Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

phong cách nghệ thuật Tô Hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 124 trang )


MAI THỊ NHUNG






phong cách nghệ thuật
TÔ HOÀI













NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC - 2006

2
LỜI GIỚI THIỆU

Trong số các tên tuổi hàng đầu của văn xuôi hiện đại Việt Nam, Tô Hoài là nhà
văn có sức sáng tạo dồi dào, bền bỉ và đa dạng vào bậc nhất. Ông chiêm kỷ lục về số
đầu sách - đến nay ông đã cho in trên 160 cuốn. Tô Hoài là cây bút rất đa dạng về đề


tài và thể loại. Ông viết nhiều, viết hay về Hà Nội xưa và nay, từ vùng quê ven thành
đen cuộc sống của nhiều tầng lớp cư dân thành phố. Ông là ng
ười có đóng góp to lớn
cho sự thành công của văn xuôi viết về miền núi và các dân tộc thiểu số. Tô Hoài từng
đặt chân đến nhiều đất nước, xứ sở ở gần hết các châu lục và đem đến cho bạn đọc
nhiều trang viết hấp dẫn về cảnh sắc, sinh hoạt phong tục vừa xa lạ vừa gần gũi ở
nhiều nơi trên thế giới. Tô Hoài là nhà văn yêu quý của nhi
ều thế hệ bạn đọc nhỏ tuổi,
không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước. Đến nay đã có trên 65 năm lao động nghệ
thuật bền bỉ, dẻo dai nhưng ngòi bút Tô Hoài vẫn cần mẫn, sáng tạo dường như thách
thức cả thời gian và tuổi tác.
Một nhà văn lớn có sự nghiệp sáng tác đồ sộ và đặc sắc như Tô Hoài tất phải thu
hút sự chú ý và hứng thú tìm hiểu, khám phá c
ủa giới nghiên cứu, phê bình. Kể từ bài
viết của Vũ Ngọc Phan trong bộ Nhà văn hiện đại (1943) đến nay, đã có trên dưới một
trăm bài viết lớn, nhỏ vào Hoài và tác phẩm của ông. Càng ngày, người ta lại càng
tìm thấy nhiều điều hấp dẫn, thú vị và có ý nghĩa từ đời văn, đời người của nhà văn
này. "Khám phá về ông cả về văn lẫn về đời là một say mê vớ
i chúng ta, những người
có hạnh phúc được cùng thời với ông, và chắc cả thế hệ sau. Khám phá về ông là cả
một vấn đề khoa học lớn lao nhưng trước hết với chúng tôi là đòi hỏi của tình cảm,
của tòng biết ơn, sự noi gương" (Vũ Quần Phương - Tô Hoài - văn và đời).
Nghiên cứu văn nghiệp phong phú, đồ sộ của Tô Hoài cần đến nhiều công trình và
nhiều cách tiếp cận. Chuyên luậ
n Phong cách nghệ thuật Tô Hoài của Mai Thị Nhung
là một hướng tiếp cận cần thiết và có ý nghĩa quan trọng để khám phá về sự nghiệp
văn học của nhà văn. Tìm ra được những đặc điểm trong phong cách nghệ thuật một
nhà văn tà đã nắm được đặc trưng cơ bản và bền vững của cách thụ cảm, của cái nhìn
về con người và đời sống, những đặc
điểm tạo nên tính thống nhất và độc đáo trong

thế giới nghệ thuật của nhà văn ấy. Nhưng khám phá phong cách nghệ thuật của nhà
văn, nhất là với những tác giả mà sự nghiệp sáng tác hết sức đa dạng, phong phú như
Tô Hoài không phải là công việc dễ dàng. Trên cơ sở kê thừa và phát triển nhiều nhận
định chính xác của các nhà văn, nhà nghiên cứu, công trình của Mai Thị Nhung đã
khái quát được một hệ
thống những đặc điểm của phong cách nghệ thuật Tô Hoài, từ
hạt nhân cơ bản là cảm quan hiện thực đời thường đến thê giới nhân vật đa dạng bình
dị, giọng điệu dí dỏm và ngôn ngữ dung dị tự nhiên đậm tính khẩu ngữ. Có thể còn có
những đặc điểm khác nữa của phong cách nghệ thuật Tô Hoài cần được tìm hiểu
thêm, ví như những đặc
điểm trong nghệ thuật trần thuật, kết cấu. Cũng có thể có
những cách khái quát khác về đặc điểm phong cách nghệ thuật Tô Hoài. Nhưng sự

3
khái quát và phân tích về phong cách nghệ thuật Tô Hoài của tác giả công trình này là
những cố gắng rất đáng ghi nhận, góp phần nghiên cứu sâu hơn về Tô Hoài và khẳng
định tài năng cũng cá tính sáng tạo độc đáo của nhà văn. Xin trân trọng giới thiệu
chuyên luận Phong cách nghệ thuật Tô Hoài với bạn đọc, đặc biệt là với những người
quan tâm và mến mộ nhà văn Tô Hoài.
Hà Nội, ngày 15 tháng 8 năm 2006
PGS. Nguyễn Văn Long
TRƯỜNG ĐẠI H
ỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI


























4
Lời nói đầu

Thế kỷ XX đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của nền văn học hiện đại Việt Nam.
Ở đó đã có bao nhà văn tự khẳng định vị trí và phong cách nghệ thuật của mình.
Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn học hiện đại nước nhà. Hơn 65 năm miệt mài
sáng tạo, ông đã đóng góp cho kho tàng văn học dân tộc hơn 160 đầu sách. Các chặng
đường sáng tác củ
a ông gắn bó chặt chẽ với từng bước đi của nền văn học hiện đại
Việt Nam. Từ khi xuất hiện trên văn đàn đến nay, sáng tác của Tô Hoài đã được
nghiên cứu về nhiều phương diện, nhiều phạm vi trên nhiều hướng tiếp cận. Tuy nhiên,
hầu hết những công trình nghiên cứu về Tô Hoài mới chỉ dừng lại ở một phương diện

nào đó ho
ặc trong một tác phẩm, hoặc trong sự nghiệp sáng tác của tác giả. Chúng tôi
nghĩ rằng với một tác giả có vị trí và sự cống hiên đặc biệt cho nền văn học dân tộc
như Tô Hoài, không thể chỉ dừng lại ở đó. Với suy nghĩ như thế, chúng tôi mạnh dạn
nghiên cứu vấn đề Phong cách nghệ thuật Tô Hoài.
Nghiên cứu phong cách nghệ thuật của một tác giả văn học quả
là một việc làm
không dễ dàng, đặc biệt là với Tô Hoài, khi ông đã có hơn 65 năm lao động nghệ thuật
nghiêm túc với hơn 160 đầu sách được sáng tác trong nhiều giai đoạn, nhiều thể loại,
nhiều đề tài. Tuy vậy, chúng tôi vẫn mong muốn tìm hiểu vấn đề này - một vân đề gai
góc mà lại thật lý thú.
Để nghiên cứu vấn đề đặt ra, chúng tôi đã cố gắng đi tìm hạt nhân phong cách
nghệ thuật Tô Hoài. Hạt nhân đ
ó sẽ chi phối toàn bộ thê giới nghệ thuật của tác giả.
Tất cả sẽ được quy tụ vào một bình diện đặc sắc làm nên phong cách nghệ thuật nhà
văn.
Với hướng đi và cách tiếp cận vấn đề như thế, bước đầu chúng tôi đã hoàn thành
nhiệm vụ đặt ra. Mặc dù rất cố gắng, song việc nghiên cứu chắc chắn không tránh
khỏi khiếm khuyết. Tác giả xin chân thành đ
ón nhận mọi ý kiên phê bình, góp ý của
bạn đọc và kính mong bạn đọc lượng thứ.
Tác giả









5
MỞ ĐẦU

Với hơn 85 năm tuổi đời, hơn 65 năm tuổi nghề và hơn 160 đầu sách đã xuất bản,
cho đến nay, Tô Hoài là một trong số ít nhà văn hiện đại nước ta đạt được nhiều con số
kỷ lục trong sự nghiệp sáng tác của mình. Tô Hoài là một nhà văn lớn của nền văn học
hiện đại Việt Nam. Trên hành trình sáng tạo hơn 65 năm không ngừng nghỉ, Tô Hoài
đã trải qua nhữ
ng mốc lịch sử và văn học đặc biệt: trước và sau Cách mạng tháng
Tám; trong chiến tranh và trong hoà bình; trước và sau thời kỳ đổi mới văn học. Sáng
tác của Tô Hoài lại đa dạng về đề tài và thể loại: từ đề tài miền xuôi đến đề tài miền
núi, từ truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện đồng thoại đến kịch bản phim, tiểu luận Ở đề
tài và thể loại nào, ông c
ũng ghi lại những dấu ấn riêng rõ nét. "Tô Hoài là một cây bút
văn xuôi sắc sảo và đa dạng" (Hà Minh Đức), luôn thể hiện đầy đủ bản lĩnh của người
cầm bút…
Tô Hoài là một nhà văn lớn, một nhà văn "vừa vào nghề soát lại vừa kéo dài tuổi
nghề - một sự kéo dài đàng hoàng chứ không phải lê lết trong tẻ nhạt" (Vương Trí
Nhàn). Trên nhiều trang viết của mình, ông luôn có "một giọng điệ
u riêng, một cách
nói riêng" (Phong Lê) sáng tạo độc đáo. Đóng góp của ông cho nền văn học hiện đại
Việt Nam là không thể phủ nhận. Lâu nay các nhà nghiên cứu văn học đã dành nhiều
sức lực, tâm huyết cho những sáng tác có giá trị của Tô Hoài, nhưng những công trình
coi phong cách Tô Hoài là đối tượng nghiên cứu chuyên biệt lại chưa được chú trọng.
Chúng tôi nghĩ rằng, Tô Hoài là một nhà văn lớn, sừng sững đứng trên cánh đồng văn
ch
ương hiện đại nước nhà, rất xứng đáng được dành một đề tài chuyên biệt để nghiên
cứu phong cách nghệ thuật của ông.
Tô Hoài chính thức vào nghề văn từ truyện ngắn Nước lên (1940). Tác phẩm của
nhà văn lâu nay đã trở thành đối tượng nghiên cứu cho nhiều nhà nghiên cứu phê bình

văn học trong và ngoài nước.
Trước năm 1945, Tô Hoài đã có một số lượng đầu sách đáng kể tiểu thuyết
Quê
người, Giăng thề, tập truyện ngắn O Chuột, hồi ký Cỏ dại, tập truyện ngắn Nhà
nghèo ), nhưng số lượng công trình nghiên cứu về tác giả chưa nhiều. Người đầu tiên
nghiên cứu văn chương Tô Hoài là nhà nghiên cứu phê bình Vũ Ngọc Phan. Trong
Nhà văn hiện đại (1943 ) Vũ Ngọc Phan đã xếp: "Tiểu thuyết của Tô Hoài thuộc loại
tả chân, có khuynh hướng về
xã hội". Ngay từ những tác phẩm giai đoạn này, Tô Hoài
đã bộc lộ nét riêng độc đáo trong cách nhìn và giọng điệu văn chương. Từ tiểu thuyết
Quê người, ông tỏ ra là một nhà tiểu thuyết có con mắt quan sát sâu sắc, phát hiện "cả
những cách sống cùng cực, rất đáng thương của người dân quê”, cả "những màu tươi
tắn ở cái tính rất nhẹ nhàng, ở cái tính chất phác và không lo xa của người dân quê
nữ
a". Tô Hoài là một nhà văn có tài quan sát nên "từ ngôn ngữ, cử chỉ, thói tục cho
đến những cảnh sinh hoạt của những người dân quê Tô Hoài đều đã tả với nghệ thuật
chân xác". Không những thế, ngay từ tập truyện ngắn O Chuột.( 1942), Tô Hoài đã "tỏ

