Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

LV thanh chính sách thương, bệnh binh và gia đình liệt sĩ ở huyện cẩm giàng tỉnh hải dương hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (486.28 KB, 96 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua những năm tháng đấu tranh trường kỳ, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
quân và dân ta đã làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình, giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước, giữ gìn độc lập tự do cho Tổ quốc. Trong cuộc đấu tranh anh dũng
của dân tộc hàng triệu người con đã hy sinh, hàng chục vạn người đã góp một
phần xương máu của mình cho Tổ quốc.
Trong gần nửa thế kỷ qua, trung thành và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ
Chí Minh, kế tục và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc; Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta không ngừng phấn đấu thực hiện tốt vấn đề chăm sóc thương, bệnh
binh và gia đình liệt sĩ. Đặc biệt, ngay trong thời kỳ tiến hành đồng thời hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam, nhiệm vụ này cũng đã được đặt lên hàng đầu. Chủ tịch
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc lúc bấy giờ rất quan tâm tới công tác
chăm sóc thương, bệnh binh và gia đình liệt sĩ. Trong thư gửi thương binh, bệnh
binh và gia đình liệt sĩ nhân ngày 27/7/1956, Bác viết “Thương bệnh binh, gia
đình quân nhân và gia đình liệt sĩ là những người có công với Tổ quốc, với nhân
dân cho nên bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu và giúp đỡ
họ”[48, tr.71]. Cho đến lúc trước khi qua đời, trong Di chúc Bác không quên nhắc
nhở Đảng, Nhà nước và nhân dân ta: “Đối với những người đã hy sinh một phần
xương máu của mình vì độc lập tự do cho đất nước, Đảng, Chính phủ và đồng bào
phải bằng mọi cách làm cho họ có đủ nơi ăn, chốn ở yên ổn”.
Thực hiện đạo lý truyền thống của dân tộc ”Uống nước nhớ nguồn” “Đền
ơn đáp nghĩa” những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính
sách, chế độ và tổ chức vận động toàn dân, toàn quân chăm lo đời sống vật chất,
tinh thần đối với thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có công, giải quyết
có hiệu quả những tồn đọng về chính sách sau chiến tranh, góp phần giữ vững ổn
định chính trị, xã hội của đất nước, tăng thêm lòng tin đối với Đảng, Nhà nước.
1
Đời sống của thương, bệnh binh và gia đình liệt sĩ ngày càng được quan tâm và có
cải thiện đáng kể, hệ thống chính sách,các chế độ trợ cấp, đãi ngộ từng bước được


điều chỉnh, việc tổ chức sản xuất, việc làm được quan tâm thích đáng, việc cải
thiện nhà ở được đầu tư triển khai ở nhiều cấp, các chương trình chăm sóc người
có công được xã hội đặc biệt quan tâm và đã có những kết quả to lớn góp phần cải
thiện cuộc sống đối với người có công. Đến nay, đa số gia đình chính sách có
cuộc sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư nơi cư
trú.
Thực hiện chính sách xã hội nói chung và chính sách thương, bệnh binh và
gia đình liệt sĩ nói riêng, huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương đã có nhiều cố gắng
nhằm thực hiện tốt nhất, với hiệu quả cao nhất những quy định của Đảng và Nhà
nước. Hệ thống chính trị từ cấp huyện đến xã đã triển khai sâu rộng và thực hiện
nghiêm chỉnh những chính sách của Đảng và Nhà nước đối với thương, bệnh binh
và gia đình liệt sĩ. Bên cạnh đó, huyện Cẩm Giàng cũng đã có nhiều chính sách cụ
thể đối với thương, bệnh binh và gia đình liệt sĩ góp phần giữ vững ổn định chính
trị, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương vững chắc, nâng cao đời sống của
thương, bệnh binh và gia đình liệt sĩ, tạo sự đồng thuận xã hội trong nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác chăm sóc thương,
bệnh binh và gia đình liệt sĩ vẫn còn có những bất cập cần phải giải quyết. Đời
sống vật chất và tinh thần của một bộ phận thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt
sĩ còn khó khăn. Tình hình đó đòi hỏi Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị các cấp
và nhân dân ta phải tiếp tục làm tốt hơn công tác chăm sóc, tiếp tục nâng cao mức
sống, đảm bảo đời sống của họ ngày một tốt hơn. Điều đó đòi hỏi phải có những
nghiên cứu cụ thể, xem xét về chính sách thương, bệnh binh và gia đình liệt sĩ để
giúp cho công tác “Đền ơn đáp nghĩa” ngày càng tốt hơn, phù hợp hơn với điều
kiện phát triển xã hội hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Chính sách thương,
bệnh binh và gia đình liệt sĩ ở huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương hiện nay”
2
làm luận văn thạc sĩ;. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực
tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Thời gian gần đây có nhiều công trình, đề tài trong và ngoài quân đội
nghiên cứu về CSXH, về các vấn đề liên quan đến đời sống của các tầng lớp, giai
cấp trong xã hội nói chung, đời sống của các thương, bệnh binh và gia đình liệt sĩ
nói riêng. Một số công trình, đề tài tiêu biểu là:
* Nhóm các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học ngoài quân đội:
Viện Chủ nghĩa xã hội Khoa học, Viện nghiên cứu Chủ nghĩa Mác - Lênin
và Tư tưởng Hồ Chí Minh: “Một số vấn đề về chính sách xã hội ở nước ta hiện
nay”, Nxb, CTQG, Hà Nội, 1993. Nhóm tác giả đã luận giải về khái niệm và cấu
trúc của CSXH, đưa ra các giải pháp để xây dựng CSXH đối với các nhóm xã hội
ở nước ta, trong đó có chính sách đối với thương, bệnh binh và gia đình liệt sĩ.
Viện Triết học - Trung tâm KHXH&NV quốc gia: “Hồ Chí Minh về chính
sách xã hội”, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995. Công trình khoa học đã trích dẫn các bài
nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về CSXH dưới chế độ của chủ nghĩa thực
dân, chủ nghĩa đế quốc và CSXH dưới chế độ mới; các chính sách đối với các
tầng lớp nhân dân, chính sách đối với bộ đội, thương, bệnh binh và gia đình liệt sĩ.
“Đổi mới chính sách xã hội luận cứ và giải pháp” GS. Phạm Xuân Nam
(chủ biên), Nxb CTQG, Hà Nội, 1997. Đề tài chỉ ra rằng, thực hiện CSXH trên
nguyên tắc công bằng, là nhân tố quan trọng đảm bảo giữ vững định hướng
XHCN của công cuộc đổi mới, là biện pháp hữu hiệu để hạn chế và khắc phục
mặt trái của cơ chế thị trường, là cơ sở vững chắc tạo nên sự ổn định và đồng
thuận xã hội rộng lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội nhìn từ góc độ xã hội học”,
TS. Nguyễn Thế Thắng (chủ biên), Nxb Lao động, Hà Nội, 2005. Nhóm tác giả
quan niệm: “CSXH là tổng thể các quan điểm, các chủ trương của các giai cấp,
nhóm xã hội được thể chế hóa để tác động vào các quan hệ xã hội nhằm giải
3
quyết các vấn đề xã hội, góp phần thực hiện công bằng, tiến bộ và phát triển con
người”. Nguyên tắc của CSXH là nhằm thực hiện công bằng xã hội; cơ sở khoa
học của việc hoạch định, thực thi CSXH là đặt con người vào vị trí trung tâm, là
định hướng hướng tới của mọi CSXH.

