Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

ĐIỀU TRA NGHIÊN CỨU KỸ THUẬT TỔNG HỢP TRONG CANH TÁC HỒ TIÊU THEO HƯỚNG BỀN VỮNG TAI DAKLAK

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 133 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN











TRẦN QUỐC HÙNG




ĐIỀU TRA, NGHIÊN CỨU BIỆN PHÁP KỸ THUẬT TỔNG
HỢP TRONG CANH TÁC HỒ TIÊU (Piper nigrum L.) THEO
HƯỚNG BỀN VỮNG TẠI ĐẮKLẮK



LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP














BUÔN MA THUỘT, NĂM 2010
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN







TRẦN QUỐC HÙNG




ĐIỀU TRA, NGHIÊN CỨU BIỆN PHÁP KỸ THUẬT TỔNG
HỢP TRONG CANH TÁC HỒ TIÊU (Piper nigrum L.) THEO
HƯỚNG BỀN VỮNG TẠI ĐẮKLẮK
Chuyên ngành: Kỹ thuật trồng trọt
Mã số: 60 62 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP





Người hướng dẫn khoa học: TS.Trần Kim Loang











BUÔN MA THUỘT, NĂM 2010


1
MỞ ĐẦU

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cây tiêu là cây công nghiệp lâu năm có giá trị kinh tế cao, giữ vị trí quan
trọng trong cơ cấu cây trồng nông nghiệp. Trong những năm gần ñây diện tích
hồ tiêu ngày càng ñược mở rộng và trồng tại nhiều vùng ở nước ta.
Theo ñịnh hướng phát triển cây hồ tiêu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn ñến năm 2010 thì diện tích hồ tiêu của nước ta khoảng 42.000 ha, sản
lượng khoảng 70.000 - 80.000 tấn tiêu ñen. Tuy nhiên, ñến năm 2004, diện tích
trồng tiêu của cả nước ñã lên ñến trên 50.000 ha với sản lượng trên 85.000 tấn,

trong ñó ở Tây Nguyên là 15.000 ha ñứng thứ hai sau vùng Đông Nam bộ (Hiệp
hội hồ tiêu Việt Nam, 2003). Đến năm 2007, tổng diện tích hồ tiêu khoảng
48.000 ha, giảm 2.000 ha so với năm 2006, chủ yếu tiêu chết do sâu, bệnh hại;
trong ñó diện tích tiêu cho thu hoạch khoảng 42.000 ha, năng suất bình quân ñạt
19,8 tạ/ha, giảm 2,4 tạ/ha; sản lượng ñạt 83.000 tấn, giảm 17.000 tấn (17 %) so
với năm 2006. (Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam, 2008).
ĐắkLắk là một trong những tỉnh ở Tây nguyên có tiềm năng lớn về ñất ñai
và ñiều kiện khí hậu thích hợp cho phát triển sản xuất những cây trồng chủ lực, có
giá trị kinh tế và xuất khẩu cao trong ñó có cây hồ tiêu. Trong những năm gần ñây,
sản xuất hồ tiêu tại ĐắkLắk phát triển rất nhanh. Chỉ trong vòng 8 năm từ năm
2000 ñến năm 2008, diện tích trồng hồ tiêu tại ĐắkLắk tăng gấp 3 lần (khoảng
1.500 ha vào năm 2000 và trên 4.700 ha vào năm 2008), sản lượng tăng gấp 10 lần
[6]. Tuy nhiên, từ năm 2005 trở lại ñây, chỉ số phát triển về sản lượng so với năm
trước giảm dần (khoảng 240 % trong năm 2005 và trong năm 2008 chỉ ñạt 100 %).
Điều này cho thấy việc sản xuất hồ tiêu tại ĐắkLắk hiện nay không bền vững.
Nhiều nghiên cứu trên thế giới và ở nước ta cho thấy, sâu bệnh là một trong
những nguyên nhân chính của việc giảm diện tích và sản lượng các vườn tiêu. Bên
cạnh ñó là sự tác ñộng không hợp lý và không ñồng bộ các biện pháp kỹ thuật
canh tác trên ñồng ruộng dẫn ñến sự mất cân bằng trong sinh thái. Vấn ñề ñang

2
làm người trồng tiêu ñang quan tâm và lo ngại nhất hiện nay là giữ cho năng suất
vườn tiêu ñược ổn ñịnh, hạn chế ñược các loại sâu bệnh hại nguy hiểm mang tính
hủy diệt vườn tiêu. Kinh nghiệm trồng tiêu ở nhiều nơi trên thế giới cho thấy các
loại sâu bệnh phát sinh từ ñất khó có thể phòng trừ bằng biện pháp hoá học ñơn
ñộc mà các kỹ thuật quản lý cây trồng tổng hợp thường có hiệu quả hơn. Do vậy
việc tiếp tục nghiên cứu ñể bổ sung các kỹ thuật canh tác tổng hợp và biện pháp
quản lý dịch hại tổng hợp trên cây tiêu là ñiều cần thiết
Xuất phát từ tình hình thực tiễn trên, chúng tôi tiến hành ñề tài: “Điều tra,
nghiên cứu biện pháp kỹ thuật tổng hợp trong canh tác hồ tiêu (Piper nigrum L.)

theo hướng bền vững tại ĐắkLắk”.
2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
Xác ñịnh các biện pháp kỹ thuật chủ yếu, ñặc biệt là trong quản lý bệnh
hại tiêu ñể góp phần ổn ñịnh năng suất và ñảm bảo tính bền vững trong canh tác
hồ tiêu tại ĐắkLắk.
3. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
- Ý nghĩa khoa học
Các kết quả ñề tài là cơ sở cho các nghiên cứu sau này về canh tác bền
vững cây hồ tiêu tại ĐắkLắk.
- Ý nghĩa thực tiễn
Giúp cho nông dân tại ĐắkLắk sản xuất tiêu bền vững
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Do thời gian có hạn nên ñề tài chỉ tập trung ñiều tra, nghiên cứu tại xã Ea
H’Leo - huyện Ea H’Leo và xã Ea B’Hôk - huyện Cư Kuin tỉnh ĐắkLăk.

3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. YÊU CẦU SINH THÁI CỦA CÂY HỒ TIÊU
1.1.1. Điều kiện khí hậu
* Phân bố ñịa lý
Hồ tiêu mọc hoang ở rừng thường xanh nhiệt ñới bang Tây Ghats và vùng
phụ cận, thường là ở vùng ñồng bằng và ít khi ñược tìm thấy ở ñộ cao trên
1500m. Ở vùng Châu Á-Thái Bình Dương, hồ tiêu ñược trồng nhiều ở Ấn Độ,
Hải Nam (Trung Quốc), Indonesia, Malaysia, Sri Lanka, Thái Lan, Việt Nam và
một ít ở Campuchia. Ngoài vùng này hồ tiêu còn ñược trồng phổ biến ở Brazil và
Madagascar [55]. Ngay cả ở vùng nhiệt ñới, cây tiêu thường ñược trồng tập
trung ở những nơi có khí hậu nóng, ẩm. Yêu cầu ñặc trưng về mặt khí hậu của
cây hồ tiêu là lượng mưa khá, nhiệt ñộ không thay ñổi nhiều, ẩm ñộ cao, ñộ dài

ngày không chênh lệch nhiều giữa các mùa trong năm.
Chevalier (1925) cho rằng hồ tiêu là cây trồng vùng xích ñạo ẩm, thường ít
khi vượt quá vĩ ñộ 15
o
Bắc và Nam. Tuy nhiên Biard và Roule (1942) tranh luận là
hồ tiêu vẫn ñược trồng ở Quảng Trị và Nghệ An vùng Trung Bộ, ở vĩ ñộ trên dưới
20
0
. Ở Quảng Trị tiêu sinh trưởng tốt, trong khi ở Nghệ An tiêu phát triển có chậm
trong mùa ñông (trích dẫn từ Nguyễn Tăng Tôn và cộng sự, 2005 ) [21].
Hiện nay hồ tiêu ñược trồng nhiều ở các nước nằm trong vùng xích ñạo
trong khoảng từ 20
0
vĩ Bắc và Nam. Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Thái Lan,
Srilanka, Madagascar, Brazil là các nước có diện tích và sản lượng hồ tiêu ñáng
kể. Tại Việt Nam, hồ tiêu ñược trồng phổ biến từ tỉnh Quảng Trị trở vào phía
Nam, thích hợp ở ñộ cao 800 m, lên cao hơn tiêu phát triển kém [21].
* Nhiệt ñộ
Hồ tiêu thích nghi tốt với khí hậu ôn hoà, không chịu ñược nhiệt ñộ thay ñổi
nhiều, nhiệt ñộ thấp nhất khoảng 10
0
C, thích hợp nhất trong khoảng 20 - 30
0
C,
nhiệt ñộ ñất ở ñộ sâu 30 cm trong khoảng 25 - 28
0
C [54].

