.

Chế độ phong cảnh (Landscape)
Chụp bằng chế độ Landscape. Ảnh: Shawn Low/Cnet.
Chế độ phong cảnh khá hữu dụng cho việc chụp cảnh thông thường bởi ở chế độ này, tông màu lục và
màu lam sẽ được kích lên để bức ảnh trông rực rỡ hơn. Máy ảnh ở chế độ này cũng sẽ lựa chọn độ mở
thích hợp sao cho toàn bộ khung cảnh đều được nét.
Chế độ chụp bãi biển/tuyết (Snow/Beach)
Chụp bằng chế độ Snow/Beach. Ảnh: Chee-onn Leong/Cnet.
Máy ảnh sẽ tự giảm phơi sáng để tránh hiện tượng cháy sáng do độ sáng chênh lệch giữa tuyết hoặc
nước biển so với cảnh vật xung quanh. Vì thế, ảnh sẽ trông hơi tối hơn để có thể thể hiện các chi tiết
vùng sáng rõ hơn.
Chế độ chụp đêm (Night mode)
Chụp bằng chế độ Night Mode. Ảnh: Eugene Barzakovsky / Cnet.
Chế độ chụp đêm là dễ bị "bẫy" nhất. Thông thường, nhiều người phàn nàn rằng ảnh chụp ở chế độ
này thường bị rung, mờ. Vấn đề chủ yếu do người dùng cầm máy không đủ chắc. Nên nếu không có
chân máy, bạn cần đặt máy ở một mặt phẳng vững chắc để tránh rung tối đa chứ không nên cầm tay.
Tốc độ cửa trập
Tốc độ cửa trập (hay màn trập) là một trong những thuật ngữ thông dụng nhất trong nhiếp ảnh, nó chỉ tốc độ
chụp một bức ảnh là nhanh hay chậm.
Bên trong máy ảnh có một cơ chế cửa trập mở ra/đóng vào với tốc độ nhanh chậm khác nhau để điều
chỉnh lượng sáng đi vào cảm biến. Tốc độ được coi là nhanh thường từ mức 1/125 giây hoặc hơn như
1/250 hay 1/500 giây. Tốc độ được coi là chậm từ mức 1/30 giây hoặc thấp hơn như 1/15 hay 1/8 giây.
Tuy nhiên, các thông số nhanh chậm này không cố định mà còn phụ thuộc vào độ cầm máy chắc tay
của người chụp.

Yêu cầu chuẩn bị
Thiết bị: Bất kỳ máy du lịch nào và một chân máy mini.
Mục tiêu: Nắm bắt được tốc độ cửa trập là gì và các thiết đặt khác nhau sẽ tác động
đến hình ảnh như thế nào.
Thời gian: 10 phút.
Tốc độ nhanh.

Tốc độ nhanh cho phép đóng băng khoảnh khắc chuyển động, như trong ví dụ về các vận động viên bãi biển này. Ảnh:
Shawn Low / Cnet.
Với đặc tính có thể đóng băng chuyển động, tốc độ nhanh rất hữu dụng trong việc chụp các vật thể
chuyển động nhanh như ôtô đua hay vận động viên.
Với các vật thể chuyển động nhanh, nếu dùng tốc độ chậm để chụp (như ảnh trên) sẽ gây nên hiện tượng mờ ảnh do bị tác
động bởi cả chuyển động nhanh của vật lẫn độ rung lắc do tay cầm máy gây nên. Ảnh: Ardelfin/MorgueFile.
Tốc độ cửa trập nhanh nghĩa là quá trình mở ra đóng vào của cửa trập nhanh hơn, ảnh sẽ không bị mờ
do độ rung của tay bấm gây nên. Hầu hết máy ảnh du lịch hiện nay sẽ tự động tăng tốc độ chụp nếu
ánh sáng nhiều (như chụp dưới ánh nắng). Tuy nhiên, vẫn có những cách có thể buộc máy ảnh tăng
tốc độ chụp nhưng vấn đề này sẽ được bàn tới ở những bài sau. Ở bài này, người học chỉ cần nhớ tốc
độ nhanh sẽ giúp đóng băng chuyển động và tránh cho ảnh khỏi bị mờ do độ rung của tay cầm máy.
Tốc độ chậm.
Tốc độ chậm được dùng cho ảnh chụp đêm. Tuy nhiên, nhớ mang thêm chân máy để tăng thêm độ vững chắc. Ảnh: Shawn
Low/Cnet.
Tốc độ chụp chậm cho phép ánh sáng vào cảm biến nhiều hơn, vì thế nó thường được sử dụng để chụp
ảnh trong những điều kiện thiếu sáng. Tuy nhiên, máy ảnh luôn có xu hướng bị rung do tay cầm khi
chụp ở tốc độ chậm khiến cho ảnh bị mờ, vì thế tốt nhất trong những trường hợp này là người chụp
nên dùng chân máy.
Sử dụng tốc độ chụp chậm khiến cho dòng nước chảy trông mềm mại như lụa. Ảnh: Shawn Low/Cnet.
Hình ảnh một dòng nước rõ nét có thể khiến bức ảnh trở nên nhàm chán. Các dòng sông hay thác nước
(như ở bức ảnh trên) trông sẽ gợi cảm hơn nếu như được chụp bằng tốc độ chậm, tạo nên độ mờ ảo
của hiệu ứng chuyển động chảy. Cách tốt nhất để tạo hiệu ứng này là sử dụng tốc độ chậm, độ mở nhỏ
(f/11 tới f/22) và chân máy.
Tốc độ cửa trập hiển thị ở đâu?
Tốc độ cửa trập hiển thị ở đây là giá trị 1/13 giây. Ảnh: Shawn Low/Cnet.
Hầu hết máy ảnh du lịch không cho phép người chụp chỉnh tốc độ cửa trập, nhưng người chụp vẫn có
thể xem giá trị thông số này khi bấm nhá lấy nét. Các thông số phơi sáng mà máy ảnh tính toán
thường được hiển thị ở cạnh dưới của màn hình LCD.
Có thể thay đổi tốc độ cửa trập được không?
Như đã đề cập, hầu hết máy ảnh du lịch không cho phép chỉnh sửa tốc độ cửa trập. Tuy nhiên, ở các