* Nhóm các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong quân đội:
Cục Chính sách - Tổng cục Chính trị (1999), "Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện
chính sách đãi ngộ đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng
trong tình hình mới", đề tài khoa học công nghệ cấp Bộ Quốc phòng.
Trần Văn Minh (2004), “Tiếp tục đổi mới công tác chính sách trong quân
đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ khoa học Chính trị, Học viện
Chính trị Quân sự, Hà Nội. Đề cập đến vai trò của chính sách trong quân đội, tác
giả cho rằng, mục đích của công tác chính sách là thực hiện chiến lược con người,
xây dựng và phát huy nhân tố con người trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc hiện nay; công tác chính sách đúng đắn gióp phần thúc đẩy cán bộ, chiến sĩ
trong đơn vị thực hiện tốt nhiệm vụ, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Tren
cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn, luận án đã đề xuất bốn giải pháp đổi mới công
tác chính sách trong quân đội hiện nay, trong đó chú trọng giải pháp đổi mới nâng
cao chất lượng nghiên cứu, lập kế hoạch và tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác
chính sách.
Trần Quốc Dũng (2005), “Đổi mới chính sách đãi ngộ của Đảng và Nhà
nước đối với cán bộ khoa học trong Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện
nay”, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Chính trị, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội.
Tác giả đã đưa ra quan niệm về chính sách đãi ngộ đối với cán bộ khoa học trong
quân đội; đánh giá thực trang và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm
tốt hơn nữa chính sách đãi ngộ đối với cán bộ khoa học trong quân đội, nhằm phát
huy năng lực khoa học của đội ngũ này trong sự nghiệp xây dựng quân đội cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
4
Nguyễn Hữu Quyền (2008), “Đổi mới chính sách đội ngũ giảng viên khoa
học kỹ thuật ở Học viện Kỹ thuật quân sự hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Triết học,
chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội.
Tác giả cho rằng CSXH đúng đắn có vai trò quan trọng trong việc tạo ra động lực
nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học; xây dựng và phát triển đội

ngũ giáo viên khoa học kỹ thuật ở Học viện Kỹ thuật quân sự hiện nay. Trên cơ sở
phân tích lý luận và thực tiễn, tác giả đưa ra bốn giải pháp cơ bản: Nâng cao nhận
thức của các tổ chức, các lực lượng về vai trò của CSXH đối với giáo viên khoa
học kỹ thuật ở Học viện Kỹ thuật quân sự; đổi mới công tác nghiên cứu, đề xuất
chính sách trong quá trình đổi mới CSXH đối với giáo viên khoa học kỹ thuật ở
Học viện Kỹ thuật quân sự; đổi mới công tác thực hiện chính sách giáo viên Khoa
học Kỹ thuật ở Học viện Kỹ thuật quân sự; phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ
chức, lực lượng nguồn lực trong quá trình đổi mới CSXH đối với giáo viên Khoa
học kỹ thuật ở Học viện Kỹ thuật quân sự hiện nay.
* Nhóm các bài báo khoa học: “Bảo đảm mức sống, từng bước cải thiện
cuộc sống người có công trong điều kiện kinh tế thị trường và lạm phát”, tác giả
Nguyễn Thị Kim Ngân, Tạp chí Lao động và Xã hội, số 350/2009, tr.6-7. “Nhìn
lại ba năm thực hiện Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng”, tác giả Bùi
Hồng Lĩnh, Tạp chí Lao động và Xã hội, số 362/2009, tr.3. “Bộ đội Biên phòng
thực hiện chính sách thương, bệnh binh và gia đình liệt sĩ, người có công với cách
mạng dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh”, tác giả Đại tá. TS. Đinh Trọng
Ngọc; Tạp chí Khoa học Giáo dục Biên phòng số 09, tháng 7/2009. “Tác động
của một số chính sách vĩ mô đến quản lý và phát triển xã hội vùng Tây Nguyên”,
tác giả TS. Bạch Hồng Việt, Viện Phát triển bền vững vùng Tây Nguyên; Tạp chí
Xã hội học, số 2 (114), 2011. “Thực hiện chính sách an sinh xã hội ở quận Hải
Châu (thành phố Đà Nẵng)”, tác giả Lê Anh, Tạp chí Sinh hoạt Lý luận, số 5
(114), 2012.
5
Các công trình, đề tài nêu trên với các góc độ tiếp cận khác nhau, bước đầu
đã làm rõ các mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa CSXH với các tầng lớp, giai cấp
trong xã hội. Tuy nhiên, chưa có công trình, đề tài nào đề cập một cách đầy đủ, có
hệ thống và chuyên sâu dưới góc độ chính trị - xã hội về chính sách đối với người
có công, đối với thương, bệnh binh và gia đình liệt sĩ ở huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải
Dương. Vì vậy, đề tài “Chính sách thương, bệnh binh và gia đình liệt sĩ ở huyện
Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương hiện nay” mà tác giả lựa chọn không trùng lặp với

các công trình khoa học đã được nghiên cứu và công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn về chính sách thương, bệnh binh và
gia đình liệt sĩ; trên cở sở đó đưa ra yêu cầu và giải pháp cơ bản nhằm thực hiện
tốt hơn nữa chính sách thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ ở huyện Cẩm Giàng tỉnh
Hải Dương hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận về chính sách thương, bệnh binh và gia
đình liệt sĩ hiện nay.
+ Đánh giá thực trạng về chính sách thương, bệnh binh và gia đình liệt sĩ ở
huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương hiện nay.
+ Đề xuất yêu cầu và giải pháp cơ bản để thực hiện tốt chính sách thương,
bệnh binh và gia đình liệt sĩ ở huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Chính sách thương, bệnh binh và gia đình liệt sĩ
ở huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Dưới góc độ chính trị - xã hội, luận văn tập trung nghiên cứu quá trình thực
hiện chính sách thương, bệnh binh và gia đình liệt sĩ trên địa bàn huyện Cẩm
6
Giàng tỉnh Hải Dương, nghiên cứu thực tế ở hai xã: Cẩm Phúc, Tân Trường. Số
liệu thực tế được thu thập từ năm 2005 trở lại đây.
Thời điểm khảo sát thực tế: Tháng 2,3 năm 2013.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Quan điểm Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, quan điểm và chính sách của Đảng, Nhà nước đối với thương,
bệnh binh và gia đình liệt sĩ.
* Cơ sở thực tiễn: Thực trạng quá trình thực hiện chính sách thương, bệnh
binh và gia đình liệt sĩ qua các thống kê, các báo cáo tổng kết đánh giá sau 25 năm

tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước nói chung và quá trình thực hiện
CSXH của Đảng bộ huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương nói riêng; kết quả điều tra,
khảo sát thực tế của tác giả về quá trình thực hiện chính sách thương, bệnh binh và
gia đình liệt sĩ ở huyện Cẩm Giàng.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp nghiên cứu của các khoa
học xã hội và nhân văn; phương pháp nghiên cứu chuyên ngành của chủ nghĩa xã
hội khoa học.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phân tích - tổng hợp; lịch sử - lôgíc; điều
tra khảo sát thực tế; phân tích tài liệu, số liệu thống kê; phỏng vấn chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận, thực tiễn, cung cấp thêm luận
cứ khoa học cho cáp ủy đảng, chính quyền địa phương trong thực hiện chính sách
thương, bệnh binh và gia đình liệt sĩ hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được dùng làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu, giảng dạy ở các nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của luận văn: Gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHÍNH SÁCH
THƯƠNG, BỆNH BINH VÀ GIA ĐÌNH LIỆT SĨ Ở HUYỆN
CẨM GIÀNG TỈNH HẢI DƯƠNG HIỆN NAY
1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về chính sách thương, bệnh binh và
gia đình liệt sĩ hiện nay
1.1.1. Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và chính sách thương binh,
bệnh binh, gia đình liệt sĩ hiện nay
* Thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ
Pháp lệnh ưu đãi người có công số 26/2005/PLUBTVQH11 ngày 29/6/2005

của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; Nghị định số 54/2006/NĐ-CP ngày 26/5/2006
của Chính phủ về hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có
công với cách mạng và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp
lệnh ưu đãi người có công với cách mạng số 04/2012/UBTVQH13
ngày 16/7/2012 đã nêu rõ những quy định về TB, BB, GĐLS.
Thương binh là quân nhân, công an nhân dân bị thương làm suy giảm khả
năng lao động từ 21% trở lên, được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền cấp “Giấy
chứng nhận thương binh” và “Huy hiệu thương binh” thuộc một trong các trường
hợp sau đây: Chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu; Bị địch bắt, tra tấn vẫn
không chịu khuất phục, kiên quyết đấu tranh, để lại thương tích thực thể; Làm
nghĩa vụ quốc tế; Đấu tranh chống tội phạm; Dũng cảm thực hiện công việc cấp
bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng, an ninh; dũng cảm cứu người, cứu tài sản
của Nhà nước và nhân dân; Làm nhiệm vụ quốc phòng an ninh ở địa bàn có điều
8
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; Khi đang trực tiếp làm nhiệm vụ tìm
kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ do cơ quan có thẩm quyền giao; trực tiếp làm nhiệm
vụ huấn luyện chiến đấu hoặc diễn tập phục vụ quốc phòng, an ninh có tính chất
nguy hiểm [29, tr.8, 9].
Bệnh binh là quân nhân, công an nhân dân mắc bệnh làm suy giảm khả năng
lao động từ 61% trở lên khi xuất ngũ về gia đình được cơ quan, đơn vị có thẩm
quyền cấp "Giấy chứng nhận bệnh binh" thuộc một trong các trường hợp sau đây:
Chiến đấu hoặc trực tiếp phục vụ chiến đấu; Hoạt động liên tục ở địa bàn có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn từ mười lăm tháng trở lên; Hoạt động ở địa
bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn chưa đủ mười lăm tháng
nhưng đã có đủ mười năm trở lên công tác trong Quân đội nhân dân, Công an
nhân dân; Đã công tác trong Quân đội nhân dân, Công an nhân dân đủ mười lăm
năm nhưng không đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí; Làm nghĩa vụ quốc tế;
Thực hiện công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng, an ninh; Khi đang
làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ do cơ quan có thẩm quyền giao.
Bệnh binh là quân nhân, công an nhân dân mắc bệnh làm suy giảm khả năng lao

động từ 41% đến 60% đã được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền công nhận trước
ngày 31 tháng 12 năm 1994 [29, tr. 10,11].
Liệt sĩ và gia đình liệt sĩ. Liệt sĩ là người đã hy sinh vì sự nghiệp cách mạng
giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế hoặc vì lợi ích của
Nhà nước, của nhân dân được Nhà nước truy tặng Bằng "Tổ quốc
ghi công" thuộc một trong các trường hợp sau đây: Chiến đấu hoặc trực tiếp phục
vụ chiến đấu; Trực tiếp đấu tranh chính trị, đấu tranh binh vận có tổ chức với
địch; Hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt, tra tấn vẫn không
chịu khuất phục, kiên quyết đấu tranh hoặc thực hiện chủ trương vượt tù, vượt
ngục mà hy sinh; Làm nghĩa vụ quốc tế; Đấu tranh chống tội phạm; Dũng cảm
thực hiện công việc cấp bách, nguy hiểm phục vụ quốc phòng, an ninh; dũng
cảm cứu người, cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân; Do ốm đau, tai nạn khi
9
đang làm nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã
hội đặc biệt khó khăn; Khi đang trực tiếp làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt
liệt sĩ do cơ quan có thẩm quyền giao; Trực tiếp làm nhiệm vụ huấn luyện chiến
đấu hoặc diễn tập phục vụ quốc phòng, an ninh có tính chất nguy hiểm;
Thương binh hoặc người hưởng chính sách như thương binh chết vì
vết thương tái phát [29, tr.5, 6]. Thân nhân liệt sĩ được các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp “Giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ” gồm: cha đẻ, mẹ đẻ; người có
công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; vợ hoặc chồng; con của liệt sĩ.
* Chính sách xã hội và chính sách thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ
hiện nay
Quan niệm về chính sách xã hội
Trên thế giới, thuật ngữ “chính sách xã hội” xuất hiện từ thế kỷ XIX, trong
cách mạng công nghiệp, bắt nguồn từ việc giải quyết các vấn đề xã hội nổi cộm
trong xã hội, chủ yếu đối với công nhân như: thất nghiệp, đói kém, bệnh tật,
không được học hành. Ở nước ta, việc ban hành và thực thi chính sách xã hội đã
có từ khi thành lập nước, tháng 9 năm 1945 nhưng thuật ngữ “chính sách xã hội”
mới được biết đến và sử dụng phổ thông từ những năm 70 thế kỷ XX. Tại Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, năm 1986, thuật ngữ “chính sách xã hội”
được đưa vào văn kiện và là một nội dung chiếm một phần riêng cùng với chính
sách kinh tế.
Tuy có lịch sử khá lâu, song đã và đang còn có những ý kiến khác nhau
trong quan niệm về chính sách xã hội. Công trình khoa học: “Một số vấn đề về
chính sách xã hội ở nước ta hiện nay” của Viện Chủ nghĩa xã hội Khoa học, Viện
nghiên cứu Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh quan niệm: “CSXH
là toàn bộ các phương thức, và phương tiện nhất định bảo đảm cho các thành viên
xã hội thỏa mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần thiết yếu của mình”. Cuốn
sách “Đổi mới chính sách xã hội luận cứ và giải pháp” GS. Phạm Xuân Nam (chủ
biên) quan niệm: “CSXH là sự thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, chủ trương giải
10
quyết các vấn đề xã hội dựa trên những tư tưởng, quan điểm của chủ thể lãnh đạo
phù hợp với bản chất chế độ chính trị - xã hội, phản ánh lợi ích và trách nhiệm của
cộng đồng xã hội nói chung và của từng nhóm xã hội nói riêng nhằm tác động
trực tiếp đến con người và điều chỉnh các mối quan hệ lợi ích giữa con người với
con người, giữa con người với xã hội, hướng tới mục đích cao nhất là thỏa mãn
những nhu cầu ngày càng tăng về đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân
dân”[21, tr.]. Cuốn sách: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội nhìn từ
góc độ xã hội học”, TS. Nguyễn Thế Thắng (chủ biên) đưa ra định nghĩa: “CSXH
là tổng thể các quan điểm, các chủ trương của các giai cấp, nhóm xã hội được thể
chế hóa để tác động vào các quan hệ xã hội nhằm giải quyết các vấn đề xã hội,
góp phần thực hiện công bằng, tiến bộ và phát triển con người”.
Từ những quan niệm trên và đi từ sự triết tự cụm từ “chính sách”, “xã hội”
cùng với lịch sử hình thành, có thể hiểu chính sách xã hội là “công cụ” tác động
của nhà nước vào những quan hệ xã hội nhằm giải quyết các vấn đề xã hội đang
đặt ra, thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội. Ở nước ta, chính sách xã
hội do Nhà nước ban hành, là sự cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng bằng
hệ thống pháp luật; sự tác động của Nhà nước vào các tầng lớp xã hội nhằm điều
hoà lợi ích xã hội, quan hệ xã hội, vì sự ổn định và phát triển xã hội theo mục tiêu

độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
Chính sách xã hội mang các tính chất: giai cấp, dân tộc, lịch sử, kế thừa,
nhân văn và tính quốc tế, do con người và vì con người. Đại hội Đảng lần thứ VI
đã chỉ rõ: “Chính sách xã hội bao trùm lên mọi mặt đời sống của con người, điều
kiện lao động sinh hoạt giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình quan hệ giai cấp
quan hệ dân tộc. Coi nhẹ chính sách xã hội tức là coi nhẹ yếu tố con người trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội” [10, tr.86.]
Chính sách xã hội là một chuỗi các hoạt động được giải quyết bởi các nhà
quản lý về những vấn đề của xã hội để điều hành và quản lý xã hội vì mục tiêu ổn
11
định và phát triển. Quá trình của một chính sách xã hội trải qua 4 giai đoạn: Xây
dựng chính sách; Thực hiện chính sách; Đánh giá chính sách và Điều chỉnh chính
sách. Quá trình đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố mang tính khách quan và chủ quan,
yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài, trong đó yếu tố chủ quan, bên trong giữ vai
trò quan trọng quyết định. Chính sách xã hội được thực thi qua nhiều khâu, nhiều
bước, nhiều cấp ngành trong hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương cơ
sở. Trách nhiệm và năng lực của những người, những tổ chức đảm nhận công việc
của các khâu, các bước trong thực thi chính sách xã hội quyết định hiệu lực, hiệu
quả của các chính sách xã hội.
Chính sách xã hội thể hiện ở những văn bản pháp luật được ban hành đối với
những người có công, ốm đau, bệnh tật, thiệt hại do thiên tai; các chính sách về
giai cấp, chính sách với các tầng lớp xã hội.
Quan niệm về chính sách thương, bệnh binh và gia đình liệt sĩ
Chính sách TB, BB, GĐLS là một trong những chính sách lớn, một bộ phận,
nội dung trọng yếu trong chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta; tổng thể
các quan điểm, nguyên tắc và các quy định thể hiện trong các văn bản, chỉ thị,
Nghị quyết của Đảng, Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị nhằm
điều chỉnh những quyền lợi và nghĩa vụ của TB, BB và GĐLS, phù hợp với tình
hình phát triển kinh tế - xã hội đất nước và sự cống hiến của họ trong sự nghiệp

đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Chính sách TB, BB, GĐLS là một bộ phận trọng yếu trong chính sách xã
hội với những đặc điểm: Thứ nhất, là một trong những chính sách xã hội trọng yếu
luôn được bổ sung hoàn thiện và được luật hóa; thứ hai, chính sách TB, BB,
GĐLS được cụ thể hóa thành các tiêu chí mang tính định lượng; thứ ba, chính
sách TB, BB, GĐLS hướng tới một đối tượng cụ thể, có nhiều công lao đối với sự
nghiệp giải phóng đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã và đang gặp những
khó khăn trong cuộc sống; thứ tư, nhiều cơ quan, nhiều ngành, nhiều cấp và toàn
12
dân tham gia việc hoạch định, thực thi chính sách TB, BB, GĐLS; thứ năm, việc
thực thi chính sách TB, BB, GĐLS phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của đất
nước, của mỗi địa phương.
Chính sách TB, BB, GĐLS luôn được bổ sung hoàn thiện và được luật hóa.
Văn bản pháp luật đầu tiên về ưu đãi người có công với cách mạng là Sắc lệnh số
20/SL do Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ký ngày 16-2-1947, sau đó
được bổ sung bằng Sắc lệnh số 242/SL ngày 12-10-1948, quy định tiêu chuẩn xác
nhận thương binh, truy tặng “tử sĩ”, thực hiện chế độ “lương hưu thương tật” đối
với thương binh, chế độ “tiền tuất” đối với gia đình liệt sĩ.
Ngày 29-6-2005, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh ưu đãi
người có công với cách mạng, sửa đổi, bổ sung (số 26/2005/PL-UBTVQH11).
Theo đó, đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi đã mở rộng từ 7 đối tượng ở
Pháp lệnh cũ lên 13 đối tượng. Pháp lệnh sửa đổi năm 2005 còn bổ sung chế độ
mai táng phí đối với một số đối tượng có công hưởng trợ cấp, phụ cấp hằng tháng;
bổ sung chế độ đối với người có công sau khi chết thân nhân của họ tiếp tục được
hưởng một khoản trợ cấp; bổ sung chế độ đối với bố mẹ, vợ hoặc chồng, người có
công nuôi dưỡng liệt sĩ được hưởng trợ cấp tiền tuất hằng tháng không phụ thuộc
tuổi đời; thân nhân hai liệt sĩ được hưởng trợ cấp nuôi dưỡng; bổ sung chế độ bảo
hiểm y tế và mai táng phí đối với người hoạt động kháng chiến và người có công
giúp đỡ cách mạng hưởng trợ cấp một lần; quy định người hoạt động kháng chiến