4
* Lượng mưa

Hồ tiêu thích hợp trong ñiều kiện mưa ñều, lượng mưa hàng năm trong
khoảng 1.000 - 3.000 mm, lượng mưa lý tưởng cho cây tiêu sinh trưởng và phát
triển là 1.250 - 2.500 mm, tuy nhiên cây tiêu vẫn sinh trưởng và phát triển bình
thường trong vùng ít mưa nhưng phân bố ñều. Phân bố lượng mưa, tình trạng
thoát nước và khả năng giữ ẩm của ñất ñóng vai trò quan trọng ñối với cây tiêu
hơn là tổng lượng mưa. Lượng mưa khá là ñiều thuận lợi nếu ñất thoát nước tốt,
ngược lại tiêu dễ bị bệnh. Khô hạn cũng là một yếu tố giới hạn sinh trưởng và
phát triển của cây tiêu [17].
* Ẩm ñộ
Khí hậu nóng ẩm là ñiều kiện thích hợp cho sinh trưởng và phát triển của
cây tiêu nhưng ẩm ñộ cao liên tục lại hạn chế sinh trưởng cây tiêu và tạo ñiều
kiện cho sâu bệnh phát sinh. Cây tiêu chịu ñược ẩm ñộ khoảng 63 % trong mùa
khô và 98 % trong mùa mưa [55].
* Ánh sáng
Tiêu là cây ưa bóng trong giai ñoạn cây con, ánh sáng tán xạ thích hợp
cho yêu cầu sinh trưởng, phát dục và phân hoá mầm hoa. Giai ñoạn tiêu ra hoa
ñậu quả, nuôi quả ñến khi quả chín cây tiêu cần nhiều ánh sáng [17], [22]. Việc
có ñủ ánh sáng trong giai ñoạn nuôi quả giúp giảm rụng quả non và tăng dung
trọng hạt tiêu [61].
* Chế ñộ gió: Cây tiêu thích hợp với môi trường lặng gió và gió nhẹ.
1.1.2. Điều kiện ñất ñai
Theo Phan Hữu trinh và cộng sự (1988) [22], Phan Quốc Sủng (2000)
[17] và Sadanandan (2000) [55] ñất thích hợp cho cây tiêu cần có các ñặc tính:
* Lý tính: Tầng ñất canh tác trên 80 cm, có mực nước ngầm sâu trên 2 m,
tơi xốp, có khả năng giữ nước tốt, thành phần cơ giới từ nhẹ ñến trung bình, dễ
thoát nước vào mùa mưa;
* Hoá tính: pH 5,5 - 6,5, tối thiểu 4,5 nhưng cần bón vôi ñể nâng lên trên
5, giàu N, K và Mg, khả năng trao ñổi cation ở mức 20 - 30 meq/100g ñất, tỉ lệ

5

C/N ở tầng ñất canh tác cao (15 - 25).
Ở Ấn Độ tiêu ñược trồng trên ñất Alfisols (70 %), Mollisol (10 %),
Oxisols (6 %) và Entisols (4 %) (trích dẫn từ Sadanandan, 2000) [55]. Ở
Sarawak (Malaysia) tiêu ñược trồng trên ñất phù sa, nhiều chất hữu cơ hoặc trên
vùng ñất sét pha cát [46]. Ở Bangka (Indonesia) tiêu ñược trồng trên ñất
Podzolic vàng ñỏ và ñất cát pha sét [54].
Có thể trồng tiêu trên nhiều loại ñất khác nhau với yêu cầu: Đất dễ thoát
nước, ñộ dốc dưới 5 %, không bị úng ngập; tầng canh tác dày trên 70 cm, mạch
nước ngầm sâu hơn 2 m; ñất giàu mùn, thành phần cơ giới nhẹ ñến trung bình,
pH
KCl
5 - 6 [15].
1.2. GIỐNG HỒ TIÊU
Cây hồ tiêu (Piper nigrum L.) thuộc họ Piperaceae, có nguồn gốc từ bang
Tây Ghats (Ấn Độ), có lẽ ñã ñược trồng cách nay khoảng 6000 năm [56], [53].
Tuy nhiên Chevalier (1925) cho biết cây tiêu chắc chắn l.à cây bản ñịa ở Đông
Dương, bằng chứng là Balanca ñã tìm thấy tiêu dại ở vùng núi Ba Vì, miền Bắc
Việt Nam. Ở Campuchia, người Stiêng ñôi khi cũng thu hoạch tiêu trong rừng
(trích dẫn từ Nguyễn Tăng Tôn và cộng sự, 2005) [21].
Các giống tiêu trồng có thể có nguồn gốc từ các giống tiêu mọc hoang,
ñược thuần hoá và tuyển chọn qua rất nhiều ñời trong khoảng thời gian dài. Trong
số hơn 100 giống tiêu ñược biết ñến, có một số giống ñã và ñang dần mất ñi trong
sản xuất bởi nhiều lý do, chẳng hạn bị loại bỏ vì nhiễm nặng sâu bệnh hại, nhất là
bệnh chết nhanh, chết chậm và tuyến trùng, các giống tiêu bản ñịa dần dần ñược
thay thế bằng một vài giống tiêu cao sản trong sản xuất ñại trà [53].
Việc phân ñịnh giống dựa vào phân tích nhiễm sắc thể rất tốn kém và
không phải lúc nào cũng có ñiều kiện thực hiện. Viện Nghiên cứu Tài nguyên Di
truyền Thực vật Quốc tế ñưa ra bảng chỉ dẫn dựa vào các chỉ tiêu hình thái ñể
nhận diện giống tiêu, bao gồm 29 chỉ tiêu về thân, lá và các ñặc tính sinh trưởng,
30 chỉ tiêu về gié và quả (hạt tươi) và sáu chỉ tiêu về hạt (trích dẫn từ Nguyễn

Tăng Tôn và cộng sự, 2005) [21].

6
Ravindran và cộng sự ñã tiến hành phân tích hợp phần chính (principal
component analysis) ñể phân ñịnh nhóm giống hồ tiêu, xác ñịnh ñược tám hợp
phần chính bao gồm:
1. Chỉ số kích thước lá, chiều dài lá, chiều rộng lá
2. Độ dày lá, ñộ dày biểu bì dưới lá, ñộ dày biểu bì trên lá
3. Tỉ lệ chiều dài lá/chiều dài gié, chiều dài gié, chiều dài cuống gié
4. Chiều dài và chiều rộng tế bào bảo vệ (guard cell)
5. Kích thước quả và hình dạng quả
6. Hình dạng lá và phía gốc lá
7. Tần suất khí khổng và mật ñộ diệp lục
8. Hình dạng lá ở cành cho quả và hình dạng lá ở cành bò (dây lươn)
Trong 51 giống ñược phân tích, kết quả cho thấy có 28 giống nằm chung
một nhóm, và ñiều ñáng lưu ý là Panniyur 1 nằm vào một nhóm riêng (trích dẫn
từ Ravindran và cộng sự, 2000) [53].
Kết quả ñiều tra trong sản xuất ñược tiến hành bởi Viện Nghiên cứu cây
Gia vị Ấn Độ cho thấy chỉ riêng ở Ấn Độ ñã có 38 giống tiêu ñược trồng phổ
biến và 63 giống khác ñược phát hiện [42].
Viện Nghiên cứu Gia vị Ấn Độ ñã tiến hành chương trình tuyển chọn và
lai tạo giống hồ tiêu từ năm 1953 với mục ñích chọn tạo ñược các giống tiêu có
khả năng cho năng suất cao và kháng ñược sâu bệnh. Viện ñã ñưa vào sản xuất
giống tiêu lai Panniyur-1 cho năng suất cao và chống chịu tốt bệnh chết nhanh,
và ñang khu vực hoá hai giống Panniyur-2 và Panniyur-3. Hiện IISR ñang trồng
bảo quản và theo dõi tập ñoàn 2.300 ký hiệu giống bao gồm cả 940 ký hiệu tiêu
hoang dại [43].
Sim và cộng sự (1993) cho biết có ba giống tiêu ñược trồng nhiều ở
Malaysia, trong ñó Kuching là giống ñược trồng phổ biến nhất, cho năng suất
khá cao nhưng dễ nhiễm bệnh chết nhanh (do nấm Phytophthora sp.). Năm 1988

và năm 1991, trung tâm Sarawak ñã phóng thích thêm hai giống là Semongok
perak và Semongok emas. Hai giống này cho quả sớm sau khi trồng và kháng

