Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Phân tích, thiết kế xây dựng hệ thống elearning

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.17 MB, 85 trang )

CHƯƠNG 1: CƠ BẢN VỀ E-LEARNING 2
1. eLearning là gì 2
2. Ảnh hưởng của eLearning đối việc dạy và học 4
CHƯƠNG 3: PHÂN TÍCH, THIẾT KẾ HỆ THỐNG QUẢN LÝ HỌC TẬP 36
3.1 Chuyển file power point thành static-html 74
3.2 Tạo file schema theo chuẩn ADL SCORM 1.2 75
3.3 Tạo file manifest 75
3.4 Cắt file video theo chỉ thị thành các đoạn video nhỏ 76
3.5 Đưa các đoạn video nhỏ vào gói scorm 77
Đầu vào công cụ: tệp tin slide bài giảng và video quay bài giảng 78
CHƯƠNG 6: MÔ HÌNH TRIỂN KHAI HỆ THỐNG ĐÀO TẠO TRỰC TUYẾN 78
CHƯƠNG 7: NHẬN XÉT VÀ KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 82
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
LMS Learning Management System
LCMS Learning Content Management System
CNTT Công nghệ thông tin
WBT Web-based Training
ĐHQGHN Đại học Quốc gia Hà Nội
1
CHƯƠNG 1: CƠ BẢN VỀ E-LEARNING
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về eLearning. Trong chương này, chúng tôi
giới thiệu một số định nghĩa cũng như làm sáng tỏ một số khái niệm liên quan đến
eLearning, đồng thời cũng phân tích các ảnh hưởng của eLearning đối với việc dạy
và học.
1. eLearning là gì
Từ thủa sơ khai, con người đã có các hoạt động học và đào tạo. Hình thức đào
tạo phổ biến nhất từ trước tới nay (hay gọi là đào tạo truyền thống) là hình thức mà
giáo viên và học sinh cùng tập hợp tại lớp học, giáo viên truyền đạt kiến thức còn
học sinh tiếp thu.
Theo thời gian, các cách học và đào tạo cũng dần thay đổi. Sự phát triển của
khoa học và công nghệ có ảnh hưởng lớn đến mọi mặt của cuộc sống con người


trong đó có cả lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Khoa học công nghệ đã trợ giúp rất hiệu
quả cho hoạt động giáo dục đào tạo, giúp tháo gỡ các ràng buộc về không gian, thời
gian học, tuổi tác cũng như trình độ của người học trong đào tạo truyền thống, làm
thay đổi rất nhiều đến hình thức đào tạo truyền thống.
eLearning (viết tắt của Electronic Learning) là một thuật ngữ mới. Hiện nay có
rất nhiều cách hiểu về eLearning là gì, dựa theo các quan điểm và dưới các hình thức
khác nhau. Hiểu theo nghĩa rộng, eLearning là việc ứng dụng công nghệ (đặc biệt là
CNTT) trong đào tạo nhằm nâng cao chất lượng và thỏa mãn nhu cầu đào tạo.
eLearning có thể bao gồm các mức độ từ thấp đến cao như:
- Việc sử dụng các thiết bị trợ giảng điện tử (máy chiếu), các phần mềm máy
tính (MS Power Point) để minh họa, trình diễn bài giảng.
- Việc đổi mới thi cử bằng các bài thi trên máy tính độc lập hoặc nối mạng
được chấm điểm tự động.
- Việc nâng cao chất lượng quản lý đào tạo bằng các chương trình máy tính.
2
- Việc tăng cường và đa dạng hóa tài liệu đào tạo bằng các thư viện điện tử,
các nguồn tài liệu tra cứu trên đĩa CD, trên các máy chủ nội bộ của tổ chức
hoặc trên các Website.
- Việc làm phong phú thêm các hình thức trao đổi, thông tin liên lạc trong đào
tạo giữa giáo viên với học viên, học viên với học viên sử dụng các công cụ
liên lạc từ xa như: email, đàm thoại trên mạng (chat), diễn đàn qua mạng,
trao đổi trực tuyến sử dụng Video-Audio conferencing (bao gồm cả satelline
TV conferencing lẫn realtime computer conferencing).
- Các phần mềm dạy học hoàn chỉnh trên máy tính cục bộ hoặc trên đĩa CD
(Computer Based Training - CBT) hoặc trên các Website (Web-Based
Training - WBT) cho phép học ở mọi nơi, mọi lúc.
Theo quan điểm hiện đại, eLearning là sự phân phát các nội dung học sử dụng
các công cụ điện tử hiện đại như máy tính, mạng vệ tinh, mạng Interner, Intranet, …
trong đó nội dung học có thể thu được từ các Website, đĩa CD, băng video, audio…
thông qua một máy tính hay TV, người dạy và người học giao tiếp với nhau qua

mạng dưới các hình thức như: email, thảo luận trực tuyến (chat), diễn đàn (forum),
hội thảo video (video conferencing) ….Việc giao tiếp ở đây có hai hình thức là giao
tiếp đồng bộ (synchronous) và giao tiếp không đồng bộ (asynchronous). Giao tiếp
đồng bộ là hình thức giao tiếp trong đó những người sử dụng truy cập mạng tại cùng
một thời điểm và giao tiếp với nhau, ví dụ như thảo luận trực tuyến, hội thảo video là
các hình thức giao tiếp đồng bộ. Ngược lại giao tiếp không đồng bộ là hình thức mà
những người giao tiếp không nhất thiết truy cập mạng tại cùng một thời điểm, ví dụ
email, diễn đàn là các hình thức giao tiếp không đồng bộ.
Một số hình thức eLearning:
- TBT - Technology-Based Training (đào tạo dựa trên công nghệ): là hình
thức đào tạo có sự áp dụng công nghệ đặc biệt là dựa trên CNTT. Thuật ngữ
này có thể hiểu một cách tương đương như thuật ngữ eLearning.
- CBT - Computer-Based Training (đào tạo dựa trên máy tính): Hiểu theo
nghĩa rộng, thuật ngữ này nói đến bất kỳ một hình thức đào tạo nào có sử
3
dụng máy tính. Nhưng thông thường thuật ngữ này được hiểu theo nghĩa hẹp
để nói đến các ứng dụng (phần mềm) đào tạo trên các đĩa CD-ROM hoặc cài
trên các máy tính độc lập, không nối mạng, không có giao tiếp với thế giới
bên ngoài. Thuật ngữ này thường được hiểu đồng nhất với thuật ngữ CD-
ROM Based Training.
- Web-Based Training (đào tạo dựa trên Web): là hình thức đào tạo sử dụng
công nghệ Web. Nội dung học, các thông tin quản lý khóa học, thông tin về
người học được để trên các Website và người dùng có thể dễ dàng truy nhập
qua trình duyệt. Người học có thể giao tiếp với nhau và với giáo viên, sử
dụng các chức năng trao đổi trực tiếp, diễn đàn, email…, thậm chí có thể
nghe được giọng nói và nhìn thấy hình ảnh của người giao tiếp với mình.
- Online Learning/Training (đào tạo trực tuyến): Hình thức đào tạo có sử
dụng kết nối mạng để thực hiện việc học: lấy tài liệu học, giao tiếp giữa
người học với nhau và với giáo viên…
- Distance Learning (đào tạo từ xa): Thuật ngữ này nói đến hình thức đào tạo

