Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Vinamilk trong thời đại toàn cầu hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (680.57 KB, 72 trang )

Trờng Đại học ngoại thơng
Khoa TàI CHíNH NGÂN HàNG
khóa luận tốt nghiệp
Đề tài: Những giải pháp nâng cao năng lực
cạnh tranh của Công ty Vinamilk trong thời đại
toàn cầu hóa
Lời mở đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài
Những thành tựu và lợi ích to lớn do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cho mỗi
nớc tham gia là rõ ràng không thể phủ nhận. Ngày nay, không một dân tộc nào có thể
phát triển đất nớc mình theo con đờng tự cung, tự cấp, cô lập với bên ngoài.Đối với
những nớc đang phát triển nh Việt Nam, việc nhận thức đầy đủ những đặc trng quan
trọng này và ứng dụng vào tình hình thực tế của đất nớc là cần thiết. Chính vì vậy,
1
chiến lợc phát triển mà chúng ta đã lựa chọn và khẳng định là: Hớng mạnh vào xuất
khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nớc sản xuất có hiệu quả,
chuyển dịch cơ cấu hàng hoá xuất khẩu sang dạng chế biến sâu, mở ra những mặt hàng
mới có giá trị thặng d cao.
Công ty Vinamilk là một trong những điển hình thành công về cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nớc. Lần bán đấu giá cổ phần vào giữa tháng 2 trong năm nay,
Vinamilk đã giúp Nhà nớc thu về thêm 385 tỷ đồng thay vì dự kiến ban đầu là 187 tỷ
đồng. Mời năm qua, Vinamilk đã đầu t 1.169,8 tỷ đồng phát triển quy mô sản xuất,
nâng cấp, đổi mới công nghệ. Xây dựng mới 5 nhà máy chế biến sữa trên 5 vùng trọng
điểm của cả nớc; tiến hành cuộc cách mạng trắng bằng việc tạo lập vùng nguyên
liệu nội địa Nhờ đó, tốc độ sản xuất và kinh doanh luôn tăng, từ 15-35%/ năm.Tỷ
suất lợi nhuận trớc thuế/nguồn vốn kinh doanh đạt từ 20-30%. Nộp ngân sách Nhà nớc
3.080,7 tỷ đồng, tổng vốn chủ sở hữu tăng gấp 10 lần, từ 216 tỷ đồng (1992) lên 2015
tỷ đồng năm 2005, thị phần liên tục đợc giữ vững từ 50-90%. Tuy nhiên, hiện nay xuất
hiện một loạt Công ty đang cạnh tranh rất quyết liệt với Công ty Vinamilk và doanh thu
của họ cũng liên tục tăng (nh mức tăng trởng nhảy vọt của Nutifood 50%, Hancofood
là 100%/năm )


Việt Nam sắp ra nhập WTO vào năm 2006, sẽ có nhiều Công ty nớc ngoài hơn
nữa xâm nhập vào thị trờng Việt Nam, hàng hoá Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh
tranh gay gắt hơn và sự đào thải cũng nghiệt ngã hơn. Nếu công tác chuẩn bị không tốt,
sự tác động này là rất lớn, không loại trừ khả năng một số ngành kinh tế sẽ bị chết yểu
trớc sức tấn công của hàng hoá ngoại nhập.
Vì vậy, việc nghiên cứu năng lực cạnh tranh của Công ty Vinamilk trong giai
đoạn hiện nay là cần thiết.
2.Mục đích nghiên cứu
Khoá luận tốt nghiệp này không ngoài mục đích làm sáng tỏ lý luận về cạnh
tranh, năng lực cạnh tranh thông qua việc nghiên cứu quá trình phát triển và năng lực
cạnh tranh của Công ty Vinamilk nhằm đa ra những giải pháp nâng cao năng lực cạnh
tranh của Công ty Vinamilk trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
3.Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
2
Đối tợng chính mà khoá luận tập trung nghiên cứu là năng lực cạnh tranh của
Công ty Vinamilk. Ngoài ra, khoá luận còn đề cập đến tình hình sản xuất và tiêu thụ
trên thế giới và tình hình sản xuất mặt hàng sữa và sản phẩm sữa ở Việt Nam.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Phơng pháp chủ yếu đợc sử dụng để nghiên cứu đề tài này là phơng pháp phân
tích tổng hợp, phơng pháp diễn giải quy nạp; phơng pháp đối chiếu so sánh,
phơng pháp lôgíc, phơng pháp mô tả khái quát.
5.Bố cục của khóa luận
Ngoài phần lời mở đầu và kết luận, bố cục của khoá luận bao gồm 3 chơng
sau:
Chơng I : Lý luận cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Chơng II : Phân tích đánh giá năng lực cạnh tranh của Vinamilk trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Chơng III : Một số giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của Vinamilk.
Do thời gian làm, đồng thời với kiến thức và t duy còn hạn hẹp, nên ý kiến của

em nêu ra có thể còn cha hợp lý. Em rất mong nhận đợc sự góp ý, phê bình của các
thầy cô, và các bạn đọc.
Qua khoá luận này, em xin đợc gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo Vũ Đức
Cờng, ngời đã giúp đỡ và chỉ dẫn cho em trong quá trình thực hiện khoá luận. Cám ơn
khoa KTNT, th viện trờng Đại học Ngoại Thơng, th viện Quốc Gia, Trung tâm thông tin
thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã giúp đỡ và cung cấp cho em nhiều
tài liệu và thông tin bổ ích để thực hiện khoá luận. Cám ơn mẹ đã tạo điều kiện cho con
đợc học tập ở trờng Đại học Ngoại Thơng, cám ơn tất cả thầy cô đã dạy dỗ em trong
bốn năm qua.
3
4
Chơng I : Lý luận cơ bản về cạnh tranh và năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp
I. Khái luận về cạnh tranh và vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trờng
1. Khái niệm về cạnh tranh
Doanh nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế thị trờng nên chịu sự chi phối hoạt
động của các quy luật kinh tế: quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh
tranh. Trong nền kinh tế này mọi ngời đều đợc tự do kinh doanh, đây chính là nguồn
gốc dẫn tới cạnh tranh. Cạnh tranh trên thị trờng rất đa dạng và phức tạp giữa các chủ
thể có lợi ích đối lập nhau nh cạnh tranh giữa những ngời mua, giữa những ngời bán,
giữa những ngời bán với ngời mua, giữa các nhà sản xuất, giữa các doanh nghiệp nội
địa với doanh nghiệp nớc ngoài, Cạnh tranh phát triển cùng với sự phát triển của nền
sản xuất hàng hoá t bản chủ nghĩa.
Vậy cạnh tranh là gì?
Xét dới giác độ các quốc gia thì cạnh tranh có thể đợc hiểu là quá trình đơng đầu
của các quốc gia này với các quốc gia khác trong quá trình hội nhập kinh tế.
Xét dới giác độ ngành kinh tế - kỹ thuật, từ trớc đến nay, cạnh tranh đợc chia
thành 2 loại là cạnh tranh giữa các ngành và cạnh tranh nội bộ ngành.
- Cạnh tranh giữa các ngành là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong mọi