7
ñược bệnh thán thư, ngoài ra Semongok emas còn có ưu ñiểm ra hoa tập trung,
chín ñồng ñều hơn, chỉ cần thu hoạch 2-3 lần, so với Kuching phải thu 4-6 lần.
Semongok perak tuy có phẩm chất thơm ngon, năng suất cao trong những năm
ñầu kinh doanh nhưng kém bền vững sau vụ thứ ba vì dễ nhiễm bệnh chết nhanh
(trích dẫn từ từ Paulus and Wong, 2000) [50].
Ở Indonesia, bên cạnh giống Bangka cho năng suất cao và ñược trồng phổ
biến, còn có giống Belangtoeng cho năng suất trung bình, ba giống chống chịu
tốt bệnh chết nhanh là Banjarmasin, Duantebei và Merefin, và hai giống chọn lọc
cho năng suất cao ñược phổ biến trong sản xuất giữa thập niên 1990 là Natar 1 và
Natar 2 (trích dẫn từ Nguyễn Tăng Tôn và cộng sự, 2005) [21].
Tại Việt Nam, giống hồ tiêu ñược nhập nội, chọn lọc và phát triển nhiều
trong thập niên 1940 - 1950 [17], [22]. Kể từ thập niên 1960 công tác nghiên cứu
về giống tiêu không ñược tiến hành liên tục.
Năm 1947, giống Lada Belangtoeng có nguồn gốc Indonesia ñược nhập
vào nước ta từ Madagascar, ñược xem là giống có nhiều triển vọng và có khả
năng chống bệnh thối rễ [22].
Năm 1950, Nha Khảo cứu và Sưu tầm Nông Lâm Súc Miền Nam Việt
Nam ñã khảo nghiệm việc trồng tiêu trên cao nguyên Bảo Lộc có ñộ cao trên
500m so với mặt biển [1]. Sau sáu năm khảo nghiệm tác giả này ñã khẳng ñịnh
tiêu hoàn toàn có thể sinh trưởng phát triển tốt, cho năng suất khá cao dưới ñiều
kiện khí hậu cao nguyên nước ta. Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển của
sáu giống tiêu: Srechea, Kampot (từ Campuchia), tiêu Quảng Trị, tiêu Sơn
(Pleiku), tiêu Di Linh và giống Lada Belangtoeng, tác giả ñã kết luận giống Lada
Belangtoeng tỏ ra hợp khí hậu vùng Bảo Lộc, sinh trưởng khỏe, ít bệnh tật, chùm
tiêu dài, thơm cay, năm giống còn lại ít thích hợp hơn.
Năm 1960 giống Lada Belangtoeng ñược ñưa ra trồng ở Quảng Bình,

Vĩnh Linh và giống cũng tỏ ra thích nghi với khí hậu vùng này, có nhiều ưu ñiểm
về sinh trưởng, năng suất và chống ñỡ bệnh tật hơn giống Quảng Trị [26].
Theo Trần Văn Hoà và cộng sự, (2001) [7] các giống tiêu có triển vọng

8
phát triển ở nước ta gồm giống Sẻ ñịa phương vùng Đông Nam Bộ, các giống
nhập từ Campuchia qua ñường Hà Tiên là Sréchéa, Kamchay, Kampot, Kep,
giống Lada Belangtoeng từ Indonesia và Panniyur-1 từ Ấn Độ.
Khi nói ñến triển vọng cây tiêu xuất khẩu ở Miền Nam Việt Nam, Tappan
(1972) khuyến cáo nên du nhập bốn giống có ưu thế, gồm Balancotta và Kalluvalli
gốc Ấn Độ cho năng suất cao và hạt lớn, Kuching gốc Malaysia cho năng suất
cao, Lada Belangtoeng gốc Indonesia sinh trưởng khỏe và chống chịu tốt bệnh
thối rễ. Chỉ trừ giống Lada Belangtoeng ñược nhập vào trồng khảo nghiệm ở
nhiều vùng trong nước, các giống khác chưa ñược quan tâm nhập nội khảo sát một
cách chính thức (trích dẫn từ Nguyễn Tăng Tôn và cộng sự, 2005) [21].
Các giống tiêu ñược trồng phổ biến trong sản xuất hiện nay chủ yếu do
nông dân tự chọn lọc từ nguồn giống ñịa phương hoặc du nhập từ ñịa phương
khác, giống thường mang tên ñịa phương có trồng nhiều hoặc ñịa phương xuất
xứ, do vậy có khi một giống tiêu ñược mang nhiều tên khác nhau, nhiều
giống/dòng tiêu khác nhau lại mang cùng một tên. Các giống ñược trồng phổ
biến có thể phân thành ba nhóm dựa trên các ñặc tính hình thái, chủ yếu là kích
cỡ lá [21]:
1) Tiêu lá nhỏ còn gọi là tiêu sẻ, gồm phần lớn các giống tiêu ñược trồng
phổ biến ở nhiều ñịa phương, trong ñó có các giống: Vĩnh Linh (Quảng Trị),
Tiêu Sơn (Gia Lai), Di Linh (Lâm Đồng), Sẻ Đất ñỏ (Bà Rịa-Vũng Tàu), Phú
Quốc (Kiên Giang), Nam Vang (nhập nội từ Campuchia, gồm ba giống
Kamchay, Kep và Kampot).
2) Tiêu lá trung bình gồm chủ yếu các giống tiêu nhập nội từ Madagascar,
Ấn Độ và Indonesia như: Lada Belangtoeng, Karimunda, Panniyur và Kuching.
3) Tiêu lá lớn còn gọi là tiêu trâu như các giống Sẽ mỡ, Trâu Đất ñỏ

(Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu).
Trong số các giống trên, giống Lada Belangtoeng ñược trồng phổ biến
nhất, ñặc biệt là ở Đông Nam Bộ và Tây Nguyên [17]. Có thể một số giống tiêu
có tên gọi khác nhau ở một số ñịa phương có nguồn gốc từ giống Lada

9
Belangtoeng.
Các số liệu ñiều tra của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây
Nguyên cho thấy các giống tiêu trồng phổ biến hiện nay tại ĐắkLắk là Vĩnh
Linh, Lộc Ninh, Trâu và Sẻ mở. Năng suất bình quân của các giống tiêu này biến
ñộng trong khoảng 2,35 - 3,80 tấn tiêu ñen/ha, trong ñó giống có năng suất thấp
nhất là tiêu Trâu, còn giống có năng suất cao nhất là tiêu Vĩnh Linh [15]. Tuy
nhiên tất cả các giống này ñều bị nhiễm bệnh héo chết nhanh do nấm
Phytophthora và bệnh vàng lá do tuyến trùng [10].
1.3. KỸ THUẬT CANH TÁC
1.3.1. Trụ tiêu
Trong kỹ thuật trồng tiêu thì trụ tiêu ñóng vai trò quan trọng vì trụ tiêu là
nơi cây tiêu bám vào ñể leo lên cao và cho sản lượng trong suốt thời gian kinh
doanh. Hồ tiêu có nguồn gốc là cây mọc hoang trong các rừng nhiệt ñới ẩm của
Ấn Độ, ưa ánh sáng tán xạ vì vậy che bóng là yếu tố cần thiết ñể tạo môi trường
có tiểu khí hậu thích hợp với yêu cầu sinh thái của cây tiêu.
Tại Ấn Độ cây trụ sống là loại trụ phổ biến nhất và cũng là loại trụ truyền
thống ở nước này. Một số cây trụ sống thường ñược sử dụng ở Ấn Độ là: Cây
vông (Erythrina indica), muồng ñen (Cassia siamea), muồng cườm (Adenanthera
pavoninal), mít (Artocarpus heterophylum), sồi lá bạc (Grevilea robusta), keo dậu
(Leucaena leucocephala) (trích dẫn từ Tôn nữ Tuấn Nam và cộng sự, 2005). Tại
Srilanca, người ta sử dụng cây anh ñào (Gliricidia sepium) làm trụ sống cho cây
tiêu và thấy rằng vốn ñầu tư cho cây trụ thấp hơn hẳn các loại trụ khác như trụ
gỗ, trụ bê tông [41].
Trụ tiêu ở Indonesia là trụ gỗ, các bức tường gạch, một số vùng trồng tiêu

với cây trụ sống như keo dậu, cây gòn và cây ăn quả. Ở Sarawak (Malaysia), tiêu
ñược trồng chủ yếu với trụ gỗ (thường ñược gọi là gỗ thép Borneo), hiện ñang có
chương trình khuyến khích dùng trụ sống thay cho trụ gỗ (trích dẫn từ Nguyễn
Tăng Tôn và cộng sự, 2005) [21].
Tại những vùng trồng tiêu lâu ñời ở Việt Nam nông dân thường ưa sử