6
ra không giống một nhà văn nào trước ông và cũng không giống một nhà văn nào mới
nhập tịch làng văn như ông". Ông có một "lối văn" đặc biệt, "một lối văn dí dỏm, tinh
quái đầy những phong vị và màu sắc của thôn quê".
Sau năm 1945, những công trình nghiên cứu về văn chương Tô Hoài khá nhiều.
Các tác giả tâm huyết với văn chương Tô Hoài tiêu biểu là Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức,
Nguyễn Đăng Mạnh, Phong Lê, Vân Thanh, Trần Hữ
u Tá, Nguyễn Văn Long, Vương
Trí Nhàn, Đoàn Trọng Huy, Nguyễn Đăng Điệp Nhìn chung, các tác giả đều thống
nhất nhận thấy, Tô Hoài có năng khiếu quan sát nổi trội. Ông quan sát vừa có diện,
vừa có điểm. Cái nhìn tinh tế sắc sảo mang tính ổn định và in đậm dấu ấn riêng. Phan
Cự Đệ đã nhận thấy "Tô Hoài có một khả năng quan sát đặc biệt, rất thông minh hóm

hỉnh và tinh tế. Nhất trí với ý kiế
n đó, Nguyễn Đăng Mạnh chỉ rõ: "Nhà văn có một
khiếu quan sát hết sức phong phú và sắc sao tài hoa". Hà Minh Đức trong đi giới thiệu
Tô Hoài cũng đã khẳng định: "Tô Hoài có một năng lực phát hiện và nắm bắt nhanh
chóng thế giới khách quan". Trần Hữu Tá chỉ rõ năng lực đặc biệt của Tô Hoài chính
là "nhãn quan phong tục đặc biệt nhạy bén sắc sảo, Nguyễn Văn Long nhấn mạnh: "ở
Tô Hoài, cả
m quan hiện thực nghiêng về phía sinh hoạt và phong tục". Vương Trí
Nhàn quả quyết: "Tô Hoài lõi đời, sành sỏi, con ruồi bay qua không lọt khỏi mắt".
Nguyễn Đăng Điệp khái quát: "Cái nhìn không nghiêm trọng hoá là nét trội trong cảm
quan nghệ thuật của Tô Hoài"
Như vậy là, khả năng quan sát, cái nhìn hiện thực tinh tế sắc sảo của Tô Hoài là
một yếu tố nổi trội thuộc năng khiếu bẩm sinh của nhà văn. Nó là hạt nhân phong cách
nghệ thu
ật tác giả bởi chính năng khiếu này đem đến chất liệu hiện thực riêng trong
sáng tác của Tô Hoài.
Thế giới nhân vật trong sáng tác của Tô Hoài là một trong những phương diện
được các nhà nghiên cứu nhìn nhận khá thống nhất. Phan Cự Đệ cùng với những phát
hiện về khả năng quan sát của Tô Hoài đã khẳng định: "Anh quen viết về những nhân
vật, những cảnh đời hồn nhiên như hơi thở củ
a sự sống, khoẻ mạnh, thuần phác, lạc
quan như những con người trong truyện cổ tích. Trữ tình, trong sáng đẹp và ý nhị như
ca dao".
Bên cạnh đó, ông cũng nhấn mạnh rằng, thế giới nhân vật của Tô Hoài còn có
những hạn chế nhất định: "Anh chưa thật thành công khi thể hiện những bước ngoặt
của tính cách". "Anh ít khai thác nhân vật của mình ở góc độ trí tuệ, ở sự bừng tỉnh trí
tuệ và hầu như cũng chưa có nhân vật trí tuệ nào được miêu tả thành công trong tác
phẩm của anh". Đáng chú ý là ý kiến của Nguyễn Đăng Mạnh trong bài viết Tô Hoài
với quan niệm "con người là con người ", tác giả khẳng định: "Tô Hoài quan niệm con
người là con người, chỉ là con người, thế thôi". Vì thế, nhân vật của ông được khai

thác "toàn chuyện đời tư, đời thường". Ngay cả "nhân vật cách mạng, nhân vật anh
hùng của ông thường ít
được lý tưởng hoá. Tô Hoài không thích che đậy phương diện
người thường, đời thường của những chiến sỹ cách mạng. Ngay cả thế giới loài vật của

7
Tô Hoài cũng vậy thôi, chẳng có những phượng hoàng, kỳ lân, chẳng có hổ, báo, sư tử
ghê gớm gì, chỉ toàn những con vật tầm thường vẫn sinh sống hằng ngày quanh ta".
Đặc điểm riêng này khiến thế giới nhân vật Tô Hoài phong phú, đa dạng và gần gũi
với mỗi chúng ta.
Đặc biệt là văn phong, giọng điệu, ngôn ngữ Tô Hoài, những phương diện đã được
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm nhận diệ
n. Vân Thanh khẳng định: "Ngôn ngữ Tô
Hoài thường ngắn gọn và rất gần với khẩu ngữ của nhân dân lao động". Ý kiến đó
được phân Cự Đệ tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh: "Tô Hoài đã chú ý học tập ngôn
ngữ nghề nghiệp và ngôn ngữ địa phương". "Trong tác phẩm của Tô Hoài nhìn chung
ngôn ngữ của quần chúng đã được nâng cao, nghệ thuật hoá". Cùng với Phan Cự Đệ,
Bùi Hiển thấy rằng: "V
ăn phong Tô Hoài chủ yếu làm bằng những nét nhẹ, mảnh,
nhuần nhị, tinh tế, đôi khi hơi mờ ảo nữa".
Nhất trí với nhận định ấy, Hà Minh Đức, Trần Hữu Tá, Nguyễn Văn Long, Vũ
Quần Phương, Trần Đình Nam, Lê Phòng, Nguyễn Đăng Điệp, trong các công trình
nghiên cứu của mình tiếp tục có những nhận xét sắc sảo: "Khi miêu tả thiên nhiên
cũng là lúc văn của Tô Hoài đậm màu s
ắc trữ tình và giàu chất thơ" (Hà Minh Đức);
"Tô Hoài có khả năng quan sát tinh tế và nghệ thuật miêu tả sinh động. Người, vật,
thiên nhiên, cảnh sinh hoạt tất cả đều hiện lên lung linh, sống động, nổi rõ cái "thán"
của đối tượng và thường bàng bạc một chất thơ" (Trần Hữu Tá); "Tô Hoài có biệt tài
miêu tả sinh hoạt và phong cảnh miền xuôi cũng như miền núi và có một lối kể truyện
rất tự nhiên, dí dỏm, có khi tinh quái, (Nguy

ễn Văn Long); "Viết về cái của mình,
quanh mình là định hướng nghệ thuật và cũng là kênh thẩm Mỵ của Tô Hoài. Đúng
hơn, đây là yếu tố cốt lõi làm nên quan niệm nghệ thuật của ông. Nó khiến cho văn Tô
Hoài có được phong cách, giọng điệu riêng. Đó là một giọng kể nhẩn nha, hóm hỉnh và
tinh quái" (Nguyễn Đăng Điệp)
Các nhận xét trên, tuy đã đề cập đến một số phương diện th
ể hiện phong cách nghệ
thuật Tô Hoài, nhưng chủ yếu mới là những nhận định nằm rải rác trong các công trình
nghiên cứu mang tính khái quát, giới thiệu. Phong cách nghệ thuật tác giả được coi là
một đối tượng chuyên biệt thì chưa có một công trình khoa học nào. Chính vì thế, việc
nghiên cứu dưới góc độ phong cách học toàn bộ sáng tác của Tô Hoài là một việc làm
rất cần thiết và có ý nghĩa. Đặc biệt là với Tô Hoài khi ông đã cống hiến cho nền v
ăn
học hiện đại nước nhà hơn 1 60 đầu sách trong một thời gian dài hơn nửa thế kỷ đã
qua.
Tìm hiểu phong cách nghệ thuật Tô Hoài là tìm hiểu một trong những phương diện
cơ bản nhất nhằm ghi nhận những thành tựu sáng tạo của nhà văn. Chúng tôi nghĩ
rằng, tìm hiểu phong cách nghệ thuật Tô Hoài là phải đi từ yếu tố hạt nhân chi phối
toàn bộ thế giới nghệ
thuật của tác giả - từ cảm quan hiện thực đến việc xây dựng hình
tượng nhân vật, giọng điệu và ngôn ngữ, để chỉ ra những đặc sắc làm nên nét riêng độc
đáo ở tác giả.

8
Trong quá trình nghiên cứu sáng tác của Tô Hoài, chúng tôi nhận thấy, phong cách
nghệ thuật của ông được hình thành và phát triển trong từng giai đoạn sáng tác, tuy
nhiên, do áp lực của thời đại, có chặng đường các yếu tố thể hiện phong cách nhà văn
chìm dưới mạch ngầm nhưng không hoàn toàn mất đi. Công việc của chúng tôi là, tìm
ra được phong cách nghệ thuật Tô Hoài thể hiện qua toàn bộ các chặng đường sáng
tác, các thể loại, các đề tài của nhà văn. Vì thế, đối tượng khả

o sát của chúng tôi là
toàn bộ sáng tác của tác giả. Tuy nhiên, số lượng tác phẩm của Tô Hoài rất phong phú,
cho nên, khi nghiên cứu chúng tôi sẽ tập trung nhiều hơn vào những tác phẩm tiêu biểu
của nhà văn trong mỗi thể loại qua từng chặng đường sáng tác. Để tìm hiểu phong
cách Tô Hoài, chúng tôi còn đặt tác giả trong sự tương quan với các nhà văn có phong
cách khác để thấy rõ những yếu tố làm nên nét đặc trưng riêng trong sáng tác của ông.
Phong cách là một thuật ngữ không chỉ được dùng trong lĩnh v
ực văn học nghệ
thuật, mà còn được dùng trong nhiều ngành khoa học và đời sống xã hội. Trong sáng
tác và nghiên cứu văn học, thuật ngữ phong cách được sử dụng rộng rãi và ngày càng
có ý thức. Xung quanh thuật ngữ này, lâu nay có rất nhiều định nghĩa, quan niệm
phong phú, đa dạng.
Ở phương Tây, ngay từ thời cổ đại, với các đại biểu xuất sắc như Platon, Aristote,
khái niệm phong cách đã được nghiên cứu vận dụng. B
ước sang thế kỷ XIX, đặc biệt
là thế kỷ XX, khái niệm phong cách ngày càng được quan tâm sâu sắc. Chỉ ngay ở
Liên Xô, viện sỹ M.B. Khrapchenkô trong cuốn Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự
phát triển văn học đã thống kê tới gần 20 cách hiểu khác nhau về phong cách [121,
129- 152]. Ngoài ra còn phải kể đến công trình của V.V.Vinôgrađôp [198], của
D.X.Likhatsep [134], các công trình của M.B. Khrapchenkô [121], [122], [123]
Ở nước ta, tuy muộn màng hơn, nhưng những năm gần đây, các nhà lý luận nghiên
cứu v
ăn học đã dành nhiều công sức tìm hiểu vấn đề phong cách. Từ những sách công
cụ như: Từ điển văn học do Đỗ Đức Hiểu chủ biên [54], Từ điển thuật ngữ văn học do
Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi chủ biên [46], 150 thuật ngữ văn học
do Lại Nguyên Ân biên soạn [2], Lý luận văn học do Hà Minh Đức chủ biên[36], Lý
luận văn học - ván đề và suy nghĩ của Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương [48], Lý
luận văn học của Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La
Khắc Hoà, Thành Thế Thái Bình [143]; Các công trình khoa học: Dẫn luận phong
cách học [56], Những vấn đề thi pháp của truyện của Nguyễn Thái Hoà [57], Dẫn luận

thi pháp học của Trần Đình Sử
[176], Nghiên cứu văn học - Lý luận và ứng dụng của
Nguyễn Văn Dân [12] đến các công trình đi sâu nghiên cứu phong cách tác giả cụ
thể: Tác phẩm và chân dung của Phan Cự Đệ [22], Thơ và mấy vân đề trong thơ Việt
Nam hiện đại của Hà Minh Đức [31], Nhà văn tư tưởng và phong cách của Nguyễn
Đăng Mạnh [148], Văn học và học văn của Hoàng Ngọc Hiế
n [52], Văn học Việt Nam
trong thời đại mới của Nguyễn Văn Long [139], Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du
trong Truyện Kiều của Phan Ngọc [156], Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu
cua Tôn Phương Lan [129] Có thể nhận thấy, qua các công trình nghiên cứu trên, có

