Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

ĐỀ TÀI: LUẬN CỨ KHOA HỌC CỦA VIỆC HÌNH THÀNH HỌC VIỆN THANH TRA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.32 KB, 23 trang )

BÁO CÁO TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI: “LUẬN CỨ KHOA HỌC CỦA VIỆC HÌNH THÀNH
HỌC VIỆN THANH TRA”

1. Tên Đề tài: Luận cứ khoa học của việc hình thành Học viện
Thanh tra.
2. Hình thức Đề tài: Cấp bộ
3. Thời gian nghiên cứu: 2009 - 2010.
4. Chủ nhiệm Đề tài: Ths. Nguyễn Thanh Hải,
Chức vụ: Hiệu trưởng Trường Cán bộ Thanh tra.
5. Thư ký Đề tài:
- Ths. Nguyễn Huy Hoàng, Trưởng Khoa Nghiệp vụ GQKNTC
- Ths. Nguyễn Văn Giang, Phó Phòng HC - TC.
NỘI DUNG
1. Tính cấp thiết nghiên cứu đề tài.
Thanh tra là công cụ quan trọng của quản lý nhà nước nhằm ngăn ngừa,
phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật; có vai trò quan trọng
trong hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách, xây dựng bộ máy nhà nước
trong sạch, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm công bằng, dân chủ,
minh bạch trong đời sống kinh tế xã hội. Với vai trò đó, để thực hiện nhiệm
vụ công vụ, thì trước hết mỗi cán bộ, công chức ngành Thanh tracần phải
được trang bị cơ bản kiến thức về lý luận chính trị, quản lý Nhà nước, kỹ
năng, nghiệp vụ. Ngoài ra, với tính chất là bộ phận quan trọng trong quản lý
nhà nước, việc nắm bắt được những kiến thức, kỹ năng về thanh tra, kiểm tra,
giám sát nói chung và hoạt động thanh tra nói riêng đã trở thành nhu cầu rất
lớn xã hội. Bên cạnh yêu cầu thay đổi, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của
mình, sự tác động của kinh tế thị trường, cải cách hành chính và hội nhập
quốc tế đang tạo ra những áp lực mới đối với hoạt động đào tạo, bồi dưỡng
1
của ngành Thanh tra. Điều đó đòi hỏi công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
thanh tra vừa đứng trước yêu cầu của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng


CBCC, vừa đứng trước đòi hỏi phải đáp ứng những yêu cầu đặc thù của công
tác thanh tra trong tình hình mới và đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Từ góc độ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, Chương trình tổng thể
cải cách hành chính giai đoạn 2001 – 2010 đã đề ra mục tiêu “… xây dựng
một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp … hoạt
động theo nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa…”. Từ đó Chương trình
yêu cầu “… xây dựng đội ngũ CBCC có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu
cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước”. Với mục tiêu trang bị,
nâng cao kiến thức, năng lực quản lý, điều hành và thực thi công vụ cho đội ngũ
công chức hành chính, Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng CBCC giai đoạn 2006 –
2010 cũng đặt ra nhiệm vụ: “xây dựng đội ngũ CBCC chuyên nghiệp, có phẩm
chất tốt và đủ năng lực thi hành công vụ, tận tuỵ phục vụ đất nước và phục vụ
nhân dân”
1
. Gần đây, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung
ương khoá X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý của bộ máy nhà nước tiếp tục đặt ra yêu cầu: “Đổi mới phương thức
và nội dung các chương trình đào tạo, bồi dưỡng CBCC sát với thực tế,
hướng vào các vấn đề thiết thực đặt ra từ quá trình thực thi công vụ, nâng
cao kỹ năng hành chính. Thông qua đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp
vụ và kỹ năng hành chính bảo đảm tính thống nhất trong hoạt động của cơ
quan hành chính, nhất là trong giải quyết các yêu cầu của nhân dân, doanh
nghiệp. Thực hiện cơ chế đào tạo tiền công vụ và đào tạo, bồi dưỡng trong
công vụ theo định kỳ bắt buộc hàng năm; thực hiện chế độ đào tạo, bồi
dưỡng trước khi bổ nhiệm”. Những quy định trên đây thể hiện sự quyết tâm
của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ,
công chức. Đó cũng là những chủ trương lớn đối với công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức mà ngành Thanh tra cần quán triệt và có kế hoạch
triển khai trong Ngành. Bên cạnh đó, với yêu cầu của kinh tế thị trường, hội
nhập quốc tế trong điều kiện cải cách nền hành chính, để thực hiện tốt nhiệm

vụ công vụ được giao, ngoài những kiến thức chung theo quy định bắt buộc
đối với các ngạch công chức, cán bộ thanh tra còn phải nắm bắt kịp thời
những tư tưởng và quy định mới về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của ngành
1
Khoản 2 Điều 1 Quyết định số 40/2006/QĐ-TTg ngày 15 tháng 2 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng CBCC giai đoạn 2006 – 2010
2
Thanh tra cũng như hiểu được quyền và nghĩa vụ của đối tượng Thanh tra,
người khiếu nại, tố cáo để thực hiện tốt nhiệm vụ công vụ của mình. Điều
đó đòi hỏi ngành Thanh tra phải xây dựng được đội ngũ cán bộ thanh tra
chuyên nghiệp, hiện đại mà trước hết là phải đổi mới công tác đào tạo, bồi
dưỡng cho đội ngũ CBCC của mình.
Hiện nay, công tác đào tạo, bồi dưỡng của ngành Thanh tra đang gặp
phải nhiều bất cập hạn chế, chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ của
Ngành, chưa đáp ứng như cầu đào tạo bồi dưỡng của ngành Thanh tra và của
xã hội về lĩnh vực công tác của ngành Thanh tra. Nhiều vấn đề lý luận về đào
tạo, bồi dưỡng của ngành cũng như việc xác định mô hình, phương pháp, nội
dung đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức của ngành đang cần được
làm sáng tỏ. Để khắc phục triệt để những hạn chế, bất cập và đưa ra giải pháp
nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, ngành Thanh tra cần đổi
mới tổng thể công tác đào tạo, bồi dưỡng của Ngành, nghiên cứu hình thành
mô hình đào tạo mới hiện đại, chuyên nghiệp, có chất lượng cao. Vì vậy, việc
nghiên cứu “Luận cứ khoa học của việc hình thành Học viện Thanh tra” là rất
cần thiết.
* Liệt kê danh mục đề tài, công trình đã nghiên cứu có liên quan:
- Cơ sở lý luận về nghiệp vụ thanh tra (năm 1995); Chủ nhiệm: Nguyễn
Duy Cát
- Hoàn thiện và đổi mới giáo trình, nội dung chương trình giảng dạy của
Trường Cán bộ Thanh tra (năm 1997); Chủ nhiệm : PGS -PTS Trần Hậu Kiêm.
- Cơ sở khoa học của việc xây dựng về nội dung chương trình, giáo trình