lĩnh vực khác nhau nhằm thu đợc lợi nhuận lớn và có tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với
vốn đã bỏ ra, cùng đó là việc đầu t vốn vào ngành có lợi nhất cho sự phát triển. Sự cạnh
tranh giữa các ngành dẫn đến việc các doanh nghiệp luôn tìm kiếm những ngành đầu t
có lợi nhất nên đã chuyển vốn đầu t từ ngành có lợi nhuận cao hơn. Điều này, vô hình
chung đã hình thành nên sự phân phối vốn hợp lý giữa các ngành khác nhau và giúp
các doanh nghiệp ở các ngành khác nhau có số vốn bằng nhau thì thu đợc lợi nhuận
ngang nhau.
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất và
tiêu thụ một loại sản phẩm hàng hoá - dịch vụ nào đó. Cạnh tranh trong nội bộ ngành
dẫn đến sự hình thành nên giá cả thị trờng trên cơ sở giá trị xã hội của loại hàng hoá
dịch vụ đó. Trong cuộc cạnh tranh này, các doanh nghiệp đấu tranh với nhau để giành
chiến thắng. Những doanh nghiệp giành chiến thắng sẽ mở rộng quy mô hoạt động của
5
mình trên thị trờng, còn những doanh nghiệp nào thua cuộc sẽ phải thu hẹp phạm vi
kinh doanh, thậm chí các doanh nghiệp này còn có thể dẫn đến giải thể, phá sản.
Đề cập tới cạnh tranh trong điều kiện nền kinh tế TBCN, K. Mark đã đa ra khái
niệm cạnh tranh nh sau: "Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà
t bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá
nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch".
Nh vậy, khi nghiên cứu cạnh tranh trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, Mark đã
coi cạnh tranh là cuộc giành giật các lợi thế để thu đợc lợi nhuận siêu ngạch.
Tuy nhiên, cũng trong nền kinh tế TBCN, cuốn sách "Từ điển kinh doanh" (Xuất
bản năm 1992, Anh) lại đa ra khái niệm cạnh tranh nh sau: "cạnh tranh là sự ganh đua,
sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh giành tài nguyên sản xuất cùng một
loại về phía mình" để đề cập đến sự cạnh tranh ở thị trờng các yếu tố đầu vào của các
doanh nghiệp.
Nói tóm lại, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các ngành kinh tế, giữa các quốc gia
trong việc giành giật các lợi thế để thực hiện các mục tiêu khác nhau trong từng giai
đoạn cạnh tranh nhất định.
Nếu xét cạnh tranh dới góc độ các doanh nghiệp thì thực chất cạnh tranh là sự

ganh đua về lợi ích kinh tế, về chủ thể tham gia thị trờng. Đối với khách hàng, bao giờ
họ cũng muốn mua đợc hàng hoá có chất lợng cao mà giá lại rẻ, còn các doanh nghiệp
lại muốn đợc tối đa hoá lợi nhuận của mình. Với mục tiêu là lợi nhuận, các doanh
nghiệp phải tìm cách giảm chi phí, giành giật khách hàng về phía mình. Từ đó, cạnh
tranh đã xảy ra.
Cạnh tranh là quy luật của nền kinh tế thị trờng, nó là động lực thúc đẩy sản
xuất, lu thông hàng hoá phát triển. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải nhận thức đúng
đắn về cạnh tranh để từ đó luôn phát huy nội lực, nâng cao chất lợng phục vụ khách
hàng. Mặt khác, tránh cạnh tranh bất hợp pháp dẫn đến làm tổn hại lợi ích của cộng
đồng cũng nh làm suy yếu chính mình.
Trong nền kinh tế thị trờng, mong muốn tồn tại và phát triển trong cạnh tranh
luôn là mục đích tự thân của mỗi doanh nghiệp. Cũng trong nền kinh tế đó, khách hàng
là ngời tự do lựa chọn nhà cung ứng, là nhân tố quyết định sự tồn tại của các doanh
nghiệp. Họ không phải tự tìm kiếm đến các doanh nghiệp nh trớc đây mà buộc các
6
doanh nghiệp phải tìm kiếm khách hàng cho mình và khai thác nhu cầu nơi họ. Nghĩa
là, muốn khách hàng tiêu thụ sản phẩm thì các doanh nghiệp nên đa sản phẩm của
mình tới khách hàng để họ biết, cảm nhận đợc và có quyết định dùng hay không dùng.
Với cơ chế thị trờng, có đợc một khách hàng là rất khó khăn, các doanh nghiệp phải giữ
từng khách hàng, giành giật từng khách hàng, doanh nghiệp nào cũng muốn đa sản
phẩm của mình tới tay khách hàng. Nếu doanh nghiệp nào nhanh hơn thì doanh nghiệp
đó sẽ chiến thắng trong cạnh tranh. Quy luật chọn lọc nghiệt ngã này đã chia doanh
nghiệp thành hai nhóm chính, đó là nhóm doanh nghiệp năng động và nhóm doanh
nghiệp trì trệ. Chính điều đó đã khiến các doanh nghiệp yếu phải nhanh chóng thích
nghi, nếu không sẽ không có cơ hội phát triển và dẫn tới tình trạnh bị phá sản. Vì vậy,
trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh
tế thị trờng thì cạnh tranh là con đờng cơ bản để các doanh nghiệp thích nghi và tồn tại
đợc.
Có thể nói, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trờng là một
tất yếu xảy ra và nó đóng vai trò quan trọng với tất cả các doanh nghiệp đó. Trong

phạm vi giới hạn luận văn của mình, em chủ yếu tập trung nghiên cứu và phân tích loại
hình cạnh tranh này.
2. Các hình thái cạnh tranh trong nền kinh tế thị tr ờng
2.1. Thị trờng cạnh tranh
Hình thái cạnh tranh này đợc xem xét dới góc độ hành vi của thị trờng, gắn liền
với phơng thức hình thành và vận động giá trên thị trờng. Có các hình thái cạnh tranh
nh sau:
2.1.1. Hình thái thị trờng cạnh tranh hoàn hảo
- Khái niệm: thị trờng cạnh tranh hoàn hảo là thị trờng mà ở đó có rất nhiều ng-
ời bán mà không có ngời nào có u thế cung ứng một số lợng sản phẩm lớn ảnh hởng
đến giá cả. Tất cả các đơn vị hàng hoá trên thị trờng đợc coi là giống nhau, ít có sự
khác biệt về mẫu mã, hình thức, chất lợng. Tất cả ngời mua và ngời bán đều có hiểu
biết đầy đủ về các thông tin liên quan đến việc trao đổi, vì vậy, việc tham gia và rút
khỏi thị trờng của họ rất dễ dàng. Họ không có khả năng nâng giá. Do đó, các doanh
nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trờng này chủ yếu tìm biện pháp giảm
chi phí tới mức thấp nhất.
- Tác dụng của thị trờng cạnh tranh hoàn hảo:
7
+ Thúc đẩy các doanh nghiệp cải tiến công nghệ, thay đổi sản phẩm cho phù hợp
với thị hiếu của ngời tiêu dùng.
+ Làm cho ngời tiêu dùng dễ dàng lực chọn những sản phẩm vừa ý với mức giá
thấp nhất.
+ Nhìn chung, xã hội thu đợc lợi ích do tài nguyên đợc phân phối theo hớng có
lợi nhất, làm cho doanh nghiệp phải chuyển sang kinh doanh mặt hàng phù hợp với yêu
cầu xã hội.
Đây là hình thái cạnh tranh hầu nh không tồn tại hoặc rất khó thấy trong điều
kiện nền kinh tế nớc ta hiện nay do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan gây ra.
Tuy nhiên, tiến tới một thị trờng cạnh tranh hoàn hảo vẫn là mục tiêu hớng tới của mỗi
quốc gia trong xu thế hội nhập thơng mại quốc tế.
2.1.2. Hình thái thị trờng cạnh tranh không hoàn hảo.