9
hai cách nhìn nhận về phong cách: một từ góc độ ngôn ngữ học, một từ góc độ văn
học. Tiêu biểu là ý kiến của V.V.Vinôgrađôp. ông thấy rằng: cần chia phong cách học
về văn học thành phong cách học thuộc ngôn ngữ học và phong cách học thuộc nghiên
cứu văn học [1984]. Nhất trí với ý kiến đó, D.X.Likhatsep cũng đề nghị phân biệt hai
khái niệm phong cách: "phong cách như là hiện tượng ngôn ngữ văn học và phong
cách nh
ư là một hệ thống hình thức và nội dung nhất định" [1944]. Như vậy về cơ bản,
các nhà lý luận và nghiên cứu văn học đều thống nhất có phong cách ngôn ngữ học và
phong cách văn học. Trong đó, mỗi phạm trù có con đường tiếp cận riêng. Nhận thấy
vai trò của việc nghiên cứu phong cách văn học, DX Likhatsep viết: "Cái gọi là phong
cách học vãn học" là kiểu nghiên cứu phong cách duy nhất, thích ứng, phù hợp với
nh
ững đặc điềm về chất của đối tượng của nó của tác phẩm nghệ thuật ngôn từ”.
Vậy phong cách thuộc khoa học văn học là gì ?
Viện sỹ Nga D.X.Likhalsep trong cuốn Thi pháp văn học Nga cổ định nghĩa:
phong cách "là một hệ thống hình thức và nội dung nhất định", là "nguyên tắc thẩm
Mỵ để cấu trúc toàn bộ nội dung và toàn bộ hình thức". Tác giả đặc biệt nhấ
n mạnh sự

kết hợp hài hoà giữa hai yếu tố nội dung và hình thức của tác phẩm nghệ thuật. Trong
khi đó V. Đnepôp lại cho rằng phong cách được coi như là hình thức toàn vẹn có lính
nội dung. ông phát biểu: "phong cách là mối liên hệ của những hình thức, mối liên hệ
đó bộc lộ sự thống nhất của nội dung nghệ thuật".
Viện sỹ M.B. Khrapchenkô sau khi thống kê một số định nghĩa xung quanh phạm
trù phong cách cá nhân, đã đưa ra ý kiến của riêng mình: "Phong cách cần phải được
định nghĩa như thủ pháp biểu hiện cách khai thác hình tượng đội với cuộc sống, như
thủ pháp thuyết phục và thu hút độc giả" [121, 152]. Như vậy, cùng với việc quan tâm
đến yếu tố hình thức có tính nội dung, tác giả còn đặc biệt coi trọng sự thu hút độc giả.
ông cho rằng mỗi một nhà văn có tài đều đi tìm những biện pháp và những ph
ương
tiện độc đáo để thể hiện những tư tưởng và hình tượng của mình, những biện pháp và
những phương tiện cho phép nhà văn đó làm cho những tư tưởng và những hình tượng
ấy trở thành hấp dẫn, dễ lôi cuốn, gần gũi với công chúng độc giả. Và điều đó cũng có
nghĩa là nhà văn tạo ra được phong cách. Trên cơ sở phân tích như vậy, Viện sỹ r
ất
nhất trí với nhận xét của Gôlxuôrxy. "Phong cách - đó là khả năng các nhà văn khắc
phục những chướng ngại vật giữa mình và độc giả, còn sự thành công cao nhất của
phong cách là ở sơ giao tiếp chặt chẽ với độc giả".
Như vậy, xung quanh khái niệm phong cách còn có những quan điểm khác nhau.
Tựu trung lại có hai ý kiến cơ bản: một nhấn mạnh sự thống nhất của những y
ếu tố nội
dung và những yếu tố tạo hình thức của tác phẩm; một cho rằng phong cách được coi
như là hình thức toàn vẹn có tính nội dung. Mặc dù tách bạch như váy nhưng trong đó
có sự thống nhất bởi các tác giả đều quan tâm đặc biệt đến hai yếu tố bộc lộ tài năng
độc đáo của người nghệ sỹ - nội dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm v
ăn
chương.

10

Trước những quan niệm như vậy, M.B.Khrapchenkô nhấn mạnh: "Không nên thần
thánh hoá những thuật ngữ và những định nghĩa, không nên cho rằng chúng là chiếc
chìa khoá duy nhất để khám phá tất cả những bí mật của nghệ thuật". Vấn đề là ở chỗ
"những định nghĩa không phải là mục đích tự thân và không phải là chiếc gậy thần có
thể làm ra những điều kỳ diệu, chúng chỉ là phương ti
ện nhận thức những hiện tượng,
những quá trình" [121,130].
Các nhà lý luận, nghiên cứu văn học nước ta cũng đã bỏ nhiều công sức nghiên
cứu nội hàm thuật ngữ phong cách. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyên Khắc Phi trong
cuốn Từ điển thuật ngữ văn học trên cơ sở thừa nhận hai phạm trù phong cách ngôn
ngữ và phong cách nghệ thuật, đã định nghĩa: "Phong cách nghệ thuật là mộ
t phạm trù
thẩm mỹ, chịu sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các
phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà
văn, trong một tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc". Và
khẳng định: "Trong chỉnh thể "nhà văn" (hiểu theo nghĩa là các sáng tác của một nhà
văn), cái riêng tạo nên sự
thống nhất lặp lại ấy biểu hiện tập trung ở cách cảm nhận
độc đáo về thế giới và ở hệ thống bút pháp nghệ thuật phù hợp với cách cảm nhận ấy".
Thống nhất với quan điểm đó, Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, La
Khắc Hoà, Thành Thế Thái Bình trong cuốn Lý luận văn học định nghĩa: "Phong cách
là chỗ
độc đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật có phẩm chất thẩm Mỵ thể hiện trong
sáng tác của những nhà văn ưu tú”. Quả thật tính độc đáo là yếu tố quyết định tạo
phong cách nghệ thuật. Từ lâu khi nghiên cứu Ý niệm cái đẹp trong nghệ thuật hay lý
tưởng, G.W. Pa.Hê ghen đã khẳng định: "Phong cách nói chung bao hàm tính chất độc
đáo của một chủ thể nhất
định. Chủ thể này sẽ biểu lộ ở trong phương thức biểu đạt,
trong cách nói năng ". Ông nhấn mạnh, hạt nhân của phong cách nghệ thuật là "tính
chất độc đáo của một chủ thể nhất định". Và theo G.W. Hê ghen "tính chất độc đáo

chân chính" là "sự sáng tạo duy nhất của một tinh thần không lấy những tài liệu và
chắp vá tài liệu gồm từng mảnh ở bên ngoài. Trái lại, nó tạo nên một th
ể hoàn chỉnh
nhất phiến gắn liền với nhau chặt chẽ, nói lên một điều duy nhất và được phát triển
thông qua bản thân phù hợp với cách chính đối tượng được hợp nhất ở trong chủ thể".
Nhìn chung các nhà lý luận và nghiên cứu văn học đều nhấn mạnh cá tính sáng tạo,
độc đáo mang tính thẩm Mỵ của nhà văn. Cụ thể hoá các yếu tố tạo phong cách nghệ
thuật tác giả, các nhà nghiên cứ
u đều thống nhất nhà văn muốn có phong cách riêng,
trước hết phải có tư tưởng độc đáo, có cách cảm nhận thế giới độc đáo, có cảm hứng
độc đáo, có hệ thống phương thức riêng độc đáo lẽ dĩ nhiên phải là tính chất độc đáo
chân chính" (Hê ghen). Xung quanh khái niệm phong cách tác giả, vấn đề còn đặt ra là
phong cách tác giả có quan hệ với phong cách thời đại, phong cách trào lưu văn học
nh
ư thế nào? Giữa phong cách với thi pháp liên quan với nhau ra sao?
Nghiên cứu phong cách, ngoài phong cách tác giả, người ta còn nghiên cứu phong
cách thời đại, phong cách trào lưu, nghĩa là cái chung, cái tạo nên sự gần gũi nhau của

11
những phong cách cá nhân. Quan tâm đến mối quan hệ này, A.Xôkôlôv viết: "Hình
thức chủ yếu của sự thống nhất phong cách là khuynh hướng nghệ thuật - phạm trù cơ
bản của quá trình nghệ thuật. Phong cách của khuynh hướng- đó là tính cộng đồng của
những đặc điểm phong cách khiến cho sáng tác của những nghệ sỹ thuộc một khuynh
hướng nhất định gần gũi nhau phong cách riêng lẻ không thể tồn tại n
ếu thiếu cái
chung, thiếu phong cách của khuynh hướng. Phong cách bao giờ cũng bắt nguồn từ cái
chung". Đành rằng phong cách khuynh hướng có ảnh hưởng, tác động trực tiếp tới
phong cách cá nhân nhưng không thể đề cao một cách tuyệt đối phong cách của
khuynh hướng khi mà tác giả cho rằng "phong cách riêng lẻ không thể tồn tại nếu thiếu
cái chung, thiếu phong cách của khuynh hướng. Phong cách bao giờ cũng bắt nguồn từ

cái chung" ấy. Bởi lẽ một khi đề
cao tuyệt đối như vậy đã vô hình làm giảm ý nghĩa
của phong cách cá nhân.
Giữa phong cách học và thi pháp học cũng có những mối quan hệ qua lại. Có
trường phái cho rằng phong cách và thi pháp đều thuộc một phạm trù, chúng tồn tại
trong tác phẩm nghệ thuật ngôn từ như một điều hiển nhiên. Lại có trường phái tuyệt
đối hoá hai khái niệm này một cách cực đoan cho rằng, giữa phong cách và thi pháp
không có quan hệ ràng buộc gì với nhau. Thực ra phong cách và thi pháp là hai ph
ạm
trù khoa học có nội hàm riêng.
V.V.Vinôgrađôp định nghĩa thi pháp học như là khoa học "về các hình thức, các
phương tiện và phương thức tổ chức của các tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, về các kiểu
cấu trúc và các thể loại tác phẩm văn học", như là một khoa học có xu hướng bao quát
"không chỉ các hiện tượng ngôn từ thi ca mà còn cả những phương diện rất đa dạng
của các tác phẩm vă
n học thành văn và phong cách của sáng tác ngôn từ dân gian".
Ông nhấn mạnh: "Thi pháp học không thể không nghiên cứu cấu tạo bên trong các tác
phẩm nghệ thuật, các thể loại văn học không thể không nghiên cứu sự phát triển của
các thể loại cũng như các nguyên tắc chung của việc thể hiện đời sống trong sáng tác".
Tuy vậy, tác giả mới chỉ dừng lại ở hình thức, phương tiện, phương thức, chưa đề c
ập
đến những nguyên tắc, phương pháp sáng tác mà thiếu những yếu tố này thì chưa thể
hiểu được cấu trúc của các tác phẩm văn học.
M.B.Khrapchenkô rất thận trọng khi phát biểu quan niệm về thi pháp học. Ông viết
"không thể kỳ vọng một định nghĩa thật đầy đủ, thật bao quát", nhưng có thể xác định
"Thi pháp học như một bộ môn khoa học nghiên cứu các phương thức và phương tiệ
n
thể hiện cuộc sống bằng nghệ thuật, khám phá cuộc sống bằng hình tượng". Theo ông
đối tượng của thi pháp học, phạm vi những hiện tượng chủ yếu mà thi pháp học nghiên
cứu bao gồm các phương diện và thuộc tính khác nhau của sự lĩnh hội thế giới bằng

hình tượng. Do vậy "việc nghiên cứu các phong cách cũng được bao gồm vào đây trên
bình diện chung".
"Chẳng có căn cứ chặt chẽ
nào để đồng nhất thi pháp học và phong cách học, hoặc
để chia tách dứt khoát chúng với nhau [123, 236]. Theo M.B. Khrapchenkô, phong