10
dụng trụ gỗ vì cho rằng tiêu leo bám dễ dàng, không bị cạnh tranh về nước, dinh
dưỡng, ánh sáng như khi trồng trụ sống và không bị nóng làm tiêu tàn lụi sớm
như khi trồng với trụ bê-tông hoặc bồn gạch xây. Tuy vậy, thực tế sản xuất hiện
nay cho thấy tiêu có thể ñạt ñược năng suất cao trên tất cả các loại trụ, miễn là có
chế ñộ chăm sóc phù hợp. Các loại trụ sống rất phong phú như vông (Erythrina
spp.), keo (Leucena leucocephala), lồng mức (Wrightia annamensis), ñỗ quyên
(Glyricidia sepium), mít (Artocarpus heterophyllus), muồng cườm (Adenanthera
povonina), cóc rừng (Spondias pinnata) và gòn (Ceiba spp.) ñang ñược sử dụng ở
nhiều vùng trồng tiêu trọng ñiểm hiện nay như Đăk Lăk, Bình Phước, Quảng Trị
và Phú Yên. Đặc biệt ở Quảng Trị do có gió Lào khô nóng, cây trụ sống tỏ ra ñặc
biệt thích hợp cho việc trồng tiêu, các thử nghiệm trồng tiêu trên trụ bê-tông và bồn
gạch không mấy thành công ở vùng này.
Kết quả ñiều tra của Tôn Nữ Tuấn Nam và cộng sự (2005) [15] cho thấy
tại ĐắkLắk, năng suất tiêu ñược trồng trên trụ sống không thua kém năng suất
tiêu trồng trên trụ gỗ. Trịnh Xuân Hồng (2000) [9] và Phan Quốc Sủng (2000)
[17] cũng cho thấy trồng tiêu trên trụ sống còn giảm ñược chi phí ñầu tư, chăm
sóc; mô hình trồng xen tiêu trong vườn cà phê với trụ sống của tiêu là cây che
bóng cho cà phê ngày càng ñược nhân rộng vì ñã mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Các kết quả ñiều tra của Đào Thị Lan Hoa (2000) [8] và Trần kim Loang (2006)
[10] cho thấy tỷ lệ cây tiêu bị bệnh héo chết nhanh và vàng lá do tuyến trùng của
các vườn tiêu trồng trên trụ sống thấp hơn các vườn trồng trên trụ chết.
1.3.2. Phân bón
Ở các vùng trồng tiêu lớn trên thế giới, chế ñộ phân bón ñược khuyến cáo

cho cây hồ tiêu có khác nhau, căn cứ vào tính chất ñất cũng như khả năng năng
suất hồ tiêu của từng vùng. Tuy nhiên, mọi khuyến cáo về bón phân cho hồ tiêu
ñều thống nhất cho rằng phân hữu cơ là loại phân cơ bản không thể thiếu ñược
trong canh tác hồ tiêu.
Kết quả nghiên cứu bón phân cho hồ tiêu ở Bangka (Indonesia) cho thấy
rằng hàng năm cây hồ tiêu cần bổ sung lượng dinh dưỡng cho sự phát triển rễ,

11
thân, lá, cành trên một hec-ta là: 90-180kg N, 6,5-13kg P
2
O
5
, 90-142kg K
2
O,
62kg Canxi, 9-19kg Mg. Như vậy theo nghiên cứu này thì lượng phân cần cho
một hec-ta hồ tiêu là: 143-243kg N, 10-27kg P
2
O
5
, 127-202kg K
2
O, 68-86kg Ca,
12-29kg Mg (trích dẫn từ Nguyễn Tăng Tôn và cộng sự, 2005) [21].
Wong (1986) (trích dẫn từ Nguyễn Tăng Tôn và cộng sự, 2005) [21] ñã xác
ñịnh với mật ñộ trồng 1.600 trụ/ha, mỗi năm vườn tiêu từ 3-8 tuổi hấp thu một lượng
dinh dưỡng là 200kg N- 80kg P
2
O
5

-188kg K
2
O.
Theo Dierolf và cộng sự (2001) [35], liều lượng N-P-K cân bằng cho
vườn tiêu có năng suất 3 tấn/ha là 400N-200P
2
O
5
-500K
2
O kg/ha/năm, bón kèm
10 tấn phân hữu cơ và một lượng vôi nhất ñịnh. Nghiên cứu lượng phân bón cho
tiêu kinh doanh ở Bangka (Indonesia), Wahid và ctv. (1990) khuyến cáo sử dụng
phân hỗn hợp NPKMg 12-12-17-2 với lượng 400-600 g/trụ cộng với 500g
dolomit, bón mỗi năm hai lần là thích hợp hơn cả.
Theo tài liệu của tổ chức Krishiworld, tỷ lệ phân bón thích hợp bón cho
tiêu ñầu kinh doanh là 1 N - 1,6 P
2
O
5
- 0,6 K
2
O, ứng với mức bón 100-160-60
g/trụ/năm N-P
2
O
5
-K
2
O (trích dẫn từ Nguyễn Tăng Tôn và cộng sự, 2005) [21].

Trong một thí nghiệm cho hồ tiêu trên ñất ñỏ tại Nam Bahia (Brazil), các
tác giả ñã xác ñịnh liều lượng N và P
2
0
5
cho năng suất tiêu cao nhất là 132 kg N
và 240 kg P
2
O
5
, không thấy ảnh hưởng có ý nghĩa của phân kali ñến năng suất
hồ tiêu trong thí nghiệm này (Rafael và cộng sự, 1986) (trích dẫn từ Nguyễn
Tăng Tôn và cộng sự, 2005) [21].
Nghiên cứu tương quan giữa dinh dưỡng lá và năng suất tiêu ñen (Nybe và
cộng sự, 1989) [49] ñã xác ñịnh hai loại phân P và K ảnh hưởng mạnh nhất ñến năng
suất tiêu.
Theo khuyến cáo Hiệp hội Nghiên cứu cây gia vị Ấn ñộ, liều lượng phân
bón áp dụng cho cây tiêu trên ñất ñỏ vùng nhiệt ñới có hàm lượng dinh dưỡng
các nguyên tố chính trong ñất từ thấp ñến trung bình là 140g N, 55g P
2
O
5
, 270g
K
2
O kết hợp 600g vôi và 10kg phân chuồng/trụ/năm. Tỷ lệ NPK ñược khuyến
cáo áp dụng là 2,5 - 1 - 5, với mức bón lân thấp, kali gấp 2 lần phân ñạm (Indian

12
spices, 2002) (trích dẫn từ Nguyễn Tăng Tôn và cộng sự, 2005) [21].

Nghiên cứu về ảnh hưởng của chất ñiều hoà sinh trưởng và nguyên tố vi
lượng ñến sự rụng gié quả và năng suất hồ tiêu cũng ñã ñược nhiều tác giả ñề
cập. Nồng ñộ thấp của chất 2,4-D kích thích quả tiêu phát triển. Phun IAA ở
nồng ñộ 50ppm, ZnSO
4
ở nồng ñộ 0,5% làm giảm rụng gié là 63,6% và 48,4%
so với ñối chứng không phun. Salvi và ctv. (1988) ñã ghi nhận rằng phun chất
ñiều hoà sinh trưởng làm giảm rụng gié, tăng trọng lượng quả và tăng hiệu quả
kinh tế [38]. Một nghiên cứu của IISR ñã chỉ ra rằng ñối với giống Subhakara và
Sreekara bón 150-60-270 kg/ha N-P
2
O
5
-K
2
O kết hợp với Zn, B và Mo theo tỷ lệ
5:1:2 ñã cho năng suất hồ tiêu cao hơn không bổ sung vi lượng [42].
Các kết quả nghiên cứu trên thế giới cho thấy: với mật ñộ tiêu 1.750
cây/ha, hàng năm cây tiêu lấy ñi từ ñất khoảng 115kg N, 5kg P
2
O
5
, 120kg K
2
O
và 20kg MgO. Do vậy các loại phân NPK tổng hợp có tỷ lệ 15-10-15, 18-12-18
và 18-6-18 là rất phù hợp trên cây tiêu.
Theo khuyến cáo của Chính phủ Brazil (IPEAN, 1996) (trích dẫn từ
Sadanandan, 2000) [55] lượng phân bón cho cây tiêu tùy thuộc vào khả năng
cung cấp dinh dưỡng của ñất, ñặc biệt là dinh dưỡng lân và kali biến ñộng rất lớn