bị nhiễm chất độc hoá học là người có công với cách mạng. Ngày 26-6-2006,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 54/2006/NĐ-CP, theo đó, ngoài chế độ trợ
cấp, người hoạt động kháng chiến còn được hưởng các ưu đãi khác như bảo hiểm
y tế; điều dưỡng phục hồi sức khoẻ, phục hồi chức năng lao động, cấp phương tiện
trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình…, con đẻ của họ được hưởng chế độ ưu đãi trong
giáo dục và đào tạo.
Để tiếp tục hoàn thiện chính sách ưu đãi người có công, ngày 18-6-2007, Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách
13
mạng, sửa đổi, bổ sung lần thứ ba. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng có
Thông tư số 25/2007/TT-BLĐTBXH, ngày 15-11-2007, hướng dẫn bổ sung việc
thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, trong đó quy định:
người có công giúp đỡ cách mạng trong kháng chiến được Nhà nước tặng huân
chương, huy chương kháng chiến đã chết mà chưa được hưởng chế độ ưu đãi thì
thân nhân của họ được hưởng trợ cấp một lần như quy định đối với thân nhân
người có công với cách mạng chết trước ngày 1-1-1995.
Tiếp đó, ngày 7-4-2009, Bộ LĐTB&XH đã ban hành Thông tư số
08/2009/TT-BLĐTBXH hướng dẫn điều kiện, tiêu chuẩn giải quyết chế độ đối
với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học và con đẻ của họ.
Theo đó điều kiện để hưởng chế độ ưu đãi người hoạt động kháng chiến bị nhiễm
chất độc hoá học là: đã công tác, chiến đấu, phục vụ chiến đấu từ tháng 8-1961
đến 30-4-1975 tại các vùng mà quân đội Mỹ đã sử dụng chất độc hoá học; mắc
một trong những bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm chất độc
hoá học/điôxin theo Quyết định số 09/2008/QĐ-BYT ngày 20-2-2008 của Bộ
trưởng Bộ Y tế ban hành Danh mục bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi
nhiễm chất độc hoá học điôxin.
Như vậy, chính sách TB, BB, GĐLS đã không ngừng được sửa đổi, bổ sung
qua các thời kỳ cách mạng, qua nghiên cứu và tổng kết thực tiễn, đã phát triển
thành hai pháp lệnh. Đó là Pháp lệnh Phong tặng và truy tặng danh hiệu vinh dự
Nhà nước Mẹ Việt Nam anh hùng và Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách

mạng, TB, BB, LS và GĐLS, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp
đỡ cách mạng.
Chính sách TB, BB, GĐLS được cụ thể hóa thành các tiêu chí mang tính
định lượng. Theo Pháp lệnh Số: 04/2012/UBTVQH13 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh ưu đãi người có công với
cách mạng thì chính sách thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ bao gồm:
Chính sách trợ cấp ưu đãi hàng tháng đối với TB, BB và GĐLS; Chính sách ưu
14
đãi về y tế chăm sóc, sức khỏe cho TB, BB và GĐLS; Chính sách ưu đãi về nhà ở
cho TB, BB và GĐLS; Chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp cho
TB, BB và GĐLS; Chính sách ưu đãi giáo dục và đào tạo đối với con em TB, BB
và GĐLS. Ngoài ra còn một số chính sách ưu đãi khác đối với TB, BB và GĐLS.
Có thể thấy rõ vấn đề này thông qua một số nội dung chính về chế độ ưu đãi
đối với thương binh: Trợ cấp hàng tháng, phụ cấp hàng tháng căn cứ vào mức độ
suy giảm khả năng lao động và loại thương binh; bảo hiểm y tế; cấp phương tiện
trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình căn cứ vào thương tật của từng người và khả năng
của Nhà nước; thương binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên nếu về
sống ở gia đình được trợ cấp người phục vụ. Người phục vụ thương binh được
Nhà nước mua bảo hiểm y tế. Thương binh suy giảm khả năng lao động từ 61%
trở lên được Nhà nước mua bảo hiểm y tế cho cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con
từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi hoặc từ đủ 18 tuổi trở lên nếu còn tiếp tục đi học
hoặc bị khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng. Khi thương binh chết thì người
tổ chức mai táng được nhận mai táng phí, thân nhân được hưởng một khoản trợ
cấp. Con của thương binh được hưởng chế độ ưu tiên trong tuyển sinh và tạo việc
làm, ưu đãi trong giáo dục và đào tạo.
Chính sách TB, BB, GĐLS hướng tới một đối tượng cụ thể, có nhiều công
lao đối với sự nghiệp giải phóng đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã và
đang gặp những khó khăn trong cuộc sống. Về thương binh, bệnh binh, liệt sĩ,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết, đó là những người “quyết hy sinh tính mệnh họ, để
giữ gìn tính mệnh của đồng bào. Họ hy sinh gia đình và tài sản họ, để bảo vệ gia

đình và tài sản đồng bào. Họ quyết liều chết chống địch, để cho Tổ quốc và đồng
bào sống. Họ là những chiến sĩ anh dũng của ta. Trong đó, có người đã bỏ lại một
phần thân thể ở trước mặt trận. Có người đã bỏ mình ở chiến trường. Đó là
thương binh, đó là tử sĩ"[42, tr.466].
Thương binh, bệnh binh là những người mang thương tật, nên khả năng lao
động suy giảm vì thế họ gặp nhiều khó khăn trong bảo đảm cuộc sống thường
15
ngày, đòi hỏi sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, của hệ thống chính trị các cấp và
toàn thể nhân dân. Đại hội Đảng lần thứ X (4-2006) chỉ rõ: “Thực hiện tốt các
chính sách ưu đãi người có công với nước; vận động toàn xã hội tham gia các hoạt
động đền ơn, đáp nghĩa; nâng cao mức sống về vật chất, tinh thần của người có
công ngang bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư”.
Việc hoạch định, thực thi chính sách TB, BB, GĐLS có sự tham gia của
nhiều cơ quan, nhiều ngành, nhiều cấp và toàn dân. Có thể thấy rất rõ rằng, việc
ban hành chính sách thuộc về chức năng, quyền hạn của Nhà nước trên cơ sở cụ
thể hóa quan điểm, chủ trương của Đảng và căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội
của đất nước, thực tiễn việc thực thi chính sách TB, BB, GĐLS; việc tổ chức thực
hiện thuộc chức năng, quyền hạn của cấp huyện, xã dưới sự chỉ đạo cùa cơ quan
chức năng, theo quy định của pháp luật. Với cách thức tổ chức về chính sách TB,
BB, GĐLS có thể xẩy ra tình trạng chính sách đúng, cụ thể nhưng thực hiện
không đúng, không cụ thể, hoặc một chính sách mà mỗi địa phương hiểu và thực
hiện theo cách riêng, không thống nhất.
Chăm lo đời sống cho TB, BB và GĐLS là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước
và nhân dân. Việc huy động nhân dân tham gia với tinh thần nhân văn, với truyền
thống “uống nước nhớ nguồn” là một bảo đảm cho việc thực thi chính sách TB,
BB và GĐLS đạt hiệu quả thiết thực, song đây là một việc không dễ,. Trên thực tế
có địa phương huy động được sức mạnh của nhân dân chăm lo đời sống cho TB,
BB và GĐLS nhưng cũng có địa phương chưa làm tốt.
Việc thực thi chính sách TB, BB, GĐLS phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã
hội của đất nước, của mỗi địa phương. Ở mỗi thời kỳ, tùy thuộc vào diều kiện kinh