12
cách học và thi pháp học có "tính độc lập tương đối", có "sự liên hệ năng động". Vì
vậy chúng có quan hệ rất mật thiết với nhau. Nghiên cứu phong cách không thể không
nghiên cứu những yếu tố thuộc phạm trù thi pháp và ngược lại, thi pháp là cơ sở khoa
học, là bằng chứng đầy sức thuyết phục để làm nên phong cách tác giả. Mối liên quan
ấy được viện sỹ M.B.Khrapchenkô tiếp tục khẳng định: "Thi pháp và phong cách là
những hiện t
ượng liên quan mật thiết với nhau, tuy nhiên những nguyên tắc của thi
pháp có tính chất chung hơn so với những đặc điểm của phong cách".
Trở lại khái niệm phong cách, chúng tôi nhất trí với quan niệm cho rằng: "Nói đến
phong cách là nói đến những biểu hiện độc đáo của tài năng sáng tạo nghệ thuật, có
tính thống nhất và tương đối ổn định, được "lặp đi lặp lại" trong nhiều tác phẩm của
nhà v
ăn, thể hiện cái nhìn và sự chiếm lĩnh nghệ thuật độc đáo của nhà văn đối với thế
giới và con người" [24, 16].
Như vậy, căn cứ duy nhất để khẳng định phong cách tác giả là những đặc điểm nổi
bật (về nội dung và hình thức) trên từng tác phẩm văn học tạo nên tính độc đáo và giá
trị của một nhà văn, một hiện tượ
ng văn học. Theo chúng tôi, những biểu hiện độc đáo
và giá trị thể hiện tài năng sáng tạo nghệ thuật ấy, đều được chi phối từ tư tưởng nghệ
thuật của tác giả. Tư tưởng nghệ thuật ấy lại được cụ thể hoá trong cảm quan hiện
thực, cảm hứng sáng tác chủ đạo, thế giới nhân vật, giọng điệu và ngôn ngữ
Trong
đó cảm quan hiện thực là yếu tố hàng đầu có vị trí quan trọng. Nhà văn Nguyên Tuân

đã từng khẳng định: "Mỗi người viết có một cái vision (nhỡn quan) riêng. Nó đẻ ra
phong cách".
Phong cách nhà văn là một quá trình vận động, phát triển không ngừng qua mỗi
giai đoạn sáng tác. Mặc dù vậy, cái riêng độc đáo có giá trị mang tính thẩm Mỵ - cốt
lõi phong cách, dù ở điều kiện hoàn cảnh nào cũng ổn định, thống nhất. Nó phải
được
"lặp đi lặp lại, một cách có hệ thống và luôn bị chi phối bởi cái nhìn độc đáo của nhà
văn. Chúng thường xuyên ở thế vận động, phát triển và chịu ảnh hưởng của thế giới
quan, môi trường xã hội và xu thế chung của thời đại. Nhưng dù ở môi trường nào, xu
thế xã hội ra sao, yếu tố thường xuyên được "lặp đi lặp lại" ấy vẫn xuấ
t hiện cho dù
chúng ở thế lộ thiên hay dưới mạch ngầm.
Nghiên cứu phong cách nghệ thuật Tô Hoài sẽ được chúng tôi nhìn nhận trên cơ sở
định hướng như vậy. Yếu tố nổi trội vừa mang tính ổn định, độc đáo, vừa chi phối các
yếu tố khác làm nên thế giới nghệ thuật riêng của Tô Hoài là cảm quan hiện thực đời
thường.






13
Chương 1
CẢM QUAN HIỆN THỰC ĐỜI THƯỜNG - HẠT NHÂN
PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT TÔ HOÀI


Văn học phản ánh hiện thực. Hiện thực khách quan hiện diện trong tác phẩm nghệ
thuật bao giờ cũng thẩm thấu qua lăng kính chủ quan của người nghệ sỹ. Lý giải vấn

đề này, Gót đã chỉ rõ: "Nghệ thuật không cố gắng đua với tự nhiên trong toàn bộ bề
rộng và chiều sâu của tự nhiên, nó bám vào mặt ngoài các hiện tượng của tự nhiên,
nhưng nó có cái chiều sâu riêng củ
a nó, cái sức mạnh riêng của nó, nó ghi lại những
khoảnh khắc sâu sắc nhất của các hiện tượng bên ngoài ấy, làm phát lộ những gì có
tính quy luật ở chúng, sự hoàn thiện của những cân đối hợp lý, đỉnh cao của cái đẹp,
giá trị của ý nghĩ tư tưởng, độ mạnh của say mê.
Vậy để tỏ lòng biết ơn tự nhiên đã sản sinh ra cả bản thân mình, người nghệ sỹ
dâng trả
lại cho tự nhiên một tự nhiên thứ hại nào đó. Song đây là một tự nhiên được
sinh ra từ tình cảm và tư tưởng, một tự nhiên được hoàn thiện bởi con người".
Như vậy, mỗi nghệ sỹ có sự cảm nhận về thế giới hiện thực khách quan khác nhau
nên sự tái hiện, "dâng trả" cho hiện thực khách quan cũng khác nhau. Sự "dâng trả" ấy
thể hiện trong từng tác phẩm nghệ thu
ật, trong cả gia tài nghệ thuật của họ. Căn cứ duy
nhất để khảo sát, nhận diện bức tranh hiện thực của người nghệ sỹ là tác phẩm nghệ
thuật.
Các tác giả A.Ja Gurevich khi bàn về Các phạm trù Văn hoá Trung cổ, Mai
Nauđôp - tác giả cuốn Tâm lý học sáng tạo văn học đều chú ý đến sự cảm thụ và nhận
thức thế giới. Mai Nauđôp cho rằng, ngườ
i nghệ sỹ là người "cực kỳ nhạy cảm", nên
"anh ta nhanh chóng nhận xét, tóm bắt trúng được tất cả những gì thu hút sự chú ý của
mình, để lại những dấu ấn khống gì xoá nổi trong tâm khảm".
Chu Văn Sơn khi nghiên cứu cảm quan nghệ thuật Xuân Diệu đã có ý kiến xác
đáng: "Có thể hiểu cảm quan như là lối cảm nhận riêng trong đó chứa đựng quan niệm
và cách cắt nghĩa riêng về thế
giới của người nghệ sỹ. Trong những trường hợp thật
điển hình, cảm quan ấy thường đọng lại trong những hình mẫu tổng quát nào đó. Nó
khiến cho cảnh quan thế giới đi vào tâm hồn người nghệ sỹ được khúc xạ qua hình
mẫu ấy. Do đó, khi hiện hình trong sáng tạo thế giới xung quanh sẽ hiện ra như những

biến thể, những hoá thân, phân thân khác nhau của cái hình mẫu ấy". Chúng tôi nhấ
t trí
với quan niệm: cảm quan hiện thực chính là "lối cảm nhận riêng" của người nghệ sỹ về
thế giới hiện thực khách quan. "Lối cảm nhận riêng" này được huy động tổng lực từ
những phẩm chất trí tuệ, phẩm chất tâm hồn, tài năng bẩm sinh của mỗi nhà văn. "Lối
cảm nhận riêng" này vừa thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về th
ế giới khách quan, vừa ghi
lại dấu ấn riêng sáng tạo không thể phai mờ của người nghệ sỹ. Dấu ấn riêng là xuất

14
phát điểm, nền tảng để họ xây dựng thế giới nghệ thuật của mình, để tạo ra những dấu
hiệu thẩm Mỵ độc đáo và có giá trị làm nên phong cách nhà văn.
Trong sáng tác của Tô Hoài, chúng lôi nhận thấy, trước cuộc sống hiện thực muôn
màu muôn vẻ, nhà văn đặc biệt quan tâm và có niềm say mê mãnh liệt với con người
và cuộc sống đời thường - đó là cuộc sống sinh hoạt, quan h
ệ thế sự, là những sinh
hoạt phong tục, tập quán trong cuộc sống bình thường của lớp người lao động bình dân
và lớp dân nghèo thành thị. Yếu tố thể hiện tư tưởng nghệ thuật và có tính chất quyết
định được coi là hạt nhân phong cách nghệ thuật Tô Hoài là cảm quan hiện thực đời
thường.
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH CẢM QUAN HIỆN THỰC ĐỜI THƯỜNG Ở TÔ
HOÀI
1. Hoàn cảnh gia đình, xã hộ
i và bản thân
a. Hoàn cảnh gia đình và xã hội
Tô Hoài sinh ra và lớn lên tại quê ngoại, trong một gia đình nghèo làm nghề thủ
công ở làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy,
Hà Nội. Hoàn cảnh đó khiến nhà văn khi được sống trong những niềm vui bình dị, khi
lại phải chứng kiến những nỗi buồn thấm thía xót xa. Ngay từ nhỏ, ông đã sớm hoà
mình trong cuộc số

ng của gia đình lúc phong lưu cũng như khi sa sút, túng quẫn. Tô
Hoài cũng đã cảm nhận được niềm vui sum họp và nỗi buồn trong cảnh chia ly. Người
cha vô cùng yêu quý, rất cưng chiều anh em "thằng cu" sớm phải từ giã quê hương vào
đồng đất Sài Gòn kiếm sống, vì đã đi tìm việc nhiều nơi ở Hà Nội nhưng không được.
Người mẹ hiền lành, tần tảo, suốt một đời cam chịu số phậ
n nhọc nhằn là mảnh đời
sống động ảnh hưởng sâu sắc đến đôi mắt thơ ngây của nhà văn. Hình ảnh người mẹ
"có buổi chiều ( ) rối rít cuống queo xua con chó vện của nhà cứ lăn xả vào cắn", bởi
"bữa ấy u tôi chỉ thử cái áo vải gốc rồi mai đem nấu nâu" [90, 23-24] ám ảnh day dứt
mãi trong nỗi niềm thương cảm của Tô Hoài. Cái nghèo, cái đói cứ bám ri
ết lấy gia
đình, cho dù quanh năm, suốt tháng "mẹ làm đến khuya lắm. Nhiều lúc thức giấc, nhìn
ra vách hãy còn ánh đèn lung linh" [90, l08], thế mà cuộc sống vẫn hoàn túng thiếu.
Nhưng nỗi gian truân về vật chất của người mẹ chưa thấm thía bằng nỗi đau về linh
thần. Bởi đứa con gái xấu số đã chết vì bệnh sởi, lại "có tới mấy năm rồi, không tin tức
bố tôi", "người làng đồ
n bố tôi đã lấy vợ ở bên Sài gòn" [90, 168], để lại nỗi buồn
trống trải trong tâm hồn người mẹ đáng thương.
Tuổi thơ Tô Hoài rất gần gũi với ông bà ngoại và các dì. Ông ngoại "nghiện rượu
ngữ", khi thì ông sinh sự, đay nghiến chửi bà rằng "chỉ vì con mẹ trời đánh kia mà ông
không có con trai" [90, 15], để rồi cuối cùng ông tìm gậy vừa hét vừa đập tất cả ; khi
lại r
ất hiền lành âu yếm kể biết bao nhiêu là chuyện ngày xưa
Bà ngoại vừa cam chịu, cũng vừa lắm điều nhiều lời "không bao giờ im được" nên
những cuộc xô xát thường xuyên xảy ra. Mặc dù vậy, với "thằng cu" bà lại là người

15
mát tính và chiều chuộng hết lòng. Nhớ những ngày đầu đi học, bà dỗ dành đưa cháu
đến tận trường, thậm chí còn phải vào lớp ngồi cạnh cháu đến khi trống tan, bà lại dắt
cháu về nhà

