Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Đề tài nghiên cứu về ô nhiễm môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.87 KB, 20 trang )

Đề tài nghiên cứu: Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Với xu thế xã hội ngày càng phát triển cơ giới kỹ thuật ngày càng được nâng
cao thì việc ô nhiễm môi trường là điều không tránh khỏi. Với tình hình xã hội hiện
nay thì vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên trầm trọng và nặng nề hơn. Ô
nhiễm môi trường còn làm cho môi trường thay đổi tính chất của môi trường, vi
phạm tiêu chuẩn môi trường. Chất gây ô nhiễm là những nhân tố làm cho môi
trường trở nên độc hại. Sự ô nhiễm môi trường dẫn đến hậu quả rất nghiêm trọng
của các hoạt động tự nhiên như hoạt động núi lửa, động đất, lũ lụt, bão,
Vì vấn đề ô nhiễm môi trường hiện là vấn đề nóng bổng trên toàn cầu, được
cả thế giới quan tâm và tìm cách để ngăn chặn việc ô nhiễm môi trường. Vì nếu
không ngăn chặn kịp thời thì sẽ gây ra những hậu quả mà cả nhân loại không thể
tưởng tượng được. Vì môi trường tự nhiên gồm đất, nước, không khí đó là nền tảng
sự sống của con người, nếu một trong hai yếu tố môi trường đó thì ảnh hưởng đến
đời sống con người.
Nội dung đã nêu ra ở trên, em chọn đề tài “ Ô nhiễm môi trường” để thấy
được những hậu quả của con người gây ra cho môi trường mà con người gánh phải
chịu do hậu quả chính mình gây ra là những trận bão lụt, động đất, núi lửa làm tổn
thất vật chất và tinh thần mà con người gây nên những biến động trong xã hội. Con
người và những sinh vật phải gánh chịu.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
Ô nhiễm môi trường cho thấy được hậu quả của tác hại gây ô nhiễm môi
trường ảnh hưởng đến đời sống con người trở nên khó khăn trước những biến đổi
của môi trường do hậu quả của sự ô nhiễm môi trường và qua đó, trước những tai
biến do môi trường gây ra mà con người có sự hạn chế trong việc gây ra các tác hại
về môi trường và qua đó môi trường cần có trách nhiệm để cải tạo cho môi trường
ngày càng xanh, sạch đẹp và trong lành.
Người thực hiện: Trần Thị Hồng Nhung
1
Đề tài nghiên cứu: Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
III. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:


Là những vấn đề về việc gây ra tác hại ô nhiễm môi trường nó có thể trực
tiếp gây ra các tác hại đối với con người mà cần được khắc phục và tìm hướng giải
quyết kịp thời.
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
Nêu ra những vấn đề mà gây nên những tác hại cho môi trường làm cho môi
trường ngày càng xấu đi vì những vấn đề cá nhân và việc xâm phạm môi trường
cho môi trường trở nên ô nhiễm trầm trọng.
V. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài chú trọng vào nội dung nghiên cứu vấn đề ô nhiễm môi trường về đề
tài em chỉ khảo sát trên sách chứ không hướng vào các thể loại khác. Vì khả năng
còn hạn chế và sự khống chế về mặt thời gian và phương tiện thông tin về tài liệu.
VI. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Thu thập tài liệu về các vấn đề ô nhiễm môi trường tự nhiên được thế giới
quan tâm cùng với những thông tin trong sách giáo khoa trong vấn đề ô nhiễm.
SỰ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
ô nhiễm môi là sự xuất hiện vật thể lạ trong môi trường mà sự xuất hiện vật
thể lạ này là thay đổi cấu trúc và hoạt động của môi trường.
1.1 Ô nhiễm môi trường đất:
Ô nhiễm môi trường đất là những tác động của con người hay tự nhiên một
cách trực tiếp hay gián tiếp làm mất khả năng làm sạch của đất và hủy hoại các
thành phần sống trong đất. Hậu quả làm môi trường đất không còn sử dụng được các
hoạt động nông nghiệp và hoạt động sống của con người trong môi trường đất.
1.2 Ô nhiễm môi trường đất do chất thải nông nghiệp :
Người thực hiện: Trần Thị Hồng Nhung
2
Đề tài nghiên cứu: Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
Ngày nay chất thải không những đỗ ra sông, ra biển mà còn chôn vùi xuống
lồng đất ngày càng phổ biến. Mặc khác, các môi trường khác nhau đều có mối liên
quan mật thiết với nhau. Đặc biệt là môi trường nước và môi trường đất, bởi vì đất
và nước luôn đi đôi với nhau. Nước ở trên mặt đất, nước ở trên lồng đất, đất và nước