bài học sau về độ mở và ISO, bạn sẽ học cách chỉnh tốc độ cửa trập gián tiếp của việc điều chỉnh các
thông số này.
Độ mở
Tốc độ cửa trập điều khiển thời gian cảm biến bắt sáng, còn độ mở điều chỉnh lượng sáng đi qua ống kính vào
cảm biến.
Sau khi học về tốc độ, bài này sẽ nói đến độ mở, một thông số không những thông dụng mà còn có ý
nghĩa rất quan trọng trong nhiếp ảnh.
Tốc độ cửa trập điều khiển thời gian cảm biến bắt sáng, còn độ mở điều chỉnh lượng sáng đi qua ống
kính vào cảm biến. Độ mở điều khiển lượng sáng bằng một "cửa sổ" trong ống kính dưới dạng bộ lọc
hoặc các lá thép cơ học.
Yêu cầu chuẩn bị
Thiết bị: Bất kỳ máy ảnh số nào
Mục tiêu: Hiểu độ mở là gì, cách thức độ mở với tốc độ để điều hòa phơi sáng cho một
bức ảnh.
Thời gian: 15 phút.
Độ mở là gì?
Độ mở là kích thước "cửa sổ" mở rộng ra hay hẹp vào để điều chỉnh lượng ánh sáng vào cảm biến.
Trong nhiếp ảnh, độ mở thường được ký hiệu bằng chữ "f" theo sau là số. Ví dụ: f/2.8, f/8 hay f/16.
Số sau chữ "f" chính là kích cỡ của độ mở "cửa sổ" nhưng được quy ước ngược, nghĩa là số càng nhỏ
độ mở càng lớn, và số càng lớn độ mở càng nhỏ.
Độ mở lớn
Hình minh họa cho cơ chế độ mở bằng lá thép mở rộng. Ảnh: Cnet.
Độ mở lớn được biểu thị bằng các số nhỏ, chẳng hạn f/2.8 hay f/3.5. Hầu hết các máy ảnh du lịch có
độ mở tối đa là f/3.5, mặc dù hiện nay đã bắt đầu có những phiên bản tiên tiến hơn với độ mở có thể
lên tới f/2 hay thậm chí là f/1.8.
Do độ mở lớn có thể cho lượng ánh sáng vào cảm biến nhiều hơn nên độ mở lớn thường được dùng
trong những điều kiện thiếu sáng. Thêm vào đó, do lượng sáng vào cảm biến nhiều hơn nên cũng đồng
nghĩa với việc tốc độ chụp có thể đẩy nhanh hơn, giúp ảnh không bị mờ do rung máy.
Độ mở hẹp
Hình này cho thấy độ mở đã được khép hẹp lại với số f lớn, chẳng hạn f/16. Ảnh: Cnet.