trong đó người dạy và người học không ở cùng một chỗ, thậm chí không
cùng một thời điểm. Ví dụ như việc đào tạo sử dụng công nghệ hội thảo cầu
truyền hình, hoặc công nghệ Web.
2. Ảnh hưởng của eLearning đối việc dạy và học
Công nghệ eLearning đang biến đổi cách học cũng như nơi học của sinh viên.
Người học có thể học mọi lúc mọi nơi (miễn là nơi đó có phương tiện trợ giúp việc
học), có thể học theo thời gian biểu cá nhân, với nhịp độ tuỳ theo khả năng, và có thể
tuỳ chọn các nội dung học, do đó nó sẽ mở rộng đối tượng đào tạo lên rất nhiều, cho
phép giải quyết được vấn đề nan giải trong lĩnh vực giáo dục thế giới đó là nhu cầu
được đào tạo của người lao động và sinh viên tăng lên quá tải so với khả năng của
các cơ sở đào tạo.
eLearning sẽ có sức lôi cuốn rất nhiều người học kể cả những người mà trước
đây họ chưa bao giờ bị hấp dẫn bởi lối giáo dục kiểu cũ và nó rất phù hợp với hoàn
cảnh của những người đang đi làm nhưng vẫn muốn nâng cao trình độ. Các chương
4
trình đào tạo từ xa trên thế giới hiện nay đã đạt đến trình độ phong phú về giao diện,
sử dụng rất nhiều các hiệu ứng đa phương tiện như âm thanh hình ảnh, hình ảnh
động 3 chiều, kỹ xảo hoạt hình …, có độ tương tác cao giữa người sử dụng và
chương trình, đàm thoại trực tiếp qua mạng …. Điều này đem lại cho học viên sự thú
vị, say mê trong quá trình tiếp thu kiến thức cũng như hiệu quả cao trong học tập.
Ngoài ra eLearning cho phép học viên làm chủ hoàn toàn quá trình học của bản
thân, từ thời gian, lượng kiến thức cần học cũng như thứ tự học các bài, đặc biệt là
cho phép tra cứu trực tuyến những kiến thức có liên quan đến bài học một cách tức
thời, duyệt lại những phần đã học một cách nhanh tróng cũ, tự do trao đổi với những
người cùng học hoặc giáo viên ngay trong quá trình học, những điều mà theo cách
học truyền thống là không thể hoặc đòi hỏi chi phí quá cao.
Những người mới bắt đầu học đều cho rằng eLearning hứa hẹn sẽ để lại một dấu
ấn sâu sắc và lâu dài trong giáo dục đại học. Các nhà phân tích và chuyên môn về
eLearning dự đoán ngày càng nhiều rằng rất nhiều chương trình đào tạo cao học về
quản trị kinh doanh – MBA (Master of Bussiness Administrationd) theo lối truyền

thống sẽ biến mất.
Đối với người dạy học, thay vì phải mất thời gian đến các lớp học khác nhau để
giảng bài, có nhiều thời gian hơn để chuyên tâm soạn thảo nội dung các bài giảng có
chất lượng cao và giải đáp các thắc mắc của người học. Do đặc điểm của các bài
giảng trong eLearning khác rất nhiều so với các bài giảng truyền thống, nên đòi hỏi
người giáo viên cũng phải có những hiểu biết nhất định về CNTT và phải cộng tác
với đội ngũ chuyên môn về CNTT để có thể thiết kế, chuyển đổi các nội dung giảng
dạy sang eLearning sao cho có hiệu quả.
Nhưng mô hình học trực tuyến không phải phù hợp với tất cả mọi người, nó chỉ
phù hợp với những người học trưởng thành, thực sự có nhu cầu và tự giác học. Thêm
nữa, không phải bất kỳ nội dung học nào cũng dễ dàng chuyển đổi sang eLearning.
Những môn học mà nội dung có tính quy trình, thay đổi nhanh, yêu cầu cập nhật kịp
thời sẽ là những nội dung thích hợp của eLearning.
Không phải trong mọi trường hợp các bài giảng truyền thống được cho là tốt sẽ
tự động có chất lượng tốt khi chuyển sang mô hình eLearning. Câu hỏi đặt ra là: liệu
5
các trường có thể làm được sự chuyển từ các lớp học truyền thống sang eLearning ?
Nhiều trường đại học đã hợp tác với các các công ty bán hàng có uy tín để phân phối
các nội dung học của họ. Một vài trong số các công ty này sẽ trở nên rất vững vàng
trong tương lai – theo ông Mark Van Buren, Giám đốc Nghiên cứu thuộc Hội Phát
triển và Đào tạo Mỹ (ASTD).
Các trường đại học rõ ràng đang có các lợi thế hơn các nhà cung cấp dịch vụ
eLearning khác, đó chính là danh tiếng – ông Van Buren nói. Bởi vì các trường đều
được thành lập với mục đích chuyên cho công tác đào tạo nên so với các đơn vị
khác chúng có danh tiếng hơn nhiều về lĩnh vực đào tạo. Một cách tương phản, với
một khối lượng lớn giáo trình từ ban đầu, rất khó kiểm soát được chất lượng của dịch
vụ eLearning – ông nói.
Các trường đại học quan tâm đến eLearning vì một số lý do: nhằm cung cấp mô
hình học suốt đời, tăng các khả năng lựa chọn mô hình học cho sinh viên, đồng thời
khai thác khả năng của công nghệ để thoả mãn nhu cầu học cho những người đang đi

làm., và tất nhiên là cả thu nhập nữa.
Phòng đào tạo của các công ty cũng bị hấp dẫn bởi eLearning. Họ tiết kiệm được
một khoản tiền đào tạo lớn khi thay thế mô hình đào tạo truyền thống bởi eLearning,
đồng thời nhân viên được đào tạo cũng thích kiểu đào tạo này vì có thể tiết kiệm
đựơc thời gian hơn cho việc học.
Theo ông LeBlanc - hiệu trưởng trường Đại học Marlboro, trong thập kỷ tới sẽ
có sự thay đổi rất dữ dội trong lĩnh vực giáo dục thường xuyên, giáo dục đại học và
tại chức. Elearning trong các trường đại học sẽ bao gồm hai thị trường mới chưa
được khai thác: học sinh quốc tế và các quan chức. Một sự thay đổi cơ bản nữa là sự
chuyển đổi giữa các mô hình học mà người dạy đóng vai trò trung tâm sang các mô
hình học mà người học đóng vai trò trung tâm hay nói cách khác là chuyển từ “dạy”
sang “học”, nó bao gồm việc tách người dạy ra khỏi nội dung học – ông LeBlanc
khẳng định.
Một sự thay đổi có thể nữa trong giáo dục gây ra bởi eLearning đó là sự hình
thành và phát triển của các công ty eLearning tư nhân. Với các sản phẩm cao cấp,
các công ty này sẽ thu hút, chia sẻ thị trường của các cơ sở đào tạo truyền thống
6
trong khi hợp tác với các cơ sở khác. Các công ty này đang gây uy tín để trở thành
các đơn vị cấp văn bằng.
Thậm chí sự thay đổi sẽ liên quan đến những vấn đề cơ bản của ngành giáo dục
đại học. Ông LeBlanc đã đưa ra câu hỏi: liệu hệ thống bằng cấp truyền thống như cử
nhân, thạc sỹ hay tiến sỹ sẽ còn có ý nghĩa lâu hơn nữa không ? hay liệu chúng ta có
thể nghĩ đến một sự pha trộn khác trong hệ thống bằng cấp ? Ông dự đoán rằng, sẽ
có thêm sự trộn lẫn trong việc sắp xếp thứ tự của văn bằng.
Ông DiPaolo – Giám đốc Điều hành, Trung tâm Phát triển Nghề nghiệp, Đại học
Tổng hợp Standford cũng đồng ý như vậy. Để thoả mãn nhu cầu của thị trường, đòi
hỏi các trường phải phân nhỏ các khóa học thành các mảnh nhỏ, chẳng hạn “đóng
gói” một khoá học 30 giờ thành hai modun 15 giờ.
Trường Standford cũng đã tìm thấy một dây chuyền cung cấp kiến thức mới nhờ
vào Internet. Trước đây mỗi giáo viên phải làm mọi thứ, nhưng hiện nay thì khác,