Đây là một thị trờng mà phần lớn sức mạnh thị trờng thuộc về một số doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh lớn. Các doanh nghiệp trên thị trờng kinh doanh các sản
phẩm hàng hoá - dịch vụ cùng chủng loại nhng khác nhau về nhãn hiệu. Chính những
nhãn hiệu này lại mang những hình ảnh, uy tín khác nhau do ngời tiêu dùng nghĩ ra, có
thể đúng hoặc không đúng. Do đó, một số ngời tiêu dùng (chứ không phải là tất cả) sẽ
trả giá cao hơn cho sản phẩm mà mình thích. Có thể nói, thị trờng cạnh tranh không
hoàn hảo là một thị trờng phổ biến trong điều kiện nền kinh tế hiện nay. Có hai hình
thái thị trờng cạnh tranh không hoàn hảo sau:
* Độc quyền tập đoàn:
Trong thị trờng này chỉ có một số doanh nghiệp sản xuất toàn bộ hay hầu hết
tổng sản lợng. Trong số đó, một số hoặc tất cả các doanh nghiệp đều thu đợc lợi nhuận
đáng kể trong dài hạn, vì có các rào cản gia nhập làm cho các doanh nghiệp mới không
thể gia nhập vào thị trờng đợc. Tuy nhiên, một điều cần chú ý ở đây là các doanh
nghiệp trong thị trờng bị phụ thuộc lẫn nhau trong việc định giá cũng nh sản lợng bán
ra. Bởi lẽ, khi một doanh nghiệp trong nhóm độc quyền giảm giá hàng bán thì lợi thế
đối với họ sẽ không đợc lâu, các doanh nghiệp khác cũng sẽ nhanh chóng giảm giá, nh
vậy, lợi ích của họ sẽ nhanh chóng giảm sút. Ngợc lại, khi doanh nghiệp tăng giá cha
chắc các doanh nghiệp khác sẽ tăng giá theo, nh vậy, doanh nghiệp sẽ làm mất khách
hàng.
8
* Cạnh tranh độc quyền:
Đặc điểm nổi bật của thị trờng độc quyền là số lợng các doanh nghiệp tham gia
thị trờng tơng đối lớn, mỗi doanh nghiệp sẽ có ảnh hởng lớn đến các quyết định sản
xuất kinh doanh của riêng doanh nghiệp mình. Trong thị trờng cạnh tranh độc quyền,
sản phẩm của các doanh nghiệp không đồng nhất. Ngời tiêu dùng phân biệt đợc các sản
phẩm của các doanh nghiệp thông qua nhãn hiệu, bao bì và các dịch vụ kèm theo. Trên
thị trờng này, doanh nghiệp có quyền quyết định giá hàng hoá nhng vẫn không phải
hoàn toàn theo ý mình, các điều kiện về mua bán hàng hoá cũng khác nhau, các doanh
nghiệp có thể có hình ảnh, uy tín khác nhau trong tâm trí mỗi khách hàng.
2.1.3. Hình thái thị trờng độc quyền

Đây là hình thái thị trờng mà ở đó chỉ có một ngời bán nhng nhiều ngời mua (gọi
là độc quyền bán) hoặc là chỉ có một ngời mua (gọi là độc quyền mua). Điều kiện gia
nhập cũng nh rút lui khỏi thị trờng này vô cùng khó khăn do vốn đầu t sản xuất kinh
doanh thờng rất lớn hoặc do sự độc quyền về kỹ thuật công nghệ. Chính vì vậy, đặc
điểm nổi bật của thị trờng này không có sự cạnh tranh về giá cả mà giá cả phụ thuộc
vào quyền kiểm soát của ngời mua độc quyền hoặc ngời bán độc quyền.
Trên thị trờng độc quyền, đờng cầu của toàn bộ xã hội về một loại hàng hoá dịch
vụ cũng nh lợng hàng hoá mua vào, bán ra trên thị trờng bằng các chiến lợc kinh doanh
của mình.
Với hình thái này, chỉ có ngời tiêu dùng cuối cùng là gặp nhiều bất lợi nhất,
doanh nghiệp độc quyền có thể tạo ra sự khan hiếm hàng hoá hoặc bán hàng hoá với
giá cao. Để bảo vệ lợi ích của ngời tiêu dùng hiện nay, đã có nhiều quốc gia đề ra luật
chống độc quyền. Tuy nhiên, độc quyền cũng có mặt tích cực, nó đem lại lợi ích cho xã
hội nhờ quá trình đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học- kỹ thuật. Doanh nghiệp
độc quyền thờng có trình độ tập trung hoá sản xuất cao, mở rộng đợc quy mô sản xuất
nên giảm đợc chi phí sản xuất tính trên một đơn vị sản phẩm.
2.2. Cạnh tranh của doanh nghiệp
Trong cùng một thị trờng, các doanh nghiệp cùng ngành cạnh tranh với nhau
trong việc lựa chọn yếu tố đầu vào, cạnh tranh trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm.
2.2.1. Cạnh tranh trong việc lựa chọn yếu tố đầu vào
9
Thực chất, đây là việc các doanh nghiệp tìm kiếm cho mình một nguồn cung ứng
tốt nhất, đầy đủ, thờng xuyên nhất và chi phí cho các yếu tố đầu vào nhỏ nhất. Trong cơ
chế thị trờng, nhiều nhà cung ứng và nhiều doanh nghiệp cùng có nhu cầu về một số
yếu tố đầu vào nhất định sẽ song song tồn tại cùng một lúc. Mỗi nhà cung ứng có một
mức giá cho các yếu tố đầu vào khác nhau, do đó, các doanh nghiệp sẽ chọn cho mình
một nhà cung ứng có mức giá thấp cũng nh có dịch vụ cung ứng tốt. Tuy nhiên, để
tránh tình trạnh có nhà cung ứng độc quyền các doanh nghiệp nên chọn cho mình một
số nhà cung ứng trong đó có một nhà cung ứng chính. Điều này vô hình chung sẽ dẫn

tới một số nhà cung ứng có giá cao sẽ bị loại bỏ. Ngợc lại, các nhà cung ứng lại muốn
lựa chọn khách mua các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất với mức giá cao.
2.2.2. Cạnh tranh trong quá trình sản xuất
Cạnh tranh trong quá trình sản xuất chính là quá trình ganh đua giữa các doanh
nghiệp trong việc tìm các câu trả lời tối u nhất cho các câu hỏi sau: sản xuất cái gì? sản
xuất cho ai và sản xuất nh thế nào ? Bởi vì trả lời tốt đợc các câu hỏi này thì các doanh
nghiệp mới có cơ hội tồn tại và phát triển đợc.
Sản xuất cái gì? Thực ra, doanh nghiệp cần phải suy tính xem sản xuất mặt hàng
nào thì sẽ thu đợc lợi nhuận tối u nhất. Trớc hết, các doanh nghiệp cần tìm hiểu thị tr-
ờng, nắm bắt nhu cầu khách hàng, để từ đó tập trung sản xuất những mặt hàng phù hợp.
Doanh nghiệp nào tìm ra đợc nhu cầu đầu tiên và nhanh chóng đáp ứng nhu cầu đó thì
sẽ giành chiến thắng. Tuy nhiên, hiện nay, quan điểm về cạnh tranh không dừng ở mức
độ này mà cạnh tranh còn là việc các doanh nghiệp cùng nhau kích thích tạo ra nhu cầu
mới trên thị trờng để từ đó khai thác các nhu cầu này.
Sản xuất cho ai? Đây chính là câu hỏi khiến các doanh nghiệp phải đi tìm cho
mình các khách hàng mục tiêu, để từ đó có các chiến lợc định vị sản phẩm. Điều này
cũng là một trong các nhân tố ảnh hởng đến sự cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Sản xuất nh thế nào? Việc trả lời các câu hỏi này sẽ giúp các doanh nghiệp tìm ra
phơng thức sản xuất tốt nhất với chi phí tốt nhất để từ đó hạ giá thành và nâng cao lợi
thế cạnh tranh. Do đó, trong quá trình sản xuất, các doanh nghiệp đã không ngừng áp
dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến để sản xuất ra sản phẩm có giá trị cao và giá thành hạ.
Tóm lại, cạnh tranh trong quá trình sản xuất là sự ganh đua trong sản xuất nhằm
tạo ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trờng, đẩy nhanh doanh số bán hàng cũng nh
10
việc áp dụng các phơng thức sản xuất nhằm giảm thiểu chi phí để mong muốn có đợc
lợi nhuận cao của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào thực sự làm đợc điều này thì
doanh nghiệp đó sẽ giành chiến thắng trong cạnh tranh.
2.2.3. Cạnh tranh trong quá trình tiêu thụ hàng hoá dịch vụ.
Có thể nói, đây là lĩnh vực cạnh tranh gay gắt nhất, nó quyết định tính sống còn
của mỗi doanh nghiệp. Trọng tâm của cuộc cạnh tranh này là sự giành giật thị trờng và