giao nhau vì ô nhiễm một trong hai môi trường đó sẽ làm ô nhiễm cả hai. Sau đó là
môi trường không khí, trong môi trường đất các chất ô nhiễm trong không khí khi
lắng tụ sẽ rơi vào môi trường đất như mưa axít , bụi kim loại từ môi trường đất.
Ngoài ra còn có nhân tố chính gây nên ô nhiễm môi trường đất như các chất thải
nông nghiệp, phân bón, thuốc trừ sâu, các phế thải sản phẩm và cây trồng, chất thải
gia súc và tàn tích cây trồng. Trong đó cũng có những chất làm ảnh hưởng xấu và
làm thoái hóa môi trường đất nếu vượt quá mức tự làm sạch của đất nhưng cũng có
chất làm cho đất phì nhiêu hơn.
Phân bón hóa học có tác dụng nâng cao năng xuất cây trồng nhưng cũng có
một số chất làm ô nhiễm môi trường đất như phân đạm, phân lân.Bởi vì khi bón cho
cây thì cây chỉ sử dụng hết 30% số còn lại một phần bị rửa trôi, một phần nằm lại
trong đất .Khi các loại phân đạm bám vào đất qua chuỗi các phản ứng dưới tác
dụng của một số loại vi khuẩn tạo thành NO
3
quá trình Nitrat hóa. Một phần Nitrate
được thực vật hấp thụ nhưng sự tích cao Nitrate trong hạt không có lợi cho sức khỏe
con người đặc biệt đối với trẻ em có thể gây thiếu máu phần lớn còn lại ngấm xuống
đất và đi vào vùng nước ngầm.Trong nước ngầm có lớn 10mg/1 N- O3 thì nước đó
không được uống theo mức cho phép của USEPA cơ quan bảo vệ môi trường của
Mỹ.Tổ chức y tế khuyến cáo hàm lượng ni trate trong rau không được cao quá
30mg/ kg tươi .Một người trong 24 giờ không nên sử dụng 5mg / kg thể trọng .
Ngoài ra nit rate còn làm tăng tính chua của đất. Phân lân là yếu tố cần thiết cho cây
rau, đậu.Nhưng với hàm lượng cao sẽ gây chua cho môi trường đất vì bản thân trong
phân lân thường chứa 10% acid tự do. Mặc khác, các dạng phân bón hóa học đều là
Người thực hiện: Trần Thị Hồng Nhung
3
Đề tài nghiên cứu: Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
các muối của các acid . Vì vậy khi hòa tan thường gây chua cho môi trường đất ảnh
hưởng đến hệ sinh vật trong đó.
Phân hữu cơ nếu ủ đúng kỹ thuật trước khi bón và bón đúng liều lượng thì

không gây hại nhiều cho môi trường đất. Nhưng dùng phân bắc, nước tiểu không
qua chế biến hay ủ thì không những ảnh hưởng ô nhiễm cho môi trường đất mà còn
gây hại cho môi trường và con người. Bởi vì trong các loại phân này có rất nhiều
giun sán, sâu bọ, trứng giun, vi trùng và các mầm bệnh khác, khi gặp điều kiện
thuận lợi sẽ phát triển và lan truyền qua nước mặt ,nước ngầm hoặc bốc hơi vào
không khí làm ô nhiễm môi trường sinh thái .Mặc khác nếu bón quá nhiều phân hữu
cơ trong điều kiện yếm khí sẽ có quá trình khử chiếm ưu thế , sản phẩm của nó làm
chua đất , chứa nhiều chất độc trong đất như H
2
S CH4 , CO2.
Thuốc thừ sâu thường có hai mặt , vừa có tác dụng diệt sâu bệnh, bảo vệ cây
trồng như chúng đều có khả năng gây ô nhiễm cho môi trường đất và hoạt tính sinh
học của chúng sẽ là độc tố cho động vật và con người . Nó có thể tồn tại lâu dài
trong đất , xâm nhập vào thành phần của cây nhất là tích lũy ở hạt và cũ. Đặc tính
của thuốc trừ sâu bệnh là tính bền trong môi trường sinh thái, sau khi xâm nhập vào
môi trường nó đi di trú vào trong các dạng cấu trúc sinh hóa khác nhau hoặc các
dạng hợp chất liên kết trong môi trường sinh thái , mà thường thì các dạng hợp chất
này có độc tính cao hơn là bản thân nó . Ngoài ra thuốc trừ sâu còn co tác hại là tiêu
diệt vi sinh vật có lợi trong môi trường đất , dẫn đến hoạt tính sinh học của đất bị
giảm sút.
Chất thải của gia súc bao gồm các chất thải của trâu , bò , gà vịt, chó,
mèo chất thải dang phân , nước tiểu thường có ích cho độ phì nhiêu của đất. Tuy
nhiên các chất dinh dưỡng đều ở dạng khó tiêu cho thực vật , nó còn phụ thuộc vào
các quan hệ mùn hóa và khoáng hóa. Mặc khác trong phân gia súc chứa rất nhiều
các dạng vi khuẩn gây bệnh đường ruột như E.Coli. Trong thức ăn thừa , hỏng của
Người thực hiện: Trần Thị Hồng Nhung
4
Đề tài nghiên cứu: Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
gia súc chứa đến 1000 vi sinh vật /gam khoảng 100 các loại kỵ khí và cũng khoảng
1000 vi sinh vật /gam cho các loại vi khuẩn .Enteri bacteria một dạng vi khuẩn rất

nguy hiểm đến sức khỏe động vật và con người khi tiếp xúc môi trường đất . Trong
phân động vật lại chứa nhiều giun sán . Con người tiếp xúc với môi trường đất hoặc
trong rể , lá rau không rửa sạch sẽ bị nhiễm giun sán. Ngoài ra các chuồng trại chăn
nuôi gia súc cần được xử lý đảm bảo vệ sinh môi trường .
Tàn tích của cây trồng , của rừng trong điều kiện yếm khí tàn tích này
nhiều hơn với tỷ lệ C/N quá lớn sẽ gây nên hiện tượng phân giải yếm khí sinh ra
nhiều độc tố .VD như tàn tích trong ruộng khoai ngập nước thối sẽ gây nên mùi
thối khó chịu, sau khi cũ và lá tan rả sẽ gây nên hiện tượng độc cho hầu hết các vi
sinh vật trong môi trường đất .
Sau khi khai thác gỗ, chặt phá rừng làm nương ray, lá cây rừng sẽ nằm lại
trong đất nếu không được phân hủy kịp thời để tạo mùn cho đất thì khả năng chuyển
hóa thành các dạng khó tiêu và gây chua nhiều hơn . Nếu tàn tích bị vùi lắp trong
điều kiện yếm khí lâu ngày sẽ tạo ra các đầm lầy than bùn hoặc bùn phèn gây nên
môi trường acid quá trình phân giải chúng tạo nên các khí gây nên mất cân bằng
không khí tăng lên và ngay trong đầm lầy nhiều loại sinh vật háo khí , thực vật trên
cạn bị hủy diệt thay vào đó là hệ thủy sinh vật và bán sinh vật.
1 .2 Ô nhiễm môi trường đất do chất thảy công nghiệp :
Các loại chất thải công nghiệp dưới dạng rắn, lỏng và khí đều có ảnh hưởng
đến môi trường sinh thái đất . Dạng khí như CO
2
, S0
2
,, H
2
S từ trong quá trình đốt
nhiên liệu và chế biến Sản Phẩm mà thành . Dạng lỏng có các axít, acid hữu cơ , dầu
mỡ , phehol . dạng gắn có các chất thải hữu cơ . Ảnh hưởng của chúng lên môi
trường sinh thái đất về nhiều mặt.
1.3 Ô nhiễm môi trường đất do chất thải đô thị.
Người thực hiện: Trần Thị Hồng Nhung