tế - xã hội của đất nước mà nội dung của các chính sách đối với TB, BB, GĐLS có
những quy định cụ thể. Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy rằng, chính sách xã
hội nói chung, chính sách TB, BB, GĐLS phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện kinh tế
- xã hội. Chúng ta không thể có những quy định chính sách TB, BB, GĐLS vượt
xa khả năng bảo đảm của nền kinh tế. Nếu chính sách TB, BB, GĐLS không bám
16
sát vào điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước sẽ rơi vào sự “không tưởng”, giáo
điều, chủ quan duy ý chí.
Trên đất nước ta hiện nay đã và đang có sự phân hóa về kinh tế - xã hội giữa
các địa phương. Có địa phương đóng góp rất lớn vào ngân sách nhà nước, song
cũng không ít địa phương phải dựa vào ngân sách nhà nước để bảo đảm hoạt động
của hệ thống chính trị. Có quận, huyện khá giả nhưng vẫn còn 62 huyện nghèo.
Trong khi đó, có những nội dung cụ thể của chính sách TB, BB, GĐLS phải căn
cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương để thực hiện như quà thăm hỏi
nhân các ngày lễ, việc bảo đảm chỗ ở cho TB, BB, GĐLS, bảo đảm việc làm cho
con em TB, BB, GĐLS, Trên thực tế, việc thực thi chính sách TB, BB, GĐLS ở
các địa phương trên cả nước ta vừa có những nét chung, vừa mang sắc thái riêng,
tạo nên bức tranh đa dạng.
Việc thực thi chính sách TB, BB, GĐLS phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã
hội của đất nước, của mỗi địa phương mang tính khách quan ngoại trừ những yếu
tố chủ quan như nhận thức, thái độ, trách nhiệm và hành vi của những cán bộ
được giao nhiệm vụ thực thi chính sách TB, BB, GĐLS.
Thực tiễn đã cho thấy rằng, Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm đến chính sách
xã hội đối với những người đã hy sinh xương máu, trí lực cho nền độc lập tự do và
sự phát triển của đất nước. Các chính sách đối với TB, BB và GĐLS của Đảng,
Nhà nước ta là sự tiếp nối truyền thống nhân văn, “uống nước nhớ nguồn” của dân
tộc; khẳng định nhà nước của ta thực sự của dân, do dân, vì nhân dân, toàn bộ hoạt
động của Đảng, Nhà nước đều xuất phát từ lợi ích của nhân dân, không ngừng
chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, trong đó có đời sống của TB,
BB và GĐLS.

1.1.2. Vai trò của chính sách thương, bệnh binh và gia đình liệt sĩ
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam trong suốt quá trình
lãnh đạo cách mạng đã rất coi trọng công tác chăm sóc TB, BB và GĐLS. Người
đánh giá cao sự đóng góp của TB, BB và GĐLS với cách mạng; kính trọng và tôn
17
vinh những anh hùng liệt sĩ. Người phân tích, lý giải về đạo lý, về bổn phận, trách
nhiệm của đất nước, của nhân dân, của hệ thống chính trị và toàn xã hội đối với
công tác TB, BB và GĐLS. Người luôn coi trọng việc biểu dương kịp thời những
tấm gương sáng, những việc làm tốt của TB, BB.
Trong những năm tháng kháng chiến chống giặc ngoại xâm, Đảng, Nhà nước
ta khẳng định công tác chăm sóc TB, BB và GĐLS đã góp phần củng cố vững
chắc hậu phương, tạo điều kiện cho tiền tuyến đánh giặc lập công. Đặc biệt trong
các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc đều phản ánh rất rõ sự đánh giá đúng đắn
vai trò, ý nghĩa của công tác ưu đãi người có công với cách mạng. Báo cáo chính
trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV đã khẳng định: “Tổ chức việc săn sóc và
giúp đỡ chu đáo anh chị em thương binh, gia đình liệt sĩ và gia đình có công với
cách mạng là một nhiệm vụ to lớn của Nhà nước, mặt trận và các đoàn thể, của
các ngành, các cấp và của toàn dân” [43, tr.576].
Tiếp tục khẳng định nhiệm vụ to lớn của Nhà nước và của nhân dân đối với
công tác chăm sóc TB, BB và GĐLS, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI, lần thứ VIII trong thời kỳ đổi mới đất nước “coi phát triển kinh tế là cơ sở và
tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện chính sách xã hội là động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế”. Chính sách TB, BB và GĐLS có vai trò quan trọng,
nó phản ánh sự quan tâm, ý thức xã hội của Nhà nước, của cộng đồng, của thế hệ
đi sau đối với thế hệ cha anh. Vì vậy, nó có ý nghĩa xã hội và nhân văn rất sâu sắc.
Làm tốt chính sách TB, BB và GĐLS sẽ góp phần vào sự ổn định xã hội, giữ vững
thể chế. Ngược lại, nếu thực hiện không tốt sẽ dẫn đến mất ổn định chính trị xã
hội, ảnh hưởng đến sự tồn vong của đất nước. Thực hiện chính sách TB, BB và
GĐLS thể hiện ngay trong bản chất và chức năng của Nhà nước. Nhà nước ta vừa
là tổ chức quyền lực chính trị công cộng, đại diện cho giai cấp công nhân và tuyệt

đại đa số nhân dân lao động, vừa là đại diện cho dân tộc. Vì vậy, thực hiện chính
sách TB, BB và GĐLS là sự kết hợp lợi ích giai cấp và lợi ích của dân tộc, đảm
bảo cho đất nước, cho dân tộc có sự phát triển lâu dài và bền vững.
18
Chăm sóc, ưu đãi người có công với cách mạng không chỉ là trách nhiệm của
Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, mà còn thể hiện truyền thống và đạo lý của dân
tộc “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”. Vì vậy, từ trước tới
nay, bất luận trong hoàn cảnh nào, Đảng và Nhà nước cũng luôn luôn xác định
chính sách đối với TB, BB, liệt sĩ và người có công với Tổ quốc là một trong
những chính sách lớn có vị trí rất quan trọng trong chiến lược con người. Đặc biệt
trong sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước đã từng bước sửa đổi, bổ sung hệ
thống chính sách, chế độ ưu đãi đối với TB, BB, GĐLS và người có công với cách
mạng. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991) nhấn
mạnh: “Quan tâm chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và những
người có công với cách mạng, coi đó vừa là trách nhiệm của Nhà nước, vừa là
trách nhiệm của toàn dân; sớm ban hành chế độ toàn dân đóng góp vào quỹ đền
ơn, trả nghĩa để chăm lo đời sống thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có
công với cách mạng”[11, tr.74]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII của Đảng cũng chỉ rõ: “có
chính sách thích đáng đối với các gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh”. Thực
hiện chính sách TB, BB và GĐLS là góp phần vào thực hiện chính sách con người
của quốc gia, nhằm làm cho thế hệ trẻ, thế hệ tương lai ý thức về trách nhiệm của
mình đối với xã hội, đối với tổ quốc, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp của dân tộc,
của đất nước.
Vai trò của chính sách thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ được biểu
hiện trên một số nội dung cụ thể sau:
Một là, thực hiện chính sách TB, BB và GĐLS góp phần bảo đảm và ổn định
cuộc sống cho các đối tượng chính sách. Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Thương binh,
bệnh binh, gia đình quân nhân, gia đình liệt sĩ là những người có công với Tổ