Và các dì, cuộc sống quẫn bách nên cũng không còn thuần khiết như xưa, cũng cãi
lại cha mẹ, cũng tình ý với thầy giáo làng để bị đánh ghen giữa nơi Kẻ Chợ, cũng đánh
chửi con cái Không khí gia đình
đến ngày phiên chợ thật nặng nề: "Nhà người ta
phiên chợ bán được hàng thì vui, nhà tôi, ngày chợ không sinh chuyện này thì sinh
chuyện khác. Hàng ít lại hàng xấu, không đều, mặt hàng gùn gụt lên, không ai mua.
Thế là xảy ra những trận xô xát giữa bà ngoại tôi và các dì tôi". Vậy nên, "nhà tôi còn
êm ấm sao được nữa, trong khi sự túng thiếu càng gô cổ mỗi con người lại và mỗi
người đều cứ ngày càng bẳn gắt nhau hơn, càng lúc thương lúc ghét nhau, thật hết sức
thất thường" [90, 164].
Họ hàng bên nội c
ủa Tô Hoài cũng nghèo lắm, đến độ ngày sinh của con cháu
cũng không biết, không nhớ. Ông bà nội lam lũ, nghèo khó quanh năm, bà ngoại già
còm cõi một mình buôn thúng bán mẹt lần hồi, dành tất cả tình thương cho đứa cháu
hờ Vậy là, hai bên gia đình nội - ngoại của Tô Hoài đều không có truyền thống văn
chương, mà chỉ "trang bị" cho nhà văn cảnh nghèo đói, quẫn bách, tuy chưa tới tận
cùng dưới đáy xã hội nhưng cũng đủ thấm thía n
ỗi khổ vì túng thiếu cơm áo gạo tiền.
Là người con của tầng lớp lao động bình dân, lại được chứng kiến cảnh buồn nhiều
hơn vui của gia đình mình, Tô Hoài sớm chan hoà trong cuộc sống gian truân đời
thường để cảm nhận nó. Có lẽ vì vậy chăng mà cảm quan hiện thực của nhà văn "thấm
được và thấm nhanh cái buồn" (Vân Thanh).
Tô Hoài vào nghề từ những năm 40 của thế kỷ XX. Hoàn cả
nh xã hội trong những
năm này cũng có nhiều sự kiện không thể bao giờ quên - vui có, buồn có, đau khổ xót
xa cũng có. Xã hội Việt Nam dưới thời thuộc Pháp mang tính chất thực dân nửa phong
kiến, trong đó chứa đựng nhiều mâu thuẫn - giữa dân tộc với đế quốc; giữa nông dân
với địa chủ. Những mâu thuẫn đó ngày càng gay gắt quyết liệt đặc biệt là mâu thuẫn
giữa dân tộc vớ
i đế quốc. Những năm này, dân tộc ta chịu hậu quả nặng nề của nhiều

cuộc chiến tranh và khủng hoảng: chiến tranh thế giới thứ Nhất (1914- 1918); cuộc
khủng hoảng kinh tế (1929- 1933) và cuộc đại chiến thế giới lần thứ Hai (1939- 1945).
Để phục vụ chiến tranh, thực dân Pháp ra sức bóc lột nhân dân ta, khiến đời sống
người dân vô cùng điêu đứng Rồi Pháp đầu hàng Đức rồ
i mở cửa Đông Dương cho
Nhật nhảy vào nước ta, từ đó, dân ta một cổ hai tròng. Hai tên đế quốc Pháp, Nhật với
những chính sách tàn bạo khốc liệt đã trở thành nguyên nhân trực tiếp gây ra nạn đói
vô cùng khủng khiếp trong lịch sử dân tộc - hơn hai triệu người dân chết đói.
Những năm này, không khí ngột ngạt bao trùm cả xã hội và lan dần vào từng ngõ
xóm. Làng quê Tô Hoài chưa bao giờ lại "tiêu điề
u khốn khổ đến như thế. Nghề dệt
lụa đã lụi bại chết hẳn. Khung cửi người ta đem chẻ củi, bán làm củi. Người đi tha
hương bơ vơ những đâu, vãn cả làng. Trông trước thấy cái đói, cái chết mà không biết

16
làm thế nào" [90, 311]. Từ đó, những mối quan hệ xã hội, những nét đẹp văn hoá làng
quê bị xáo trộn, tàn phá dữ dội. "Người ta chơi chắn cạ, xóc đa, thò lò suốt ngày, suốt
đêm. Sát phạt nhau từ một xu trở lên, và cái sự mất trộm vặt thì thường xảy ra. Con
chó, con gà đi tha thẩn ngoài ngõ, vô ý không ai trông mất ngoan ngay. Cái váy, cái
quần phơi ngoài sân, biến là thường. Thậm chí, ngoài vườn có mấy quả đu đủ xanh
cũng bị vặt tr
ụi. Không hôm nào là không có người vác gậy, cầm mõ đi dong ra dong
vào để chửi nhưng đứa ăn cắp vặt" [61, 220]. Xã hội, làng quê ngày càng xơ xác tiêu
điều. "Trên chợ Bưởi, người lang thang ở đâu đến càng nhiều. Buổi tối lăn vào ngủ
trong các cầu chợ, sáng ra nhiều người nằm lại, không còn sức bò đi kiếm được nữa"
[90, 317]. Cảnh đau lòng ấy không chỉ ở một nơi nào, một vùng nào, mà "ở đâu bây
giờ
cũng như ở chợ Bưởi, những chức việc trong làng cả đêm phải đi rình đuổi không
cho người đói đứng lại ở địa phận mình. Sợ đêm nó chết. Và hễ gặp cái xác nào, lập
tức kẻo vứt sang làng kia. Người ta sợ phải chôn. Chôn xác trần trụi không có cả chiếu

bó, cũng phải mất tiền thuê người đào huyệt. Tiền đâu ra mà hôm nào cũng thuê đào
hàng ch
ục cái huyệt. Mà người đào huyệt bây giờ cũng hiếm" [90, 338].
Chứng kiến bao cảnh đời thảm thương bất hạnh ấy, nhà văn sớm trĩu nặng một nỗi
lòng, một tâm trạng buồn. Nhưng cũng ở ngay trong những năm tháng đen tối này,
cách mạng lan rộng, phong trào vùn vụt lên, vươn trên cả cái chết - Phong trào Cách
mạng dân chủ (1936 - 1 939); Phong trào Cách mạng phản đế Đông dương (1939 -
1941). Những hoạ
t động ái hữu thợ dệt, Thanh niên dân chủ, Văn hoá cứu quốc lan
rộng. Cái đói cái nghèo không thể dập tắt khao khát lý tưởng của thanh niên. Tổ chức
cách mạng dù bị lùng soát dữ dội nhưng đã thu hút không ít thanh niên tích cực Trong
khổ đau, bắt bớ, tù đày, tra tấn, họ vẫn một lòng tin vào cách mạng. Bởi họ hiểu rằng
cách mạng đã gắn bó với tuổi trẻ chúng tôi, với làng tôi. Cách mạng là đường số
ng, dù
gian nguy, nhưng là đường đưa tới thay đổi" [90, 311]. Và thế là, trong mỗi con người
được thắp sáng một niềm tin. Họ vượt qua tất cả để tìm đến một cuộc sống với ý nghĩa
đích thực của nó.
Tô Hoài tâm sự: "Tôi lớn lên giữa những buồn vui, những gian truân trong vòng
mọi tập tục, thói quen của lớp tuổi lôi trong làng. Lúc đó, đương thời kỳ Mặt trận bình
dân. Lý tưởng cộng sản nh
ư giấc mơ đẹp đến với những người thanh niên cùng lứa,
cùng cảnh như tôi" [90, 271]. Vốn gắn bó với làng quê, chứng kiến mọi vui - buồn,
hay - dở cùng những bước thăng - trầm, thịnh - suy của làng nghề truyền thống, Tô
Hoài hơn bao giờ hết cảm nhận thấm thía về đời sống xã hội từ nhiều chiều của nó.
b. Hoàn cảnh bản thân
Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 27 tháng 9 năm 1920 trong mộ
t gia
đình thợ thủ công nghèo. Ông chỉ được học hết bậc tiểu học, rồi cũng như mọi thanh
niên trai làng khác, Tô Hoài sớm trở thành anh thợ cửi. Nhưng cảnh nhà nghèo, nghề
dệt lại lụi bại dần, Tố Hoài lận đận trong mưu kế sinh nhai. Ông phải đi kiếm sống

bằng nhiều nghề: thợ cửi, bán hàng, phụ kế toán, coi kho cho hiệu buôn giày, dạy học

17
và còn sống qua những ngày thất nghiệp tủi nhục không một đồng xu dính túi. Tô Hoài
đến với nghề văn hết sức tự nhiên và bắt đầu bằng một số bài thơ lãng mạn. Ông sớm
nhận ra rằng đây không phải là mảnh đất "canh tác" của mình và nhanh chóng chuyển
sang "cánh đồng" văn xuôi. Ở mảnh đất này, ông đã chuyển tải mọi chuyện vui - buồn,
hay - dở lên trang sách để trở thành một nhà văn yêu quý của con ngườ
i và cuộc sống
đời thường.
Tô Hoài sớm giác ngộ cách mạng. Trước Cách mạng tháng Tám, ông đã tích cực
tham gia phong trào ái hữu thợ dệt, Thanh niên Dân chủ, vào tổ Văn hoá cứu quốc.
Sau cách mạng, ông đến với đồng bào Tây Bắc và đắm mình trong cuộc sống của các
dân tộc miền núi. Ông cùng ăn, cùng ở, cùng sinh hoạt với họ. Cũng "ăn thịt ngựa, thịt
chó nhạt, ăn rêu đá nướng và bọ hung xào như bà con, cùng vác cửi, thổ
i sáo, bắt
chuột, bắt con túi và đêm trăng sáng theo thanh niên Hmông đi "cướp vợ" [124, 22].
Không những thế, Tô Hoài còn rất quý trọng những người "bạn" nơi núi rừng này. Tô
Hoài tâm sự: "Tôi thích những người ấy lắm. Cô thì nhận là em. Cô thì nhận là con.
Qua họ, mình biết được người thật, việc thật, người bình thường, việc bình thường. Vì
thế, trước kia tôi có biết tý gì về miền núi đâu. Nhưng bây giờ tôi dám viết về miền
núi. Tôi đ
ã viết say sưa về miền núi. Tôi đã để công phu vào việc học tiếng miền núi,
và đã tha thiết yêu người miền núi, coi miền núi như quê hương mình vậy" [132, 532].
Từ đó, ông rất dễ thông cảm với các phong tục và những tình cảm riêng của các dân
tộc. Thế là con mắt quan sát tinh tế thấm đượm tình đời lại có dịp thể hiện trên một
mảnh đất mới. Từ đây, hai mảnh đất máu thị
t trong cuộc đời sáng tạo nghệ thuật được
nhà văn cảm nhận theo một lăng kính hoàn toàn nhất quán. ông cứ bám riết lấy cuộc
sống trong một cảm quan hiện thực đời thường để tung hoành ngòi bút.