giữa các loại ñất. Nhưng nhìn chung, lượng phân trung bình cho tiêu là 200-300g
NPK (12:12:17) + 500g dolomite + 300g lân nung chảy/cây/năm là hợp lý. Với
phân hữu cơ, có thể sử dụng 1-2kg khô dầu bông hoặc 3-5kg phân chuồng
hoai/gốc/năm. Cần sử dụng phân bón lá ñể bổ sung Mn, Mg, B và Mo thường
xuyên cho nhu cầu của cây tiêu.
Các nghiên cứu về chế ñộ bón phân cho cây hồ tiêu ở nước ta chưa nhiều.
Nguyễn Thị Thúy và Lương Đức Loan (1986) [20] nghiên cứu tác dụng của K
và Ca cho cây hồ tiêu trên ñất nâu ñỏ bazan ñã khẳng ñịnh vai trò của các yếu tố
này ñối với năng suất tiêu. Trên nền 100g N và 100g P
2
O
5
/trụ, mức bón K cho
năng suất cao nhất là 120g K
2
O/trụ, tăng 51% năng suất so với ñối chứng không
bón. Nếu bón phối hợp K với vôi thì hiệu lực càng rõ hơn. Mức bón 500g vôi +
120-240g K
2
O/gốc năng suất ñạt 2,01-2,21kg tiêu ñen/trụ. Hiệu suất 1kg K
2
O

13
ñạt từ 4,33-12,33kg tiêu ñen.
Theo Trần Văn Hoà (2001) [7], lượng phân bón tùy thuộc vào ñất, giống
và tuổi cây, trong ñó phân hữu cơ ñóng vai trò quan trọng và tỷ lệ NPK phù hợp
cho cây tiêu là (2:1:4). Lượng phân khoáng có thể chia 4 lần bón. Lần 1 giúp
cây phục hồi sau thu hoạch, lần 2 giúp thúc quá trình phân hóa mầm hoa (sau khi
vào mùa mưa nửa tháng), lần 3 và 4 nhằm tăng ñậu quả và nuôi quả.

Bảng 1.1 Khuyến cáo lượng phân bón cho cây hồ tiêu
Tuổi cây Phân chuồng
(kg/trụ)
N
(g/trụ)
P
2
O
5

(g/trụ)
K
2
O
(g/trụ)
Năm thứ 1
Năm thứ 2
Năm thứ 3
10-20
15-20
15-20
60
120
190
30
50
80
60
120
360

Nguồn: Trần Văn Hoà (2001) [7]
Theo Lê Đức Niệm (2001) [16], lượng bón hàng năm phụ thuộc vào mật
ñộ và khoảng cách trồng:10kg phân chuồng hoai mục, 300 - 400g urê, 450 -
600g super lân, 200 - 250g clorua kali và 200 - 300g vôi/gốc/năm tương ñương
300 - 400kg N, 150 - 200kg P
2
O
5
và 250 - 400kg K
2
O/ha/năm. Phân chuồng, lân,
vôi, 1/4 N và 1/4 K ñược bón sau khi thu hoạch, lượng N và K còn lại chia làm
ba lần bón vào ñầu, giữa và cuối mùa mưa.
Hầu hết các nghiên cứu trong và ngoài nước ñều ñề cao vai trò của phân
hữu cơ trong canh tác tiêu mặc dầu yêu cầu về phân bón vô cơ cho cây tiêu cũng
khá cao. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Tăng Tôn và cộng sự (2005) [21] tại
Bà Rịa Vũng Tàu cho thấy việc sử dụng các loại phân hữu cơ như phân bò, phân
gà, phân rác ñã hạn chế ñược sự phát triển của bệnh héo chết nhanh trên cây tiêu
so với không bón phân. Kết quả ñiều tra của Trần Kim Loang và cộng sự (2006)
[10] cũng cho thấy các vườn tiêu thường xuyên ñược bón phân hữu cơ có mức
ñộ nhiễm bệnh héo chết nhanh thấp hơn các vườn không ñược bón phân hữư cơ.
Hiện nay nhiều hộ nông dân ñã sử dụng phân hữu cơ ñể bón thường xuyên cho
cây tiêu nhất là những vùng ñầu tư thâm canh cao như Chư Sê (Gia Lai), Cư Jút

14
(Đak Nông) với lượng 10 - 20 tấn/ ha/ năm.
Nghiên cứu của Tôn Nữ Tuấn Nam và Bùi Văn Khánh (2004) [14] cho
thấy, trên ñất ñỏ bazan, ñể ñảm bảo năng suất tiêu vào thời kỳ kinh doanh và ñạt
hiệu quả kinh tế cao có thể áp dụng liều lượng phân khoáng 300kg N, 150kg
P

2
0
5
và 225kg K
2
0/ha/năm kết hợp với 40 m
3
phân chuồng và phun phân bón lá
Growmore 4 lần vào thời kỳ ra hoa ñậu quả. Nếu thiếu nguồn phân chuồng có
thể thay bằng các loại phân hữu cơ chế biến khác cũng có tác dụng tốt cho tiêu.
1.3.3. Tỉa cành tạo tán
Kỹ thuật tạo tán ñể trụ tiêu có ñược hình dáng thích hợp và có nhiều cành
mang quả là biện pháp kỹ thuật ñược quan tâm ở nhiều nước trồng tiêu. Tùy theo
vật liệu trồng ban ñầu là dây thân hay dây lươn (cành vượt) các biện pháp tạo hình
cho tiêu có thể khác nhau. Tiêu trồng bằng dây thân có thể dùng kỹ thuật cắt dây
ñể tạo hình trong khi ñó trồng bằng dây lươn thường ñược áp dụng kỹ thuật ñôn
dây.
Ở Malaysia, các nhà khoa học ñã khảo sát các kỹ thuật tạo hình theo ba
phương pháp gọi là Kuching, Sarikei và Semongok, trong ñó tiêu ñược cắt dây
thân một hay nhiều lần ñể tạo ñộ rậm rạp cần thiết. Sau bảy năm thí nghiệm, người
ta ñã kết luận không có sự khác nhau có ý nghĩa giữa các phương pháp tạo hình
mặc dù phương pháp Sarikei (dây thân ñược cắt một lần vào sáu tháng sau khi
trồng sau ñó nuôi ba dây thân mới từ dây ñược cắt) cho năng suất trội hơn cả.
Chong và Shahmin (1981) [30] chỉ ra rằng không có sự khác biệt có ý nghĩa về
năng suất giữa các cây tiêu có 3, 4 hoặc 5 dây thân. Trong một thí nghiệm khác,
Chong và Yau (1985) [31] cho thấy trụ tiêu có năm dây thân cho năng suất cao
hơn bảy hoặc chín dây thân. Vì vậy số dây thân ñể lại cho một trụ tùy theo ñường
kính trụ, thường 3-5 dây.
Trong sản xuất hồ tiêu của nước ta hiện nay số dây thân ñược giữ lại trên
trụ tùy theo mật ñộ trụ, kích thước trụ và tập quán canh tác của mỗi vùng. Ở nhiều

vùng trồng tiêu như Bình Phước, Đăk Lăk, Gia Lai, sau khi tiêu ñược cắt tạo hình
một lần khi tiêu ñược 10-12 tháng tuổi thường ñể cho các mầm phát triển tự do