giảng dạy của Trường Cán bộ thanh tra đáp ứng yêu cầu bồi dưỡng nghiệp vụ
cho cán bộ, thanh tra viên trong thời gian tới (năm 2001); Chủ nhiệm: PGS.
TS Trần Hậu Kiêm.
- Một số vấn đề về đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ,
Thanh tra viên trong hệ thống thanh tra nhà nước (1996); Tác giả: Nguyễn
Văn Dinh.
- Những cơ sở để xác định phương thức, nội dung đào tạo, bồi dưỡng
công chức ngành Thanh tra (1996); Tác giả: PTS.TS Trần Hậu Kiêm.
3
- Thực trạng đội ngũ cán bộ thanh tra hiện nay và giải pháp mang tính
khả thi về phương thức bồi dưỡng, đào tạo cán bộ thanh tra trong thời gian tới
(1997); Tác giả: Lê Đình Đấu.
- Phương thức bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra trong điều kiện hiện nay
(1997); Tác giả: Phạm Văn Khanh
- Nội dung cần phải đề cập đến trong chương trình và bài giảng nghiệp vụ
thanh tra để đáp ứng công tác bồi dưỡng nghiệp vụ hiện nay (2001); Tác giả:
Nguyễn Khắc Hường.
- Xây dựng chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra (Trần Đức
Lượng - Tạp chí thanh tra số 1/2007.
- Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành Thanh
tra đáp ứng yêu cầu của công tác thanh tra trong điều kiện kinh tế thị trường,
hội nhập quốc tế và cải cách hành chính (Đề tài cấp bộ năm 2007, Chủ nhiệm:
TS Nguyễn Văn Thanh)
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Đề tài khoa học “Luận cứ khoa học của việc hình thành Học viện
Thanh tra” có nội dung rất rộng. Nội dung nghiên cứu của đề tài không chỉ
nhằm phục vụ yêu cầu trước mắt đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng về
chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức ngành Thanh tra mà còn dự
đoán và đề xuất những giải pháp cho công tác đào tạo, bồi dưỡng của ngành
Thanh tra cho những năm tiếp theo trước các yêu cầu của tình hình mới.

Đề tài hướng đến các mục tiêu cụ thể sau:
- Làm rõ các yêu cầu đang đặt ra đối với chuyên môn, nghiệp vụ của
cán bộ thanh tra và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành
Thanh tra; xu hướng phát triển của công tác đào tạo, bồi dưỡng của ngành
Thanh tra và yêu cầu đối với việc hình thành Học viện Thanh tra.
- Đánh giá đúng thực trạng hoạt động đào tạo, bồi dưỡng của ngành
Thanh tra hiện nay; khả năng đáp ứng của ngành Thanh tra đối với nhu cầu
đào tạo, bồi dưỡng của xã hội (nhu cầu của cán bộ, công chức ngành Thanh
tra và các nhóm đối tượng khác) - về đào tạo, bồi dưỡng kiến thức liên quan
đến hoạt động của ngành Thanh tra; phân tích ưu điểm, nhược điểm của các
4
mô hình học viện hiện nay và những vấn đề đặt ra đối với việc hình thành
Học viện Thanh tra.
- Đề xuất định hướng và các giải pháp đối với việc hình thành Học viện
Thanh tra.
3. Phương pháp tiếp cận và thực hiện.
- Theo tài liệu - Khác
- Theo mẫu - Tự nghiên cứu
Mô tả tóm tắt phương pháp:
Cơ sở phương pháp luận để nghiên cứu Đề tài là chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan quan điểm của Đảng và Nhà nước về đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói
chung, cán bộ thanh tra nói riêng.
Việc nghiên cứu đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học
cơ bản là: thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học.
4. Nhu cầu kinh tế - xã hội.
Các kết quả nghiên cứu của Đề tài không chỉ góp phần quan trọng vào
việc đổi mới tổng thể về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngành Thanh tra
mà còn là cơ sở khoa học để ngành Thanh tra xây dựng mô hình, phương
thức, phương pháp, giá trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công

chức ngành thanh tra. Những kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở lý luận
quan trọng để ngành Thanh tra xây dựng Học viện Thanh tra đáp ứng yêu cầu
của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
Triển vọng áp dụng kết quả nghiên cứu
- Xây dựng mô hình đào tạo, bồi dưỡng cho ngành Thanh tra.
- Xây dựng các phương thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng của
ngành Thanh tra.
- Xây dựng chương trình, giáo trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng của
ngành Thanh tra.
- Hoàn thiện công tác lãnh đạo, quản lý và việc phối hợp giữa các cơ
quan, tổ chức trong đào tạo, bồi dưỡng của ngành Thanh tra
5
X
X
X
5. Kết cấu của đề tài.
Đề tài được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của việc hình thành Học viện Thanh tra.
Chương 2. Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng của ngành thanh tra
và khả năng hình thành Học viện Thanh tra.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp hình thành Học viện Thanh tra.
6
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HÌNH THÀNH
HỌC VIỆN THANH TRA
Chương này tập trung làm rõ 4 nhóm vấn đề lớn, đó là:
1. Vị trí, vai trò của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành thanh tra.
Với vị trí, vai trò của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
nói chung và cán bộ, công chức thanh tra nói riêng là:
- Phương tiện truyền thụ, trao đổi kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp.