một người sẽ làm nhiệm vụ soạn thảo khoá học, người khác sẽ làm nhiệm vụ phân
phối nó tới người học, người thì làm nhiệm vụ điều phối, người thì làm nhiệm vụ
kèm cặp, phụ đạo – theo lời ông DiPaolo.
3. Tình hình phát triển và ứng dụng eLearning trên thế giới
eLearning phát triển không đồng đều tại các khu vực trên thế giới. eLearning
phát triển mạnh nhất ở khu vực Bắc Mỹ, ở châu Âu eLearning cũng rất có triển
vọng, trái lại ở châu Á là khu vực chậm tiến đối với công nghệ này. Để có cái nhìn
tổng quan về eLearning trên thế giới, chương này lần lượt điểm qua sự phát triển và
ứng dụng eLearning ở các châu lục chính như Bắc Mỹ, châu Âu và châu Á với các
dẫn chứng minh hoạ về sự quan tâm hỗ trợ, các biện pháp, chính sách của nhà nước
và chính quyền tại các khu vực trên đối với eLearning, sự ứng dụng eLearning trong
các cơ sở giáo dục, các công ty, giới thiệu một số đại học ảo …
Theo số liệu thống kê của Hội Phát triển và Đào tạo Mỹ (American Society for
Training and Development - ASTD) gần 47% các trường đại học và cao đẳng Mỹ đã
đưa ra các dạng khác nhau của mô hình học từ xa (distance learning) tại thời điểm
năm 2000, tạo nên 54000 khoá học trực tuyến.
7
Theo các chuyên gia phân tích của Công ty Dữ liệu Quốc tế (International Data
Corporation - IDC), vào cuối năm 2004 gần 90% các trường đại học và cao đẳng Mỹ
sẽ đưa ra mô hình eLearning, số người tham gia học tăng 33% hàng năm trong
khoảng từ năm 1999 đến 2004.
IDC dự đoán rằng, chi phí của các trường đại học và cao đẳng cho công nghệ
học từ xa (distance learning technology) sẽ tăng 20% mỗi năm, cụ thể là từ gần 300
triệu USD năm 1999 sẽ tăng lên đến 744 triệu USD năm 2004. Thêm vào đó, vốn
đầu tư vào việc đào tạo từ xa sẽ đạt đến con số khổng lồ 2,2 tỷ USD vào năm 2004
(trong khi con số này vào năm 1999 là 900 triệu USD).
Tại trường Đại học Standford chẳng hạn, eLearning được xem như là “một sự nỗ
lực để mở rộng kinh nghiệm của Standford tới mọi người từng ngày” – theo lời ông
Andy DiPaolo, Giám đốc Điều hành Trung tâm Phát triển Nghề nghiệp Đại học
Standford.

Bốn đại học danh tiếng là Standford, Oxford, Yale và Princeton đã cùng hợp tác
trong một dự án dạy học từ xa trị giá 12 triệu USD, cung cấp các khoá học về khoa
học, nghệ thuật trực tuyến. Dự án mang tên “liên minh các trường đại học cho việc
đào tạo suốt đời ” (University Alliance for Life-Long Learning), nhắm tới các cựu
sinh viên của trường.
Trong năm 2001, Trường Kinh doanh Harvard (Harvard Bussiness School) và
Đại học Tổng hợp Standford (Standford University) đã liên kết để mở các khoá đào
tạo kinh doanh trực tuyến tập trung vào đối tượng học là các nhà lãnh đạo điều hành
của các công ty cũng như của chính phủ trên toàn thế giới. Hai trường nói là, họ hy
vọng chương trình của họ trở thành tư liệu hàng đầu thế giới về giáo dục quản lý trực
tuyến. Trước đó Trường Công nghệ Standford (Standford School of Engineering) –
đơn vị đi tiên phong trong lĩnh vực dạy học từ xa – đã đào tạo ra 25% số thạc sỹ
thuộc ngành này qua đào tào từ xa. Sau Harvard và Standford, hai trường đại học nổi
tiếng khác là New York và Columbia cũng mở các khoá học tương tự. Việc các
trường đại học hàng đầu này mở chương trình eLearning cho thấy xu hướng phát
triển của mô hình này sẽ rất mạnh mẽ.
8
Đầu năm 2001, Học viện Công nghệ Massachusetts (MIT) đã tạo ra một điểm
sáng khi nó hoàn thành bản kế hoạch đưa gần như toàn bộ giáo trình học của trường
lên mạng Internet hoàn toàn miễn phí. MIT nói rằng, trong vòng 10 năm tới sẽ cung
cấp trên mạng các tài liệu của hơn 2000 khoá học bao gồm các bài giảng, bài đọc,
bài kiểm tra, mô phỏng và các bài giảng video. Về phương diện nào đó, đề xuất của
trường MIT làm tăng thêm quyết tâm của các trường đại học khác đang xem Internet
như là một nguồn lợi quyến rũ.
Đại học Tổng hợp Canada (Canadian University) cũng đưa ra khoá học trực
tuyến về đất trồng và phân bón mang tên The Land. Với số vốn đầu tư 1 triệu đô la
Canada, khoá học hướng tới đối tượng học là các nhà chuyên môn nông nghiệp.
Hiện đang có một cuộc chạy đua giữa các trường lớn và nhỏ trong thị trường
eLearning nhằm thu lợi từ thị trường khổng lồ này. Một ví dụ là Đại học Trực tuyến
Phoenix – đơn vị đang dẫn đầu với hơn 18000 sinh viên. Trong 6 tháng từ 9/2000

đến 2/2001, trường này đã thu về 70,2 triệu USD, tăng 65% trong đó tiền lãi là 11,6
triệu USD tăng 72%. Với 23000 USD, sinh viên có thể đạt được trình độ MBA tại
Phoenix, một món khá hời nếu so sánh với gần 80000 USD phải trả tại Trường Kinh
doanh Fuqua - Đại học Tổng hợp Duke (Duke University’s Fuqua School of
Business) – nơi mà một chương trình học trực tuyến cũng được đưa ra. Số người
đăng ký học tại Phoenix nhiều gấp hai lần của trường Đại học Quốc tế Jones (Jones
International University) – là trường đại học hoàn toàn trực tuyến đầu tiên ở Mỹ -
đối thủ cạnh tranh hàng đầu của Phoenix. Với một mảng rất lớn các khoá học được
công nhận giành cho đối tượng vừa học vừa làm, Phoenix đang xông xáo nhắm tới
thị trường đại học giành cho các công ty với các chương trình học giá vừa phải, và
các tuỳ chọn học mềm dẻo. Trường cũng làm việc với các công ty khách hàng để tuỳ
biến các khoá học cho phù hợp với nhu cầu khách hàng. Phoenix đã xác nhận là gần
một nửa số sinh viên của trường được cơ quan trả học phí.
Sau đây là một số đại học trực tuyến:
- Đại học Tổng hợp Maryland www.umuc.edu
Đây là đại học công lập lớn nhất tại Mỹ có các khoá đào tạo trực tuyến. Bắt
đầu cung cấp dịch vụ từ 1990. Năm 2001 số người đăng ký học trực tuyến
9
lên đến 63000 người, tăng gấp đôi so với năm trước đó. Học viên có thể được
cấp 70 văn bằng các loại qua mạng. Học phí: tương tự như các khoá học trên
lớp của trường – 197$ cho một giờ học với sinh viên đại học, 301$ với sinh
viên sau đại học. Sinh viên nước ngoài phải trả gấp đôi.
- Đại học Trực tuyến Phoenix online.uophx.edu
Đại học trực tuyến lớn nhất nước Mỹ. Các lĩnh vực đào tạo bao gồm: cử nhân
tài chính kế toán, quản trị và marketing, thạc sỹ quản trị kinh doanh (MBA),
tiến sỹ về quản lý. Việc học và thi cử hoàn toàn qua mạng. Học phí: 400$ đến
500$ cho mỗi môn học. Để lấy được văn bằng MBA học phí khoảng 23000$.
- Đại học Quân sự Trực tuyến eArmyU www.earmyu.com
Từ 1/2001, eArmyU cho phép các binh lính Mỹ đăng ký học và lấy văn bằng
của 24 trường đại học trên khắp nước Mỹ. Mỗi người học được cấp một máy

tính xách tay, một máy in và quyền truy cập Internet. Cho tới 12/2001 có
10400 người học, dự tính đến 2003 sẽ áp dụng cho toàn bộ quân đội Mỹ. Học
phí: miễn phí cho quân đội, dân thường không được phép đăng ký học.
- Đại học Western Governors www.wgu.edu
Đây là đại học trực tuyến được thành lập năm 1997 bởi 19 bang miền Tây
nước Mỹ. Các khoá học được thiết kế theo trình độ từng học viên dựa theo
kết quả kiểm tra nhập học. Nội dung học cho mỗi cá nhân dựa trên mức độ
thiếu hụt kiến thức cần bù đắp của cá nhân đó. Trường được tài trợ bởi các
công ty như IBM, AOL, Microsoft. Học viên phải trả 4500$ cho việc kiểm
tra đầu vào và tiền giáo viên hướng dẫn, ngoài tuỳ thuộc vào nội dung học
còn phải trả thêm các khoản thêm nữa.
- Đại học Mở Harvard www.extension.harvard.edu
Có 35 khóa học lấy các văn bằng trực tuyến về các nội dung: khoa học máy
tính, thuật toán máy tính, xây dựng Website. Dự kiến sẽ mở rộng hơn nữa
trong tương lai. Học phí từ 275$ không có tín chỉ cho tới 1750$.
- Đại học Cardean www.cardean.edu
10
Được thành lập bởi công ty phát triển các ứng dụng eLearning có tên Unext
kết hợp với các đại học Standford, Chicago, Columbia. Trường đã cung cấp
dịch vụ học trực tuyến cho nhân viên công ty General Motors trong khi
nhanh tróng quảng cáo dịch vụ tới đông đảo khách hàng. Học phí khoảng
25000$ cho văn bằng MBA.
- Đại học Quốc tế Jones www.jonesinternational.edu
Thành lập 1993 bởi Công ty Truyền hình Cáp, trước đó từng cung cấp dịch
vụ đào tạo từ xa qua TV cáp. Trường có hơn 40 chương trình đào tạo cấp đại
học và thạc sỹ. Văn bằng MBA học phí khoảng 12000$.
- Đại học Capella www.capella.edu
Cung cấp hơn 500 khoá học trong mỗi quý. Sinh viên có thể được cấp 15 văn
bằng khác nhau từ 80 chuyên ngành. Hầu hết trong số 4000 sinh viên đang
theo học về kinh doanh, giáo dục hoặc CNTT. Tiền học từ 1150$ đến 1600$