5
Đề tài nghiên cứu: Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
Rác đô thị có các thành phần phức tạp, các loại rác từ những hoạt động
sinh hoạt như chất đốt, phân hữu cơ, hằng ngày được đổ ra gây nên hiện tượng ô
nhiễm môi trường đất một cách trầm trọng. Việc chôn rác không đúng theo quy
cách, hoặc không xử lý trước khi chôn đã làm cho bãi rác này diễn ra một cơ chế tự
hoại yếm khí tạo nên các khí gây mất cân bằng bầu khí quyển. Các hầm cầu và bãi
rác tự hoại trong những thành phố đông dân cư là một vấn đề cấp bách hiện nay ở
các nước đang phát triển mùi hôi thối từ các bãi rác, hầm cầu tự hoại không hoàn
chỉnh làm cho không khí đất bị ngộp gây ảnh hưởng đến sinh vật trong đất, các chất
độc sinh ra trong quá trình tự hoại các chất thải kim loại thấm vào đất và nằm lại
trong đất gây ô nhiễm lâu dài.
1.4 Ô nhiễm do tác nhân sinh vật
Là do đất chứa và lưu thông các dịch bệnh lây lan qua đường ruột , bệnh
ký sinh trùng, bệnh do nhiễm độc lương thực, thực phẩm tươi sống. Thông thường
con đường lây bệnh này theo các chu kỳ: người - đất - người; động vật nuôi - đất -
người hoặc trực tiếp từ đất người: ở Việt Nam các chất gây ô nhiễm cho môi trường
đất hiện nay là rác. Có rất nhiều rác như: rác sinh hoạt gồm các thành phần hữu cơ
như lương thực, thực phẩm dư thừa, các loại vô cơ như: bao bì bằng nhựa không hòa
tan, đồ thủy tinh, kim loại hư hỏng. Ngoài ra, còn có các loại rác y tế chứa trên 20 %
độc tố có tác dụng lây lan nguồn bệnh và có loại cũng không bị phân hủy như: ống
chích, kim tiêm, dụng cụ vệ sinh. Rác công nghiệp ngày càng phức tạp hơn vì gồm
nhiều sản phẩm hổn hợp của kim loại, xi măng, hóa chất đều được chôn dưới các hố
rác khổng lồ hoặc có xử lý nhưng chưa được hiệu quả chưa đồng bộ.
Nếu các lượng rác trên được phân loại, một phần tái chế một phần hữu cơ
làm phân bón nông nghiệp, một phần làm nhiên liệu đốt tạo năng lượng thì đất sẽ
giảm ô nhiễm mà thu được hiệu quả kinh tế khá lớn. Đây là hướng mà Việt Nam
Người thực hiện: Trần Thị Hồng Nhung
6
Đề tài nghiên cứu: Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG

đang xây dựng. Ví dụ: Ở Hà Nội đã có nhà máy làm phân từ rác ủ có công suất 7500
tấn/năm.
2 Ô nhiễm môi trường nước:
Ô nhiễm môi trường nước là sự có mặt của một chất ngoại lai trong môi
trường nước tự nhiên. Khi vượt quá ngưỡng nào đó thì chất ngoại lai trở nên độc hại
đối với sinh vật và con người
Theo hiến chương Châu Âu về ô nhiễm môi trường nước. Ô nhiễm môi
trường nước là do tác động của con người gây nên một biến đổi nào đó làm thay đổi
chất lượng nước, chính sự thay đổi chất lượng nước này gây nên nguy hiểm cho con
người, công nghiệp, nông nghiệp, thủy sản, với động vật nuôi và cả động vật hoang
dã.
Nguyên nhân của sự ô nhiễm môi trường nước có thể xuất phát từ nguồn
gốc tự nhiên hay do con người trực tiếp gây ra với các nguyên nhân sau:
+ Ô nhiễm do nguồn gốc tự nhiên chủ yếu do mưa mang theo từ các chất
bẩn từ mái nhà, đường phố, bụi công nghiệp thải xuống, các lĩnh vực nước
như: sông, hồ, ao, mạch nước ngầm. Các chất bẩn này đôi khi có cả vi trùng,
virus gây bệnh từ xác chết sinh vật vào nước.
+ Ô nhiễm nhân tạo: do hoạt động sống của con người gây ra, chủ yếu là
nguồn nước thải sinh hoạt khu dân cư, khu công nghiệp, hoạt động giao
thông vận tải, thuốc trừ sâu, phân bón hóa học.
+ Dựa vào các tác nhân gây ô nhiễm người ta phân biệt các loại ô nhiễm
mà có các tác hại của từng loại ô nhiễm khác nhau. Ví dụ: rối loạn các dòng
chảy tự nhiên do đập thủy điện, kênh đào, thủy lợi, đê bao.
+ Sản phẩm thải trong sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và sinh hoạt
các chất hữu cơ hóa học, phổ biến là sự phân hủy các chất Proticl, lipid và
glucid gây hôi thối trong nước, các loại thuốc xác trùng, trừ sâu chỉ có tác
Người thực hiện: Trần Thị Hồng Nhung
7
Đề tài nghiên cứu: Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
dụng 10% còn lại 90% hòa tan vào môi trường nước ngầm vào sản xuất gây