Độ mở nhỏ thường được biểu thị bằng những số lớn sau chữ "f" như f/11, f/13 hay f/16 hoặc hơn. Hầu
hết các máy ảnh du lịch có độ mở nhỏ nhất là f/11.
Nếu người chụp chụp ảnh trong những điều kiện ánh sáng mạnh (giữa trưa nắng), độ mở nhỏ giúp
điều tiết lượng sáng hợp lý vào cảm biến, tránh ảnh bị cháy sáng. Trong trường hợp này, người chụp
cũng có thể đẩy nhanh tốc độ để đạt hiệu quả tương tự.
Kính lọc ND và lá thép độ mở cơ học
Máy ảnh du lịch sử dụng hai cơ chế để điều tiết lượng ánh sáng đi qua ống kính vào cảm biến. Một
trong số đó là sử dụng kính lọc ND (neutral density - trung tính) với một lớp kính có màu sậm hơn
thông thường nhằm giảm lượng sáng đi vào cảm biến. Thêm vào đó, sử dụng kính ND không làm thay
đổi giá trị độ mở. Vì thế, sử dụng kính lọc ND là giải pháp kinh tế hơn nên được sử dụng phổ biến hơn
trong các máy ảnh du lịch.
Giá trị độ mở ở hình trên là f/3.3. Ảnh: Cnet.
Những người chụp chuyên nghiệp thì chọn sử dụng cơ chế lá thép có thể đóng hay mở tùy theo người
chụp điều chỉnh. Nhờ việc có thể tự chỉnh mà chế độ này có thể giúp người chụp trởi nên sáng tạo hơn
Tương tự như tốc độ cửa trập, thông số về độ mở được hiển thị ngay ở cạnh dưới màn hình LCD.
Có thể thay đổi độ mở trên máy du lịch được không?
Hầu hết các máy ảnh du lịch không cho phép thay đổi độ mở, tuy nhiên, người chụp vẫn có thể điều
chỉnh độ mở gián tiếp qua thông số ISO.
Lưu ý: Hiện một số máy ảnh du lịch cao cấp (Canon G12, Lumix DMC-LX5 ) đã được trang bị đầy
đủ các tính năng và thông số chỉnh tay, bao gồm cả tốc độ cửa trập và độ mở.
Sử dụng đèn flash trong chụp ảnh
(TG@) - Ánh sáng mặt trời luôn là nguồn sáng tuyệt vời nhất cho một bức ảnh. Thế nhưng, không phải lúc
nào chúng ta cũng có thể có được nguồn ánh sáng tự nhiên và vô giá này. Và khi ấy, chiếc đèn flash trở nên
một người bạn quý giá cho những ai đang cần một bức hình.
Về lý thuyết, sử dụng đèn flash của máy chụp hình là việc đơn giản: Bạn cần sự trợ giúp này khi
không thể chụp ảnh chỉ với ánh sáng tự nhiên. Hầu hết máy ảnh hiện nay đều trang bị đèn flash, tuy
nhiên bạn nên tham khảo các thủ thuật bên dưới để đảm bảo luôn “săn” được những bức ảnh đẹp nhất.
Đèn flash phụ của Canon Ảnh: Canon.com
Khi nào nên dùng flash
Một số người luôn để đèn flash máy chụp hình ở chế độ mở, do đó sẽ có trường hợp đèn flash “đánh”

không cần thiết. Trong khi đó, vài người lại tắt hẳn flash. Tốt nhất, bạn nên tắt flash và chỉ bật khi
thực sự cần thiết.
Khi chụp lại khoảnh khắc của một hành động trong điều kiện ánh sáng yếu sử dụng flash, bạn cần tiên
đoán trước vị trí nào của hành động mà mình sẽ chụp, lấy tiêu điểm (focus) trước bằng cách giữ nhẹ
lên nút chụp ảnh, lúc này, khung tiêu điểm trên màn hình LCD sẽ chuyển từ trắng sang màu xanh lá
cây. Cách này sẽ giúp bạn nhanh chóng lấy được khoảnh khắc như ý của hành động đang diễn ra và
giảm bớt độ trễ của màn trập. Lưu ý là giữ đối tượng chụp nằm trong phạm vi của đèn flash, thông
thường là 5 m.
Một cách thức khác có thể áp dụng là tắt flash và tăng độ phơi sáng. Lúc này, máy ảnh sẽ giữ cho màn
trập mở lâu hơn, cho phép nhiều ánh sáng vào trong bộ cảm biến hơn. Cách thức này cần được thử
nghiệm nhỏ vì một vài lỗi có thể xuất hiện kèm theo sự gia tăng độ mờ trên ảnh. Tuy vậy, độ trung
thực của ảnh được gia tăng đáng kể khiến các lỗi trên không còn là vấn đề lớn.
Dùng flash đúng cách
Hầu hết máy chụp hình đều cảnh báo người dùng bằng một biểu tượng trên kính ngắm khi không đủ
ánh sáng để có được bức ảnh đẹp nếu không dùng đèn flash. Hãy đọc kỹ hướng dẫn sử dụng để hiểu
được thông báo và để giải quyết tình huống này. Bạn cũng có thể kiểm tra tốc độ màn trập mà máy
ảnh đang dự định sử dụng; giá trị dưới 1/60 giây là quá chậm. Ngoài ra, bạn cũng có thể tăng độ nhạy
ISO hay bật flash. Nhiều khả năng đèn flash trên máy ảnh của bạn còn hỗ trợ các chế độ khác ngoài
tắt và mở. Bạn phải biết rõ khi nào cần chuyển hẳn sang chế độ “phủ flash “ (fill flash) để tránh hiện
tượng bóng đổ khi chụp ảnh người đang đứng ngoài trời dưới ánh nắng trực tiếp, và khi nào cần chọn
tính năng giảm mắt đỏ (red eye reduction) để chụp ảnh trong nhà dưới điều kiện thiếu sáng.

×