quốc, với nhân dân, bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, yêu thương và giúp
đỡ họ"; những năm qua, trong chiến tranh cũng như trong hòa bình xây dựng chủ
19
nghĩa xã hội, Đảng, Nhà nước, nhân dân và quân đội ta luôn phát huy truyền thống
đạo lý "Uống nước nhớ nguồn", "Đền ơn đáp nghĩa"; làm tốt việc chăm sóc
thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng; bảo đảm cho các đối
tượng chính sách từng bước có cuộc sống ổn định cả về vật chất và tinh thần.
Những thành tựu đó đã góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng quân đội,
củng cố quốc phòng - an ninh. Trước khi mất, trong di chúc Người có viết: “Đối
với những người đã dùng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ,
binh sĩ, công an, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…) Đảng, Chính phủ
và đồng bào phải tìm cách làm cho họ có nơi ăn, chốn ở, đồng thời phải mở những
lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần tự lực cánh sinh”[45,
tr.503, 504].
Hai là, thực hiện chính sách TB, BB và GĐLS góp phần củng cố niềm tin
của các đối tượng chính sách, các tầng lớp xã hội đối với Đảng, Nhà nước và chế
độ xã hội chủ nghĩa. Xuyên qua những chế độ quy định cụ thể, chính sách TB, BB
và GĐLS là sự thể hiện quan điểm, thái độ của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
đối với những người đã hy sinh một phần xương máu của mình cho nền độc lập tự
do của Tổ quốc. Với phạm vi tác động và hiệu quả rộng lớn chính sách TB, BB và
GĐLS thẩm thấu đến từng người, từng gia đình, từng tổ chức. Chính sách không
những tác động trực tiếp đến các TB, BB và GĐLS mà còn tác động sâu sắc đến
tâm tư, tình cảm, tư tưởng và ý thức chính trị của mọi tầng lớp nhân dân. Thông
qua sự ghi nhận công lao, trân trọng cống hiến của các TB, BB và GĐLS; sự chăm
sóc, đùm bọc, giúp đỡ, bảo vệ của Đảng, Nhà nước và xã hội đối với họ và gia
đình họ đã làm tăng thêm tình cảm, niềm tin của họ vào Đảng, Nhà nước và chế
độ, tăng thêm lòng tự hào, ý chí tự lực tự cường khắc phục khó khăn. Đó là nguồn
động lực mạnh mẽ giúp họ tiếp tục phấn đấu vươn lên, hăng hái đi đầu xây dựng
quê hương giàu đẹp, văn minh thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước hiện nay.

20
Ba là, thực hiện chính sách TB, BB và GĐLS góp phần giữ vững ổn định
chính trị - xã hội, củng cố quốc phòng – an ninh và xây dựng hệ thống chính trị ở
cơ sở vững mạnh. Công tác TB, BB và GĐLS có vị trí hết sức quan trọng, làm tốt
công tác này là góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, củng cố an ninh -
quốc phòng, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước. Đất nước ta luôn tự
hào biết bao thế hệ những người Việt Nam “Lớp cha trước, lớp con sau/ Đã thành
đồng chí chung câu quân hành” với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”
sẵn sàng hi sinh, vượt qua gian khổ, quyết giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Bước
vào thời kỳ mới, lực lượng TB, BB và GĐLS tiếp tục phát huy truyền thống tốt
đẹp của người lính Cụ Hồ, ra sức phấn đấu thi đua, bảo vệ những thành quả cách
mạng, xây dựng và phát triển Đảng, chính quyền địa phương góp phần bảo vệ chế
độ XHCN; gương mẫu đi đầu trong lao động, sản xuất kinh doanh; góp sức mình
cùng với toàn Đảng, toàn quân và toàn dân thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới,
đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH quê hương, đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn trân trọng và tạo điều kiện thuận lợi
để TB, BB và GĐLS phát triển toàn diện; chủ động tham gia đóng góp ý kiến
cho cấp uỷ, chính quyền các cấp về các vấn đề chính trị - xã hội; kịp thời phát
hiện, đề xuất các giải pháp và tham gia tích cực trong việc giải quyết các vụ việc
phức tạp, nổi cộm, nhất là vấn đề an ninh ở nông thôn, an ninh tôn giáo. Kiên
quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, những luận điệu xuyên tạc; các biểu
hiện tham nhũng, quan liêu, lãng phí; đấu tranh chống các âm mưu, hoạt động phá
hoại của các thế lực thù địch, góp phần ổn định tình hình chính trị địa phương,
thực hiện hiệu quả nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền. Nhiều chủ
trương, chính sách ra đời đã thúc đẩy và phát huy các giá trị truyền thống cách
mạng, bản chất anh hùng của người lính. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI nêu
rõ: “Phát huy truyền thống Bộ đội Cụ Hồ, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ
Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân của cựu chiến binh.
21

Động viên cựu chiến binh giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống, tích cực tham
gia giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa anh hùng cách
mạng cho thế hệ trẻ; đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tệ
nạn xã hội; xây dựng và củng cố cơ sở chính trị, xây dựng Đảng, chính quyền
trong sạch, vững mạnh” [15, tr. 243, 244].
Bốn là, thực hiện chính sách TB, BB và GĐLS góp phần khơi dậy, phát huy
chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Truyền thống của dân tộc Việt Nam ta luôn luôn suy tôn và tri ân những người có
công với cách mạng. Truyền thống đó hun đúc thành đạo lý “Đền ơn đáp nghĩa”,
“Uống nước nhớ nhuồn”. Truyền thống, đạo lý đó được nhân lên trong thời đại
Hồ Chí Minh, phản ánh rõ nét trong chính sách xã hội, chính sách TB, BB và
GĐLS. Thông qua việc thể hiện đầy đủ trách nhiệm, nghĩa tình, chính sách góp
phần giáo dục, bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu chế độ, tình cảm cách mạng trong
sáng cho mọi người, nhất là thế hệ trẻ. Lòng yêu mến, trân trọng những người con
đã hy sinh, cống hiến cho đất nước; trân trọng, tự hào nền độc lập tự do của dân
tộc được đổi lấy bằng xương máu của hàng triệu người con, từ đó sẵn sàng xả
thân vì dân, vì nước là biểu hiện rõ ràng truyền thống yêu nước, yêu chế độ của
mỗi người.
Nói tới chủ nghĩa anh hùng là nói tới tinh thần dũng cảm hy sinh. Chủ nghĩa
anh hùng cách mạng của chúng ta chính là chủ nghĩa anh hùng của thời đại ngày
nay, chủ nghĩa anh hùng của nhân dân cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, của
giai cấp công nhân. Đồng chí Phạm Văn Đồng tại Đại hội anh hùng chiến sĩ thi
đua chống Mỹ cứu nước năm 1967 đã phân tích kỹ về chủ nghĩa anh hùng cách
mạng ấy: “Chủ nghĩa anh hùng cách mạng là sản phẩm của cuộc đấu tranh cách
mạng của nhân dân Việt Nam. Nó không ngừng phát triển qua các giai đoạn đấu
tranh ngày càng rộng lớn và quyết liệt từ khi Đảng ta ra đời, qua cách mạng tháng
Tám, qua cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, qua cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, qua 10 năm cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đến sự nghiệp
22
chống Mỹ ngày nay. Nó phát huy truyền thống của dân tộc, phát huy phẩm chất