hại trực tiếp cho con người tiêu thụ hoặc nếu còn ở môi trường thì phải 10
năm sau nó mới phân hủy hết độc tố. Điều đáng sợ hiện nay chất hữu cơ phân
loại có hàng ngàn loại không có nguồn gốc trong tự nhiên nên nó không bị
phân hủy trong nước, gây tác hại tìm ẩn lâu dài. Một số hóa chất dạng
cyanua, phenol gây độc gián tiếp làm chết vi khuẩn trong nước, nước mất khả
năng tự thanh lộc và hàm lượng O
2
hòa tan giảm nhanh tạo thuận lợi cho hệ
vi sinh yếm khí hoạt động tạo nhiều độc tố như NH
3
, H
2
S, PH
3
, và CH
4
gây
chết sinh vật. Ở biển thì phải hứng chịu 2 % nguồn dầu khai thác tạo nên vết
dầu loang khổng lồ tiêu diệt tất cả sựï sống vùng nó phủ mặt.
+ Một số chất thải gây ô nhiễm về mặt sinh lý gồm các hợp chất của
công nghiệp chế biến có chứa các chất như: Ni tơ, lưu huỳnh, phốt pho làm
mùi và vị của nước biến dạng.
+ Ô nhiễm về sinh học chủ yếu do các rác thải trong sinh hoạt, rác y tế
đổ trực tiếp vào nước trong đó có nhiều mầm bệnh truyền nhiễm có nguồn
gốc khác nhau dễ gây dịch bệnh lớn. Các loại virus, động vật nguyên sinh,
nấm, vi khuẩn, tạo môi trường nước ô nhiễm và là nơi phát sinh bệnh sốt
rét, cúm, sốt bại liệt.
+ Diện tích vùng biến đang bị ô nhiễm phóng xạ do các vụ thử hạt nhân
và đổ phế thải nguyên tử chiếm lượng không nhỏ cho vùng biển trên toàn
cầu.

2. 1 Ô nhiễm nước ngọt
Các dòng chảy nước mạch và nước ngầm khi đã đi qua các vùng nông
nghiệp, khai thác mỏ và đô thị đã bị nhiễm bẩn với những mức độ khác nhau. Ô
nhiễm nước hiện nay trở nên tệ nạn phổ biến ở hầu hết các nước.
Người thực hiện: Trần Thị Hồng Nhung
8
Đề tài nghiên cứu: Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
+ Trước hết, ô nhiễm do các chất hữu cơ trong nước thải sinh hoạt và
phân bón đã gây nên tình trạng phì nhưỡng hóa nhiều dòng chảy làm tác hại
lớn đến sức khỏe người nông dân và năng xuất thủy sản. Theo cơ quan y tế
thế giới hàng năm có 25 triệu dân chết do dịch tả, thương hàn và những bệnh
lây lan qua nước uống khác trung bình 65 000 người/ ngày.
+ Sự suy giảm oxy hòa tan trong nước do phân hủy chất hữu cơ đã có
ảnh hưởng đến năng suất thủy sản. Theo mẫu kiểm tra của hệ thống theo dõi
môi trường toàn cầu vào những năm 80 cho thấy. Lượng O
2
hòa tan trong
nước sông ở các nước có thu thập cao luôn ở mức cho phép. Nghĩa là mức tối
thiểu đảm bảo được sự sống sinh vật dưới nước: trên 6 mg / l và có xu thế cải
thiện. Các nước thu nhập trung bình có hàm lượng O
2
hòa tan trunh bình của
sông bẩn nhất và sạch nhất gồm 7mg / l và không đổi trong suốt thập niên 80.
Riêng các nước có thu nhập thấp O
2
hòa tan ở thời kỳ đầu những năm 80 giữ
được mức 7mg / l : vào cuối thập niên thì tình trạng trở nên xấu đi chỉ còn
khoảng 6,5 mg/ l , đây là mức O
2
tự do trung bình ở các sông, ở sông bẩn

nhất có O
2
tự do trung bình rất thấp chỉ có 4 mg/l.
+ Hiện nay, ở Việt Nam có số lượng các sông bị ô nhiễm càng ngày càng
tăng nhất là tại thành phố Hà Nội sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu, và thành
phố Hồ Chí Minh: Rạch Thị Nghè có hàm lượng oxy hòa tan bằng 0, tức là
không thể sử dụng được mà chỉ có chức năng chứa và lưu thông nước thải
trong thành phố. Tuy nhiên, do lượng mưa hàng năm ở nước ta khá cao nên
vào mùa mưa thì chất ô nhiễm ở nước sông này sẽ được rửa trôi 1 phần và
phần còn lại vẫn tiếp tục gây ra những bệnh tật cho người dân sống ven các
con sông bị ô nhiễm này.
Người thực hiện: Trần Thị Hồng Nhung
9
Đề tài nghiên cứu: Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
+ Ở những khu công nghiệp, khai thác mỏ và dùng lượng nông hóa cao,
các dòng sông dều bị nhiễm bẩn bởi các chất độc và những loại kim loại nặng
như: chì, thủy ngân. Trong những mẫu cá, tôm, cua, ở vịnh Tarata , In - đô -
ne- si- a lượng chì vượt quá 4%, lượng thủy ngân vượt quá 38%, lượng
Caclmium vượt quá 76% ở Nhật, Út, Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ. Có nồng độ
axit, thủy ngân, chì trong, nước vượt quá tiêu chuẩn cho phép, ở Ma Lay Si A
nước thải từ các nhà máy dầu cọ và cao su, của các nhà máy khác và các dân
cư đã làm 42 con sông coi như chết. Ô nhiễm nước ngầm cũng là vấn đề đáng
lo ngại ở nhiều nước. Ví dụ : tại Châu Mỹ La Tinh, lượng các chất độc hại từ
các bãi thải thâm nhập vào nước ngầm cứ 15 năm tăng gấp đôi. Tại các thành
phố của các nước đã phát triển nước ngầm bị bẩn do thiếu hệ thống xử lý và
quản lý kèm các hố rác tự hoại.
2.2 Ô nhiễm môi trường biến:
Ở các vùng ven bờ tiếp tục gây lo ngại cho nhiều nước và là một trong những
vấn đề khó giải quyết do có tính toàn cầu. Mỗi năm có khoảng 6,5 triệu tấn rác tuôn
đổ ra biển. Ô nhiễm chất hữu cơ khiến cho các loại tảo đỏ phát triển mạnh ở vùng