khách hàng của mỗi doanh nghiệp. Qua đó, doanh nghiệp sẽ có điều kiện đẩy nhanh
tốc độ tiêu thụ, thực hiện mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Để làm đợc điều
này, các doanh nghiệp phải tìm mọi cách nhằm thu hút khách hàng về phía mình, tìm
đợc chỗ đứng ổn định và lâu dài trên thị trờng bằng việc thực hiện các chiến lợc và các
giải pháp khác nhau. Trong cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp nào tìm đợc cho mình
một lợng khách hàng lớn, hàng hoá dịch vụ tiêu thụ nhiều sẽ là doanh nghiệp chiến
thắng và ngợc lại.
3. Vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị tr ờng.
Cạnh tranh là một trong ba quy luật chi phối cơ chế thị trờng. Nguồn gốc của
cạnh tranh là sự tự phát triển trong kinh doanh về quy mô hoạt động, thành phần tham
gia cũng nh các sản phẩm tạo thành. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cơ chế thị
trờng có thể ví nh cuộc chạy đua không có đích, bất kỳ doanh nghiệp nào mà xác định
cho mình một cái đích trong cuộc chạy đua này thì sẽ tạo thành nhịp cầu cho doanh
nghiệp khác chạy qua. Tuy nhiên, cạnh tranh lại là cuộc chạy đua trên hai trận tuyến.
Đó là cạnh tranh giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp và cuộc cạnh tranh giữa doanh
nghiệp với ngời tiêu dùng. Chính vì lý do này mà cạnh tranh giúp cho giá cả của hàng
hoá dịch vụ có xu hớng giảm xuống, trong khi đó, chất lợng hàng hoá, dịch vụ ngày
càng đợc nâng cao phù hợp với mong muốn của ngời tiêu dùng.
Đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trờng, nhờ có cạnh tranh mà các
doanh nghiệp này đã không ngừng nỗ lực, phấn đấu vơn lên trong mọi lĩnh vực, từ việc
giảm thiểu chi phí cho đến thực hiện các mục tiêu chung. Chính điều này đã là động
lực giúp các doanh nghiệp vơn lên trong quá trình tồn tại. Hơn nữa, cạnh tranh còn là
công cụ giúp các doanh nghiệp thực hiện các mục tiêu kinh doanh và cũng nhờ có cạnh
tranh sẽ tạo ra cho doanh nghiệp những thách thức và cơ hội trong kinh doanh, để từ
đó, giúp các doanh nghiệp khai thác mọi cơ hội và tránh đợc các rủi ro.
11
Ngoài ra, khi nền kinh tế thị trờng xuất hiện cơ chế tự điều tiết vĩ mô, có sự dịch
chuyển cơ cấu ngành nghề kinh doanh của các doanh nghiệp cho phù hợp với điều kiện
thực tế thì cạnh tranh sẽ loại bỏ các doanh nghiệp có chi phí cao, không đáp ứng đợc

nhu cầu xã hội. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả
tiếp tục phát triển đóng góp cho sự phát triển chung của nền kinh tế. Từ đó, cạnh tranh
sẽ tạo nên sự ràng buộc giữa các doanh nghiệp tạo ra một sức mạnh tổng thể cho sự
phát triển qua việc phối hợp hài hoà các chức năng, nhiệm vụ giữa các doanh nghiệp
khác nhau trong các ngành kinh tế. Với sự phối hợp này sẽ giúp cho quá trình sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp diễn ra thông suốt, sản phẩm hàng hoá sản xuất ra
tiêu thụ dễ dàng hơn, các doanh nghiệp sẽ giảm bớt lo lắng là không có thị trờng tiêu
thụ những sản phẩm đó.
Tóm lại: Khi có nền kinh tế thị trờng thì tất yếu sẽ tồn tại quy luật cạnh tranh,
đó là quy luật góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Tuy nhiên, đứng
trên từng giác độ khác nhau thì cạnh tranh luôn là hai mặt của một vấn đề. Một mặt
cạnh tranh là động lực phát triển đối với mỗi doanh nghiệp. Mặt khác, cạnh tranh lại
mang những đe doạ, nguy cơ tiềm tàng sẵn sàng loại bỏ những thành phần tham gia
nền kinh tế thị trờng nếu nh không kịp thời thích ứng với nó.
Hơn nữa, cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay thế, thay thế những
doanh nghiệp khác làm ăn có hiệu quả hơn, đáp ứng đợc nhu cầu xã hội, thúc đẩy nền
kinh tế mỗi quốc gia phát triển.
Nhận thức đợc vấn đề này, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trong thời kỳ
đầu của nền kinh tế thị trờng, phải không ngừng tích luỹ những kiến thức, sẵn sàng có
những ứng xử cần thiết và thích hợp trớc những hoàn cảnh do cạnh tranh mang lại cho
doanh nghiệp, cho nền kinh tế và đất nớc.
II. Nâng cao năng lực cạnh tranh đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trờng
1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.1. Khái niệm về sức cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và các cấp độ của năng lực
cạnh tranh
1.1.1.Khái niệm về sức cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
12
- Về sức cạnh tranh
Sức cạnh tranh là khái niệm đợc dùng cho phạm vi doanh nghiệp trong lý thuyết
tổ chức các doanh nghiệp. Một doanh nghiệp đợc coi là có sức cạnh tranh (hay năng

lực cạnh tranh) và đợc đánh giá là có thể đứng vững cùng các nhà sản xuất khác, khi
các sản phẩm thay thế hoặc các sản phẩm tơng tự đợc đa ra với mức giá thấp hơn các
sản phẩm cùng loại; hoặc cung cấp các sản phẩm tơng tự với các đặc tính về chất lợng
và dịch vụ ngang bằng hay cao hơn. Nhìn chung, khi xác định sức cạnh tranh của một
doanh nghiệp hay một ngành cần xem xét đến tiềm năng sản xuất kinh doanh một
hàng hoá hay một dịch vụ ở mức giá ngang bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến
mà không phải trợ cấp.
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và Phát triển
kinh tế (OECD) đã lựa chọn một định nghĩa cố gắng kết hợp cho cả doanh nghiệp,
ngành và quốc gia nh sau: .Sức cạnh tranh là khả năng của các doanh nghiệp, ngành,
quốc gia, khu vực trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh
tranh quốc tế Định nghĩa này theo em là phù hợp và phản ánh đợc khái niệm cạnh
tranh quốc gia trong mối liên hệ gắn kết với hoạt động cạnh tranh của các doanh
nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập và mức sống nhân dân.
- Về năng lực cạnh tranh:
Năng lực cạnh tranh (còn gọi là sức cạnh tranh; Anh: Competitive Power; Nga:
Cancurentia; Pháp: Capacité de Concurrence), khả năng giành đợc thị phần lớn trớc các
đối thủ cạnh tranh trên thị trờng, kể cả khả năng giành lại một phần hay toàn bộ thị
phần của đồng nghiệp (Từ điển thuật ngữ kinh tế học, 2001, NXB Từ điển Bách khoa
Hà nội, trang 349). Theo định nghĩa này, có thể thống nhất bốn thuật ngữ hiện
đang đợc sử dụng: năng lực cạnh tranh, sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh và
tính cạnh tranh đều có nội dung tơng tự nhau và hiểu tên của chúng một cách
nhất quán trong đề tài này là "năng lực cạnh tranh".
1.1.2. Các cấp độ của năng lực cạnh tranh:
Năng lực cạnh tranh có thể đợc phân biệt thành bốn cấp độ:
Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia
Năng lực cạnh tranh cấp độ ngành
13
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá

Năng lực cạnh tranh ở bốn cấp độ phân biệt trên đây có mối tơng quan mật thiết
với nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, khi xem xét, đánh giá và đề ra giải pháp nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung cần thiết phải đặt nó
trong mối tơng quan chung giữa các cấp độ năng lực cạnh tranh nêu trên. Một
mặt, tổng số năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp của một nớc tạo thành năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia đó. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bị hạn
chế khi năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và của sản phẩm doanh nghiệp đó đều thấp.
Mặt khác, năng lực cạnh tranh quốc gia thể hiện qua môi trờng kinh doanh, cạnh tranh
quốc tế và trong nớc (đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế). Trong đó, các
cam kết về hợp tác kinh tế quốc tế, các chính sách kinh tế vĩ mô và hệ thống luật pháp
có ảnh hởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của ngành và của sản
phẩm hàng hoá trong quốc gia đó. Vì vậy, trớc khi đề cập đến năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp, em xin đợc sơ lợc về năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia và của sản
phẩm. Còn năng lực cạnh tranh cấp ngành có mối quan hệ và chịu ảnh hởng của năng
lực cạnh tranh quốc gia và của sản phẩm tơng tự nh năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp nên không đề cập đến.
1.1.2.1. Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia
Trong một báo cáo về tính cạnh tranh tổng thể của Diễn đàn kinh tế thế giới
(WEF) năm 1997 đã nêu ra: "năng lực cạnh tranh của một quốc gia là năng lực của nền
kinh tế quốc dân nhằm đạt đợc và duy trì mức tăng trởng cao trên cơ sở các chính sách,
thể chế bền vững tơng đối và các đặc trng kinh tế khác". Nh vậy, năng lực cạnh tranh
cấp quốc gia có thể đợc hiểu là việc xây dựng một môi trờng cạnh tranh kinh tế chung,
đảm bảo phân bố có hiệu quả các nguồn lực, để đạt và duy trì mức tăng trởng cao, bền
vững. Môi trờng cạnh tranh kinh tế chung có ý nghĩa rất lớn đối với việc thúc đẩy quá
trình đầu t, tự điều chỉnh, lựa chọn của các nhà kinh doanh, các doanh nghiệp theo các
tín hiệu thị trờng đợc thông tin đầy đủ. Mặt khác, môi trờng cạnh tranh thuận lợi sẽ tạo
khả năng cho chính phủ hoạch định chính sách phát triển, cải thiện đầu t, tăng cờng
hợp tác quốc tế và hội nhập ngày càng có hiệu quả, sẽ ảnh hởng quyết định đến năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngoài những yếu tố về tài nguyên thiên nhiên, vị trí
địa lý kinh tế có 8 yếu tố chủ yếu tác động đến năng lực cạnh tranh quốc gia, bao

gồm:
14
Độ mở cửa kinh tế
Vai trò của chính phủ: vai trò và mức độ can thiệp của nhà nớc vào hoạt
động cạnh tranh
Tài chính ngân hàng
Công nghệ: là mức độ đầu t cho nghiên cứu triển khai (R&D); trình độ
công nghệ và tích luỹ kiến thức công nghệ
Cơ sở hạ tầng
Hệ thống quản lý, chất lợng quản lý nói chung
Lao động: là số lợng và chất lợng lao động, hiệu lực và tính linh hoạt của
thị trờng lao động
Thể chế, hiệu lực của pháp luật và thể chế xã hội đặt nền móng cho nền
kinh tế hiện đại mang tính cạnh tranh, bao gồm quy định của luật pháp
và quyền sở hữu.
Từ năm 2000, WEF điều chỉnh lại các nhóm tiêu chí, gộp thành ba nhóm lớn để
đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia là: Sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ, tài
chính, quốc tế hoá. Trong đó, trọng số của sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ đã
tăng mạnh từ 1/9 lên 1/3. Theo phân tích và đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới
(WEF) thì sức vơn lên trong hội nhập, cạnh tranh của nền kinh tế nớc ta cha mạnh,
trong khi xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra yêu cầu rất cao tới năng lực cạnh
tranh của các quốc gia và năng lực cạnh tranh của cấp quốc gia ảnh hởng rất lớn đến
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.1.2.2. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá
Một sản phẩm hàng hoá đợc coi là có năng lực cạnh tranh khi nó đáp ứng đợc
nhu cầu của khách hàng về chất lợng, giá cả, tính năng, kiểu dáng, tính độc đáo hay sự
khác biệt, thơng hiệu, bao bì hơn hẳn so với những sản phẩm hàng hoá cùng loại.
Nhng năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá lại đợc định đoạt bởi năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Sẽ không có những năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng
hoá cao khi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó

thấp.
15
ở đây cũng cần phân biệt năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá và năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp là hai phạm trù khác nhau nhng có quan hệ hữu cơ với
nhau. Năng lực cạnh tranh của hàng hoá có đợc do năng lực cạnh tranh của chủ thể
(doanh nghiệp) tạo ra; nhng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ do năng
lực cạnh tranh của hàng hoá mà có, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng
hoá có ảnh hởng lớn và thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.1.2.3.Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Trong cơ chế thị trờng, một doanh nghiệp muốn có một chỗ đứng vững chắc,
ngày càng mở rộng quy mô hoạt động thì cần phải có một tiềm lực đủ mạnh để có thể
cạnh tranh trên thị trờng. Tiềm lực đó chính là năng lực cạnh tranh của một doanh
nghiệp.
"Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng, năng lực mà doanh
nghiệp nhờ vào đó có thể tự duy trì vị trí của mình trên thị trờng cạnh tranh cũng nh
đảm bảo thực hiện một mức lợi nhuận ít nhất là bằng tỷ lệ cho việc thực hiện các mục
tiêu của doanh nghiệp".
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở 4 yếu tố chính: giá cả, chất l-
ợng sản phẩm, các dịch vụ kèm theo và yếu tố thời gian.
Trong cơ chế thị trờng, các doanh nghiệp luôn phải tìm ra các phơng án tối u để
giảm chi phí, hạ thấp giá thành, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao
chất lợng sản phẩm, tổ chức tốt mạng lới bán hàng và biết chọn thời điểm bán hàng hợp
lý nhằm thu hút khách hàng và mở rộng thị trờng.
Tăng năng lực cạnh tranh là điều tất yếu của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế
thị trờng
1.2. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Nh trên đã nói, cạnh tranh của doanh nghiệp đợc diễn ra trong suốt quá trình sản
xuất- kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm cạnh tranh trong việc lựa chọn các yếu tố
đầu vào, cạnh tranh trong quá trình sản xuất và cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm. Tuy

nhiên, mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp bao giờ cũng là doanh thu và lợi nhuận,
nghĩa là nó phụ thuộc trực tiếp vào các sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp. Do đó, ngời
ta sử dụng các chỉ tiêu sau để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
16
* Giá thành sản phẩm :
Q
VQF
V
Q
F
Z
CDCD
++
=+=
Trong đó: - Z là giá thành sản phẩm
- FCD là chi phí cố định
-
V
là chi phí biến đổi bình quân
- Q là khối lợng hàng hoá
Căn cứ vào giá thành, các doanh nghiệp sẽ định giá bán cho từng loại sản phẩm
hàng hoá.
* Thị phần của doanh nghiệp.
Thị phần của Công ty có thể hiểu là phần mà Công ty chiếm đợc trên một thị tr-
ờng nào đó. Thị phần đợc xác định theo công thức sau:
Thị phần =
Doanh thu của công ty
x100%
Doanh thu của thị trờng
Từ đó, ta có công thức tính thị phần từng mặt hàng của Công ty nh sau:

Thị phần mặt
hàng i
=
Doanh thu mặt hàng i của Công ty
x100%
Doanh thu mặt hàng i của thị trờng
Thị phần mà các doanh nghiệp đã chiếm lĩnh đợc là chỉ tiêu tổng hợp nhất thể
đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Thị phần càng lớn càng thể hiện rõ
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp càng mạnh. Để tồn tại và duy trì tốt các năng lực
cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải tìm cách chiếm lĩnh thị phần, mở quy
mô tiêu thụ hàng hoá.
17
* Xác định sức cạnh tranh tơng đối của Công ty:
Để đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp một cách tổng hợp nhất,
các nhà kinh tế thờng sử dụng công thức sau:

=
=
n
i
C
ZixCiK
1
Trong đó: Kc là sức cạnh tranh tơng đối.
Zi là hệ số quan trọng của thông số i
Ci là thông số đánh giá sức cạnh tranh thứ i (thang 7 điểm).
Kc chia làm 7 bậc:
1 2 3 4 5 6 7
Kém Yếu TB yếu TB TB khá Khá Cao
Qua công thức trên, ta có thể đánh giá đợc năng lực cạnh tranh của mỗi doanh

nghiệp, u thế, điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh.
2. Các nhân tố chủ yếu ảnh h ởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
2.1. Nhân tố giá cả hàng hoá, dịch vụ
Giá cả của một sản phẩm trên thị trờng đợc hình thành và thông qua quan hệ
cung cầu. Ngời bán hay ngời mua thoả thuận hay mặc cả với nhau để tiến hành mức giá
cuối cùng để đảm bảo về lợi ích của cả hai bên. Giá cả đóng vai trò quan trọng trong
quyết định mua hay không mua của khách hàng. Trong nền kinh tế thị trờng có sự cạnh
tranh của công cuộc cách mạng doanh nghiệp, khách hàng có quyền lựa chọn sản phẩm
có giá thấp hơn, khi đó sản lợng tiêu thụ của doanh nghiệp sẽ tăng lên.
Giá cả đợc thể hiện nh một vũ khí để giành chiến thắng trong cạnh tranh thông
qua việc định giá: Định giá thấp, định giá ngang bằng hoặc định giá cao.
Với mức giá ngang bằng với mức giá thị trờng giúp cho doanh nghiệp giữ đợc
khách hàng, nếu doanh nghiệp tìm ra đợc những biện pháp nhằm làm giảm giá thành
thì lợi nhuận thu đợc sẽ lớn hơn và hiệu quả kinh tế sẽ cao. Ngợc lại, với mức giá thấp
hơn mức giá thị trờng thì sẽ thu hút nhiều khách hàng, làm tăng sản lợng tiêu thụ,
doanh nghiệp có cơ hội thâm nhập và chiếm lĩnh thị trờng. Tuy nhiên , với bài toán này,
doanh nghiệp khó giải nguy cơ thâm hụt lợi nhuận. Mức giá mà doanh nghiệp áp dụng
18
cao hơn mức giá thị trờng nói chung là không có lợi, nó chỉ sử dụng với các doanh
nghiệp có tính độc quyền hoặc với các loại hàng hoá đặc biệt. Khi đó, doanh nghiệp sẽ
thu đợc lợi nhuận siêu ngạch.
Tuỳ thuộc vào đặc điểm thị trờng, mỗi doanh nghiệp có các chính sách giá thích
hợp cho từng loại sản phẩm, từng giai đoạn cho từng thời kỳ kinh doanh sẽ tạo cho
mình một năng lực cạnh tranh tốt và chiếm lĩnh u thế.
2.2. Sản phẩm và cơ cấu sản phẩm
Điều quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp trong cơ chế thị trờng là phải trả lời
những câu hỏi sau: sản xuất là cái gì? sản xuất nh thế nào? Thông qua việc trả lời các
câu hỏi này doanh nghiệp sẽ xây dựng cho mình một cơ cấu sản phẩm hợp lý. Ta có thể
khẳng định tầm quan trọng của sản phẩm đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, là
trung tâm của doanh nghiệp, bởi vì , không có sản phẩm thì sẽ không có hoạt động kinh

doanh. Các sản phẩm này có thể là sản phẩm vô hình hoặc sản phẩm hữu hình. Tuy
nhiên vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải làm ra và cung cấp sản phẩm phù hợp
với thị hiếu ngời tiêu dùng đợc thị trờng chấp nhận, có khả năng tiêu thụ mạnh giúp
doanh nghiệp mở rộng thị trờng, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mình.
Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh tốt là phần lớn những doanh nghiệp đã
thực hiện đa dạng hoá sản phẩm. Sản phẩm của doanh nghiệp luôn đợc hoàn thiện
không ngừng để có thể theo kịp nhu cầu thị trờng bằng cách cải tiến các thông số chất
lợng, mẫu mã, bao bì, đồng thời tiếp tục duy trì các loại sản phẩm hiện đang là thế
mạnh của doanh nghiệp. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng luôn nghiên cứu các sản
phẩm mới nhằm phát triển và mở rộng thị trờng tiêu thụ hàng hoá. Việc thực hiện đa
dạng hoá sản phẩm của các doanh nghiệp không chỉ để đáp ứng nhu cầu thị trờng, thu
nhiều lợi nhuận mà còn có thể phân tán đợc rủi ro trong kinh doanh.
Tuy nhiên, đi đôi với việc đa dạng hoá sản phẩm, để đảm bảo đứng vững trong
điều kiện cạnh tranh gay gắt, doanh nghiệp phải thực hiện chiến lợc trọng tâm hoá sản
phẩm vào một loại sản phẩm có tính chiến lợc nhằm cung cấp cho một tập khách hàng
mục tiêu hoặc thị trờng mục tiêu. Trong phạm vi này, doanh nghiệp có thể tập trung
phục vụ khách hàng tốt hơn, nâng cao uy tín trớc đối thủ cạnh tranh. Ngoài chiến lợc
này, doanh nghiệp cũng phải thực hiện chiến lợc cá biệt hoá sản phẩm, tạo ra nét độc
đáo riêng cho mình để thu hút, tạo sự hấp dẫn cho khách hàng vào các sản phẩm của
mình, nâng cao uy tín doanh nghiệp.
19
Nh vậy, việc xác định đúng đắn cơ cấu sản phẩm sẽ là chỉ tiêu quyết định để các
doanh nghiệp có sức cạnh tranh tốt trên thị trờng .
2.3. Chất lợng hàng hoá dịch vụ
Nếu trớc kia giá cả sản phẩm là yếu tố khá quan trọng thì ngày nay nó phải nh-
ờng chỗ cho chỉ tiêu chất lợng sản phẩm. Trên thực tế, cạnh tranh bằng giá cả là một
trong những giải pháp mang tính hạ sách, nó làm giảm lợi nhuận thu về. Ngợc lại, với
một sản phẩm có chất lợng vợt trội với mức giá ngang bằng hoặc nhiều hơn chút ít thì
có khả năng sẽ thu hút khách hàng, tạo thêm năng lực mới cạnh tranh.
Chất lợng sản phẩm là hệ thống nội tại của sản phẩm đợc xác định bằng các

thông số có thể đo đợc hoặc so sánh đợc thoả mãn những tiêu chuẩn kỹ thuật hay
những yêu cầu quyết định của ngời tiêu dùng. Chất lợng sản phẩm đợc hình thành từ
khâu thiết kế tới tổ chức sản xuất và ngay cả khi tiêu thụ hàng hoá và chịu tác động của
nhiều yếu tố: công nghệ, dây truyền sản xuất, nguyên vật liệu, trình độ tay nghề lao
động, trình độ quản lý
Chất lợng sản phẩm là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp, đặc biệt trong nền
sản xuất của Việt Nam còn trong tình trạng đang phát triển, phải đơng đầu với quá
nhiều đối thủ cạnh tranh nớc ngoài có u thế hơn hẳn trong việc tạo ra hay cung cấp sản
phẩm có chất lợng cao. Một khi chất lợng sản phẩm không đợc đảm bảo đồng nghĩa với
doanh nghiệp dần mất đi khách hàng, mất đi thị trờng và nhanh chóng đứng bên bờ phá
sản. Hiện nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, một quan niệm mới về chất lợng
sản phẩm đã xuất hiện, chất lợng sản phẩm là chất lợng đợc chi phối và quyết định bởi
khách hàng chứ không phải là các nhà sản xuất hoặc ngời cung ứng. Quản lý chất lợng
sản phẩm là yếu tố chủ quan còn sự đánh giá của khách hàng lại mang tính khách
quan. Đây là một quan niệm mới xuất phát từ thực tế làm mức độ cạnh tranh trên thị tr-
ờng ngày càng trở nên quyết liệt hơn. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đợc đánh
giá qua chất lợng sản phẩm thể hiện ở chỗ:
- Nâng cao chất lợng sản phẩm sẽ làm tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng khối l-
ợng hàng hoá bán ra, kéo dài chu kỳ sống sản phẩm.
- Sản phẩm có chất lợng cao sẽ làm tăng uy tín của doanh nghiệp, kích thích
khách hàng tìm đến doanh nghiệp, tạo thị phần lớn cho doanh nghiệp.
20
- Chất lợng sản phẩm cao làm tăng khả năng sinh lời, cải thiện tình hình tài
chính của doanh nghiệp.
2.4. Tổ chức hoạt động tiêu thụ hàng hoá dịch vụ
Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, đây
cũng là giai đoạn bù đắp chi phí và thu lợi nhuận. Việc đầu tiên của qúa trình tiêu thụ
sản phẩm là phải lựa chọn các kênh phân phối hợp lý, có hiệu quả nhằm mục đích đáp
ứng tốt nhất các nhu cầu của khách hàng, nhanh chóng giải phóng nguồn hàng, bù đắp
chi phí sản xuất thu hồi vốn. Xây dựng một hệ thống mạng lới tiêu thụ sản phẩm tốt