Tô Hoài vốn có khiếu quan sát tinh quái, đến "con ruồi bay qua không lọt khỏi
mắt"(Vương Trí Nhàn). Chính vì vậy, mọi cảnh đời, mọi số phận, mọi vui- buồn, hay -
dở trong cuộc sống đều được nhà văn cả
m nhận ở chiều nhân bản. Viết về cái dở, cái
xấu không phải để dè bỉu, chê bai mà sự hiện diện của nó đem lại sự trọn vẹn trong thế
giới vô cùng sinh động và phong phú của chúng ta.
Cùng với nhu cầu thôi thúc tự bên trong, Tô Hoài còn rất say mê học tập và ham
hiểu biết. Để tự trau dồi kiến thức cho mình, ông rất chăm chỉ đọc sách báo, ghi chép
hằng ngày một cách tỷ mỹ, chi tiết, từ giá cả
sinh hoạt chợ búa, đến tiếng nhà nghề,
tiếng địa phương Tất cả đã giúp ông có vốn sống ngày càng phong phú, đa dạng.
Không những thế, ông còn hay đến các quán ăn ở Hà Nội, từ đại lầu Hoan lạc viên, bà
bún thang, bà nem chua giò chả, đến ông Văn Phú ếch tẩm bột rán, bà cụ chả cá phố
Hàng Lược để quan sát và ghi chép. Ông còn đọc "thượng vàng hạ cám, cái gì đến
tay cũng đọc". Ông học trong sách, học ngoài cuộc đời và học nhân dân. Họ
c ở trường
đời là môi trường rộng lớn bất tận mà lâu nay tác giả tâm niệm. Nhận biết rõ tầm quan
trọng của việc quan sát, tích luỹ vốn sống, nhà văn còn tích cực tham gia vào công
việc viết báo. Công việc này giúp ông nắm bắt nhanh nhạy và chính xác hiện thực
cuộc sống. Không những thế, Tô Hoài còn tham gia rất nhiều công việc chính quyền,

18
đoàn thể, hết làm chủ bút Tạp chí Cứu quốc Uỷ viên Tiểu ban Văn nghệ Trung ương
trong Hội Văn nghệ Việt Nam, Thư ký toà soạn Tạp chí Văn nghệ, Tổng thư ký rồi
Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn, Giám đốc Nhà xuất bản Hội nhà văn, Bí thư Đảng đoàn
rồi Uỷ viên Đảng đoàn Hội nhà văn, Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội, Uỷ viên
Đoàn
chủ tịch Uỷ ban liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam, Uỷ viên Hội đồng Văn học
thiếu nhi, lại còn tham gia vào nhiều công tác xã hội khác: đại biểu Quốc hội khoá VII
của Hà Nội, Phó chủ tịch Uỷ ban đoàn kết Á Phi của Việt Nam, Uỷ viên Ban chấp

hành Hội hữu nghị Việt Xô, ngoài ra ông còn tham gia hoạt động tại phố phường, sinh
hoạt tổ dân phố Các hoạt động không bi
ết mệt mỏi ấy đã giúp nhà văn bắt rễ sâu hơn
vào cuộc sống thường nhật muôn màu muôn vẻ.
2. Quan niệm về văn chương của Tô Hoài
Yếu tố cất lõi tạo cơ sở hình thành cảm quan hiện thực của Tô Hoài không chỉ là
hoàn cảnh gia đình, xã hội và bản thân mà còn là quan niệm về văn chương của tác
giả. Ngay từ những ngày đầu cầm bút, Tô Hoài đã có một quan niệm văn ch
ương
riêng. Dù quan niệm về văn chương của ông chưa được thể hiện một cách có hệ thống
và chiều sâu như Nam Cao, nhưng trong nhiều tác phẩm của mình, nhà văn đã bộc lộ
một cách khá rạch ròi. Từ khi mới cầm bút, Tô Hoài đã nhận thấy: "Chưa bao giờ tôi
bắt chước viết theo truyện của Khái Hưng, Nhất Linh. Mặc dù tôi cũng thích đọc
những truyện ấy. Bởi lẽ gi
ản dị: viết truyện viển vông giang hồ kỳ hiệp, ai cũng có thể
tưởng tượng, nhưng viết giống cái thật thì đời và người trong truyện của mấy ông nhà
giàu con quan và có đồn điền như thế, tôi không biết những kiểu người ấy, không bắt
chước được" [90, 285]. Ý thức sâu sắc về ngòi bút của mình, về cái "tạng" của riêng
mình, Tô Hoài đã sớm nhận ra con đường sáng tạo riêng. Ông tâm sự: những ngày đầ
u
cầm bút, "đời sống xã hội quanh tôi, tư tưởng và hoàn cảnh của chính tôi đã vào cả
trong những sáng tác của tôi. Ý nghĩ tự nhiên của tôi bấy giờ là viết những sự xảy ra
trong nhà, trong làng quanh mình" [90, 236]. Vậy là, viết những chuyện viển vông
giang hồ kỳ hiệp không phải là sở trường của nhà văn, mà cuộc sống bình dị của mình,
quanh mình mới là mảnh đất để nhà văn khai phá. Chính một "gã" văn sĩ nghèo trong
truyệ
n ngắn. Hết một buổi chiều của Tô Hoài đã nghĩ rằng: "mỗi khi cấm bút lên mà
kể chuyện một dòng nước, một cánh hoa, một làn mây trắng, thì gã thấy như mình
đương làm một việc gì trào phúng quá. Gã ngượng với bút. Gã ngượng với chính cái
mặt gã soi thấy ở trong gương" [tr. 195]. Thế là, viết về cái của mình, quanh mình đã

là định hướng nghệ thuật của Tô Hoài. Từ đó, một cách tự nhiên, ông đã hướng ngòi
bút của mình vào "nh
ững chuyện trong làng và trong nhà, những cảnh và người của
một vùng công nghệ đương sa sút nghèo khó" [97, 66]. Hơn nữa, những năm này, Tô
Hoài chịu ảnh hưởng sâu sắc của phong trào Mặt trận dân chủ Đông dương, chịu sự tác
động của Hội văn hoá cứu quốc, vậy nên, đi vào con đường chủ nghĩa hiện thực, Tô
Hoài không rơi vào sự bế tắc tuyệt vọng. Chính từ quan niệm văn chương ấ
y, từ ý thức
nghệ thuật ấy, nhà văn luôn gắn bó với con người và cuộc sống để tìm nguồn cảm
hứng và chất liệu cho ngòi bút.

19

II. CÁC PHƯƠNG DIỆN THẾ HIỆN CẢM QUAN HIỆN THỰC CỦA TÔ
HOÀI
1. Cảm quan nhân bản đời thường về con người
a. Con người bình thường với những phẩm chất, cá tính và thói tật
Xây dựng thế giới nhân vật, mỗi nhà văn đều xuất phát từ cảm quan về con người
của riêng mình. Dưới con mắt của Nguyễn Tuân, nhà văn luôn cảm nhận con người ở
phẩm chất nghệ s
ỹ tài hoa tài tử ở họ ít có những dung tục đời thường. Đó là ông nghè,
ông cử với những tài nghệ thưởng thức thú vui tao nhã một thời (Vang bóng một thời),
là những anh bồ đội, những chị dân công, những người lái đò (Sông Đà) mang trong
mình chất vàng mười của tâm hồn con người Tây Bắc. Nam Cao trước cách mạng
cũng đến với con người trong cái "vặt vãnh" đời thường, nhưng ở đó con người luôn t

ý thức rõ rệt về chính mình, về cuộc sống, đến độ họ phải dằn vặt đau đớn trước những
bi kịch xót xa của kiếp người, phải gánh chịu những kết cục hết sức bi thảm (Chí Phèo,
Lang Rận, lão Hạc ). Tô Hoài, sau hơn nửa thế kỷ miệt mài sáng tạo nghệ thuật trên
một cảm quan nhất quán về con người, năm 1992 trong cuốn hồi ký Cát b

ụi chân ai,
ông phát biểu thật rành rõ: "người ta ra người ta thì phải là người ta đã chứ". Vậy là
theo Tô Hoài, con người trước hết phải là chính mình, phải là tất cả những gì thuộc
quyền sở hữu riêng mà "thượng đế" đã ban phát trao tặng: phải có phẩm chất, cọ thói
tật; có hay, có dở; có tốt, có xấu; có ý thức và vô thức; có bản năng và không bản năng
trong sự thăng bằng tự nhiên để làm nên sự trọn vẹn trong m
ột con người bình thường.
ông cho rằng con người không phải là thánh nhân, càng không thể siêu phàm. Con
người không thể hoàn toàn được gạn lọc bởi những tinh tuý trong suốt như pha lê, mà
ở họ còn tiềm ẩn cái xấu, cái dở, thậm chí cả cái phần đen tối lẩn khuất trong tâm hồn.
Thế nhưng, từ sâu thẳm mỗi con người, cái tốt, cái hay vẫn là cơ bản làm nền tảng đạo
đức bền vững.
Trong sự nghiệp sáng lác củ
a mình, Tô Hoài viết trên nhiều thể loại. Thể loại in
đậm dấu ấn cảm quan con người của nhà văn là thể hồi ký. Trong khi nhiều người viết
hồi ký mong muốn "dựng lên dấu ấn muôn đời của bản thân vượt qua thời gian và ký
ức cá nhân", thì Tô Hoài lại quan niệm hết sức bình thường - có sao viết vậy cả chuyện
mình lẫn chuyện người, cả phẩm chất, cá tính và thói tật. ông sống đến đâu viết
đến
đấy, "không đặt vào sách quá nhiều ý nghĩa như những người khác" (Vương Trí
Nhàn). Vì thế, từ Cỏ dại (1944), Tự truyện (1978), Cát bụi chân ai (1992), đến Chiều
chiều (1999), người ta thấy một Tô Hoài những ngày thơ ấu như dám cỏ dại "nó leo
hoang trong đám cỏ bên lề đường đi. Cái giống cỏ dại, cỏ không tên rườm rà, ken khít
bò ngẩn ngơ trong mấy khoảng đất rác rưởi", qua nhữ
ng năm tháng bước vào trường
đời vật vã kiếm sống, tìm việc làm, tìm miếng ăn và đến với cách mạng trong những
năm đấu của cuộc kháng chiến, để mở ra một giai đoạn mới với tư cách một anh cán
bộ kháng chiến, một nhà báo, một nhà văn

20

Trong thể hồi ký của Tô Hoài, người đọc còn thấy chân dung đời thường của
những nhà văn tên tuổi trong nền văn học hiện đại nước nhà: Xuân Diệu "tình trai" lai
láng, những đêm hoan lạc với người bạn tình" khiến hậu thế phải bàng hoàng sửng sốt;
Nguyễn Tuân kỹ tính, lịch lãm theo phong cách riêng thà cũng không kém phần hóm
hỉnh, biết đùa; Nguyên Hồng dễ dãi trong sinh hoạt và ăn uống, lại hay khóc và thường
vui buồn độ
t nhiên khó hiểu; Ngô Tất Tố có tật quệt nước mũi vào gốc cây; Tú Mỡ
vừa ngơ ngác vừa thâm thuý lại không biết đùa (Cát bụi chân ai). Được làm quen với
các nhà văn qua cảm quan về con người của Tô Hoài khiến khoảng cách giữa họ với
độc giả gần như được xoá nhoà. Người đọc ngỡ ngàng nhận thấy họ đâu phải là thánh
nhân, họ cũng là con người bàng xương bằng thịt, cũng có ph
ẩm chất, có thói tật, có
dở, có hay. Phải là người gần gũi, thấu hiểu, cảm thông nhiều lắm với đồng nghiệp,
nhà văn mới có được những trang văn đời thường như thế.
Tô Hoài không phải là người đầu tiên, cũng không phải là người cuối cùng có cảm
quan về con người đời thường. Nhưng khác với Nam Cao, Nguyễn Minh Châu (sau
1975) , Tô Hoài thường ít tìm đến chiều sâu nhân bản trong những triết lý nhân sính
sâu sắc. C
ảm quan về con người đời thường, Tô Hoài muốn gửi bức thông điệp đến
chúng ta - hãy trân trọng mỗi phẩm chất, cá tính của con người, bởi chính nó mới
đúng là cuộc sống.
b. Con người trong cuộc sống với niềm vui và nỗi buồn, niềm hạnh phúc và nỗi
khổ đau
Trên từng trang viết của Tô Hoài, con người thường được đặt trong môi trường thế
sự. Ở đó, nhà v
ăn quan tâm đến từng mảnh đời từng số phận, đến "cả những cái đau
khổ xót xa cũng như những niềm vui nho nhỏ mà người nông dân có được trong cuộc
sống hằng ngày" (Hà Minh Đức).
Cùng quan tâm tới mỗi mảnh đời, mỗi số phận, Nam Cao (trước cách mạng)
thường dạy con người tới tận cùng của nỗi khổ đau, tận cùng của những bi kịch xót xa