cho một khoá học. Để lấy bằng thạc sỹ, học phí là 20000$, bằng tiến sỹ
khoảng 34000$.
Các trường đại học đi theo nhiều hướng khác nhau trong lĩnh vực eLearning.
Trường Đại học Tổng hợp New York và Trường Đại học Tổng hợp Mariland nằm
trong số các trường thiết lập các bộ phận chuyên trách để kinh doanh eLearning.
Trong khi đó, các trường như Williams, Amherst, Brown và Cornell thì tham dự vào
Nghiệp đoàn Mạng Giáo dục Toàn thể (General Education Network consortium).
Những hội liên hiệp học từ xa khác cũng đang được thiết lập giữa các trường đại học
với các ràng buộc về địa lý, tôn giáo …
Còn tại Châu Âu, Công ty IDC ước đoán rằng thị trường eLearning của châu Âu
sẽ tăng tới 4 tỷ USD trong năm 2004 với tốc độ tăng 96% hàng năm. Vào cuối năm
2004, 50% tổng số trên đạt được từ mảng đào tạo trực tuyến với nội dung đào tạo
liên quan tới CNTT, số còn lại sẽ là các mảng đào tạo liên quan đến các nội dung
như bán hàng, tiếp thị kỹ năng của người lãnh đạo …
Trong những năm gần đây, châu Âu đã có một thái độ tích cực đối với việc phát
triển CNTT cũng như ứng dụng nó trong mọi lĩnh vực kinh tế xã hội đặc biệt là ứng
11
dụng trong hệ thống giáo dục. Các nước trong Cộng đồng Châu Âu đều nhận thức
được tìêm năng to lớn mà CNTT mang lại trong việc mở rộng phạm vi, làm phong
phú thêm nội dung và nâng cao chất lượng của nền giáo dục.
Tháng 3/2001, một kế hoạch trị giá 13,3 tỷ USD mang tên “Kế hoạch Hành động
eLearning” (eLearning Action Plan) đưa ra bởi Uỷ ban Châu Âu (European
Commision) được trông đợi sẽ thúc đẩy sự phát triển của đào tạo trực tuyến trong
các trường đại học ở Châu Âu. Bản kế hoạch 3 năm này có mục tiêu mở rộng tiềm
năng số hoá ở châu Âu và giảm sự thiếu hụt nhân lực CNTT. Chính phủ các quốc gia
châu Âu sẽ cùng nhau cộng tác để thực hiện kế hoạch này. Khoản đầu tư trải rộng
trong lĩnh vực giáo dục tất cả các cấp, tập trung vào ngôn ngữ; nghệ thuật - văn hoá -
nghĩa vụ công dân; khoa học - công nghệ - xã hội.
Trong 2 năm tới, Uỷ ban Châu Âu đang đặt ra một mục đích lâu dài liên quan
đến việc sử dụng công nghệ giáo dục mới, chẳng hạn như việc xây dựng và phát

triển các “đại học, lớp học ảo”. Để đạt được các mục đích này, Uỷ ban Châu Âu sẽ
sử dụng tối đa các chính sách và các công cụ mà nó điều khiển, ví dụ như các
chương trình hỗ trợ đào tạo và giáo dục mới nhất (như các chương trình có tên
Socrates, Leonardo, Youth), hay các chương trình hỗ trợ nghiên cứu, phát triển lần
thứ 5 (còn gọi là IST programme), các chương trình eEurope (như các chương trình
mang tên eContent, Go Digital & Ten Telecom), các quỹ tài trợ như Structural
Funds, đặc biệt sẽ đầu tư cho các khu vực ít được ưu đãi.
Một nhóm 15 công ty châu Âu đã thành lập Hội Công Nghiệp eLearning
(eLearning Industry Group). Hội này sẽ làm việc với Uỷ ban Châu Âu và các chính
phủ các quốc gia châu Âu để khuyến khích việc ứng dụng eLearning trong các
trường học, cơ quan, doanh nghiệp tại châu Âu. Hiệp hội này bao gồm các công ty
như: 3Com, Accenture, Apple, BT, Cisco, Digitalbrain, IBM, Intel,
Communications, NIIT, Nokia, Online Courseware Factory, Sanom WSOY, Sun
Microsystems, Vivendi Universal Publishing. Hội đề ra 4 đề xướng then chốt để thực
hiện đó là: xoá bỏ các rào cản đối với mọi người trong xã hội đối với eLearning,
tham dự và tuân theo trong việc xây dựng các chuẩn mở về eLearning, tạo điều kiện
để duy trì thị trường thương mại cho các nội dung và sự phát triển eLearning, tăng
12
các nguồn đầu tư trong việc nâng cao trình độ liên tục cho các giáo viên để họ có thể
hiểu được và phát triển các nguyên lý của eLearning.
Những nước châu Âu có lượng người nói tiếng Anh đông và tỷ lệ thâm nhập
Internet cao như Hà Lan, Thụy Điển, Anh là những nước eLearning sẽ trở nên phổ
cập nhanh hơn. Phần phía Nam châu Âu có xu hướng đi chậm hơn trong lĩnh vực
này.
Chính phủ Anh đã tài trợ 84 triệu Pound để thành lập Đại học Dịch vụ Đào
tạoTrực tuyến Công nghiệp (University for Industry’s Online Training Services -
UFI). Đại học này cung cấp các khoá đào tạo dựa trên sự hợp tác giữa một số trường
đại học, các doanh nghiệp và các tổ chức. Theo khảo sát gần đây của công ty
SkillSoft Europe (một công ty về eLearning) khoảng 45% các tổ chức tại Anh sử
dụng eLearning thường xuyên. Trong các tổ chức này không thể không kể đến hai

công ty lớn của Anh đó là hãng hàng không British Airway và hãng tin Anh Reuter.
Hãng tin Reuter hy vọng sẽ tiết kiệm được 1 triệu Pound mỗi năm trong chi phí đào
tạo sau khi thay thế đào tạo truyền thống bằng eLearning. Anh cũng là nước có nhiều
dự án eLearning trong môi trường đại học so với các nước ở châu Âu. Trường Đại
học Tổng hợp Manchester (Manchester Metropolitan University) đã có dự án xây
dựng hệ thống eLearning cung cấp các nội dung học về CNTT, còn trường Đại học
Tổng hợp Liverpool (Liverpool University) có các khoá học trực tuyến trình độ
Master về CNTT cho những người học đã có 5 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực này.
Có thể tìm thấy rất nhiều Website hỗ trợ học trực tuyến của các trường đại học tại
Anh như: www.hvmba.edu của đại học Heriot-Watt University,
www.nottingham.ac.uk của đại học University of Nottingham, www.lon.ac.uk của
đại học University of London External Programme…. Nước Anh còn trở thành bãi
đổ bộ cho các nhà bán sản phẩm eLearning của Mỹ trong một tham vọng hướng tới
thị trường châu Âu. Ví dụ công ty eLearning của Mỹ, SkillShoft đã xây dựng cơ sở
của công ty tại Anh, hợp tác với các nhà thiết kế bài học châu Âu để đưa ra các sản
phẩm học phù hợp cho châu Âu.
Thuỵ Sỹ cũng đang đứng trước các thử thách của một xã hội thông tin. Nước này
đóng vai trò rất tích cực trong lĩnh vực xúc tiến eLearning nhất là trong việc nghiên
13
cứu và chuẩn hoá. Hơn nữa Thuỵ Sỹ cũng đầu tư rất nhiều để phát triển eLearning
trong các trường đại học. Ví dụ như chương trình dạy học trực tuyến Swiss Virtual
Campus ( với các môn học hấp dẫn nhiều sinh viên.
Hay chương trình Eduswiss ( là một đại học ảo với hơn 100
khoá học về các nội dung như khoa học máy tính, truyền thông và đa phương tiện,
quản lý môi trường , tự động hóa với sự tham gia của hơn 40 trường đại học và tổ
chức doanh nghiệp.
Theo nghiên cứu của Trường Quản lý, Đại học Tổng hợp Muynich - Đức
(University of Munich’s School of Management), khoảng 1/3 các công ty tham gia
thị trường chứng khoán C-Dax (Đức) đào tạo nhân viên theo mô hình eLearning.
Khoảng một nửa các công ty ở Đức hiện chưa dùng eLearning đang có kế hoạch sử