cũng có nghĩa là xây dựng một nền móng vững chắc cho việc củng cố và phát triển
nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp. Bên cạnh việc tổ chức một mạng
lới bán hàng, doanh nghiệp đồng thời cũng cần mở rộng và đẩy mạnh các hoạt động hỗ
trợ bán hàng nh quảng cáo, khuyến mại và các dịch vụ sau bán. Đây là một trong
những chiến lợc cạnh tranh phi giá cả gây ra sự chú ý và thu hút khách hàng một cách
có hiệu quả. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm đợc tổ chức tốt sẽ làm tăng sản lợng bán
hàng và từ đó tăng doanh thu, lợi nhuận dẫn tới tốc độ thu hồi vốn nhanh và kích thích
sản xuất phát triển.
Công tác tiêu thụ tốt là yếu tố quyết định tới uy tín với khách hàng, là chỉ tiêu
đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trờng. Các hoạt động xúc tiến
bán nh tham gia hội chợ, tổ chức hội nghị khách hàng là những hình thức tốt nhất để
giới thiệu sản phẩm và qua đó tìm đợc nhiều bạn hàng cũng nh các doanh nghiệp khác
nhằm kết hợp tạo ra sức cạnh tranh lớn mạnh hơn.
2.5. Nhân tố thời gian
Sự phát triển nh vũ bão của khoa học công nghệ trong giai đoạn hiện nay làm
thay đổi nhanh chóng nếp nghĩ, sở thích hay nhu cầu của con ngời. Điều này làm cho
chu kỳ sống của sản phẩm nói chung có chiều hớng rút ngắn lại. Đối với các doanh
nghiệp, yếu tố quan trọng quyết định thành công trong kinh doanh ngày nay chính là
thời gian và tốc độ chứ không phải là các yếu tố truyền thống nh nguyên vật liệu, lao
động Những thay đổi nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã giúp cho những doanh
nghiệp biết nắm bắt thời cơ kịp thời sẽ vợt lên trên và là những doanh nghiệp có năng
lực cạnh tranh tốt. Chính vì vậy, để chiến thắng trong cuộc chạy đua này, các doanh
nghiệp phải tổ chức tốt hoạt động thu thập thông tin và xử lý thông tin, nắm bắt thời cơ,
21
lựa chọn mặt hàng theo yêu cầu của thị trờng, nhanh chóng tổ chức kinh doanh, tiêu
thụ sản phẩm và thu hồi vốn trớc khi chu kỳ sống của sản phẩm kết thúc.
Hiện nay, ở nhiều nớc phát triển, cạnh tranh mang tính chất quan trọng, là mục
tiêu của nhiều doanh nghiệp đang hớng tới. Đi trớc một bớc trong cạnh tranh là đã
giành một phần chiến thắng khá quan trọng trong việc thu hút khách hàng, mở rộng thị
trờng, tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp. Do vậy, khi xây dựng một chiến lợc kinh

doanh, các doanh nghiệp thờng đề cập tới vấn đề "tốc độ thị trờng", "cạnh tranh dựa
trên thời gian" và chú trọng tới vấn đề về chu kỳ sản phẩm, thời gian nắm bắt, thoả mãn
nhu cầu thị trờng, thời gian đầu t, thời gian thu hồi vốn, tốc độ công việc giao dịch,
giao hàng cũng nh tốc độ của công tác nghiên cứu và triển khai sản phẩm mới .
2.6. Chiến lợc kinh doanh của doanh nghiệp
Chiến lợc kinh doanh của doanh nghiệp hay còn gọi là những giải pháp mang
tính dài hạn đối với mỗi doanh nghiệp. Chiến lợc kinh doanh là điều không thể thiếu
trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó chỉ ra phơng hớng cho mỗi hoạt
động. Chiến lợc kinh doanh thờng đợc xây dựng trên cơ sở các mục tiêu kinh doanh,
khả năng chủ quan của doanh nghiệp, sự tác động của môi trờng kinh doanh. Đối với
mỗi doanh nghiệp, việc xây dựng một chiến lợc kinh doanh đều có tính quyết định tới
sự thành công của doanh nghiệp. Đối với công tác nâng cao năng lực cạnh tranh thì
chiến lợc cạnh tranh là một phần trong chiến lợc kinh doanh nói chung, nó sẽ giúp cho
doanh nghiệp chiến thắng các đối thủ cạnh tranh hiện tại để vơn lên giành thị phần,
chiếm lĩnh khách hàng, mang lại lợi nhuận cao hơn, Với mỗi chiến lợc kinh doanh đ-
ợc xây dựng lên không phù hợp với đòi hỏi của doanh nghiệp và thị trờng sẽ làm cho
doanh nghiệp không tận dụng đợc cơ hội kinh doanh, năng lực cạnh tranh bị suy giảm
dẫn đến sự thất bại trong kinh doanh. Chính vì vậy, để năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp đợc đánh giá là tốt, không cách nào khác, doanh nghiệp phải xây dựng cho
mình một chiến lợc kinh doanh phù hợp, mang lại hiệu quả cao nhất.
2.7. Uy tín doanh nghiệp.
Uy tín doanh nghiệp là tài sản vô hình mà không phải bất cứ doanh nghiệp nào
cũng có đợc, là chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Uy tín doanh
nghiệp phải xây dựng và củng cố trên cơ sở mang lại nhiều lợi ích cho xã hội và cho
ngời tiêu dùng. Uy tín doanh nghiệp là yếu tố quan trọng, là cơ sở để doanh nghiệp có
thể dễ dàng vơn lên trong cạnh tranh với các doanh nghiệp khác, tạo dựng cho doanh
22
nghiệp một nền móng vững chắc với một tập khách hàng thờng xuyên. Uy tín của
doanh nghiệp đợc hình thành sau một thời gian dài hoạt động trên thị trờng và là tài sản
vô hình mà doanh nghiệp cần phát huy và sử dụng nh một thứ vũ khí chủ lực trong điều