15
thành dây thân mới và số dây thân có thể biến ñộng trong khoảng 6-15 dây trên trụ
gỗ, 20-40 dây trên trụ gạch xây. Do ñặc tính ưa bóng nhẹ của hồ tiêu, nếu số dây
thân trên trụ ít, không che chắn ñược nhau, tiêu có thể sinh trưởng kém, nhưng nếu
số dây thân quá dày, trong mùa mưa ñộ ẩm cao có thể là ñiều kiện tốt ñể nấm
bệnh phát triển [21].
1.3.4. Tưới nước
Tiêu là loại cây thân leo có bộ rễ nông và phân bố hẹp nên rất mẫn cảm
với nhu cầu nước tưới. Thiếu nước tưới trong mùa khô hay bị úng nước trong
mùa mưa ñều làm cho tiêu sinh trưởng kém, năng suất thấp hoặc bị chết.
Nước tưới ñóng vai trò quan trọng ñối với cây tiêu, một nghiên cứu về ảnh
hưởng của tưới nước trên giống tiêu Karimunda và Panniyur-1 từ năm 1988-
1996 ở Panniyur và Kerala (Ấn Độ) cho thấy tưới nước với tỷ lệ IW/CPE=0,25
làm tăng năng suất lên hơn 90% (Satheesan và cộng sự, 1997) (trích dẫn từ
Nguyễn Tăng Tôn và cộng sự, 2005) [21]
Một nghiên cứu khác của IISR cũng cho thấy rằng lượng nước tưới cho
một trụ tiêu từ 7-10 lít/ngày trong mùa khô sẽ ñạt năng suất cao nhất 4,07
kg/trụ/năm so với ñối chứng 1,33 kg/trụ/năm [42]. Một mô hình tưới tiết kiệm
nước trên tiêu tại Đồng Nai với chu kỳ tưới 3 ngày/lần, lượng nước tưới 20
lít/trụ/lần ñã ñược ñánh giá có hiệu quả cao so với ñối chứng [13]. Đối với tưới
nhỏ giọt, chu kỳ 3 ngày/lần, lượng nước tưới 280-320 lít/trụ/tháng là phù hợp
nhất cho tiêu Sẻ 4-5 năm tuổi, trồng với khoảng cách 5 x 5 m [24]. Kết quả ñiều
tra khảo sát cũng cho thấy khi sử dụng hệ thống tưới phun dưới tán cho tiêu thì
lượng nước tối ưu cần cho cây phát triển tốt từ 35-40 lít/trụ/lần tưới, trong khi
tưới bồn truyền thống thì lượng nước tối ưu cần từ 100-120 lít/trụ/lần tưới. Thực
tế chu kỳ tưới thay ñổi tuỳ thuộc vào ñộ bốc thoát hơi nước, lượng mưa hàng
tháng và thời kỳ sinh trưởng của cây.

Hệ thống vi tưới (micro-irrigation) ñược áp dụng từ thế kỷ 19 và phát
triển mạnh trong những năm 60 khi chất dẻo Polyethylene ñược ứng dụng rộng
rãi. Sau ñó, việc bón phân qua hệ thống tưới (fertigation) cũng ñược ứng dụng ở

16
các nước nông nghiệp phát triển nhằm tăng hiệu quả sử dụng và giảm chi phí
bón phân. Đây là kỹ thuật mũi nhọn giúp phát triển nông nghiệp ở những nơi gặp
khó khăn nguồn nước như ở Úc, Nam Phi và Trung Đông. Hiện nay hệ thống
tưới tiết kiệm nước này ñược một số nhà vườn trồng tiêu ở nước ta sử dụng trên
những khu vực khó khăn về nguồn nước tưới [24].
Mặc dầu tiêu là loại cây thân leo có bộ rễ ăn nông và phân bố hẹp nhưng
nhiều nước trên thế giới trồng tiêu không tưới nước vì có lượng mưa phân bố
tương ñối ñồng ñều trong năm, hơn nữa tập quán trồng tiêu dưới các loại cây
thân gỗ rậm rạp dẫn ñến năng suất thấp và không có nhu cầu về tưới nước cho
tiêu. Tuy vậy ở Ấn Độ, thời kỳ khô hạn dài là yếu tố hạn chế năng suất hồ tiêu.
Một nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Cây gia vị Ấn Độ ñã kết luận tưới nhỏ giọt
với mức tưới 7 - 10 lít/ trụ/ ngày trong suốt mùa hè ñã làm năng suất tiêu tăng
200 %. Tưới theo chu kỳ 1 tuần 1 lần trong suốt thời kỳ khô hạn với lượng nước
100 lít/trụ cũng có kết quả tương tự [42]. Ở Thái Lan, tiêu ñược xem như là một
loại cây trồng có tưới (Sadanandan, 2000). Tại Việt Nam, hiện nay hầu hết các
vùng ñều trồng các giống tiêu có năng nuất cao và hầu như tất cả các vườn tiêu
ñều ñược tưới nước ñể ñạt ñược năng suất cao [21].
1.3.5. Phòng trừ sâu bệnh
Sâu bệnh là vấn ñề ñầu tiên mà bất cứ người sản xuất nào cũng phải quan
tâm khi muốn trồng tiêu. Thành phần sâu bệnh trên cây tiêu rất phong phú và
gây hại trên tất cả các bộ phận của cây, ñặc biệt là có một số sâu bệnh có thể hủy
diệt vườn cây như: bệnh héo chết nhanh do nấm Phytophthora spp., bệnh vàng lá
chết chậm do tuyến trùng Meloidogyne spp., rệp sáp hại rễ, bệnh xoăn lùn do
virus
Nhóm côn trùng thường gây hại trực tiếp cho cây tiêu ñược ghi nhận là

rệp sáp Pseudococcus citri, rệp sáp giả Ferrisia virgata, Planococcus citri,
Lophobaris piperis; tuy nhiên các côn trùng gây hại còn mang thêm vai trò tác
nhân lan truyền các bệnh virus cho cây tiêu [32],[33],[37]. Theo Gumbek (2002)
[40] các côn trùng gây hại chính trên cây tiêu tại Sarawak (Malaysia) là sâu ñục

17
thân Lophobaris piperis, bọ xít lưới Diconocoris hewitte, và bọ xít mép Dasynus
piperis.
Tại Srilanca, theo Kularatne (2002) [45] các bệnh quan trọng nhất trên cây
tiêu gồm bệnh chết nhanh do Phytophthora, bệnh chết chậm do Fusarium, và
bệnh lá nhỏ do virus. Đối với bệnh chết nhanh nấm Phytophthora sp. là tác nhân
gây bệnh chính. Bệnh chết nhanh trước tiên ñược ghi nhận là do nấm
Phytophthora palmivora var piperis, nhưng sau ñó nấm ñược ñặt lại tên
Phytophthora palmivora MF4 (Tsao và ctv., 1985). Tên nấm bệnh ñược
Alizadeh và Tsao (1985) ñã xác ñịnh lại chủng P. palmivora MF4 phân lập từ
cây ca cao và hồ tiêu với tên P. capsici, theo nghĩa rộng, và cuối cùng là
Phytophthora capsici sensu lato (Tsao và Alizadeh, 1988) (trích dẫn từ Trần
Kim Loang và cộng sự, 2006) [10]. Bệnh rất nguy hiểm, nấm gây bệnh tấn công
trên tất cả các phần của cây tiêu, và ở tất cả các thời kỳ sinh trưởng của cây,
trường hợp nấm bệnh tấn công vào rễ hoặc cổ rễ sẽ gây cây chết ñột ngột (chết
ẻo, hoặc héo rũ).
Sarma và cộng sự (1991) [51] cho rằng nguyên nhân gây bệnh thối gốc
trên cây hồ tiêu ở Ấn Độ là do Phytophthora capsici gây nên. Tại Philippines
[52], Thái Lan [51] ñã phát hiện có sự xâm nhập và gây hại của loài
Phytophthora parasitica. Tuy nhiên loài gây hại phổ biến vẫn là loài
Phytophthora capsici. Tại Việt Nam, cũng có nhiều ý kiến khác nhau về tác nhân
gây bệnh chết nhanh trên cây tiêu. Theo Phạm Văn Biên (1989) [2]
Phytophthora sp. là một trong những tác nhân gây bệnh hại rễ và gốc thân cây
tiêu ở vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long. Kết quả nghiên cứu
thành phần sâu bệnh hại hồ tiêu tại Tân Lâm (Quảng Trị) của Nguyễn Ngọc

Châu (1995) [5] cho biết tác nhân gây bệnh héo chết nhanh là do nấm
Phytophthora palmivora var. piperis. Từ các mẫu rễ tiêu bị bệnh thu thập ñược
ở Long Khánh (Đồng Nai), Nguyễn Vĩnh Trường và cộng sự (2002) [23] ñã xác
ñịnh nấm gây bệnh cây tiêu tại các vùng này là Phytophthora capsici bằng kỹ
thuật sinh học phân tử. Bằng phương pháp PCR và men cắt, Trần Kim Loang và