dụng công nghệ này trong tương lai.
Tại Pháp, chính phủ sẽ kết nối mạng tất cả các trường đại học trong nước và tạo
ra một khu trường sở số hoá (digital campus), khu digital campus này sẽ được kết
nối với tất cả các trường đại học ở Pháp. Hiện nay phần lớn nội dung đào tạo về
CNTT đều được các trường sử dụng mô hình đào tạo trực tuyến. Một số các Website
đào tạo trực tuyến của các trường ở Pháp như: www.univ-reims.fr/ctu của trường
University of Reims, telesup.univ-mrs.fr của trường University de Rouen,
www.univ-lille3.fr của trường University Charkes de Gaulle II…
Chính phủ Nauy đã tạo ra mạng quốc gia dựa trên Internet (national internet-
based learning network) phục vụ cho mục đích đào tạo và giáo dục cho dân chúng
nước này. Mạng này mang tên Competence Network, là kết quả của sự hợp tác giữa
hai tổ chức Liên hiệp Thương Mại Liên Bang Nauy (Norwegian Federation of Trade
Unions) và Liên hiệp Doanh nghiệp và Công nghiệp Nauy (Confederation of
Norwegian Bussiness and Industry). Đứng đằng sau là chính phủ và các trường đại
học, mạng này có thể vươn tới 4 triệu người Nauy. Hơn 40 nhà cung cấp nội dung
học sẽ đưa ra các chương trình học phù hợp cho sinh viên truy cập tại các công sở,
hiệp hội thương mại, các trường học và các công ty tư nhân.
Tại Hy Lạp, công ty phần mềm eLearning mang tên European Dynamics đã giới
thiệu một phần mềm eLearning sẽ được dùng bởi các khoa tự nhiên của trường Đại
14
học Tổng hợp Quốc gia Athen. Phần mềm này dựa trên Internet và hỗ trợ giáo dục
đào tạo điện tử, người dùng có thể trao đổi các tài liệu học cũng như các vấn đề liên
quan đến nội dung học trực tuyến cũng như tham gia các hội nghị từ xa qua video
conference.
Tại Cộng hoà Belarus, Đại học Tổng hợp Belarut về Thông tin và Điện tử (The
Belarus State University of Informatics and Radio eletronics) cũng là đơn vị đào tạo
đầu tiên tại nước này được cho phép đào tạo từ xa từ Bộ Giáo dục và Đào tạo
Belarus. Học phí cho một năm học từ xa của trường là 377$. Các khóa học từ xa ở
đây dự định cho 70 sinh viên, sẽ học 13 môn học. Trường sử dụng công nghệ học từ
xa của 1 công ty của Nga có tên là Prometheus để phân phối các chương trình học.

Các nước châu Âu có nhiều sự hợp tác đa quốc gia trong lĩnh vực eLearning.
Điển hình là dự án xây dựng mạng xuyên châu Âu EuroPACE. Đây là mạng
eLearning của 36 trường đại học hàng đầu châu Âu thuộc các quốc gia như Đan
Mạch, Hà Lan, Bỉ, Anh, Pháp cùng hợp tác với công ty eLearning của Mỹ Docent
nhằm cung cấp các khoá học về các lĩnh vực như khoa học, nghệ thuật, con người
phù hợp với nhu cầu học của các sinh viên đại học, sau đại học, các nhà chuyên môn
ở châu Âu.
Tại châu Á, eLearning vẫn đang ở trong tình trạng sơ khai, chưa có nhiều thành
công vì một số lý do như: các quy tắc luật lệ bảo thủ, tệ quan liêu, sự ưa chuộng đào
tạo truyền thống của văn hoá châu Á, vấn đề ngôn ngữ không đồng nhất, cơ sở hạ
tầng nghèo nàn và nền kinh tế lạc hậu ở một số quốc gia châu Á… Tuy vậy đó chỉ là
những rào cản tạm thời, do nhu cầu đào tạo ở châu lục này cũng đang trở nên ngày
càng không thể đáp ứng được bởi các cơ sở giáo dục truyền thống buộc các quốc gia
châu Á đang dần dần phải thừa nhận tiềm năng không thể chối cãi được mà
eLearning mang lại. Một số các quốc gia đặc biệt là các nước có nền kinh tế phát
triển hơn tại châu Á cũng đang có những nỗ lực thể hiện sự nhận thức đối với
eLearning.
Theo nghiên cứu của công ty IDP Education Australia, số sinh viên đại học ở các
nước châu Á sẽ đạt 45 triệu vào 2010. Các công ty châu Á cũng nhận ra rằng để có
thể đứng vững trên thị trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, các nhân viên của họ
15
phải có các kỹ năng và tri thức đầy đủ, được cập nhật thường xuyên. Nhu cầu học
tập tăng nhanh ở châu Á đã được các nhà bán sản phẩm eLearning và các đại học
phương Tây chú ý đến. Châu Á rõ ràng đang là thị trường đào tạo rất lớn chưa được
khai phá đối với các cơ sở đào tạo phương Tây.
Quốc gia được các nhà cung cấp sản phẩm eLearning phương Tây quan tâm
hàng đầu tại châu Á là Trung Quốc - nước rất thành công trong việc xây dựng cơ sở
hạ tầng truyền thông với lượng người truy cập Internet tính đến cuối năm 2000 là 6,7
triệu người. Các công ty eLearning hàng đầu phương Tây như SmartForce, Saba,
Skillsoft, IBM Mindspan, NETg đã mở các văn phòng đại diện tại Trung Quốc hoặc

Hồng Kông. Tháng 7/2001 công ty SmartForce đã ký được 1 hợp đồng hàng triệu đô
la với công ty Neusoft - một công ty phát triển phần mềm lớn nhất của Trung Quốc
để cung cấp sản phẩm eLearning cho các nhân viên của công ty này với nội dung
đào tạo là CNTT và kinh doanh. Tuy vậy các công ty phương Tây cũng đang vấp
phải sự cạnh tranh ngày càng tăng của một nhóm nhỏ các công ty châu Á. Được
thành lập bởi các nhà điều hành giày dạn kinh nghiệm trong lĩnh vực giáo dục, các
công ty eLearning châu Á không có vốn tài chính và danh tiếng bằng các công ty
phương Tây. Tuy vậy, các công ty eLearning châu Á vẫn thu hút được khách hàng
nội địa bởi những sản phẩm phù hợp thị hiếu. Dẫn đầu trong số này phải kể đến
NetDimension và Go4It Technologies. Thành lập vào năm 1999, với sản phẩm là Hệ
thống Quản trị Học (Learning Management System - LMS) mang tên Enterprise
Knowledge Platform, NetDimension đã thu hút được một số các khách hàng lớn như
hãng hàng không Cathay Pacific Airways, The Hongkong and Shangai Banking
Corporation - một tổ chức tài chính hàng đầu thế giới, ING - tổ chức tài chính hàng
đầu châu Âu có nhiều hoạt động kinh doanh ở châu Á.
Công nghệ giáo dục còn là điều mới mẻ với nhiều người ở châu Á, nhưng chừng
nào họ nhìn thấy và trải qua họ sẽ thấy cực kỳ thích thú – ông Andrew Silvers – phụ
trách phát triển eLearning cho khu vực châu Á, Thái Bình Dương thuộc công ty
Hewlett-Packard - một công ty đã có các sản phẩm eLearning hướng tới các nước
như Malaysia, China, Hong Kong, Singapore và Đài Loan – đã nói như vậy.
16
Trong thời gian gần đây đã có một luồng gió mạnh trong các hoạt động hợp tác
giữa phương Đông và phương Tây trong lĩnh vực eLearning. Hãy xem xét các sự
kiện sau:
- 12/2000, OnlineLearning.net, nhà phân phối các khoá học trực tuyến của
trường Đại học mở California - UCLA, đã hợp tác với 1to80.com, một chi
nhánh của hãng sản xuất máy tính Acer đặt tại Singapore để tạo ra sản phẩm
gọi là “cổng tri thức trực tuyến”(online knowledge portal), cung cấp các khoá
học trực tuyến bằng các ngôn ngữ khác nhau cho các vùng địa lý khác nhau.
- KnowledgeWindow.com, nhà cung cấp dịch vụ eLearning của Đại học