- Là một bộ phận quan trọng của công tác cán bộ.
- Quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng thuộc trách nhiệm của các chủ thể
quản lý.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thanh tra có vai trò rất
quan trọng trong quản lý nhà nước về công tác thanh tra, là một biện pháp góp
phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của ngành, góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả của hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Để đáp ứng yêu cầu xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn đặt ra, công tác đào tạo, bồi dưỡng của ngành Thanh tra cần phải:
- Xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra phù hợp với yêu cầu nền kinh tế
thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra phù hợp với yêu cầu của cải cách
hành chính.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra đáp ứng yêu cầu của công tác
thanh tra, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra có tinh thần trách nhiệm cao, có
đạo đức nghề nghiệp, văn hóa thanh tra.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc”
2
, “Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay xấu”
3.
Xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra có tinh thần phục vụ cao là điểm
căn bản trong tư duy để cải cách nền hành chính theo hướng hiện đại, xây
2
Hồ Chí Minh toàn tập - Tập 4 - Nhà xuất bản sự thật Hà Nội 1984 - Trang 486
3
Hồ Chí Minh toàn tập - Tập 4 - Nhà xuất bản sự thật Hà Nội 1984 - Trang 452
7

dựng nền hành chính phục vụ. Đối với ngành Thanh tra, đội ngũ cán bộ thanh
tra là người thực hiện và quyết định sự thành công mọi hoạt động của Ngành.
Chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức ngành Thanh tra sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ và uy tín của Ngành. Đội ngũ cán bộ
thanh tra có tinh thần phục vụ cao là đội ngũ cán bộ thanh tra phải thực sự là
“công bộc của dân” và thực hiện tốt nhiệm vụ “là tai mắt của trên, là người
bạn của dưới”.
2. Giới thiệu về mô hình đào tạo Học viện với công tác đào tạo, bồi
dưỡng cho cán bộ, công chức ngành thanh tra.
Trên cơ sở pháp lý (Quyết định số 07/2009/QĐ-TTg ngày 15/01/2009
ban hành điều kiện và thủ tục thành lập, đình chỉ hoạt động, sáp nhập, chia,
tách, giải thể trường đại học) Đề tài đã làm rõ điều kiện, thủ tục thành lập Học
viện.
Đồng thời, trên cơ sở Luật Giáo dục và các văn bản pháp luật có liên
quan, Đề tài đi vào luận giải mô hình đào tạo, bồi dưỡng của Học viện trong
hệ thống giáo dục đào tạo của Việt Nam.
Hệ thống giáo dục quốc dân được quy định trong Luật Giáo dục gồm
giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên. Các cấp học và trình độ đào
tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm:
- Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo;
- Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông;
- Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề;
- Giáo dục đại học và sau đại học đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ
đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ.
Tại Điều 42 của Luật Giáo dục, các cơ sở giáo dục đại học được xác
định bao gồm:
- Trường cao đẳng đào tạo trình độ cao đẳng;
- Đại học, trường đại học, học viện (gọi chung là trường đại học) đào
tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học; đào tạo trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ
khi được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép.

8
Viện nghiên cứu khoa học đào tạo trình độ tiến sĩ, phối hợp với trường
đại học đào tạo trình độ thạc sĩ khi được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
cho phép.
Trên thực tế, thì dù đã cố gắng tìm kiếm nhưng hầu như không có văn
bản nào của nhà nước quy định về việc phân định tính chất và phạm vi đào
tạo bồi dưỡng giữa Trường Đại học và Học viện. Thậm chí, đôi khi đó đơn
thuần chỉ là tên gọi mà thôi. Qua tìm hiểu thực tế mô hình học viện hiện nay,
cho thấy có 03 mô hình chủ yếu như sau:
Mô hình 1: Một số mô hình đào tạo, bồi dưỡng đặc biệt, ví dụ Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, các Học viện của Bộ
Quốc phòng và các Học viện của Bộ Công an.
Các học viện này đều có cả chức năng đào tạo và bồi dưỡng, có ngành
học và chương trình đào tạo, bồi dưỡng đặc thù. Nếu xét mô hình này thì chủ
yếu đào tạo cho cán bộ cao cấp và chuyên ngành sâu gồm cử nhân, thạc sỹ,
tiến sỹ… do đó hiện tại những nam trước mắt chưa phù hợp với ngành Thanh
tra.
Mô hình 2: Thiên về các chức năng đào tạo là chính, đầu vào là những
đối tượng đã tốt nghiệp phổ thông, đào tạo các trình độ đại học, trên đại học
về một lĩnh vực chuyên môn. Đầu ra là có nghề phục vụ xã hội (phạm vi phục
vụ rộng). Ví dụ như Học viện Ngân hàng, Học viện Tài chính…
• Học viện Ngân hàng có nhiệm vụ đào tạo cán bộ ở bậc giáo dục chuyên
nghiệp, bậc đại học và trên đại học về lĩnh vực tiền tệ - tín dụng - ngân
hàng và một số ngành, chuyên ngành khác theo quy định của Bộ Giáo
dục và Đào tạo; Tổ chức các khoá bồi dưỡng nghiệp vụ và công nghệ
ngân hàng; Tổ chức NCKH và công nghệ về ngân hàng; Thực hiện hợp
tác về đào tạo và NCKH ngân hàng với các tổ chức trong và ngoài
nước theo quy định chung của Nhà nước.
• Học viện Tài Chính thành lập theo quyết định số 120/2001 QĐ/TTG
ngày 17/8/2001 của Thủ tướng Chính phủ có chức năng đào tạo đại

học, sau đại học, nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng kỹ năng quản lý về
lĩnh vực tài chính, kế toán, quản trị kinh doanh, tiếng Anh tài chính và
tin học tài chính - kế toán, với các loại hình đào tạo: Đại học chính quy,
9
đại học tại chức, đại học văn bằng II, hoàn chỉnh kiến thức đại học và
sau đại học.
Mô hình 3: Có cả chức năng đào tạo và bồi dưỡng. Đào tạo nhằm mục
đích đáp ứng được yêu cầu đối với chức danh, đào tạo nghề chuyên sâu. Đối
tượng là những người đã tốt nghiệp đại học. Vì dụ như Học viện tư pháp, Học
viện quản lý giáo dục.
• Học viện Tư pháp có nhiệm vụ, quyền hạn: Đào tạo nghiệp vụ thẩm
phán, kiểm sát viên, luật sư, chấp hành viên, công chứng viên và các
chức danh tư pháp khác; Bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ cho chấp hành viên, công chứng viên, luật sư và cán bộ có
chức danh tư pháp khác thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Tư pháp;
Nghiên cứu khoa học phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có
chức danh tư pháp; Hợp tác với các tổ chức, cá nhân trong nước và
nước ngoài trong việc đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học.
• Học viện Quản lý giáo dục là cơ sở giáo dục đại học trực thuộc Bộ
Giáo dục và Đào tạo Việt Nam được thành lập ngày 03/04/2006 theo
quyết định số 501/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Chức năng,
nhiệm vụ: Đào tạo đại học, sau đại học và bồi dưỡng về quản lý giáo
dục và các chuyên ngành liên quan; Nghiên cứu, phát triển và ứng dụng
khoa học quản lý giáo dục; Hỗ trợ và liên kết chuyên môn với các đơn
vị trong hệ thống các cơ sở đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục;
Tham mưu, tư vấn cho Bộ Giáo dục và Đào tạo, các cơ quan quản lý
nhằm đáp ứng những yêu cầu của Chiến lược phát triển giáo dục và đào
tạo của đất nước; Hợp tác với các cơ quan, tổ chức và cá nhân nước
ngoài trong đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu và ứng dụng về khoa học
quản lý giáo dục.