cao thượng của người Việt Nam ta. Đồng thời chủ nghĩa anh hùng cách mạng
Việt Nam là sản phẩm của thời đại ngày nay, thời đại thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội và tan dã của chủ nghĩa đế quốc. Đó là chủ nghĩa anh hùng của giai giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc đang đấu tranh để tự giải
phóng…”[47, tr. 3].
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng không chỉ thể hiện ở một số người ưu tú nhất
mà đang trở thành nếp sống chiến đấu và lao động của hàng triệu quần chúng
thuộc mọi lứa tuổi và mọi tầng lớp nhân dân; chủ nghĩa anh hùng cách mạng
không chỉ nảy nở ở những mặt trận đấu tranh quyết liệt với quân thù mà đang mở
rộng toàn diện, khắp mọi nơi, ở miền Nam cũng như ở miền Bắc, ở nông thôn và
thành thị, ở đồng bằng và miền núi, ở trên mặt trận chiến đấu và mặt trận sản xuất,
trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học và kỹ thuật, chủ nghĩa anh
hùng cách mạng không chỉ bùng lên đột xuất trong những giờ phút thử thách gay
go nhất mà đang diễn ra thường xuyên hàng ngày, hàng giờ trong quá trình đấu
tranh cách mạng lâu dài bền bỉ
Ðể giành được độc lập, tự do, hàng vạn cán bộ, chiến sĩ cách mạng của ta đã
bị địch bắt, cầm tù, tra tấn và sát hại một cách dã man. Dưới chế độ nhà tù hà khắc
được coi là "địa ngục trần gian" của thời đại văn minh, nhưng các chiến sĩ cách
mạng bị địch bắt tù đày vẫn luôn nêu cao ý chí chiến đấu, tinh thần chịu đựng, hy
sinh gian khổ, đoàn kết, sáng tạo, đấu tranh trực diện với kẻ thù; biến nhà tù của
thực dân, đế quốc trở thành trường học cách mạng, nâng cao trình độ chính trị, rèn
luyện đạo đức cách mạng, mài sắc ý chí đấu tranh. Nhiều đồng chí đã trở thành
những nhà lãnh đạo kiệt xuất, những nhà quản lý tài ba, những nhà khoa học xuất
sắc của đất nước ta. Tinh thần bất khuất, khí phách kiên cường, quả cảm chịu
đựng hy sinh, gian khổ của các chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày, mãi mãi là
tấm gương sáng cho các thế hệ mai sau noi theo, nhất là thế hệ trẻ trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay. Ðể ghi nhớ công lao to lớn của những
23
người đã hy sinh xương máu vì nước, vì dân, Ðảng, Nhà nước đã có nhiều chính
sách ưu đãi đối với TB, BB và GĐLS. Ðây không những là trách nhiệm cao cả

của các thệ hệ sau đối với thế hệ anh hùng đi trước, mà còn là biểu hiện của đạo lý
truyền thống tốt đẹp "Uống nước nhớ nguồn" của dân tộc Việt Nam.
1.1.3. Yếu tố chi phối quá trình tổ chức thực hiện chính sách thương binh,
bệnh binh và gia đình liệt sĩ ở cấp huyện, cấp xã hiện nay
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay có 4 cấp: Trung ương, tỉnh thành phố
(cấp tỉnh), quận huyện thị xã (cấp huyện), xã phường thị trấn (cấp xã). Cấp tỉnh,
huyện được xem là “cấp trung gian”, song cấp huyện là cấp chỉ đạo, quản lý, điều
hành trực tiếp xây dựng và hoạt động của cấp xã. Cấp xã là cấp cơ sở trực tiếp tổ
chức thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ở địa phương.
Xét trong phạm vi hoạt động về chính sách TB, BB, GĐLS, cấp huyện và cấp xã
là cấp tổ chức thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước đối với TB, BB, GĐLS.
Quá trình thực thi chính sách TB, BB và GĐLS sẽ liên quan đến nhiều tổ
chức, cá nhân vì thế kết quả tổ chức thực thi chính sách cũng sẽ chịu ảnh hưởng
của nhiều yếu tố, các yếu tố chủ yếu:
Một là, vai trò, trách nhiệm của hệ thống chính trị cấp huyện, cấp xã trong
tổ chức thực hiện chính sách thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ.
Chính sách TB, BB và GĐLS ở nước ta trong tình hình hiện nay là một
chính sách lớn và rất quan trọng, là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và của toàn
xã hội. Đây là nghĩa vụ, là tình cảm, là lòng chung thủy của mọi người dân đối với
những người đã có công lao đối với Tổ quốc. Giải quyết tốt công tác TB, BB và
GĐLS sẽ có ảnh hưởng tốt đến các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, có ảnh
hưởng đến tinh thần, thái độ và trách nhiệm của quần chúng đối với sự nghiệp
cách mạng của dân tộc cũng như đến việc củng cố sự đoàn kết thống nhất về
chính trị, tư tưởng ở hậu phương.
Cấp huyện, cấp xã là cấp cơ sở trong hệ thống quản lý hành chính của Nhà
nước, là nơi sinh sống của các đối tượng chính sách. Cấp huyện, xã và đơn vị cơ
24
sở có vị trí hết sức quan trọng trong việc thực hiện các chính sách đối với TB, BB
và GĐLS. Bởi vì, cấp huyện, xã thay mặt Nhà nước trực tiếp chăm sóc TB, BB và
GĐLS, thực hiện đầy đủ, chu đáo các chính sách, chế độ gồm các khoản phụ cấp,

trợ cấp hàng tháng, bảo đảm y tế, phục hồi chức năng, động viên khai thác mọi
tiềm năng của cộng đồng để đáp ứng những nhu cầu về đời sống người có công.
Do vậy, hệ thống chính trị cấp huyện, xã giữ vai trò quan trọng quyết định trong tổ
chức thực hiện chính sách TB, BB, GĐLS ở các địa phương.
Vai trò của hệ thống chính trị cấp huyện xã trong tổ chức thực hiện chính
sách TB, BB, GĐLS ở các địa phương thể hiện ở vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ
chức đảng, vai trò quản lý và điều hành của chính quyền, vai trò vận động và tổ
chức nhân dân của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội ở
cấp huyện xã. Vấn đề mấu chốt là phải tạo ra sự phối kết hợp chặt chẽ, đồng bộ
giữa các tổ chức trong của hệ thống chính trị cấp huyện xã, sự thống nhất trong
lãnh đạo, quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện để chính sách đến được đúng,
đủ, kịp thời, hiệu quả đối với TB, BB, GĐLS. Đồng thời phải có cơ chế hoạt động
để vừa phát huy vai trò của hệ thống chính trị vừa huy động được sức mạnh của
nhân dân trong việc chăm lo cho TB, BB, GĐLS ở địa phương.
Xuất phát từ vai trò đó, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng cấp huyện xã là
ra chủ trương lãnh đạo đúng, sáng suốt, kịp thời và tăng cường kiểm tra, giám sát
việc thực hiện chính sách TB, BB, GĐLS ở địa phương, kịp thời phát hiện gương
tốt, mặt tốt để biểu dương nhân điển hình, phát hiện những bất cập, khuyết điểm
để sửa chữa, điều chỉnh. Trách nhiệm của chính quyền cấp huyện xã là chỉ đạo
điều hành, quản lý tốt quá trình triển khai thực hiện chính sách TB, BB, GĐLS ở
địa phương theo đúng chủ trương của Đảng, quy định của pháp luật và phù hợp
với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương. Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội là tuyên truyền, vận động các tầng lớp
nhân dân tham gia thực hiện chính sách TB, BB, GĐLS ở địa phương.
25

×