Princeton (Mỹ) đã đặt chân đến Thailand. Công ty gần đây đã đạt được một
thoả thuận với nhà cung cấp dịch vụ Internet Thailand có tên Loxley
Information Services để cung cấp sản phẩm mang tên Vlearn. Công ty tập
trung vào lĩnh vực đào tạo Anh ngữ trực tuyến cho các cơ quan chính phủ và
doanh nghiệp châu Á trong đó có công ty Merica Chain- một công ty chuyên
đào tạo về ngôn ngữ của Đài Loan. Merica đã sử dụng Vlearn để dạy tiếng
Anh qua Internet cho các sinh viên Đài Loan, Trung quốc, và các nước khác
vùng viễn Đông.
- 20/3/2001, công ty Hewlett-Packard cũng đưa ra đưa ra đề xướng về việc học
tích hợp (integrated learning initiative) cho các nước châu Á – Thái Bình
Dương. Công ty con mang tên HP Education có văn phòng tại nhiều nơi của
châu Á sẽ đưa ra các khoá học trực tuyến về các nội dung liên quan đến
CNTT như: Unix, Java, Networking và Microsoft Application.
Chính phủ một số nước châu Á cũng đang có các nỗ lực nhất định. Tháng
3/2001 chính phủ Thái Lan đã tán thành một văn bằng nước ngoài đầu tiên được cấp
qua đào tạo từ xa. Điều này xảy ra sau khi đại học mang tên Chiang Mai University
ở phía Bắc Thái Lan muốn thuê một giáo viên có tên là Taweechai. Ông này đã lấy
bằng Master về Công nghệ Truyền thông sau khi tham dự khoá học từ xa qua vệ tinh
của trường đại học National Technological University tại Fort Collins Mỹ. Pakistan
cũng thông báo sẽ mở đại học trực tuyến quốc gia.
17
Tại Nhật Bản, mức độ ứng dụng và phát triển eLearning còn quá ít so với tầm
vóc kinh tế của đất nước này. Một số chuyên gia vẫn tin tưởng vào tiềm năng của
eLearning tại Nhật Bản với lý do: hệ thống giáo dục hiện nay rất chặt chẽ và nghiêm
ngặt với những kì thi quốc gia để lấy chứng chỉ, để vượt qua những kỳ thi này người
học phải tham dự các khoá huấn luyện rất đắt tiền và đó chính là mảng thị trường lớn
cho eLearning nhằm đưa đến cho người dự thi các nội dung đào tạo tập huấn với giá
rẻ hơn. Một số công ty eLearning của Mỹ đã bước đầu thâm nhập vào thị trường này.
Năm 2000, công ty eLearning hàng đầu của Mỹ click2learn đã hợp tác với tổ chức
Tokyo’s Softbank Corp. - một tổ chức có quan hệ với hơn 300 công ty Internet tại

Nhật Bản để cung cấp sản phẩm đào tạo dựa trên Web của nó. Với vốn đầu tư gần 5
triệu USD, dự án này cung cấp các sách bằng tiếng Nhật và các phần mềm đào tạo
trực tuyến. Việc ứng dụng eLearning trong các trường đại học Nhật Bản phần lớn
dùng công nghệ truyền thông qua vệ tinh và videoconferencing. Ví dụ hệ thống trao
đổi giáo dục, truyền thông qua vệ tinh Space Collaboration System - SCS bao gồm
150 trạm mặt đất được cài đặt trên tổng số 123 trường đại học và cơ sở đào tạo ở
Nhật. Số các trường đưa ra các khoá học từ xa theo đường Internet cũng ngày càng
tăng lên. Trung tâm Nghiên cứu Thông tin và Đa Phương tiện thuộc Đại học Tổng
hợp Kyoto (Center for Information and Multimedia Studies of Kyoto University)
hợp tác với Đại học Tổng hợp California (UCLA) đưa ra khoá học về phương tiện
lưu giữ tin mang tên “information media study” hay về vật lý như “Astrophysics” và
“Introduction to physics” sử dụng đường truyền thuê bao ATM.
Tháng 3/2001, Hàn Quốc đã triển khai 9 đại học trực tuyến, cấp các văn bằng
khoa học qua Internet. Chính phủ Hàn Quốc hứa sẽ hỗ trợ mạnh mẽ để năm 2001 trở
thành năm đầu tiên của “kỷ nguyên đại học trực tuyến”. Ba trường lớn trong 9 đại
học kể trên là: Kyung Hee Cyber, Seoul Digital University và Seoul Cyber thu hút
tổng số 6670 sinh viên. Các nội dung học chủ yếu là Quản lý Vốn Kinh doanh,
CNTT. Số người theo học không phân biệt tuổi tác phần đông là các nhà quản lý,
luật gia, giới doanh nghiệp. Việc học lấy chứng chỉ MBA qua các đại học trực tuyến
ngày càng trở nên thông dụng với những người không có nhiều thời gian rảnh rỗi ở
Hàn Quốc. Trường Quản trị Kinh doanh thuộc Đại học Tổng hợp Ajou trở thành
trường đầu tiên ở Hàn Quốc cấp chứng chỉ này qua Internet vào năm 2000. Trường
18
Quản trị Kinh doanh thuộc Đại học Quốc gia Seoul đã kết hợp với nhà cung cấp dịch
vụ Internet Credu.com để giới thiệu các khoá học MBA trên Internet.
Tại Đài Loan, một quan chức trong ngành giáo dục đã nói rằng: mô hình dạy học
dựa trên Web đang được áp dụng bởi một số ngày càng lớn các trường đại học ở
nước này với 124 khoá học có cấp chứng chỉ. Bộ Giáo dục Đài Loan đang trợ cấp
cho các cơ quan giáo dục đại học để đưa ra các chương trình học từ xa. Đại học
Quốc gia Sun Yat-sen ở Kaohsiung cũng có những khoá học kết hợp giữa mô hình

truyền thống và mô hình trực tuyến. Hơn 2000 sinh viên đã được cấp chứng chỉ sau
khi tham dự các khoá học như vậy.
Tại Singapore, ngày 22/10/2001, Đại học Tổng hợp Quốc gia Singapore (NUS)
đang mở rộng phạm vi toàn cầu của nó bằng việc tham gia đại học trực tuyến hàng
đầu thế giới có tên U21global. Đây là một dự án liên doanh giữa hãng Thomson
Learning và 15 trường đại học trên thế giới, trị giá 90 triệu đô la Singapore. Đại học
ảo này sẽ cung cấp các khoá học cho khoảng 32 triệu sinh viên trên toàn thế giới, tập
trung vào nhu cầu học chưa được thoả mãn của sinh viên khu vực châu Á. Giám đốc
NUS, giáo sư Shih Choon Fong nói rằng: U21global cho phép NUS đẩy mạnh các
chương trình đào tạo của nó cũng như chiêu sinh hiệu quả hơn trong kỷ nguyên của
công nghệ và toàn cầu hoá. Ông này cũng thấy rằng U21global là một nền tảng để
kết nối giữa sinh viên ở các đại học nước ngoài với các sinh viên và giáo sư tại
Singapore.
4. Tình hình phát triển và ứng dụng eLearning ở Việt Nam
Vào khoảng năm 2002 trở về trước, các tài liệu nghiên cứu, tìm hiểu về e-
Learning ở Viet Nam không nhiều. Trong hai năm 2003-2004, việc nghiên cứu e-
Learning ở Việt Nam đã được nhiều đơn vị quan tâm hơn. Gần đây hội nghị, hội
thảo về công nghệ thông tin và giáo dục đều có đề cập đến nhiều vấn đề e-Learning
và khả năng áp dụng vào môi trường Việt Nam như: Hội thảo nâng cao chất lượng
đào tạo tạo ĐHQGHN năm 2000, hội nghị giáo dục đại học năm 2001 và gần đây là
hội thảo khoa học quốc gia lần thứ nhất về nghiên cứu ứng dụng công nghệ thông tin
và truyền thông ICT/rda 2/2003, Hội thảo khoa học quốc gia lần II về nghiên cứu
phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông ICT/rda 9/2004, và hội
19
thảo khoa học “Nghiên cứu và triển khai e-Learning” do Viện Công nghệ Thông tin
(ĐHQGHN) và Khoa Công nghệ thông tin (Đại học Bách khoa Hà Nội) phối hợp tổ
chức đầu tháng 3/2005 là hội thảo khoa học về e-Learningđầu tiên được tổ chức tại
Việt Nam.
Các trường đại học ở Việt Nam cũng bước đầu nghiên cứu và triển khai e-Learning.
Một số đơn vị đã bước đầu triển khai các phần mềm hỗ trợ đào tạo và cho kết quả