Qua phân tích các mô hình Học viện, cho thấy mô hình Học viện có
một số đặc điểm sau:
Một là, mô hình thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng ở bậc đại học
và sau đại học nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân được quy định trong
Luật Giáo dục và Quyết định số 07/QĐ-TTg ngày 15/01/2009 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành điều kiện và thủ tục thành lập, đình chỉ hoạt động, sáp
nhập, chia, tách, giải thể trường đại học.
10
Hai là, chức năng của Học viện thực hiện 2 nhiệm vụ cơ bản:
(1 Nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng ở bậc đại học, sau đại học, bồi dưỡng
cán bộ, công chức, phát triển nguồn nhân lực cho đất nước.
(2) Thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học phục vụ cho công tác đào
tạo, bồi dưỡng. Như vậy, Học viện có phần dạy và phần nghiên cứu (thường
học viện là đơn vị của ngành), học viện thường đào tạo sâu và mang tính chất
chuyên môn cao, thiên về nghiên cứu. Còn đại học chuyên giảng dạy, đại học
thường đào tạo mang tính nghề nghiệp nhiều hơn.
Như vậy, với mô hình của Học viện, tính chất hoạt động của Học viện
được nâng cao hơn, vừa thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng, vừa thực hiện
nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, tạo ra sự liên thông, ứng dụng những kết quả
nghiên cứu khoa học để phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng, giúp cho đội
ngũ giáo viên tham gia tích cực vào công tác nghiên cứu khoa học.
Ba là, xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ của Học viện là vừa nghiên cứu,
vừa đào tạo nên các điều kiện cần thiết phục vụ cho việc đào tạo, bồi dưỡng,
nghiên cứu khoa học của Học viện như: lực lượng giáo viên giảng dạy, nghiên
cứu khoa học yêu cầu cao hơn cả về số lượng, chất lượng (trình độ TS, Phó
Giáo sư); cơ sở vật chất phục vụ cho việc học tập và giảng dạy phải bảo đảm
theo quy định như có tổng diện tích đất xây dựng trường không ít hơn 5 ha;
thực hiện mức bình quân tối thiểu diện tích 25 m
2
/1 sinh viên tính tại thời

điểm trường có quy mô đào tạo cao nhất trong kế hoạch đào tạo giai đoạn 10
năm đầu sau khi thành lập; có cơ sở vật chất, thiết bị bảo đảm đáp ứng yêu
cầu hoạt động của nhà trường. Địa điểm xây dựng trường đại học phải bảo
đảm về môi trường giáo dục, an toàn cho người học, người dạy, người lao
động trong nhà trường
3. Các Luận cứ khoa học về thành lập Học viện thanh tra.
Đề tài cũng luận giải những vấn đề về luận cứ khoa học để hình thành
Học viện Thanh tra gồm những vấn đề sau:
(1) Sự cần thiết phải nâng cấp Trường Cán bộ Thanh tra thành Học
viện Thanh tra? Khi tổ chức mô hình Học viện Thanh tra sẽ nâng cao hiệu quả
hoạt động của công tác đào tạo, bồi dưỡng so với Trường Cán bộ Thanh tra ở
điểm nào?
11
(2) Yêu cầu của việc thành lập Học viện Thanh tra là những gì? về cơ
sở pháp lý cho việc thành lập? Về điều kiện, thủ tục thành lập Học viện?
(3) Tiến độ, thời gian để thực hiện việc thành lập Học viện Thanh tra?
(4) Các giải pháp để thành lập Học viện Thanh tra, bao gồm
- Giải pháp về cơ sở vật chất;
- Giải pháp về đội ngũ giảng viên (cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu);
cán bộ làm công tác quản lý?
- Giải pháp về khung chương trình, nội dung chương trình giảng dạy?
(5) Các công việc cần phải triển khai để thành lập Học viện? ai phải
chịu trách nhiệm đối với các công việc đó?
4. Trên cơ sở đó, đề tài đi vào phân tích mô hình tổ chức, chức
năng nhiệm vụ của một số học viện, gồm có:
- Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Học viện Tài chính.
- Học viện Ngân hàng.
- Học viện Cán bộ Quản lý xây dựng và Đô thị.
- Học viện Tư pháp.

Chương II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CỦA NGÀNH THANH TRA VÀ KHẢ NĂNG HÌNH THÀNH
HỌC VIỆN THANH TRA
Trên cơ sở thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng của ngành thanh tra,
Đề tài đã đi sâu phân tích làm rõ:
1. Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của
Thanh tra Chính phủ trong những năm vừa qua.
Thực hiện Quyết định số 40/2006/QĐ-TTG ngày 15/02/2006 của Thủ
trướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cấn bộ công
chức giai đoạn 2006-2010; Quyết định 137/2003/QĐ-TTg ngày 11/7/2003
của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực
12
cho công tác hội nhập quốc tế, Thanh tra Chính phủ đã chỉ đạo công tác đào
tạo, bồi dưỡng vào việc tập trung trang bị nâng cao kiến thức, năng lực quản
lý, điều hành, bản lĩnh chính trị, đạo đức, văn hoá ứng xử, tác phong công tác
của cán bộ, công chức thanh tra.
Kết quả là từ năm 2006 đến 2008, Thanh tra Chính phủ đã đưa đi đào
tạo, bồi dưỡng 904 lượt người, trong đó:
+ Lý luận chính trị: 24.
+ Chuyên môn: Trên đại học 26; Đại học 2; bồi dưỡng 151
+ Quản lý nhà nước: Chuyên viên cao cấp 6; Chuyên viên chính 105;
Chuyên viên 108.
+ Kỹ năng nghiệp vụ: 121.
+ Kỹ năng lãnh đạo, quản lý: 43.
+ Ngoại ngữ: 159.
+ Tin học: 159.
2. Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng của Trường Cán bộ
Thanh tra trong những năm vừa qua.
Qua tổng kết công tác đào tạo, bồi dưỡng hàng năm có thể khẳng định
thời gian qua, Trường Cán bộ Thanh tra đã có nhiều cố gắng trong thực hiện

nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng - chức năng, nhiệm vụ chính của Nhà trường.
Giai đoạn này, Nhà trường luôn hoàn thành và vượt chỉ tiêu kế hoạch năm đề
ra, đặc biệt năm 2008 là năm mà Nhà trường đã xuất sắc vượt kế hoạch năm
gấp 03 lần (đã mở được số lớp nhiều nhất từ trước đến nay với số lượng lớp,
tổng số học viên gấp hơn 3 lần cùng kỳ các năm trước).
Với sự nỗ lực, cố gắng vượt bậc của Trường Cán bộ Thanh tra đã giải
quyết được đáng kể nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của toàn ngành thanh tra, góp
phần một mặt đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn hóa chức danh cho đội ngũ cán bộ
công chức thanh tra, mặt khác góp phần tạo cơ sở để cán bộ thanh tra được sử
dụng các quyền hạn trong quá trình thanh tra theo đúng luật định. Điều này
13
góp phần nâng cao vai trò cũng như chất lượng, hiệu quả công tác thanh tra,
giải quyết khiếu nại tố cáo và phòng chống tham nhũng.
Ngoài ra, đề tài cũng tập trung làm rõ về:
- Về đội ngũ giáo viên thực hiện nhiệm vụ giảng dạy.
-Về chương trình đào tạo, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng chuyên
môn, nghiệp vụ cho cán bộ thanh tra.
- Về công tác nghiên cứu khoa học phục vụ công tác đào tạo, bồi
dưỡng.
- Về cơ sở vật chất phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng của
Trường Cán bộ Thanh tra.
3. Đánh giá về mô hình đào tạo, bồi dưỡng của ngành thanh tra
trong những năm vừa qua, cho thấy:
Qua thực trạng trên cho thấy công tác đào tạo, bồi dưỡng của Thanh tra
Chính phủ trong những năm qua đã đạt được một số kết quả quan trọng sau:
Thứ nhất, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thanh tra đã
bám sát được các mục tiêu, đối tượng về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, đó là:
- Trang bị nâng cao kiến thức, năng lực quản lý, điều hành và thực thi
công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra;

- Đảm bảo trang bị đủ kiến thức quy định theo tiêu chuẩn cho các
ngạch cán sự, thanh tra viên, thanh tra viên chính, thanh tra viên cao cấp và
tương đương;
- Hoàn thiện các tiêu chuẩn và kiến thức cho cán bộ lãnh đạo quản lý;
- Nâng cao kiến thức ứng xử, văn hoá công sở, trách nhiệm, đạo đức
công vụ cho cán bộ, công chức cơ quan.
- Đào tạo bồi dưỡng gắn với quy hoạch cán bộ, vị trí chức danh đang
đảm nhận của từng cán bộ, công chức.
Thứ hai, nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thanh tra đã
tập trung vào trang bị các kiến thức về lý luận chính trị, quản lý nhà nước,
nghiệp vụ thanh tra, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, ngoại ngữ, tin học và các kỹ
14
năng hỗ trợ cho hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống
tham nhũng.
Thứ ba, đã thực hiện đa dạng hoá các loại hình đào tạo, bồi dưỡng như
cử cán bộ đi học tại các trường, trung tâm đào tạo trong và ngoài nước; tổ
chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng tập trung tại Trường Cán bộ Thanh tra; chủ
động liên kết với các cơ sở đào tạo khác để thực hiện việc cập nhật, bồi dưỡng
các kiến thức hỗ trợ cho hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
phòng, chống tham nhũng.
Thứ tư, đã tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt động của Trường Cán bộ
Thanh tra - cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ duy nhất của ngành thanh tra,
trong đó tập trung vào việc kiện toàn, bổ sung đội ngũ giảng viên; quy định rõ
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Trường Cán bộ Thanh tra; đa dạng hoá
các hình thức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra; từng bước mở rộng cơ
sở đào tạo, bồi dưỡng của Trường…
Thứ năm, trong công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, Thanh tra Chính
phủ đã gắn việc đào tạo, bồi dưỡng này với công tác quy hoạch cán bộ, kế
hoạch hoá và quy chuẩn hoá, công khai, minh bạch công tác đào tạo bồi
dưỡng. Đồng thời cũng có những chính sách hỗ trợ, khuyến khích cán bộ,

công chức tự nâng cao trình độ của mình.
Thanh tra Chính phủ đã xây dựng quy hoạch cán bộ (giai đoạn 2006-
2010) và từng bước hoàn thiện bổ sung quy hoạch hàng năm. Từ những định
hướng quy hoạch cán bộ đã giúp cho công tác đào tạo, bồi dưỡng được chủ
động hơn, đúng đối tượng, đáp ứng được yêu cầu phát triển, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra.
Trên cơ sở quy hoạch cán bộ, hàng năm Thanh tra Chính phủ đã xây
dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho cơ quan và cho cả ngành thanh
tra. Trong kế hoạch quy định rõ mục đích, yêu cầu, đối tượng, nội dung, trách
nhiệm các cơ quan đơn vị thực hiện.
Việc xây dựng thể chế trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đã được chú
ý. Tại Quyết định số 2445/2007/QĐ-TTCP ngày 14/7/2007, Tổng Thanh tra
đã ban hành quy định về đào tạo bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức của cơ
quan Thanh tra Chính phủ. Theo đó, các quy định về đối tượng, nguyên tắc,
diều kiện, quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của cán bộ, công chức và trách
15
nhiệm quản lý của cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý cán bộ trong việc đào tạo
bồi dưỡng được quy định một cách cụ thể. Chính vì vậy việc đào tạo cán bộ,
công chức của cơ quan đã đi vào nề nếp.
Tuy nhiên, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành Thanh
tra còn có những tồn tại cơ bản sau:
- Tính quy hoạch, chiến lược trong tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức của ngành chưa cao.
- Các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành Thanh
tra hiện nay còn thiếu tính hệ thống, tính liên thông; nặng về nội dung lý luận
và phương pháp xây dựng chưa hiện đại.
- Phương thức tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành
Thanh tra chưa phong phú, chủ yếu mới chú trọng vào việc mở lớp và
giảng dạy
- Năng lực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của ngành còn nhiều