đau đớn. Hơ
n thế, Nam Cao không dừng lại ở một số phận, một con người mà đây là
cả một vấn đề nhức nhối trong xã hội cũ (Chí Phèo, Lang Rận, Binh Chức, lão Hạc ).
Tô Hoàn không đẩy con người tới tận cùng sự bi thảm tuyệt vọng như thế. Trong cảm
quan của ông, con người có khổ đau, có bất hạnh, có tha hoá, nhưng họ vẫn còn giữ
được chính mình. Anh Duyên (Nhà nghèo) phải tận mắt chứng kiế
n cảnh đứa con gái
chẳng may bị rắn độc cần chết vào một buổi chiều đi bắt nhái; "mụ Hối" (ông cúm bà
co) bỏ lại hai đứa con thơ vì bệnh nặng nhà nghèo "không có lấy một đồng xu nhỏ"
chữa bệnh; "lão lái Khẽ (Khách nợ) chết vì bị chó dại cắn, "nằm còng queo" trong bốn
ngày Tết; anh Thoại (Quê người) trong cảnh nhà nghèo tiền hết, gạo hết, đứa con nhỏ
lại ốm nhách, "hai mắt cam dịp hẳn lại", "trong nhà không có cái gì đáng giá được một
hào". Chiều ba mươi Tết, anh đi đòi nợ ông cả Thóc có năm hào tám tiền công dệt
lĩnh, vậy mà chỉ được "thanh toán" công nợ bằng một trận đánh nhau kịch liệt. Trông
vào gia cảnh nhà anh sao mà xót xa đến vậy! "Ngày mai mùng một Tết, chẳng có xôi,

21
chẳng có thịt, chẳng có hương, chẳng có nến, nghĩa là chẳng có một thứ gì để cúng.
Vợ chồng đều ăn cơm gạo đỏ với sung muối như thường ngày". Bức bí vì tiền không,
gạo hết, người vợ lại cứ "nhai nhải day dứt mãi", không ghìm nén được, anh vừa đánh,
vừa chửi vợ:
"Mày muốn kêu giời phỏng?"
"Bom Bốp! Huỵch! Huỵch! Huỵch!"
"- Mày cứ kêu, ông c
ứ đánh xem đằng nào được".
Nhưng rồi anh lại xót xa, thương cảm cho cái thân phận của mình, của vợ, của con.
"Anh nằm ngửa mặt, im lặng, vắt hai tay lên sau gáy, mà ngẫm nghĩ về cái nghèo, cái
đói, cái rắc rối, cái khổ sở trong cuộc đời cơ cực của mình". Cực chẳng đã, anh đành
đánh liều ra đồng bắt trộm chó. Việc không thành khiến vợ chồng anh không còn mặt
mũi nào ở lại làng quê, mùng m

ột Tết đùm dúm nhau ra đi lang bạt nơi đất khách quê
người. Rõ ràng là, con người tha hoá của Tô Hoài không hoàn toàn biến chất, anh
Thoại trong cảnh bần cùng đánh vợ nhưng rồi lại xót xa đau đớn; đi ăn trộm, nhưng ở
anh vẫn có lòng tự trọng nên chẳng còn dám nhìn thấy mặt ai. Lão lái Khế (Khách nợ)
hạch sách, doạ nạt, moi tiền con nợ bằng nhiều mẹo vặt, nhưng lão vẫn còn nhận ra
cả
nh cùng kiệt nhà Hương Cay: "Con chó nhà nó cũng đói xúi bọt mép ra thế kia mình
còn hòng ăn cóc gì"
Trong cảm quan của Tô Hoài, mỗi gia đình, mỗi con người một hoàn cảnh, một số
phận, nhưng họ không chỉ phải chịu nỗi bất hạnh mà trong khổ đau họ còn có niềm
vui, niềm hạnh phúc cho dù niềm vui nhiều khi chỉ như một cơn gió thoảng.
Đó là niềm vui của ba cha con anh Hối vào một Buổi chiều ở
trong nhà, người cha
ngồi đàn hát, hai đứa con thích chí ngồi nghe. Rồi họ cùng im lặng, cùng thưởng thức
những chiếc kẹo bột ngọt lịm mà có lẽ từ trước đến giờ họ chưa bao giờ có được. Cái
niềm vui nho nhỏ ấy sớm bị dập tắt, vì sự xuất hiện của chị Hối cùng những lời bù lu
bù loa bởi anh đã "bán tào bán huyệt" cái chai đựng dầu của chị để
mua kẹo. Lời qua
tiếng lại, vợ chửi chồng, chồng đánh vợ, con cái thi nhau khóc vì những cái bạt tai của
bố Chỉ có giấc ngủ mới xoa dịu được tình cảnh của gia đình anh. Cho tới sáng hôm
sau, cuộc sống của cái gia đình đáng thương ấy lại trở về sự bình yên khi người vợ đi
làm vắng, còn người chổng cặm cụi ngồi gắn lại cái chén vỡ, vừa làm v
ừa hát cùng hai
đứa con thơ. Anh Duyên trong cảnh Nhà nghèo quanh năm điêu đứng vì miếng cơm
manh áo, vợ chồng lại thường cãi nhau, thậm chí đánh chửi nhau. Biết bao lần như thế,
chiều nay như một sự ngẫu nhiên, cái gia đình nhỏ bé ấy được xoa dịu bằng cơn mưa
rào. Cơn mưa cuốn phăng tất cả những xô xát, nóng nảy của vợ chồng anh và đem lại
niềm vui nho nhỏ
cho mọi người. Sau trận mưa, chẳng ai bảo ai, vợ chồng con cái
xách giỏ ra đồng bắt nhái. Nhưng người cha tội nghiệp ấy chẳng bao giờ được hưởng

niềm vui trọn vẹn. Khi anh đang nghĩ đến "bữa nhắm thú vị chiều nay" thì là lúc anh
phải đi tìm cái Gái. Rồi chỉ trong khoảnh khắc, anh nhìn thấy đứa con gái lớn "nằm
gục trên cỏ, hai tay ôm khư khư giỏ nhái. Lưng nó trần xám ngắt. Chân tay nó co queo

22
lại", khiến người cha "rú lên một tiếng quái gở" trước sự đau đớn đến tột cùng. Đúng
là lúc giận con, anh có thể đánh chửi, thậm chí còn nạt nộ: "Bắt được đứa nào thì ông
giết tươi". Còn lúc này, bao nhiêu tình yêu thương của người cha nghèo trỗi dậy trong
lòng. Anh thương con và vô cùng hối hận. Anh nhận ra rằng: "bấy lâu nó vào cửa vợ
chồng anh, cực khổ trăm đường. Trong người nó có bao nhiêu xương sườn, giơ ra hế
t
cả ( ). Bây giờ nó bỏ nó đi". Bất lực trước sự thật tàn nhẫn quá đột ngột, anh chỉ còn
biết cúi ẵm xác con hai hàng nước mắt rỏ ròng ròng. Đến đây, chúng ta không thể
không nhớ tới người cha trong Trẻ con không được ăn thịt chó của Nam Cao. Miếng
ăn đáng nguyền rủa kia đã làm huỷ hoại nhân cách một người cha và đang tàn phá
băng hoại đạo đức của một con người. N
ếu người cha trong Nhà nghèo của Tô Hoài
còn giữ được lương tâm và tình thương của một tấm lòng phụ tử, thì người cha trong
Trẻ con không được ăn thịt chó của Nam Cao đã đánh rơi mất những đứa con của
mình vì miếng ăn - miếng nhục, vì những dục vọng khoái khẩu tầm thường, thành thử
giữa cái cao thượng và cái thấp hèn, cái nhân tính và phi nhân tính nhiều khi chỉ còn
trong gang tấc và thật quá mong manh. Trong cảm quan của Tô Hoài, m
ọi quy luật của
tình cảm luôn được giữ ở mức thăng bằng, tự nhiên vốn có. Từng cuộc đời, từng số
phận dẫu có muôn ngàn cung bậc vui - buồn, nhưng tất cả đều được Tô Hoài tìm thấy
trong quy luật của tạo hoá và trong khung cảnh giản dị đơn sơ rất đỗi Việt Nam. Ở đó,
những con người bình dị, nhỏ bé, chất phác lúc khổ đau, khi vui sướng họ
ít nghĩ đến
bản thân mà muốn dành tất cả cho những người thân yêu ruột thịt. Sau cách mạng,
trong gia tài đồ sộ của mình viết về đề tài miền núi, Tô Hoài có những thành công

đáng kể. Ở đây, cảm quan nhân bản đời thường về con người vẫn hoàn toàn nhất
quán.Viết về đề tài cách mạng nhưng con người bươn chải trong cuộc sống sinh hoạt
với những niềm vui và nỗi buồn vẫn
đem đến dấu ấn mạnh mẽ trong nhiều tác phẩm
của ông. Truyện ngắn Cứu đất cứu mường, Mường Giơn, Vợ chồng A Phủ (1953), tiểu
thuyết Miền Tây (1958), Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ (1971), Họ Giàng ở Phìn Sa (1984),
Nhớ Mai Châu (1988) là những tác phẩm như thế. Môtíp phổ biến viết về đề tài này
là: cuộc đời cũ khổ đau t
ăm tối, cuộc đời mới nhờ có Đảng, có cách mạng, con người
được hồi sinh. Thể hiện nỗi khổ đau, bất hạnh của cuộc đời cũ vì cường quyền và thần
quyền, nhà văn tập trung bút lực miêu tả số phận dân nghèo, đặc biệt là người phụ nữ.
Người đọc làm sao quên được hình ảnh một cô Ảng "mười bảy tuổi phải đem thân đi
nâng gi
ấc ông lão sáu mươi", một cô Mỵ lấy A Sử "không có lòng với nhau mà vẫn
phải ở với nhau", một cô Mát vào ban xoè lên châu, lên đồn lấy chồng quan, khiến
"ông Mang ( ) ruột đau như hôm trở về làng nghe tin mất ruộng", một bà Giàng Súa
cô đơn trong tuyệt vọng, khiến bà luôn nghĩ rằng: "dù sao thì ngày hôm qua còn tết
tươi hơn ngày hôm nay và đời người thì ngày càng tàn, tàn dụi như cái củi nào rồi
cũng cháy thành than". Khi ánh sáng của cách mạng chiếu rọi trên khắp các bản làng
miền Tây, cuộ
c đời của mỗi con người thay đổi. Niềm vui của họ lớn lao, ý nghĩa khôn
cùng. Bao nhiêu năm khổ đau đã qua, bà ảng không còn là một bà lão Ảng ăn mày
năm xưa nữa. Bà được lên khu du kích cùng đứa con trai năm nào phải đứt ruột bán
lấy mười đồng bạc trắng về nộp vạ, trong lòng bồi hồi xúc động nghĩ rằng: "một đời