cửa sông, dọc bờ biến Bắc Carolina và các biển phía Nam bán đảo Scandina ven.
Trong số các loại rác thải thì Plastic là loại khó phân hủy nhất, nó có thể tồn tại hơn
50 năm trong môi trường biển, hiện nay lại đang tăng lên. Dọc bờ Địa Trung Hải có
hơn 70% rác thải là Plastic. Ở Thái Bình Dương có 80% ô nhiễm hữu cơ đã làm cho
khoảng 4000 km
2
vùng vịnh Tnexico, gần cửa sông Tnissipi bị xem như vùng chết
do thiếu O
2
. Tảo ở những vùng nước bẩn tảo nở hoa thường tiết ra những độc tố
ảnh hưởng đến thực phẩm biển. Năm 1987, ngộ độc do thực phẩm có độc tố tảo đỏ
đã giết chết 26 người ở Guatamala. Hiện tượng nở hoa của tảo là thuật ngữ dùng để
chỉ sự phát triển mạnh của tảo đỏ do sự nhiễm bẩn nước biển gây nên. Ở các biển
Người thực hiện: Trần Thị Hồng Nhung
10
Đề tài nghiên cứu: Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
nội địa Nhật Bản mổi năm xuất hiện 200 vụ tảo nở hoa. Xung quanh phía Nam bán
đảo Scandinave. Dọc bờ biển Nauy sự nở hoa đã làm thiệt hại một số ngư trường và
đời sống biển khơi. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm cho thấy những người bơi lội ở
vùng biển bị ô nhiễm hữu cơ thì mang bệnh rối loạn tiêu hóa, viêm tai, viêm đường
hô hấp, vàng da tăng lên bình thường. Sử dụng thức ăn biển ô nhiễm dẫn đến tăng
bệnh viêm gan siêu vi và dịch tả.
Hằng năm có hơn 2,3 triệu tấn dầu từ các nguồn khác nhau xâm nhập vào biển.
Trong đó chủ yếu là từ các chất thải đô thị và các hoạt động vận tải đường biển. Các
tai nạn đắm hoặc vở tàu chiếm 20% nguồn thải vào biển. Nguồn dầu thải vào biển
nói chung còn thấp chưa gây hại đến các hệ sinh thái biển. Sự cố tràn dầu có thể gây
mất can bằng sinh thái cục bộ trong một khoảng thời gian dài nếu không xử lý kịp
thời, đặt biệt những sự cố có những tầm cở lớn có thể gây nguy hiểm ở các vùng ven
bờ.
Việc thải bỏ các hóa chất độc và những cuộc thử nghiệm hạt nhân cũng được

thực hiện ở các đại dương đặc biệt vào trước năm 1987 do Mỹ, Tây Âu, Nhật và một
số nước công nghiệp khác. Từ năm 1981 - 1984 , các nước châu Âu đã thêu hủy gần
624 nghìn tấn hóa chất ngoài biển. Năm 1986, có gần 578 nghìn tấn chất thải đổ ra
biển khỏi với phân nữa là chất độc hại. Mặc dầu năm 1982, luật biển đã ra đời với
160 nước ký vào sau đó và còn nhiều công ước khác được ký kết giữa các nước
thuộc Đại Tây Dương và Địa Trung Hải. Trong những năm 80 tình trạng này vẫn
chưa được cải thiện. Pháp, Anh và một số tiểu ban của Mỹ vẫn chịu ảnh hưởng có
quy mô lớn của các hợp chất hóa học chứa clo và phend ở ven bờ.
Từ đầu những năm 90, các nước đang phát triển đã giảm mức độ thải các chất ô
nhiễm ra biển nhưng ở các nước đang phát triển tình trạng gây ô nhiễm môi trường
biển lại có xu thế tăng lên.
Người thực hiện: Trần Thị Hồng Nhung
11
Đề tài nghiên cứu: Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
Ở Việt Nam nếu xét mức độ ô nhiễm tức thời và ở một số sông ngòi cụ thể, tình
trạng lại ở mức báo động. Hầu hết nguồn nước ngọt ở các thành phố và trung tâm
công nghiệp đều bị nhiễm bẩn do nước thải sinh hoạt và công nghiệp thải trực tiếp
vào các dòng chảy. Theo báo cáo hiện trạng, môi trường Việt Nam của viện Hải
Dương học. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẩn tới tình trạng ô nhiễm môi
trường ven biển là hiện tượng nuôi thủy sản tràn lan, không có quy hoạch, tại các
tỉnh từ Quảng Ninh tới Quảng Bình trên 27 nghìn ha đã khai thác đưa vào nuôi
trồng thủy sản chiếm 30 - 35 % diện tích mặt nước lợ. Trước đây người dân chỉ nuôi
quản canh và ít sử dụng thức ăn và hóa chất độc hại. Gần đây phần lớn cơ sở đã đi
vào nuôi trên qui mô công nghiệp dẫn tới các nơi cư trú sinh vật, bãi bể, bãi giống bị
hủy diệt, dịch bệnh xuất hiện tràn lan. Hơn nữa, tình trạng ô nhiễm môi trường còn
do các địa phương, khai thác sử dụng không hợp lý ở các vùng đất cát ven biển dẫn
đến việc thiếu nước ngọt xóa lở xa bồi bờ biển với mức độ ngày càng nghiêm trọng.
Việc khai thác bằng đánh mìn, sử dụng hóa chất độc hại làm cạn kiệt nhanh chống
nguồn lợi thủy sản và gây hậu quả nặng nề cho các vùng sinh thái biển. Những khu
nuôi cá lồng bè, khu đánh bắt cá tất cả đều được quy hoạch bám ra mặt biển. Theo