khả quan.
Sau đây là một số trường học/đơn vị đã bước đầu ứng dụng eLearning.
- Đại học Đà Nẵng: Ứng dụng thư viện điện tử (e-library) với công nghệ của
Cisco vào giảng dạy và nghiên cứu. Kết nối Internet với đường truyền
128Kbps (thông tin tháng 03-2001).
- Đại học Quốc gia TPHCM: Đã triển khai chương trình đào tạo từ xa cử nhân
CNTT bằng 1 và bằng 2. Học viên đăng ký học sẽ được nhận giáo trình
(giấy), đĩa CD tài liệu (phần mềm do Trung tâm CNTT của ĐHQGHCM phát
triển), được cấp một tài khoản (username/password) để trao đổi nội dung học
tập với giáo viên qua mạng. Học viên có thể được bố trí một số thời gian nhất
định để gặp gỡ, trao đổi với giáo viên. Thời gian học cho bằng 1 là 4 năm,
chia làm 3 học kỳ, theo giáo trình chính quy của ĐHQGHCM. Thời gian học
cho bằng 2 là 2.5 năm. Học phí học cho cử nhân bằng 1 là 700.000VND/học
kỳ, bằng 2 tính theo học phần với giá 650.000VND/học phần (bao gồm 8 học
phần). Hình thức thi hết môn: tương tự như hệ thi chính quy (tức là thi tập
trung tại địa điểm do trường quy định, không phải là thi qua mạng) (Theo
website www.triduc.com.vn). Trung tâm phát triển CNTT Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh cũng mở một Website đào tạo trực tuyến tại địa chỉ
với một số môn học về Tin học có một số minh
họa video.
- Đại học Bách khoa Hà Nội: gấn đây đang tích cực triển khai một số đề tài về
eLearning. Trong đó nổi bật là hệ thống đào tạo từ xa BKview trong khuôn
khổ của đề tài cấp nhà nước KC.01.09. Hiện nay đề tài vẫn đang ở giai đoạn
thực hiện. Khác với phần lớn các hệ thống eLearning khác ở Việt Nam,
20
BKview là một hệ thống eLearning hoàn chỉnh với đầy đủ các chức năng nhờ
vào việc BKview dựa trên hệ thống nền nhập ngoại đó là hệ Virtual-U của
Virtual Learning Environment. ( />- Đại học Cần Thơ: Chương trình đào tạo từ xa về CNTT với sự hợp tác của
Đại học Cần Thơ và các trường đại học Vương quốc Bỉ (địa chỉ
Cung cấp một số giáo trình như: “Tin học

căn bản”, “Tiếng Anh dành cho nông nghiệp”, “Thuỷ sản”. Một số tài liệu
thể hiện dưới dạng sách điện tử tham khảo (dạng trang Web, đểu là tài liệu
tiếng Anh), một số tài liệu nâng cao có các bài tự kiểm tra kiến thức đã học
(như Tin học căn bản, Tiếng Anh chuyên nghành nông nghiệp) Sau khi kiểm
tra có đánh giá kết quả và hướng dẫn người học bổ sung kiến thức còn khiếm
khuyết (các giáo trình Tin học căn bản).
- Công ty Phát triển Phần mềm – VASC (Bộ Bưu chính Viễn thông) đã mở
một Website cho dịch vụ luyện thi trực tuyến tại địa chỉ
www.truongthi.com.vn. Tại Website này người dùng có thể tham gia các
chuyên mục như: Lớp luyện thi trực tuyến, với nội dung bài học dưới dạng
văn bản và dưới dạng âm thanh; Thư viện kiến thức, phục vụ việc tra cứu
kiến thức liên quan đến việc luyện thi như các bộ đề thi; Tư vấn hướng
nghiệp, cung cấp các thông tin tư vấn của các chuyên gia về các vấn đề như
phương pháp học tập, hướng nghiệp, thông tin về các suất học bổng, các
trường đại học trên thế giới; Thông tin – Tin tức cung cấp các thông tin mới
nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo về tuyển sinh, các trường đại học, quy chế
tuyển sinh của các trường… Ngoài ra học sinh có thể tham gia mục Câu lạc
bộ để trao đổi thảo luận với những người dùng khác dưới hai hình thức là
Diễn đàn (forum) và Trao đổi trực tuyến (chat). Các ý kiến góp ý hoặc thắc
mắc được gửi tới người chịu trách nhiệm thông qua chức năng Hỗ trợ trực
tuyến – Góp ý. Đây không phải là dịch vụ hoàn toàn miễn phí, để sử dụng
các chức năng nâng cao như bài giảng trực tuyến, thư viện kiến thức …
người dùng phải mua thẻ truy cập dịch vụ của công ty.
21
- Trung tâm công nghệ thông tin - Học viện Bưu chính Viễn thông (CDIT)
cũng có một Web site tương tự www.truongthi.com.vn đặt tại địa chỉ
/>- Trung tâm Công nghệ Kỹ nghệ Sài gòn (SaigonCTT): Kết hợp với công ty
Cisco thực hiện các khoá đào tạo dài hạn (8 học kỳ tương đương 560 giờ
học) về các công nghệ mạng của Cisco. Học viên được học về cách thiết kế,
xây dựng và bảo trì hệ thống mạng máy tính và sẽ được cấp chứng chỉ quốc

tế (CCNA) sau khi tốt nghiệp. Nội dung bài học được chuyển tải qua Web sử
dụng công nghệ eLearning của Cisco. Mô hình này gồm sách và tài liệu điện
tử; giả lập và phòng thí nghiệm ảo; giao tiếp đa phương tiện; hợp tác và cộng
đồng; quản lý chất lượng học viên và hệ thống quản lý trên web.
- Trung tâm Thông tin Phát triển Việt Nam (Vietnam Development
Information Center – VDIC, ): Trung tâm có một
phòng học chuyên dụng phục vụ cho mục đích học từ xa qua hệ thống cầu
truyền hình (videoconferencing). Phòng học tương tác hiện đại, được trang bị
một hệ thống cầu truyền hình hội thảo 2 chiều, các máy tính kết nối Internet,
các nguồn đào tạo trực tuyến, hệ thống phiên dịch đồng thời và các thiết bị
hỗ trợ khác. Học viên có thể đưa ra câu hỏi, nhận xét hoặc thảo luận với giáo
viên và học viên ở các trung tâm đào tạo từ xa khác trên thế giới. Các khoá
đào tạo từ xa tại Trung tâm hiện do Mạng Đào tạo Phát triển toàn cầu (Global
Development Learning Network - GLDN) cung cấp. Đây là một mạng lưới
đang phát triển mạnh mẽ, gồm các tổ chức học thuật và phát triển, cung cấp
các khoá đào tạo từ xa về các vấn đề liên quan tới các quốc gia đang phát
triển. Mỗi khoá học như vậy với thời lượng khoảng 40 giờ được ấn định vào
những khoảng thời gian được nhất định. Người học cần phải có mặt tại phòng
học vào thời gian ấn định của lớp học, do giới hạn của phòng học nên mỗi
buổi học tối đa chỉ được 40 học viên tham dự. Ngoài những khoá học từ xa
có giáo trình cụ thể, thiết bị cũng cho phép tổ chức trao đổi kiểu hội nghị với
các cơ sở có thiết bị tương tự ở các nước khác.
22
- Trường “Anh ngữ và Kỷ nguyên mới” (TPHCM) kết hợp với công ty IIS
(Mỹ) giới thiệu chương trình học tập qua mạng (eLearning and E-training)
dành cho các doanh nghiệp (tin tháng 12/2001, website
www.thegioigiaoduc.saigonnet.vn).
- Trung tâm eLearning Việt - Nhật: Đây là một dự án CNTT kết hợp giữa
chính phủ Nhật và Việt nam nhằm bồi dưỡng nâng cao trình độ cho các kỹ sư
CNTT Việt Nam. Học viên được tổ chức thi sát hạch và đào tạo theo tiểu