23
không biết mặt cái ruộng, cái nương. Bây giờ sắp chết mới được biết ở lều canh nương
thế này". Cô Mỵ tìm được hạnh phúc khi tới Phiềng Sa, "từ những hôm ấy Mỵ mới
thật thấy được có chồng".
Tiếp tục viết về đề tài Hà Nội, cảm quan con người trong cảnh đời thường với

những vui buồn được thể hiện qua tập truyện và ký Ngườ
i ven thành (1972), tiểu
thuyết Quê nhà (1980), Những ngõ phố người đường phố (1982), Kẻ cướp bên Bãi
(1996), tập truyện ngắn Người một mình (1998), tập ký sự Chuyện cũ Hà Nội (1998)
Cuộc đời có muôn vàn éo le trắc trở, biết bao số phận con người còn bất hạnh bởi
tạo hoá bất công. Cái nhìn nhân bản của Tô Hoài trước khổ đau nhọc nhằn của đời
người khiế
n độc giả phải động lòng trắc ẩn. Cuộc sống của mẹ con Mái ( Nước mắt)
rồi sẽ ra sao khi mà cô vừa câm, vừa điếc, vừa có tới sáu mặt con mà vẫn chẳng biết bố
chúng là ai? Sống trong một túp lều tồi tàn ngoài bụi tre đầu làng làm thuê, làm mướn
nuôi con quả là một thử thách nhọc nhằn đè nặng lên đôi vai người đàn bà bất hạnh ấy.
Thế nhưng trong nỗ
i lo âu khắc khoải, cô vẫn được tận hưởng niềm vui được làm mẹ,
được nuôi con và được hy vọng vào con
Biết bao chuyện vui buồn của đời người được nhà văn cảm nhận trong cảm quan
nhân bản đời thường như thế, Một "cô Hậu (Hoa bìm biển), một "cô Tứ" (Tình buồn)
cô đơn khắc khoải chờ "người xưa" cho đến tận cuối đời. Một cán bộ Tần
(Cối! Cối
ơi!) khi "lên voi" khi "xuống chó" để cuối cùng phải lĩnh trọn hai mươi năm tù. Một
"thằng Ếp - tiến sỹ Trần Hùng" (Con ngựa) vênh vang, háo danh, háo lợi, ham địa vị
tiếng tăm, sống buông thả để rồi phải từ giã cõi đời trong một căn bệnh vô phương cứu
chữa. Một nỗi đau đớn chia lìa của những đứa trẻ bất hạnh trong một hoàn c
ảnh éo le
(Hai đứa trẻ đợi đi)
Dù sáng tác của Tô Hoài có giai đoạn còn bị áp lực bởi thời đại, nhưng cảm quan
về con người của nhà văn luôn được thể hiện nhất quán. Đây là hạt nhân cơ bản làm
nên phong cách nghệ thuật Tô Hoài.
2. Cảm quan về xã hội trong dòng chảy tự nhiên của đời sống sinh hoạt,
phong tục
a. Cảm quan về xã hội qua cảnh sinh hoạt đời thường

Sinh ho
ạt xã hội là một phương diện tồn tại khách quan trong đời sống hiện thực ở
bất kỳ một xã hội nào, một thời đại nào, một quốc gia nào, một vùng nào và một địa
phương nào. Đời sống sinh hoạt xã hội đi vào trường nhìn của nhà văn này hay nhà
văn khác ở phương diện nào, phần lớn phụ thuộc vào cảm quan hiện thực của họ. Bức
tranh xã hội trong cả
m quan của mỗi nhà văn có thể được phản ánh từ những mâu
thuẫn, những xung đột xã hội quyết liệt, gay gắt, hoặc từ những cảnh sinh hoạt bình dị.
Với "một nhãn quan phong tục đặc biệt" (Trần Hữu Tá), Tô Hoài rất nhạy cảm với
những cảnh sinh hoạt, những tập tục quen thuộc của từng vùng quê, từng gia đình,
từng con người. Có thể nói, từ những c
ảnh sinh hoạt đặc thù ấy, Tô Hoài vừa phản ánh

24
sinh động đời sống vật chất và tinh thần của mỗi vùng, mỗi miền, vừa thể hiện đời
sống lịch sử xã hội rộng lớn.
Trước cách mạng, phản ánh hiện thực cuộc sống, Tô Hoài ít tập trung vào những
mâu thuẫn xã hội mang tính đối kháng quyết liệt. Nếu làng Đông Xá trong tiểu thuyết
Tắt đèn của Ngô Tất Tố náo động trong tiếng trống, tiếng tù và thúc sư
u, tiếng chửi
mắng quát tháo của kẻ "chức quyền" , khiến mâu thuẫn gay gắt giữa nông dân và địa
chủ, giữa dân tộc với đế quốc càng thêm quyết liệt; làng Vũ Đại trong truyện ngắn Chí
Phèo của Nam Cao ầm ĩ tiếng gào làng rạch mặt ăn vạ của kẻ cùng đường, thể hiện bi
kịch thảm thương của người nông dân nghèo trong tuyệt vọng ; thì làng Nha trong
nhiều tác phẩm củ
a Tô Hoài khá êm ả bình yên. Ở đó, có những người cùng ở một
làng, cùng làm một nghề, cùng sinh hoạt với những phong tục, tập tục, cùng quan tâm
đến những vui - buồn, hay - dở trong cuộc sống theo quy luật tự nhiên của nó.
Trong tiểu thuyết Quê người, người đọc không gặp cảnh những người dân nghèo
bị đánh đập, bị cùm kẹp hay bắt bớ tù đày. Mà ở đó có muôn cảnh sinh hoạt đời

thường: c
ảnh chửi bới nhau (của bà Ba với những ai bêu xấu cháu bà, của bà Thủ Dân
với bà Ba, của ông ba Cần với ông Nhượng, của ông Nhượng với ông ba Cần ); cảnh
bêu xấu nhau ("thằng Khói" bêu xấu cô Ngây, anh Thìn nói xấu "thằng Toàn" ); cảnh
tan tác chia lìa (anh trưởng Khiếu bỏ làng đi phu cao su, vợ chồng anh Thoại ra đi vào
ngày mùng một Tết ); cảnh trai gái yêu nhau, hẹn hò (Hời - Ngây, Thoại - Bướm);
cảnh những thanh niên làng vui vẻ rủ nhau đi xem hội ; cảnh "vào chập t
ối, những
ngày phiên chợ, thợ tơ thợ cửi đi chơi dong nhan nhản ngoài đường, đứng họp chuyện
ở những ngã ba ngã tư, vui vẻ đông đủ như hội"; cảnh "buổi chiều những người trong
làng lũ lượt đi chợ về. Tay ai cũng xách các thức ăn. Người này một xâu cá mè, người
kia một dây những miếng thịt trâu bạc nhạc, hoặc vài ba miếng mỡ lợn. Có người l
ại
đựng lên trên nón một ôm rau muống, một gói đậu, mấy cái bánh đa, mấy bánh đậu
phụ"; cảnh "làng vắng tanh, những khung cửi, guồng tơ xếp cả lại. Nhiều nhà túng,
bán cả đi, không hòng sinh nhai gì về nghề nữa". Từ đó sinh ra trộm cắp, tệ nạn xã hội
hoành hành: "Người ta chơi chắn cạ, xóc (ra, thò lò suốt ngày suốt đêm. Sát phạt nhau
từ một xu trở lên. Và cái sự mất trộm vặt thì thườ
ng xảy ra luôn không hôm nào là
không có người vác gậy cầm mõ đi dong ra dong vào để chửi những đứa ăn cắp vặt".
Bức tranh xã hội trong cảm quan của Tô Hoài bắt đầu từ bao cảnh sinh hoạt đời
thường như thế. Mỗi bước thăng trầm trong mưu kế sinh nhai cùng niềm vui, nỗi buồn
trong cuộc sống sinh hoạt của người dân là minh chứng đầy thuyết phục phản ánh cuộc
sống nghèo đói lạ
c hậu, bấp bênh của người dân nghèo trước cách mạng.
Sau cách mạng, Tô Hoài phản ánh cuộc sống trong một giai đoạn lịch sử xã hội
mới, nhưng cảm quan hiện thực của nhà văn vẫn hoàn toàn nhất quán. Những tác
phẩm viết về đề tài cách mạng, phản ánh cuộc sống mà cách mạng đem đến cho người
dân của Tô Hoài vẫn bắt đầu từ cái nền của cuộc sống sinh hoạt.
Ở đó, người đọc ít

được hoà mình trong âm vang hào hùng của thời đại như kiểu Dấu chân người lính

25
của Nguyễn Minh Châu, Đất Quảng của Nguyễn Trung Thành, Mẫn và tôi của Phan
Tứ, Hòn đại của Anh Đức. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc sáng tác của Tô
Hoài thoát ly hiện thực cách mạng. Bắt đầu từ cuộc sống sinh hoạt, phong tục làng
quê, gia đình, bản thân, Tô Hoài đã tái hiện sinh động bia tranh xã hội trong một giai
đoạn lịch sử mới theo phong cách riêng. Trong truyện ngắn
Vợ chồng A Phủ, Cứu đất
cứu mường, tiểu thuyết Miền Tây từ cảnh cho vay nặng lãi, cảnh phạt vạ xử kiện,
cảnh làm người ở trừ nợ, cảnh đi làm cuồng, làm người hầu chăn đệm, cảnh đi tải hàng
cho khách buôn, cảnh bị xua đuổi vào rừng đào củ mài củ sắn sống khốn khổ qua
ngày đến cả
nh uống rượu thề, cảnh đón Tết, cảnh trông nương bẫy chuột trên khu du
kích, cảnh làm đường, làm mậu dịch, làm trạm xá , khiến người đọc cảm nhận rõ
cuộc sống khổ đau, bất hạnh của người dân miền núi dưới chế độ cũ và sự đổi đời của
họ nhờ có Đảng, có cách mạng. Rõ ràng, Tô Hoài không thoát ly cuộc sống cách
mạng, không bàng quan với hiện thực trong tính thờ
i sự. Ông bám sát cuộc sống, hoà
mình với cuộc sống và phản ánh nó theo một phong cách riêng.
Bức tranh hiện thực còn được Tô Hoài cảm nhận qua cảnh sinh hoạt ngày chợ -
một phương diện đặc trưng của cuộc sống sinh hoạt đời thường.
Có thể thấy, bức tranh sinh hoạt xã hội đặc thù này ở Tô Hoài trải ra trong một
không gian rộng lớn - từ miền xuôi đến miền ngược, từ trong nướ
c đến ngoài nước và
trong một thời gian rộng mở, từ quá khứ đến hiện tại. Viết về Hà Nội, chỉ riêng ba tiểu
thuyết Quê người (1942), Mười năm (1967), Quê nhà (1980), bức tranh sinh hoạt xã
hội đặc thù ấy đã xuất hiện đều đặn và trở thành một phương diện phản ánh cuộc sống
đầy hữu hiệu. Qua cảnh chợ, người ta cảm.nhận thấ
m thía từng giai đoạn lịch sử xã

hội. Bám sát từng bước đi của đời sống dân tộc, Tô Hoài không chạy theo sự kiện,
biến cố, mà nhà văn ghi lại dấu ấn qua cảnh sinh hoạt ngày chợ. Mấy ai quên được hậu
quả khủng khiếp của cuộc khủng hoảng kinh tế, của cuộc Chiến tranh thế giới thứ Hai,
của tội ác mà Pháp - Nhật gieo rắc cho đồng bào ta. Cuộc s
ống ấy được nhà văn tập
trung khắc hoạ qua cảnh chợ quê:
"Bói không thấy một hàng gạo. Chỉ có vài mẹt cám là thức ăn sống người nhất
chợ. Người mua tranh nhau húc vào. Mẹt cám hết ngay. Còn lại toàn là hàng củ chuối.
Từng động củ chuối cao ú ụ bằng cây rơm, chỉ một lúc đã vợi. Có những củ chuối thái
mỏng, trộn muối bỏ vào chậu, rắc rau húng lên trên, mỗi bát bán một hào. Nh
ưng
khách mua cũng chẳng mấy, toàn người vêu vao, lượn lờ như gà quanh thúng thóc.
Đám đông quằn quại, lúc nhúc, rách rưới, tanh hôi từ đống bùn rãnh ao ngoi lên, đông
là thế mà chỉ lào xào, phờ phạc, đều đều như sóng đánh, tịnh không một tiếng quát
tháo, cười giòn, mặc cả, chửi bới, say rượu, bò rống, lợn éc" [68, 240- 241]. Đau
thương hơn, nhà nhà còn đem ra chợ từ cái khung cửi, cột nhà, khán thờ bài vị, hòm
sơn then, ống quyể
n đựng bằng sắc gia phả Nhưng nào có ai mua. Người bán, người
xem đờ đẫn không một ai cất nhời hỏi một câu, rồi dần dần lảng cả. Chỉ ở một đống
rác cạnh đấy thì bâu nhâu người ra bới tìm kiếm miếng ăn. Đặc tả cảnh chợ quê trong
những năm nạn đói hoành hành, Tô Hoài đi vào những hình ảnh, những chi tiết cụ thể

×