thống kê mỗi ngày có hàng nghìn tấn rác bị đổ trực tiếp ra biển. Tại thành phố du
lịch Hạ Long, tình trạng ô nhiễm mặt nước ven biển xảy ra ngày càng nghiêm trọng
bởi các làng chài trên biển, chỉ tính riêng tại Vịnh Hạ Long hiện có trên hàng chục
làng chài lớn nhỏ đang tọa lạc trên biển. Tại các làng chài thải toàn bộ rác sinh hoạt
xuống biển chưa qua xử lý rất khó thu gom dẫn tới một số sông rạch đã xảy ra hiện
tượng tắc dòng chảy vì rác. Ngoài ra diện tich nuôi trồng thủy sản ở Quảng Ninh
hiện đã lên tới 15000 ha/ năm phần lớn là nhửng nơi nuôi quản canh nên nước thải
đổ trực tiếp ra biển.
Các nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm môi trường nước:
Người thực hiện: Trần Thị Hồng Nhung
12
Đề tài nghiên cứu: Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
+ Theo các nghiên cứu về ô nhiễm môi trường nước cho thấy rằng sự ô nhiễm
môi trường nước bắt đầu xuất hiện từ khi cuộc cách mạng công nghiệp bùng nổ, lúc
đầu trong phạm vi khu vực, sau đó đến các lục địa và bây giờ đãtrở nên vấn đề cần
quan tâm hàng đầu trên toàn cầu. Nguồn nước lợ nhiễm bẩn do các nguyên nhân
chính sau:
• Đô thị hóa do dân số tăng, sự phát triển mạnh mẽ nông nghiệp, công nghiệp
gây nhiễm bẩn nước ngọt, thu gom xử lý không tốt việc cấp nước có thể bị quá tải.
Hàm lượng O
2
hòa tan trong nước bị giảm do các chất bẩn phân hủy gây nên hiện
tượng phì dưỡng. Sự nhiễm khuẩn đặc biệt nghiêm trọng ở các nước đang phát
triển vừa thiếu nguồn nước sạch vừa không có quá trình xử lý nước đầy đủ. Dân số
càng tăng lên môi trường nước càng bị ô nhiễm nhất là tầng nước mặt.
• Phá rừng: rừng có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ nguồn nước, nhưng
hiện nay việc chặt phá rừng để làm nương rẫy, xây dựng đô thị làm cho đất bị lớp
phủ gây sạt lở đất, nước sông ngòi bị đục, các chất dinh dưỡng bị hòa tan và năng
lượng giữ nước của đất bị suy giảm.
• Khai mỏ và phát triển công nghiệp ở năm 2000 các nước đang phát triển có

khối lượng nước thải tăng gấp đôi. Sản xuất nông nghiệp với lượng phân bón hóa
học từ dưới 1kg/ha ở châu Phi; ở Hà Lan 700kg/ha đủ làm nguồn nước cấp bị ô
nhiễm nitrat và phosphate. Hiện tượng dùng phân hóa học, thuốc trừ sâu ở các
nước phát triển đang tăng nhanh làm cho nhiều vùng ô nhiễm nghiêm trọng. Nếu ô
nhiễm tầng nước mặt mà không kịp thời khống chế thì sẽ dẫn đến hiện tượng các
tầng nước bị ô nhiễm và nay là một mối đe dọa nghiêm trọng có tính toàn cầu.
Con đường phát tán các hóa chất bảo vệ thực vật và chất độc hóa học trong
tự nhiên.
Người thực hiện: Trần Thị Hồng Nhung
13
Đề tài nghiên cứu: Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG


Vì thế việc tiêu thụ các loại năng lượng, cơ sở đã tăng lên nhiều lần gây
ra các chất thải Ôxisulfure và nitrogen nguồn gốc các loại lắng động axit làm hủy
hoại các nguồn nước. Ngoài ra các sự cố môi trường như sự cố tràn dầu, vỡ các
đường ống, các bể chứa. Các sự cố công nghiệp gây ra ô nhiễm kim loại nặng,
phóng xạ, các chất hữu cơ bean vững, đã gây ra ô nhiễm chất lượng nước mà hậu
quả thì không thể lường trước được. Bên cạnh đó, mức độ ô nhiễm môi trường nước
nó còn tùy thuộc vào các vùng sử dụng nước khác nhau mà có các hiện tượng ô
nhiễm khác nhau như: vùng nông nghiệp thì ô nhiễm thuốc trừ sâu, khu công nghiệp
thì ô nhiễm kim loại nặng, khu dân dân cư thì ô nhiễm chất hữu cơ và các mầm gây
bệnh và vi khuẩn nguy hiểm cho con người.
3 Ô nhiễm không khí:
Người thực hiện: Trần Thị Hồng Nhung
14
Hóa chất bảo vệ thực vật
Phân tán trong lồng đất
Tích tụ trong lồng đất
Ô nhiễm mạch nước ngầm

Ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt
Chuyển thành hơi
Bốc hơi trong không khí
Ô nhiễm tầng nước mặt
Đề tài nghiên cứu: Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
- Ô nhiễm môi trường không khí mà nguyên nhân chính là bắt nguồn từ ô
nhiễm môi trường đất và nước dẫn đến ô nhiễm không khí kèm theo sự ô nhiễm
môi trường không khí cũng gây nên những hậu quả đáng lo ngại và báo động cho
toàn cầu về cuộc sống và đời sống con người. Sinh vật đứng trước hậu quả mà
không ai có thể ngờ trước được khi không khí bị ô nhiễm nó làm tổn hại đến tầng
khí quyển nhiều nơi mối lo có thể xảy ra về tầng ô zon bị thủng nhiều gây cho khí
hậu trái đất ngày càng nóng lên gây ra hiện tượng băng tan ở các nước Bắc Cực là
một thảm họa mà con người phải gánh chịu trước những biến đổi khí hậu mà con
người đã gây ra. Nó được biểu hiện ở hai vụ thảm họa mà con người phải gánh
chịu là trận sóng thần I-đô- nê-xi -a và động đất ở Trung Quốc đã cướp đi hàng
nghìn tính mạng con người mà hậu quả của nó đã gây ra là không thể ngờ trước
được. Từ những hoạt động gây ô nhiễm môi trường không khí.
- Từ những nguyên nhân gây hậu quả ô nhiễm môi trường không khí trên mà
con người phải gánh chịu những thảm họa khóc liệt từ thiên tai trong tự nhiên.
4 Ô nhiễm tiếng ồn
Người thực hiện: Trần Thị Hồng Nhung
15
Phương tiện vận tải
Cháy rừng Ô nhiễm không khí
Đun nấu trong gia
đình
Sản xuất công nghiệp
Đề tài nghiên cứu: Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
- Ô nhiễm tiếng ồn là khi tiếng trở nên mạnh và gây khó chịu, đặc biệt khi nó
gây chấn thương sinh lý hoặc tâm thần cho con người.

- Thính giác của con người có khả năng chịu nổi tối đa tầng số âm thanh là 80
deciben trong nhà có âm thanh cở 60 deciben đã làm ảnh hưởng đến tim mạch và
huyết áp, thường tầng số trên 80 deciben là nguyên nhân gây bệnh điếc. Công
nhân ở các nhà máy dệt, sắt thép, phá nổ thường bị điếc nghề nghiệp tức là hư hại
cơ quan màn rung ở tai.
5 Ô nhiễm phóng xạ
- Ô nhiễm phóng xạ là việc phát ra các tia bức xạ khi phân rải hạt nhân. Khi
quá trình phóng xạ xảy ra các nguyên tố phóng xạ sẽ phát ra tia phóng xạ gây hại
cho sức khỏe con người bao gồm các tia như:
+ Bức xạ hạt như hạt
βα
,
, proten, neutron.
+ Bức xạ điện từ như tia rơnghen, gamma.
+ Tất cả các tác nhân trên đều có khả năng Ion hóa các nguyên tử gặp
phải trên đường đi tách các electnon ra khỏi nguyên tử tạo nên bức xạ Ion
hóa. Quá trình đó tạo ra năng lượng nhiệt lớn các tia vũ trụ và các tia Ion hóa
chất ra các chất phóng xạ tự nhiên được coi là phóng xạ nền. Các sinh vật
đều đã thích nghi với bức xạ nền trong môi trường tự nhiên. Nên ngưởi
nhiễm phóng xạ đều có nguyên nhân từ khai thác quặng phóng xạ, bom
nguyên tử nổ trong thử nghiệm hay chiến tranh, nhà máy điện hạt nhân.
Không được quản lý tốt mà bị thất thoát ra môi trường và xâm nhập vào cơ
thể con người qua nhiều con đường.
+ Có 2 loại bức xạ Ion hóa là chiếu xạ ngoài khi nguồn chiếu xạ nằm
ngoài cơ thể và chiếu xạ trong khi nguồn chiếu xạ theo thức ăn vào trong cơ
thể. Nếu các chất phóng xạ có trong môi trường thì có thể nằm trong nguồn
lương thực, thực phẩm và xâm nhập vào cơ thể sinh vật. Tác hại của tia
Người thực hiện: Trần Thị Hồng Nhung
16
Đề tài nghiên cứu: Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG

phóng xạ làm chậm quá trình phận bào, làm đứt gãy cấu trúc nhiễm sắc thể
AND gây đột biến gen.
Vì vậy ô nhiễm môi trường phóng xạ cũng làm sức khỏe con người trở nên
nguy hiểm khi bị nhiễm chất phóng xạ từ môi trường.
6 Ô nhiễm môi trường xã hội:
- Ô nhiễm môi trường xã hội là môi trường đặc biệt chỉ xảy ra ở loài người ,
nó khác xa về bản chất đối với một số sinh vật có đời sống xã hội cao như, kiến.
Điểm khác cơ bản ở xã hội loài người được con người điều khiển bằng tư duy
trừu tượng trong quá trình tồn tại và phát triển. Còn ở độïng vật có đời sống xã
hội được tồn tại do bản năng di truyền sinh học. Chính sự khác biệt trên dẫn đến
khái niệm về ô nhiễm môi trường xã hội loài người khác hẳn với khái niệm ô
nhiễm môi trường tự nhiên. Ở môi trường tự nhiên nguyên nhân gây ô nhiễm có
bản chất là vật chất, còn ô nhiễm môi trường xã hội có bản chất là hoạt động tinh
thần tức ô nhiễm về tư duy trừu tượng.
- Ngày nay các nguy cơ về ô nhiễm môi trường tự nhiên trong tất cả các lĩnh
vực đều đạt đến mức độ cao, làm cho sự sống của hành tinh xanh chúng ta đứng
trước nguy cơ bị hủy diệt, mà nguyên nhân chính là sự ô nhiễm môi trường xã
hội hay ô nhiễm môi trường về tinh thần của con người gây ra. Hoạt động tư duy
của con người là đặc thù tiến hóa đặc biệt giúp cho con người thoát khỏi con vật
Người thực hiện: Trần Thị Hồng Nhung
17
Chất thải
gây ô nhiễm
phóng xạ.
Cỏ bị nhiễm
chất phóng xạ
Bò ăn cỏ bị
nhiễm chất
phóng xạ
Sữa bò bị