hạn chế.
Nguyên nhân của những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế.
Để đạt được những thuận lợi nói trên trong công tác đào tạo, bồi dưỡng
của Thanh tra Chính phủ nêu trên là do một số nguyên nhân chính như sau:
- Lãnh đạo Thanh tra Chính phủ, các Vục, Cục, đơn vị thuộc Thanh tra
Chính phủ luôn quan tâm sâu sát đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức của ngành, coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng của từng năm
công tác; Lãnh đạo Thanh tra Chính phủ thường xuyên chỉ đạo Vụ Tổ chức
Cán bộ, Trường Cán bộ Thanh tra xây dựng kế hoạch tổng thể, cũng như lộ
trình chi tiết và các biện pháp cụ thể để đạt được những mục tiêu đã đề ra.
- Trường Cán bộ Thanh tra trong những năm gần đây đã luôn tích cực
đổi mới cả về tổ chức và hoạt động, thể hiện ở việc tích cực nghiên cứu, sắp
xếp kiện toàn về tổ chức, đổi mới phương thức đào tạo, đa dạng hoá các hình
thức đào tạo, đổi mới nội dung chương trình, giáo trình, đề xuất nhiều giải
pháp sáng tạo, khắc phục khó khăn chẳng hạn như:
Đối với những tồn tại, hạn chế nói trên, nguyên nhân của những tồn tại,
hạn chế đó có nhiều nguyên nhân, cả về chủ quan và nguyên nhân khách
16
quan. Trong đó, đặc biệt nhấn mạnh tới nguyên nhân hiện nay, đó là khi yêu
cầu đặt ra đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức, viên
chức ngành thanh tra ngày càng cao, dẫn đến một thực tế là do quy mô tổ
chức của Trường và năng lực còn chưa đáp ứng được do chỉ được tổ chức ở
hình thức Trường bồi dưỡng cán bộ của ngành. Trước thực tế như vậy cần
khẩn trương nâng cấp Trường lên thành Học viện để có thể đủ năng lực đào
tạo, bồi dưỡng cho cán bộ toàn ngành nhằm đáp ứng yêu cầu thực tế. Tuy
nhiên, có thể thấy để tiến tới thành lập Học viện cần phải có sự đầu tư đồng
bộ từ cơ sở vật chất đến nâng cao số lượng, chất lượng giảng viên, hoàn
chỉnh hệ thống chương trình giáo trình, và quan trọng nhất là xác định được
mô hình đào tạo và nghiên cứu phù hợp với xu thế hội nhập trong đào tạo
bồi dưỡng đồng thời đáp ứng được yêu cầu của công tác thanh tra, giải quyết

khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng hiện nay và dự liệu trong
tương lai.
4. Nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thanh tra trong
những năm tới đây.
Qua tổng hợp trên có thể thấy số lượng cán bộ có nhu cầu được bồi
dưỡng nghiệp vụ thanh tra còn rất nhiều (9.220 = 55% tổng số cán bộ của
toàn ngành) và số liệu này còn chưa tính đến gần 02 vạn cán bộ thanh tra của
ngành Thuế và một số chuyên ngành khác như xây dựng, giao thông, lao động
thương binh xã hội Theo Luật Thanh tra quy định cơ quan Thanh tra Nhà
nước bao gồm: Cơ quan Thanh tra được thành lập theo cấp hành chính ; Cơ
quan Thanh tra được thành lập ở cơ quan quản lý theo ngành, lĩnh vực (Điều
10) và Tổ chức cơ quan Thanh tra theo ngành, lĩnh vực bao gồm : Thanh tra
Bộ, cơ quan ngang Bộ (gọi chung là Thanh tra Bộ). Thanh tra Bộ cú Thanh
tra hành chính và Thanh tra chuyên ngành (Điều 23) ; Theo quy định một
trong các tiêu chuẩn bổ nhiệm vào ngạch công chức ngành Thanh tra phải qua
lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra. Do đó, số lượng cán bộ, công chức trong
hệ thống cơ quan Thanh tra Nhà nước hiện nay đó lớn hơn gấp nhiều lần so
với trước đây.
Đặc biệt, nguồn nhân lực ngành thanh tra có đặc điểm là thường xuyên
luân chuyển sang công tác khác và lượng cán bộ mới từ các ngành, lĩnh vực
khác chuyển về cũng chưa được bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra. Do vậy, con
17
số cán bộ thanh tra có nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng ngành thanh tra không
những không giảm mà có chiều hướng gia tăng.
Ngoài ra, theo Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 của Chính
phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, đã có sự thay đổi về nội dung,
chương trình, hình thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, đó là:
Theo khoản 3, Điều 13 của Nghị định phân công tổ chức đào tạo, bồi
dưỡng thì: “Các Học viện, Trường, Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có

nhiệm vụ:
- Tổ chức thực hiện chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch cán
sự, ngạch chuyên viên, ngạch chuyên viên chính và tương đương;
- Tổ chức thực hiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn
chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp phòng và tương đương;
- Tổ chức thực hiện chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh
công chức cấp xã theo chuyên môn nghiệp vụ và các đối tượng khác do cấp
có thẩm quyền giao”.
Như vậy, so với yêu cầu của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức của ngành thanh tra trong những năm tới thì Trường Cán bộ Thanh tra
cần phải được mở rộng về quy mô, hình thức đào tạo, bồi dưỡng. Đây cũng là
một trong những cơ sở để nâng Trường Cán bộ Thanh tra thành Học viện
Thanh tra.
Chương III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HÌNH THÀNH
HỌC VIỆN THANH TRA
1. Tại Chương này, Đề tài đã đi sâu vào phân tích về mục đích, yêu cầu
của việc hình thành Học viện Thanh tra và các phương án lựa chọn việc hình
thành Học viện.
Khảo sát về sự cần thiết hình thành Học viện thanh tra, Ban Chủ nhiệm
Đề tài đã phát 162 phiếu khảo sát, lấy ý kiến của các Học viên là cán bộ,
thanh tra viên thuộc các lớp nghiệp vụ thanh tra. Tổng hợp kết quả khảo sát
như sau:
18
* Sự cần thiết phải hình thành Học viện Thanh tra:
153 ý kiến cho rằng cần thiết (chiếm 94%); 14 ý kiến cho rằng không
cần thiết (chiếm 5,6%); 01 ý kiến bỏ qua (chiếm 0,4%).
* Đánh giá về sự cần thiết đào tạo Đại học văn bằng II, chuyên sâu về
chuyên ngành thanh tra:
117 ý kiến cho rằng cần thiết (chiếm 72%); 37 ý kiến cho rằng không
cần thiết (chiếm 22%); 08 trường hợp không có ý kiến (chiếm 6%).