18
cộng sự (2006) [10] bước ñầu ñã xác ñịnh ñược tại Tây Nguyên có loài
Phytophthora gây hại trên cây tiêu là P. capsici và P. palmivora.
Theo Manohara và Sato (1992) [47] ở Ấn Độ, Malaysia, Indonesia bệnh
do nấm Phytophthora gây hại trên cây hồ tiêu là loại bệnh nghiêm trọng nhất. Ở
Malaysia sự thiệt hại khoảng từ 5 - 10 %, tuy nhiên ở các vùng bị nhiễm bệnh
nặng thì sự thiệt hại có thể lên ñến 95 % [44]. Tại Việt Nam, các khảo sát của
Nguyễn Đăng Long và Bùi Cách Tuyến (1987) [12] ở một số vùng trồng tiêu của
Việt Nam cho thấy bệnh héo chết nhanh trên cây hồ tiêu xuất hiện hầu hết các
ñịa phương trồng tiêu trong nước. Năm 1985, sự thiệt hại ước tính ở huyện Châu
Thành, tỉnh Đồng Nai khoảng 65 %; huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai là 30 %;
huyện Phú Quốc của tỉnh Kiên Giang là 4 %. Đến năm 1987, ở xã Bình Giã,
huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Nai sự thiệt hại lên ñến 90 %. Kết quả ñiều tra
của Trần Kim Loang và cộng sự (2006) [10] cho thấy, có khoảng 25 - 83 %
vườn tiêu tại ĐắkLắk, Đak Nông và Gia Lai bị bệnh héo chết nhanh.
Bệnh chết nhanh gây thối rễ do Phytophthora capsici, ñiều trị bằng
metalaxyl, hoặc acid phosphoric, fosetyl-Al rất có hiệu quả [48]. Thuốc
Phosacide 200 nồng ñộ 4% và Alliette 80WP nồng ñộ 0,2% có hiệu quả trừ bệnh
Phytophthora [25].
Anith và cộng sự (2002) [29] ñã thành công trong việc phân lập dòng vi
khuẩn ñối kháng với Phytophthora capsici từ vùng rễ cây tiêu, ñã chọn ñược
chủng PN-026, có khả năng hạn chế Phytophthora capsici gây héo cây trong
vườn ươm. Theo Anandaraj và Sarma (2003) [28], dòng Pseudomonas
fluorescens IISR-51 có hiệu quả trên 50 % trong phòng trừ nấm Phytophthora

capsici so với công thức ñối chứng. Diby và cộng sự (2005) [36] thấy rằng ngoài
khả năng hạn chế sự phát triển của nấm P. capsici gây hại cây tiêu, với hiệu lực
phòng trừ trên 70 % trong ñiều kiện phòng thí nghiệm, nấm P. fluorescens còn
có khả năng kích thích sinh trưởng cây tiêu với hiệu quả trên 57 % trong ñiều
kiện nhà lưới. Tại Việt Nam, Trần Thị Thu Hà và cộng sự (2008) [59] nghiên
cứu tính ñối kháng của 5 dòng vi khuẩn Pseudomonas fluorescens phân lập từ

19
vùng rễ cây tiêu tại Quảng Trị ñã chọn ñược 1 dòng có khả năng ức chế hoạt
ñộng của nấm Phytophthora gây bệnh chết nhanh cây tiêu, các tác giả cũng ñã
khẳng ñịnh khả năng kích thích sinh trưởng, khả năng mọc rễ của dòng vi khuẩn
này ñối với cây tiêu trong ñiều kiện nhà lưới.
Nhiều loài nấm ñối kháng ñã ñược các tác giả trong và ngoài nước khuyến
cáo sử dụng ñể hạn chế sự phát triển của nấm Phytophthora gây bệnh héo chết
nhanh trên cây tiêu như: Trichoderma, Gliocladium… Theo kết quả nghiên cứu
của Witkowska và cộng sự (2002) [60], tất cả các dòng Trichoderma ñược ñánh
giá ñều ức chế sự phát triển của các tác nhân gây bệnh trên cây trồng, và những
thử nghiệm cũng cho thấy những enzyme thủy phân ñóng vai trò trong sự ức chế
sự phát triển của nấm bệnh. Hiện nay tại Mỹ, các chế phẩm PlantshieldTM và
RootshieldTM từ loài Trichoderma harzianum nòi T22 ñã ñược khuyến cáo ñể
sử dụng phòng trừ một số bệnh do nấm Botryris, Pythium, Rhizoctonia,
Fusarium trên một số cây trồng. Chế phẩm ñược sử dụng bằng cách phun lên lá,
tưới hay bón vào ñất. Promote Plus cũng là một chế phẩm Trichoderma (T.
koningii và T. harzianum) ñược khuyến cáo sử dụng tại ñây ñể phòng trừ bệnh
do nấm Rhizoctonia solani, một số loài Pythium và S. rolfsii (trích dẫn từ Trần
Kim Loang và cộng sự, 2008) [11].
Diby và cộng sự (2005) [36], Anandaraj và cộng sự (2003) [28] nhận
thấy nấm Trichoderma harzianum IISR-1369, IISR-1370 phân lập từ vùng rễ cây
tiêu co khả năng hạn chế nấm P. capsici và kích thích sinh trưởng cây tiêu. Các
tác giả còn nhận thấy hiệu lực phòng trừ sẽ cao hơn nếu kết hợp giữa 2 dòng T.

Harzianum IISR-1369 với P. fluorescens IISR-11. Tại Việt Nam, Trần Kim
Loang và cộng sự (2008) [11] ñã chọn lọc ñược 5 isolates nấm Trichoderma từ
rễ và ñất trồng tiêu tại Tây nguyên có khả năng ñối kháng cao với nấm
Phytophthora gây hại trên cây tiêu tại ñây. Chế phẩm Tricô-VTN của các tác giả
khi ñược sử dụng với nồng ñộ 0,3 - 0,4 % có thể hạn chế sự gây hại của nấm
Phytophthora trên cây tiêu và cây ca cao trong nhà lưới. Bên cạnh ñó, chế phẩm

20
này cũng cho thấy có hiệu lực cao trên ñồng ruộng khi ñược sử dụng với lượng
40 g/ gốc tiêu/ năm,
Đối với bệnh chết chậm biểu hiện sự sinh trưởng chậm, lá có màu vàng
nhạt, lá hoa và quả rụng dần từ gốc ñến ngọn, các ñốt cũng rụng dần từ trên
xuống gốc. Hiện tượng vàng của cây có thể do sự cộng hợp của các tác nhân
Fusarium sp., Rhyzoctonia sp., và tuyến trùng Meloidogyne sp., rệp sáp hại rễ,
và do cây thiếu dinh dưỡng [17]. Eng (2002) [37] cho rằng có thể sử dụng biện
pháp sinh học phòng trừ tuyến trùng rễ với nấm Verticilium chlamydosporium và
Paecilomysec lilacinus ký sinh trứng tuyến trùng. Biện pháp phòng trừ tổng hợp
cần ñược xây dựng trong ñó có biện pháp tăng cường sự hoạt ñộng của các tác
nhân phòng trừ sinh học có sẵn trong môi trường rễ tiêu nhất là các loài nấm
Paecilomysec lilacinus và Pasteuria penetrans.
Việc kết hợp bón phân hữu cơ và vô cơ một cách cân ñối cho cây tiêu ñã
ñược nhiều tác giả ñề cập ñến. Bởi vì phân hữu cơ ngoài các chất ña lượng, còn
có các chất vi lượng, có tác dụng cải thiện lý hóa tính ñất, tăng khả năng thoát và
giữ nước, hạn chế ñược sự phát triển của một số tuyến trùng và nấm bệnh trong
ñất thông qua việc thúc ñẩy hoạt ñộng của vi sinh vật ñối kháng. Các thí nghiệm
bón phân chuồng ủ hoai cho tiêu tại Quảng Trị cho biết ở các công thức bón phân
hữu cơ ñã làm giảm mật ñộ tuyến trùng Meloidogyne incognita so với ñối chứng
không bón phân hữu cơ [4].
Bệnh virus trên cây tiêu có biểu hiện các ngọn bị chùn lại, lá non quăn tít,
ñọt chùn, cây không phát triển và lùn hẳn lại. Virus ñã ñược phát hiện trên

những cây tiêu có triệu chứng lùn (Sarma và cộng sự, 1991) [57], virus gây bệnh
ñược truyền qua các tác ñộng cơ học cắt cành và ghép cành. Ở Mã Lai, rệp sáp
giả Ferrisia virgata là tác nhân lan truyền bệnh virus PYMV (Piper Yellow
Mottle Virus), cây ớt Capsicum annuum có biểu hiện các lá bị quăn queo khi
ñược lây nhiễm nhân tạo với hai loài rệp Aphis gossypii và Myzus persicae ñã
sống trên cây tiêu bị bệnh [37]. Ở Sri Lanka, theo De Silva (1996) [32] loài rệp
sáp giả Planococcus citri (Hoptera: Pseudococcidae) có khả năng lan truyền

