"Sức khoẻ sinh sản là 1 tình trạng hài hoà về thể lực, tinh thần và
xã hội chứ không phải chỉ đơn thuần là không có bệnh tật hay tàn phế
trong tất cả những vấn đề liên quan đến tình dục và hệ thống sinh sản
của con người, những chức năng và quá trình hoạt động của nó"
Tổ chức y tế thế giới (WHO), Quỹ nhi đồng liên hiệp quốc
(UNICEF) và Quỹ dân số liên hiệp quốc (UNFPA) đã thống nhất phân loại
nam nữ còn trẻ tuổi thành 3 loại: vị thành niên (adolescent) 10-19 tuổi,
thanh niên (youth) 15-24 tuổi, người trẻ (young people) 10-24 tuổi. Với
định nghĩa này, vị thành niên (VTN) chiếm 20% dân số thế giới.
Tuổi VTN được phân định thành 3 giai đoạn (hoặc 3 nhóm):
- VTN sớm: từ 10-14 tuổi.
- VTN trung bình: từ 15 - 17 tuổi.
- VTN muộn: từ 18 - 19 tuổi.
TIỀN DẬY THÌ DẬY THÌ TRƯỞNG THÀNH
TIỀN DẬY THÌ DẬY THÌ TRƯỞNG THÀNH
Vị thành niên (VTN) là những người chưa trưởng thành nhưng
cũng không còn thơ ấu. Ở lứa tuổi này (10-19 tuổi) có một giai
đoạn cực kỳ quan trọng diễn ra đối với cuộc đời mỗi con
người, đó là giai đoạn dậy thì thường ở vào lứa tuổi VTN nhỡ
(14-17 tuổi), kể từ đó người con gái hay con trai về mặt sinh lý,
đã có khả năng sinh sản: con gái đã có kinh nguyệt chứng tỏ
buồng trứng đã hoạt động, có rụng trứng; con trai bắt đầu xuất
tinh (mộng tinh hoặc di tinh).
Sức khỏe sinh sản (SKSS) của VTN lúc này đứng trước nhiều
mối đe dọa. Nếu không được hướng dẫn, chăm sóc một cách
đúng đắn, hai nguy cơ lớn nhất ảnh hưởng đến SKSS của
VTN là tình trạng có thai sớm và tình trạng nhiễm bệnh lây
truyền qua đường tình dục (LTQÐTD) do các hành vi quan hệ
tình dục không được hướng dẫn hay kiểm soát.
Vậy nên chăm sóc SKSS cho VTN như thế nào?
Không ít người còn nghĩ rằng giấu giếm, thậm chí bưng bít thông
tin về các loại kiến thức về tính dục, về sinh lý và hành vi tình dục,
về các biện pháp tránh thai đối với lứa tuổi VTN vì họ cho rằng
làm như thế là "vẽ đường cho hươu chạy". Trẻ em ngày nay tiếp
xúc rất sớm với đủ mọi loại thông tin trên sách báo, truyền hình,
điện ảnh, trong gia đình, tại nhà trường cũng như ngoài xã hội. Vì
thế cần làm cho các trẻ VTN biết được những điều cơ bản về
chức năng bộ phận sinh dục, những hành vi tình dục an toàn,
những nguy cơ của quan hệ tình dục không lành mạnh và hậu
quả nghiêm trọng của việc có quan hệ tình dục quá sớm. Làm
như thế là "vạch đường cho hươu chạy đúng" còn hơn để nó
lạc đường vì thiếu hiểu biết.
Cần hướng dẫn, giáo dục những kiến thức gì cho VNT?
Ðó là: Những kiến thức về sự thay đổi về thể chất cũng như tinh thần, cảm xúc của tuổi dậy thì cho
cả hai đối tượng nam và nữ.
Những kiến thức về quá trình sinh sản: thụ tinh, thai nghén, sinh con, nghĩa vụ vợ chồng, vai trò
làm bố mẹ.
Những kiến thức về các biện pháp tránh thai (BPTT).
Những nguyên nhân và hậu quả khi mắc bệnh LTQÐTD và nhiễm khuẩn đường sinh sản, cách
phòng ngừa và cách xử trí nếu không may đã bị mắc.
Cần tổ chức và nhân rộng nhiều hình thức hoạt động tập thể thu hút sự tham gia của VTN dạng
các câu lạc bộ (CLB) như CLB tiền hôn nhân, CLB bạn gái, CLB hoa học trò, CLB hoạt động theo
sở thích
Cần mở nhiều trung tâm tư vấn về tình yêu - hôn nhân và gia đình và cả những trung tâm tư vấn
qua điện thoại để VTN có nơi được đón tiếp, tư vấn, khuyên bảo. Bên cạnh đó tổ chức và phát triển
nhiều nơi vui chơi lành mạnh, tập luyện thể dục thể thao giúp VTN có cuộc sống thoải mái, lành
mạnh, giảm đi nhiều giờ phút sống nhàn rỗi, lặng lẽ, buồn chán dễ dẫn đến ý thức và hành vi tiêu
cực. Cuối cùng không thể thiếu được các dịch vụ chăm sóc SKSS cho VTN. Các trung tâm này
ngoài nhiệm vụ thông tin - giáo dục - truyền thông - tư vấn cho VTN về việc phòng ngừa mà còn
phải thực sự giúp họ giải quyết những bất thường, tai biến do hậu quả của các hành vi hoạt động
tình dục lầm lỡ do thiếu hiểu biết hoặc do cách sống buông thả, quá phóng túng gây ra. Các trung
tâm này cần hoạt động theo nguyên tắc tôn trọng nhân phẩm, đảm bảo tính bí mật và quyền được
nhận dịch vụ an toàn đối với VTN.
Tóm lại, CSSKSS cho VTN là một việc lớn, phức tạp, tế nhị không phải chỉ có cán bộ nhân viên
ngành y tế mà đòi hỏi cả xã hội, các tổ chức chính quyền, đoàn thể, nhà trường và cả gia đình
cùng phối hợp thực hiện.
Theo BS. Phó Ðức Nhuận
Những tác hại của Rượu
Giảm khả năng suy nghĩ
Trí nhớ kém
Làm giảm khả năng học tập
Làm vỡ các mối quan hệ
Mất việc
Ảnh hưởng đến thai nhi
Dính líu vào những hành vi mạo
hiểm như sinh hoạt tình dục không
lành mạnh
Làm mất chức năng gan
Các bệnh vể tim
Ung thư
Hôn mê, bất tỉnh
Giang mai
Viêm âm đạo
do Trichomonas Vaginalis
Viêm cổ tử cung
do Chlammydia Trachomatis
AIDS
Bệnh Mồng gà
Herpes sinh dục
Hạ cam mềm
Lậu