chuẩn Nhật Bản, có sự tham gia của phía Nhật Bản. Dự án này có mục đích
là đào tạo ra những kỹ sư CNTT theo một tiêu chuẩn chất lượng chung của
thế giới. Tuy nhiên, dù mang tên là eLearning nhưng đây không phải là một
hình thức đào tạo trực tuyến như là tên gọi đã gợi tới.
- Trung tâm Pháp Việt Đào tạo về quản lý (CFVG- TPHCM): Theo báo cáo đã
có các triển khai thử về đào tạo trực tuyến theo như một báo cáo (“eLearning
dưới góc độ người đào tạo”) trong “Hội thảo nâng cao chất lượng đào tạo
năm 2001”, mặc dù không đề cấp cụ thể đến kết quả đạt được.
- Công ty Xi măng Sao mai: Qua website (www.saomai.com) Cty cho biết
đang triển khai việc huấn nghiệp qua mạng cho các nhân viên với mục đích
nâng cao kỹ năng nghề nghiệp. (Sao mai là một công ty xi măng liên doanh
với Thụy Sĩ, chủ yếu cung cấp xi măng cho các thị trường phía Nam).
- Trung tâm tin học và ngoại ngữ Trí Đức (www.triduc.com.vn) : Cung cấp các
khoá học qua mạng. Người học đăng ký học qua mạng sẽ được nhận một
account để kết nối vào mạng của công ty (hoặc nếu không có điều kiện thì có
thể đến tận công ty để học). Giáo trình bao gồm các tài liệu học, có thực hiện
việc tự kiểm tra trong quá trình học, có giáo viên hướng dẫn nếu học tại công
ty. Trợ giúp cho người học được thực hiện qua hệ thống diễn đàn, email hoặc
trợ giúp qua điện thoại. Hiện nay các khoá học của Tri Đức chủ yếu là về
CNTT. Sau khoá học, công ty sẽ giúp người học có nhu cầu có thể đăng ký
thi trực tiếp trên Internet để lấy chứng chỉ từ những công ty như Sun hay
Microsoft. Công ty dự định triển khai WBT trong tháng 3/2002. Địa chỉ: 1
Yết Kiêu, Hà Nội.
23
- Công viên IT: Website của VDC (www.itpark.com.vn/dtao_ttuyen.php) giới
thiệu một số các tài liệu và các website liên quan đến WBT và eLearning tại
Việt Nam và trên thế giới. Tuy nhiên nội dung thông tin rất nghèo nàn và lạc
hậu, không có gì đáng chú ý.
- Công ty Trí tuệ nhân tạo với giảng pháp đào tạo trực tuyến với trang
truongcongnghe.vn chuyên đào tạo về lĩnh vực công nghệ thông tin.

- Dự án Edunet của bộ Giáo dục và đào tạo: Bộ Giáo dục và đào tạo đã bắt đầu
triển khai dự án mạng VnuNet kết nối toàn bộ các thông tin về giáo dục đào
tạo trong cả nước. Theo dự định mạng sẽ triển khai mô hình đào tạo trực
tuyến (Theo báo Tuổi trẻ, tháng 12/2000). Địa chỉ website:
www.moet.edu.vn.
Gần đây nhất, Cục Công nghệ thông tin Bộ Giáo dục & Đào tạo đã
triển khai cổng e-Learning nhằm cung câp một cách có hệ thống các
thông tin e-Learning trên thê giới và – Việt Nam. Bên cạnh đó, một sô
công ty phần mềm - Viet Nam đã tung ra thị trường một số sản phẩm
hỗ trợ đào tạo. Tuy các sản pham này chưa phải là sản pham lớn, được
đóng gói hoàn chỉnh nhưng đã bươc đầu góp phân thúc đẩy sự phát
triển e-Learning ở Việt Nam.
Việt Nam đã gia nhập mạng e-Learning Châu Á (Asia E-Learning
Network - AEN, www.asia-elearning.net) với sự tham gia của Bộ Giáo dục &
Đào tạo, Bộ Khoa Học - Công nghệ, trường Đại học Bách Khoa, Bộ Bưu chính
Vien Thông
Điều này cho thấy tình hình nghiên cứu và ứng dụng loại hình đào tạo này đang
được quan tâm ở Việt Nam. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực e-Learning ở Việt
Nam đang ở giai đoạn đầu, nhận thức về eLearning còn thấp. Một số ít đơn vị triển khai
elearning ở mức độ nhất định, thử nghiệm là chính, chưa mang tính chất phổ biến, nội dung
nghèo nàn, chất lượng thấp. Một số công ty đã bắt đầu giới thiệu eLearning như một sản
phẩm thương mại (VASC, CDIT, Công ty Trí Đức), mới là bước khởi đầu, chưa thể đánh
giá kết quả một cách chính xác. Một vài nơi ở TPHCM có những sản phẩm được quảng cáo
là “đào tạo từ xa” thực chất chỉ là những ứng dụng dạng CBT (computer-based training) với
24
tài liệu học được trình bày dưới dạng Web, có hỗ trợ Video – tuy nhiên một trong những
tính năng quan trọng của eLearning là tương tác giữa người học - người dạy thì rất hạn chế.
Hầu hết các sản phẩm eLearning ở Việt Nam còn thiếu các chức năng hỗ trợ cho hoạt động
dạy học ví dụ như các chức năng cho phép giáo viên cập nhật sửa đổi tài liệu dạy học một
cách tự động, cho phép dùng lại tài liệu của những giáo viên khác. Tài liệu giảng dạy (phần

chính trong một hệ thống eLearning) có nội dung nghèo nàn thiếu sinh động, không được
cập nhật thường xuyên do đó không có sức lôi cuốn người học.
Kết luận
Dạy và Học trên Web hay WBT là một trong những phương thức mở rộng khả
năng và nâng cao chất lượng đào tạo nhờ vào sự phổ cập của của Internet. Là một
hình thức đào tạo mới, hiện đại và rất có triển vọng, nhưng WBT không nhắm tới
thay thế hoàn toàn hình thức đào tạo truyền thống mà là để bổ sung, đa dạng hoá các
loại hình đào tạo, qua đó nâng cao chất lượng đào tạo cũng như số lượng người được
đào tạo.
WBT đang phát triển rất nhanh, được áp dụng ngày càng nhiều trong các tổ chức
giáo dục và doanh nghiệp trên thế giới với kết quả nhận được rất khả quan. Tại nhiều
trường đại học, cơ sở đào tạo của các công ty trên thế giới, ngoài nội dung đào tạo
truyền thống đã song song phát triển các chương trình đào tạo trên Web. Số người
quan tâm và sử dụng WBT ngày càng nhiều. WBT rõ ràng góp phần nâng cao tri
thức và kỹ năng nghề nghiệp của người được đào tạo bằng hình thức này.
Tại Việt Nam WBT mới chỉ nhận được sự quan tâm bước đầu của các đơn vị
đào tạo, và còn rất xa lạ với người học cũng như người dạy. Nhà nước và các đơn vị
đào tạo cần thật sự quan tâm và phát triển WBT để nâng cao chất lượng giáo dục và
đưa cơ hội được đào tạo đến với nhiều người hơn nữa. Điều này có tác động tích cực
đến nhiều mặt của đời sống, xã hội, đúng với chủ trương xã hội hoá, hiện đại hoá
giáo dục của Nhà Nước Việt Nam.
Việc triển khai WBT yêu cầu một sự đầu tư nghiêm túc và lâu dài mới có thể
mang lại kết quả như mong muốn. Phần khó khăn nhất để tiếp cận công nghệ giáo
dục mới này là ở khâu tổ chức thực hiện và thay đổi nhận thức của những người
25

×