nhiễm chất
phóng xạ
Người
uống sữa
bị nhiễm
chất phóng
xạ
Đề tài nghiên cứu: Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
nhưng cần nhớ bản chất và nguồn gốc của con người tức là con sinh vật, do đó
con người còn có bản năng hoạt động là của con vật. Điều đó có Nghĩa trong
quần thể người sự phất triển tư duy theo hướng tiến hóa không đều nhau ở các cá
thể. Bởi vậy bên cạnh đa số người có tư duy lành mạnh và có tính nhân văn cao
vẫn còn tồn tại , những con người vẫn còn tồn tại và hoạt động theo từng lúc,
từng giai đoạn theo bản năng của con vật. Điều đó dẫn đến trong thực tế xã hội
loài người có một nhóm cá thể thuộc dạng mặt người dạ thú. Chính sự tồn tại và
hoạt động của nhóm người này là nguyên nhân gây nên ô nhiễm môi trường xã
hội và trực tiếp, gián tiếp gây ô nhiễm môi trường tự nhiên.
- Biểu hiện của sự ô nhiễm môi trường xã hội:
+ Mặc dù có cùng bản chất là tinh thần tức là suy nghĩ tư duy để hành
động nhưng các biểu hiện về xã hội cũng được phân ra nhiều dạng.
+ Biểu hiện ô nhiễm về mặt tư tưởng:
• Tư tưởng bành tướng mở rộng, tư tưởng này luôn có ở trong
quá khứ và tương lai, nó là nguy cơ gây ra cuộc chiến tranh lớn như
xâm lược, đô hộ, cấm vận, bao vây kinh tế
• Tư tưởng dân tộc hẹp hòi cần chống tư tưởng phân biệt chủng
tộc nó dẫn đến cuộc chiến tranh ác liệt, đẫm máu.
• Tư tưởng địa phương chủ Nghĩa nó kèm hãm sự phát triển kinh
tế xã hội địa phương.
• Tư tưởng nội dung tôn giáo. chính trị làm mất đoàn kết ở các
nước châu Á và rối loạn xã hội.

• Tư tưởng trọng nam kinh nữ để đảm bảo can đối xã hội mất tư
tưởng giới tính sẽ gây nên rối loạn xã hội.
• Tư tưởng tôn thờ vật chất là chống chống tư tưởng làm băng
hoại xã hội chống tư tưởng tôn thờ vật chất làm rối loạn xã hội.
Người thực hiện: Trần Thị Hồng Nhung
18
Đề tài nghiên cứu: Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
Tất cả các biểu hiện ô nhiễm trên đều dẫn đến các cuộc chiến tranh đẫm
máu ở các mức độ khác nhau trên hành tinh, làm chậm phát triển văn minh loài
người và gây ô nhiễm trầm trọng cho môi trường tự nhiên.
+ Biểu hiện ô nhiễm về văn hóa
• Thiếu tinh thần dân tộc trong việc sử dụng ngôn ngữ và chữ viết
trong hoạt động xã hội, hoạt động kinh doanh và quan hệ đối ngoại.
• Học đòi và tiếp thu mù quáng văn hóa phương Tây, không phù
hợp với nếp sống dân tộc.
• Xa lánh nền văn hóa dân tộc như hát tuồng, chèo, cải long,
• Lãng quen các phong tục tập quán cổ truyền của quê hương đất
nước , các lễ hội đình làng, thờ cúng các anh hùng dân tộc.
• Học đòi một cách thiếu thẫm mỹ về hình dáng trang phục , màu
sắc, kiểu dáng của nước ngoài.
Tất cả các biểu hiện trên đều có nguy cơ dẫn đến mất gốc, mất nước trước
những biểu hiện diễn biến hòa bình của kẻ thù.
+ Biểu hiện ô nhiễm về tôn giáo.
• Một số cá nhân lợi dụng tôn giáo phục vụ cho mục đích chính
trị mờ ám làm cản trở sự phát triển tiến bộ của xã hội.
• Lợi dụng mê tính vị đoan để lừa bịp, cướp đọt tài sản vật chất
của xã hội.
• Lợi dụng sự hoang man mất tự chủ của một số người trước sự
phát triển quá nhanh của khoa học kỹ thuật đã lập ra hàng nghìn đạo
giáo kỳ hoặt có mục đích tôn chỉ hoạt động khác hẳn xu thế tiến hóa

của thời đại dẫn đến các vụ thảm xác hàng loạt vào thế kỷ XX.
Tất cả các biểu hiện này đều dẫn đến sự rối loạn tôn giáo , chính trị ở nhiều
Quốc gia và khu vực như hiện nay.
Người thực hiện: Trần Thị Hồng Nhung
19
Đề tài nghiên cứu: Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
Như vậy, dù là ô nhiễm môi trường tự nhiên hay một môi trường xã hội thì
nó cũng làm cho đời sống xã hội loài người ngày càng suy thoái và gặp nhiều hiểm
họa do thiên tai trong tự nhiên gây ra mà con người và một số sinh vật trên trái đất
phải gánh chịu trước những hiểm họa mà không ai lường trước được, hậu quả có thể
xãy ra như thế nào . Vì thế để bảo vệ sự sống của con người và sinh vật, chúng ta
cùng chung tay bảo vệ môi trường trước một thảm họa hủy diệt của môi trường.
Phải cùng tìm ra các giải pháp làm cho môi trường được trong lành và tìm ra biến
pháp ngăn ngừa hiện tượng ô nhiễm môi trường một chặt chẽ. Làm được như thế,
thì sự sống của con người và sinh vậ mới được giải thoát trước nguy cơ hủy diệt mà
không gì có thể ngăn cản được trước những thiên tai mà thiên nhiên đã gây ra.

Người thực hiện: Trần Thị Hồng Nhung
20

×