21
bệnh PYMV. Triệu chứng khảm vàng lá cây tiêu là một hỗn hợp của PYMV và
CMV (Cucumber Mosaic Virus). PYMV ñược xác ñịnh là tác nhân gây bệnh
chính, lây truyền bởi việc cắt ghép, vectơ lan truyền có thể kể thêm là bọ xít lưới
Diconocoris distanti (Hemiptera: Tingidae). Virus PYMV không lan truyền bởi
tác nhân cơ học hoặc qua hạt giống. Nguồn virus CMV phân lập có thể lây
nhiễm nhân tạo thành công trên cây chỉ thị bằng tác ñộng cơ học và bằng rệp
Aphis gossypii, nhưng không thành công với rệp ñào Myzus periscae, tuy nhiên
việc lây nhiễm ngược lại cho cây tiêu thì không thể hiện triệu chứng bệnh [33].
Theo Eng (2002) [37] cây bị bệnh virus không thể chữa trị ñược, nên có thể sử
dụng cây sạch bệnh, vật liệu nhân giống cần ñược lấy từ những cây khỏe mạnh.
Sarma và Saju (2004) [58] với khái niệm quản lý bệnh hại tổng hợp (IDM,
Integrated Disease Management) ñã ñề xuất nên chú ý việc sử dụng các tác nhân
phòng trừ sinh học thân thiện với môi trường. Nấm ñối kháng M. anisoplae ñược
thương mại hoá có thể sử dụng phòng trừ các ñối tượng côn trùng hại giữ vai trò
vectơ truyền bệnh như rệp sáp [18].
Theo De Waard (1979) [34], việc sử dụng phân bón ở liều lượng 400kg N,
180 kg P, 480 kg K, 425 kg Ca và 112 kg Mg kết hợp tủ gốc có thể phòng bệnh
vàng lá. Các biện pháp tủ gốc trong mùa nắng và thiết lập các hệ thống mương
rãnh thoát nước tốt cho vườn tiêu sẽ làm cho năng suất vườn cây ñược cải thiện
ñồng thời hạn chế ñược tuyến trùng gây hại [7].
Hiện nay ñể phòng trừ sâu bệnh trên cây hồ tiêu ñặc biệt là các loại sâu

bệnh phát sinh từ ñất như bệnh héo chết nhanh, bệnh vàng lá chết chậm, rệp sáp
hại rễ hầu hết các nước ñều áp dụng biện pháp phòng trừ tổng hợp, chú trọng ñến
việc bảo vệ các vi sinh vật có ích trong ñất bằng cách sử dụng các chế phẩm sinh
học.

Biện pháp kỹ thuật canh tác ñóng vai trò rất quan trọng ñây là biện pháp quan
trọng ñầu tiên ñể ngăn chặn sự lây nhiễm và phát tán của nấm bệnh. Lượng mưa
cao trong suốt mùa mưa dẫn ñến úng nước, trong ñiều kiện như vậy cây tiêu sẽ

22
bị nhiễm nấm Phytophthora. Trong suốt thời gian ñọng nước, ñiều kiện yếm khí
tạm thời xuất hiện với lượng oxy thấp và sự gia tăng dịch rễ sẽ kích thích nấm
bệnh nảy mầm và phát triển. Tất cả các yếu tố này sẽ làm tăng khả năng mẫn
cảm của cây kí chủ do giảm sự sản sinh ra Phenol oxydases, giảm việc sản xuất
Phytoalexin, ức chế hệ sinh vật ñất và giảm sự cố ñịnh ñạm. Vì vậy thoát nước
hợp lý sẽ làm giảm sự gia tăng mật ñộ Phytophthora capsici. Tại Malaysia, các
nghiên cứu của Ahmed (1993) cho thấy tiêu ñược trồng trong ñiều kiện sạch cỏ
phát triển tốt hơn khi ñược che phủ ñất bằng cây Desmodium trifolium. Điều
chỉnh các cây che bóng, các cây choái sống phải ñược chặt bỏ ngọn vào mùa
mưa ñể tránh việc tăng ñộ ẩm và ñể ánh sáng chiếu vào vườn cây làm thay ñổi
tiểu khí hậu trong vườn thích hợp cho cây sinh trưởng và phát triển, làm giảm sự
phát triển của bệnh (trích dẫn từ Anandaraj, 2000) [27].
Tại Indonesia, Manohara và cộng sự (2002) [48] ñã ñưa ra qui trình phòng
trừ tổng hợp bệnh héo chết nhanh cây hồ tiêu như sau: có hệ thống thoát nước
tốt, hạn chế làm cỏ bón phân hợp lý và tỉa các cành thấp dưới ñất ñặc biệt là
trong mùa mưa. Để hạn chế làm cỏ nên trồng cây lạc dại (Arachis pintoii) ñể phủ
ñất.
Theo Sarma và cộng sự (2004) [58] cách phòng trừ chung cho 2 bệnh héo
chết nhanh và vàng lá chết chậm là phải bảo ñảm cho hệ thống rễ phát triển tốt
và cây sinh trưởng khỏe mạnh. Chiến lược phòng trừ hiệu quả các bệnh này bao

gồm: sản xuất cây sạch bệnh trong vườn ươm, áp dụng các kỹ thuật canh tác như
chiếu sáng thích hợp, ñiều chỉnh cây che bóng, thoát nước tốt cho vườn, hạn chế
làm ñất, phòng trừ bằng hóa học khi cần và thúc ñẩy biện pháp phòng trừ sinh
học. Các biện pháp tủ gốc trong mùa nắng và thiết lập các hệ thống mương rãnh
thoát nước tốt cho vườn tiêu sẽ hạn chế ñược tuyến trùng gây hại, hạn chế ñược
sự phát triển của nấm bệnh làm cho năng suất vườn tiêu ñược cải thiện.

23
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN CỦA VÙNG NGHIÊN CỨU
2.1.1. Huyện Ea H’Leo tỉnh ĐắkLắk
* Nhiệt ñộ
Nhiệt ñộ bình quân năm của huyện Ea H’Leo là 22,7
0
C (trung bình 5 năm
2005 - 2009). Tháng có nhiệt ñộ thấp nhất trong năm là tháng 12 và tháng 1 (20
0
C và 19,8
0
C), cao nhất là tháng 4 và tháng 5 (24,6 - 25,0
0
C). Chênh lệch nhiệt
ñộ bình quân giữa các tháng trong năm không lớn lắm, chỉ từ 20 - 25
0
C. Nhìn
chung nhiệt ñộ bình quân nằm trong phạm vi nhiệt ñộ thích hợp cho sinh trưởng
và phát triển của cây hồ tiêu. Tuy nhiên ñây cũng là phạm vi nhiệt ñộ thích hợp
cho sự phát triển của nhiều loài sinh vật gây hại cho cây trồng.

* Độ ẩm không khí
Độ ẩm không khí bình quân cả năm là 82,5 %, nhưng giữa các tháng mùa
mưa và mùa khô có sự chênh lệch rất lớn. Các tháng mùa khô có ñộ ẩm không
khí dao ñộng từ 72,8 - 82,5 %, trong khi ñộ ẩm không khí của các tháng mùa
mưa ñạt tới 74 - 90,4 %. Độ ẩm cao trong mùa mưa ñã tạo ñiều kiện cho sự phát
triển của các sinh vật gây hại cây, vì thế tại hầu hết các loại bệnh gây hại cây
trồng ñều xuất hiện trong mùa mưa.
* Chế ñộ mưa
Tổng lượng mưa hàng năm của huyện Ea H’Leo khoảng 2.101,8 mm,
phân bố thành 2 mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 4 ñến tháng 10, chiếm trên
93 % lượng mưa của cả năm. Cao ñiểm tập trung vào tháng 8 và tháng 9 với
lượng mưa khoảng 450 - gần 500 mm. Lượng mưa lớn và tập trung ñã tạo ñiều
kiện cho sự lây lan và phát tán các sinh vật gây bệnh, ñặc biệt là nấm và tuyến
trùng. Lượng mưa trong mùa khô rất thấp, có những năm hoàn toàn không có
mưa liên tục trong 2 - 3 tháng. Vì vậy cần phải tưới nước cho các cây ngắn ngày
trồng trong mùa khô và một số cây lâu năm có hệ thống rễ tơ ăn nông như cây hồ

×