kiện cạnh tranh hiện nay.
3. ý nghĩa của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Thực chất của việc nâng cao năng lực cạnh tranh là tạo ra những u thế hơn hẳn
về giá cả, giá trị sử dụng, chất lợng cũng nh uy tín sản phẩm, uy tín doanh nghiệp, uy
tín quốc gia nhằm giành đợc những lợi thế tơng đối trong cạnh tranh, đẩy nhanh tốc độ
tiêu thụ hàng hóa, thực hiện mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận.
Trong cơ chế thị trờng, cạnh tranh là một quy luật tất yếu khách quan, chi phối
sự vận động của cơ chế này. Các chủ thể kinh tế nói chung, các doanh nghiệp nói riêng,
đều phải chấp nhận cạnh tranh. Chính vì điều đó mà việc nâng cao năng lực cạnh tranh
đối với mỗi doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn. Trớc hết, doanh nghiệp muốn có cơ hội
tồn tại đợc trong nền kinh tế thị trờng thì cần phải nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh.
Hiệu quả của việc nâng cao năng lực cạnh tranh đối với mỗi doanh nghiệp khẳng định
sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, mặt khác, nó còn xác định vị thế cho mỗi
doanh nghiệp. Ngoài ra, việc nâng cao năng lực cạnh tranh sẽ đồng nghĩa với quá trình
xây dựng doanh nghiệp cả về vật chất lẫn tinh thần, vô hình sẽ tạo cho doanh nghiệp
những u thế riêng mà doanh nghiệp khác không có đợc. Các điều kiện này có thể bao
gồm cơ sở vật chất kỹ thuật, khả năng tài chính, nguồn nhân lực, uy tín cơ cấu tổ
chức Một trong những u thế này sẽ tạo cho doanh nghiệp những lợi thế trong cuộc
cạnh tranh đầy cam go. Cùng với việc nâng cao năng lực cạnh tranh là việc doanh
nghiệp mở rộng thị trờng, mở rộng tập khách hàng, hội nhập chung với thị trờng quốc
tế, từ đó, sẽ tạo ra cho doanh nghiệp nhiều cơ hội, đem lại những thơng vụ kinh doanh
đầy hứa hẹn. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh không những khẳng định sự tồn tại và
phát triển mà điều quan trọng hơn cả là nó đem lại cho doanh nghiệp một mức thu nhập
ngày càng cao, đảm bảo đời sống và việc làm cho cán bộ công nhân viên trong toàn
doanh nghiệp, góp phần không nhỏ trong sự nghiệp xã hội hoá nói chung.
Tóm lại, dới giác độ kinh doanh doanh nghiệp, việc nâng cao năng lực cạnh
tranh không chỉ phấn đấu tìm ra các giải pháp để giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành,
giá bán sản phẩm, tổ chức tốt hệ thống tiêu thụ hàng hoá mà còn phải đảm bảo chất l-
ợng cũng nh thời gian và sự thuận tiện cho khách hàng. Đi đôi với việc phát triển nh vũ
bão của khoa học kỹ thuật, những đòi hỏi của ngời tiêu dùng ngày càng cao hơn. Để

23
đáp ứng nhu cầu thị trờng, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, các doanh nghiệp phải
tiến hành các hoạt động marketing tìm hiểu thị trờng. Nh vậy, cùng với cạnh tranh,
nâng cao năng lực cạnh tranh là một tất yếu khách quan. Để thắng thế trong các cuộc
cạnh tranh, doanh nghiệp buộc phải không ngừng nâng cao sức cạnh tranh thông qua
các yếu tố trực tiếp nh giá thành, giá bán, chất lợng sản phẩm
ở nớc ta, từ nền kinh tế tập trung bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trờng, các
doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn. Từ cơ chế xin - cho đến chỗ phải tự giải quyết
lấy các vấn đề có tính sống còn của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Nhà nớc buộc
phải làm quen và chấp nhận cơ chế mới tồn tại cùng với việc nỗ lực nâng cao sức cạnh
tranh. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi đất nớc đang mở cửa nền kinh tế, Chính
phủ kêu gọi vốn đầu t nớc ngoài vào Việt Nam, thị trờng trong nớc có sự góp mặt của
nhiều doanh nghiệp nớc ngoài danh tiếng. Chính vì thế, buộc các doanh nghiệp trong n-
ớc phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh vì sự tồn tại của doanh nghiệp nói
riêng và sự phụ thuộc từ nớc ngoài nói chung.
III.Sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần sữa Việt Nam
trong điều kiện hội nhập KTQT
1.Những cơ hội và thách thức đối với ngành sữa Vinamilk trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực
1.1.Những cơ hội đối với ngành sữa Vinamilk trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế và khu vực
1.1.1. Thị trờng thế giới
a.Giá các sản phẩm sữa trên thị trờng thế giới có xu hớng ngày càng tăng , cho nên
Việt Nam có lợi thế cạnh tranh khi xuất khẩu sản phẩm , giúp tăng thu ngoại tệ cho
đất nớc
Giá các sản phẩm sữa trên thị trờng thế giới đã tăng trong suốt cả năm 2004. Chỉ
số giá của FAO ( 1990-92=100) đối với sản phẩm sữa đạt 156 điểm trong tháng
11/2004, tăng 26% so với tháng 11/1003, và đạt mức cao nhất kể từ năm 1990 là năm
chỉ số giá của FAO bắt đầu đợc tính. Giá tăng chủ yếu do nhu cầu tăng ở Châu á trong
bối cảnh nguồn cung xuất khẩu bị hạn chế và giảm trợ cấp xuất khẩu.

Đối với từng loại sản phẩm, giá xuất khẩu đã tăng nh sau: phomát tăng 33%, bơ
tăng 28%, sữa bột tách bơ tăng 20% và sữa bột nguyên chất tăng 17%.
Bảng 1 : Giá sản phẩm sữa xuất khẩu ( USD / tấn FOB )
2003 2004
T.11 T.9 T.10 T.11
24
Sữa bột tách bơ 1.829 2.100 2.138 2.188
Sữa bột nguyên chất 1.853 2.100 2.113 2.175
PhomátCheddar 2.075 2.763 2.763 2.763
Bơ 1.554 1.850 1.900 1.988
( Nguồn : www.fao.org)
Giá trên thị trờng sữa quốc tế rất nhạy cảm với sự biến động của nguồn cung. Thị
trờng tơng đối mỏng, với khối lợng mậu dịch chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong sản lợng
sữa. Trợ cấp xuất khẩu cũng làm trầm trọng thêm biến động giá bởi trợ cấp tăng hoặc
giảm ngợc chiều với biến động giá. Khi giá trên thị trờng thế giới tăng, trợ cấp xuất
khẩu cũng giảm tơng ứng, khiến giá thị trờng tiếp tục tăng. Kể từ đầu năm 2004, trợ
cấp xuất khẩu của EU đã giảm tơng ứng, khiến giá thị trờng tiếp tục tăng. Kể từ đầu
năm 2004, trợ cấp xuất khẩu của EU đã giảm từ 82 USD/tấn xuống còn 38 USD trong
tháng 11/2004 đối với sữa bột tách bơ, từ 225 USD xuống còn 170 USD đối với bơ, và
từ 120 USD xuống còn 75 USD đối với phomat Gouda. Dự trữ can thiệp ở EU đã
giảm xuống mức thấp nhất kể từ mùa thu 2002.
Tổng sản lợng sữa thế giới năm 2004 ớc tính đạt 611,5 triệu tấn, tăng 1,9%, so
với chỉ tăng 1,1% trong năm 2003, chủ yếu nhờ tăng sản lợng ở Châu á, Mỹ Latinh,
Niu Dilân.
b.Sản lợng sữa toàn thế giới nhìn chung là tăng, nhng tăng không đáng kể
Bảng 2 : Sản lợng sữa ( Triệu tấn )
2002 2003 2004
Toàn thế giới 593,6 600,1 611,5
EU 126,7 126,8 125,5
ấn Độ 84,6 87,0 91,3

Mỹ 77,1 77,2 77,5
Nga 33,5 33,3 31,9
Pakixtan 27,7 28,4 29,1
Braxin 22,8 23,5 24,4
Trung Quốc 14,0 17,5 21,0
Niu Dilân 13,9 14,4 15,0
Ukraina 14,1 13,6 13,6
Ba Lan 11,8 11,9 11,9
Mêhicô 9,6 9,9 10,0
Ôxtrâylia 11,3 10,3 10,0
áchentina 8,5 7,9 9,5
( Nguồn : www.fao.org)
ở các nớc phát triển, sản lợng sữa của Niu Dilân năm 2003/04 ( tháng 6/tháng 5)
tăng 4,2% sau khi đã tăng 3,6% trong năm 2002/03. Ngợc lại, sản lợng sữa của
Ôxtrâylia năm 2003/04 ( tháng 7/tháng 6 ) giảm 2,5% sau khi đã giảm 8,8 % trong
25

×