* Đánh giá về sự cần thiết đào tạo cử nhân thanh tra khi đã hình thành
Học viện Thanh tra:
118 ý kiến đánh giá cần thiết (chiếm 72%); 40 ý kiến cho rằng không
cần thiết (chiếm 24%); 04 ý kiến bỏ qua (chiếm 4%).
Có hai quan điểm hình thành Học viện Thanh tra cùng với những phân
tích đánh giá về ưu, nhược điểm của từng phương án để làm cơ sở đánh giá
lựa chọn phương hình thành học viện nào là tối ưu.
Phương án 1: Độc lập lập phát triển, nâng cấp từ Trường Cán bộ Thanh
tra hiện nay lên thành Học viện Thanh tra và mô hình theo loại thứ 3 (vừa có
chức năng đào tạo, vừa có chức năng bồi dưỡng)
* Ưu điểm.
- Việc xây dựng Học viện theo phương án có ưu điểm là tận dụng được
những nền tảng trong suốt quá trình hình thành và phát triển của Trường Cán
bộ Thanh tra từ trước đến nay (từ cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ, giảng viên,
chương trình, giáo trình…);
- Không xáo trộn nhiều về bộ máy tổ chức bởi theo Quyết định 230/2009
của Tổng Thanh tra ban hành Quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và tổ chức hoạt động của Trường Cán bộ Thanh tra bộ máy của Trường Cán
bộ Thanh tra đã được tăng cường đầu mối các phòng khoa (từ 03 phòng, khoa
lên 07 phòng, khoa) làm cơ sở để từng bước hình thành Học viện
- Nâng cao năng lực trong hoạt động nghiên cứu khoa học của Trường
nhằm thực hiện một chức năng quan trọng của Trường là nghiên cứu, tổng kết
thực tiễn ứng dụng vào đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ;
19
- Ở phương án này có thể vận dụng một số mô hình ở một số bộ, ngành
tồn tại độc lập Học viện và Viện khoa học nghiên cứu những vấn đề chung
của toàn ngành. Với phương án này, trong bộ máy của Học viện vẫn có thể
hình thành các viện nghiên cứu, các trung tâm chuyên môn có chức năng,
nhiệm vụ nhằm chuyên sâu phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ
thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Như vậy,

các Viện khoa học, viện nghiên cứu, trung tâm tập trung chuyên môn phục vụ
có định hướng cho công tác đào tạo, bồi dưỡng của ngành.
* Nhược điểm: Phương án này có ưu điểm là chủ yếu, tuy nhiên có tồn
tại một hạn chế đó là không tận dụng được đội ngũ cán bộ, viên chức đã có
kinh nghiệm làm công tác nghiên cứu hiện có của Viện Khoa học Thanh tra
trong đó phải kể đến một lực lượng cán bộ trẻ đã được đào tạo thạc sỹ, không
tận dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị của Viện.
Phương án 2: Lấy Trường Cán bộ Thanh tra làm nòng cốt, đồng thời sát
nhập Viện Khoa học Thanh tra thuộc Thanh tra Chính phủ hiện nay vào với
Trường để hình thành Học viện
* Ưu điểm: Phương án này có ưu điểm chính là khắc phục điểm hạn chế
của phương án 1, đó là nếu sát nhập Viện KHTT với Trường CBTT sẽ tận
dụng được nguồn lực hiện có của Viện KHTT vào quá trình hình thành Học
viện (từ đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực; cơ sở vật chất; kinh nghiệm
nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học…);
*Nhược điểm: Hiện nay, theo quy định của Thanh tra Chính phủ Viện
KHTT có chức năng nghiên cứu khoa học phục vụ công tác thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng của toàn ngành. Như
vậy, phạm vi nghiên cứu của Viện rất rộng không chỉ giới hạn việc nghiên
cứu phục vụ công tác giảng dạy, đào tạo bồi dưỡng như chức năng của
Trường CBTT. Do vậy, nếu nhập Viện KHTT vào Trường sau đó hình thành
Học viện sẽ dẫn tình trạng như một số Bộ, ngành hiện nay là định hướng
nghiên cứu không tập trung, không phân định việc nghiên cứu khoa học ở các
Học viên với việc tổ chức, quản lý nghiên cứu khoa học và nghiên cứu khoa
học phục vụ công tác, nhiệm vụ chính trị của toàn ngành. Trước thực trạng
này, để tập trung trong công tác nghiện, có định hướng đúng mục tiệu một số
Bộ trước đây đã nhập Viện nghiên cứu khoa học của toàn ngành với Trường
20
đào tạo cán bộ để hình thành các Học viện giờ lại tách riêng hai cơ sở này.
Đồng thời trong cơ cấu của các Học viện đó vẫn hình thành các Viện nghiên

cứu nhưng tập trung định hướng kết quả đầu ra của hoạt động nghiên phải
mang tính ứng dụng trong phạm vi hẹp hơn, trực tiếp phục vụ giảng dạy, đào
tạo, bồi dưỡng;
- Một nhược điểm nữa là nếu nhập Viện Khoa học Thanh tra với Trường
có thể sẽ tận dụng được đội ngũ cán bộ quen làm công tác nghiên cứu nhưng
chưa chắc đã đảm bảo tiêu chí năng lực sự phạm, khả năng thuyết trình tốt để
trở thành giảng viên.
Còn nếu Trường hình thành độc lập, ngay từ đầu vào đã có sự tuyển chọn
với tiêu chí kết hợp vừa có khả năng nghiên cứu độc lập, vừa có khả năng
thuyết trình để tận dụng được một nguồn nhân lực có thể vừa đảm đương
nhiệm vụ nghiên cứu, vừa thực hiện nhiệm vụ giảng dạy được. Điều này sẽ
tiết kiệm được nguồn lực, khai thác hết tiềm năng của nguồn lực và đồng thời
giảng dạy và nghiên cứu khoa học là hai quá trình có tác dụng bổ sung hoàn
thiện lẫn nhau, việc nghiên cứu khoa học giúp tổng kết thực tiễn để phục vụ
giảng dạy, đồng thời quá trình giảng dạy lai là quá trình kiểm chứng lại thực
tiễn đã được đúc rút qua nghiên cứu. Đồng thời thông qua quá trình giảng
dạy- quá trình trao đổi hai chiều giữa giảng viên và học viên sẽ đưa ra được
những vướng mắc từ phía giảng viên, học viên để từ đó là cơ sở hình thành
các chuyên đề nghiên cứu.
Trên cơ sở những phân tích, đánh giá nêu trên, Ban Chủ nhiệm Đề tài
kiến nghị lựa chọn phương án hình thành Học viện Thanh tra theo Phương án
1: Độc lập lập phát triển, nâng cấp từ Trường Cán bộ Thanh tra hiện nay
lên thành Học viện Thanh tra và mô hình theo loại thứ 3, vừa có chức
năng đào tạo, vừa có chức năng bồi dưỡng, với mô hình này phù hợp với
điều kiện thực tế, đồng thời đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực của ngành thanh tra đặt ra.
Học viện Thanh tra khi được thành lập sẽ có 02 chức năng cơ bản là đào
tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học về thanh tra (trong đó có kiến thức, kỹ
năng xử lý tình huống, nghiệp vụ về quản lý nhà nước, pháp luật nói chung và
pháp luật trong lĩnh vực thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo, phòng chống

tham nhũng) phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng của ngành thanh tra, nâng
21
cao chất lượng công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và phòng, chống
tham nhũng.
Riêng đối với công tác nghiên cứu khoa học, hoạt động nghiên cứu khoa
học của Trường Cán bộ Thanh tra sẽ tập trung vào những nội dung phục vụ
cho công tác đào tạo, bồi dưỡng (khác với hoạt động nghiên cứu của Viện
Khoa học thanh tra, tập trung vào những vấn đề chiến lược của ngành).
Đề tài cũng chỉ ra tiến độ để thực hiện việc hình thành Học viện Thanh
tra, đó là: Trên cơ sở những điều kiện về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên
giảng dạy của Trường Cán bộ Thanh tra, các chương trình, giáo trình giảng
dạy của Nhà trường đã được từng bước xây dựng và hoàn chỉnh trong thời
gian qua, Ban Chủ nhiệm Đề tài kiến nghị cần sớm triển khai việc xây dựng
Đề án Nâng cấp Trường Cán bộ Thanh tra thành Học viện Thanh tra trình
Tổng Thanh tra xem xét, quyết định. Trên cơ sở đó, hoàn chỉnh Hồ sơ để các
Bộ ngành có liên quan thẩm định và Tổng Thanh tra trình Thủ tướng Chính
phủ quyết định vào cuối năm 2010.
2. Đề tài đưa ra một số các giải pháp để thực hiện việc hình thành
Học viện Thanh tra, đó là:
- Xây dựng Đề án “Nâng cấp Trường Cán bộ Thanh tra thành Học viện
Thanh tra” trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Giải pháp về thể chế.
- Giải pháp về nguồn nhân lực.
- Giải pháp về cơ sở vật chất.
- Giải pháp về xây dựng chương trình, giáo trình.
- Giải pháp về phương pháp đào tạo, bồi dưỡng.
- Giải pháp về liên kết, phối hợp trong đào tạo, bồi dưỡng
- Giải pháp về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên (kể cả
giảng viên cơ hữu và kiêm nhiệm).
3. Trên cơ sở những giải pháp nêu trên, Ban Chủ nhiệm Đề tài kiến

nghị với Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc thành lập Học
viện Thanh tra trên cơ sở Hồ sơ của Tổng thanh tra.
* Ban Chủ nhiệm Đề tài kiến nghị với Lãnh đạo Thanh tra Chính phủ:
22
- Chỉ đạo các Vụ, đơn vị thuộc cơ quan Thanh tra Chính phủ phối hợp
với Trường Cán bộ Thanh tra xây dựng Đề án thành lập Học viện Thanh tra.
- Chỉ đạo Văn phòng, Cục III, Vụ Tổ chức cán bộ triển khai việc bàn
giao Trụ sở tại 496, Nguyễn Đình Chiểu (quận 3, TP Hồ Chí Minh) cho
Trường Cán bộ Thanh tra. Trên cơ sở đó, xây dựng Đề án về quản lý và sử
dụng có hiệu quả cơ sở vật chất của trụ sở tại 496, phục vụ cho công tác đào
tạo, bồi dưỡng của Nhà trường, làm căn cứ về cơ sở vật chất phục vụ cho việc
nâng cấp Trường Cán bộ Thanh tra thành Học viện Thanh tra;
- Chỉ đạo các Cục, Vụ, đơn vị phối hợp với Trường Cán bộ thanh tra
xây dựng khung chương trình và nội dung các chương trình đào tạo, bồi
dưỡng của Học viện Thanh tra;
- Chỉ đạo Trường Cán bộ Thanh tra chủ trì, phối hợp với Vụ Tổ chức
cán bộ xây dựng Đề án về phát triển đội ngũ giáo viên, đáp ứng yêu cầu thành
lập Học viện Thanh tra.
- Chỉ đạo dự án POSIS phối hợp với Trường Cán bộ Thanh tra dự trù
kinh phí, hỗ trợ thực hiện xây dựng và tổ chức thực hiện Đề án thành lập Học
viện Thanh tra.
* Với Viện Khoa học thanh tra;
Từ kết quả nghiên cứu của đề tài này, Viện Khoa học Thanh tra có văn
bản phối hợp với Trường Cán bộ Thanh tra, Vụ Tổ chức Cán bộ để chuyển
hóa những nội dung nghiên cứu của Đề tài này và các đề tài khác có liên quan
phục vụ cho việc nghiên cứu, xây dựng Đề án thành lập Học viện Thanh tra.
* Với Trường Cán bộ Thanh tra
- Chủ trì, phối hợp với Viện Khoa học Thanh tra, Vụ Tổ chức cán bộ,
các Cục, Vụ, đơn vị thuộc cơ quan Thanh tra Chính phủ và các cơ quan, đơn
vị có liên quan nghiên cứu, xây dựng Đề án nâng cấp Trường Cán bộ Thanh

tra thành Học viện Thanh tra trình Tổng Thanh tra xem xét, quyết định.
Trên cơ sở đó, tiến hành nghiên cứu, xây dựng các khung chương trình
đào tạo, bồi dưỡng của Học viện Thanh tra trình Lãnh đạo Thanh tra Chính
phủ phê duyệt làm cơ sở thực hiện trong thời gian tới.
- Thuê chuyên gia, giảng viên, những người có kinh nghiệm biên soạn
nội dung của các chương trình đào tạo, bồi dưỡng của Học viện Thanh tra.
23

×