Tải bản đầy đủ (.ppt) (26 trang)

bai giang moi nhat

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.98 KB, 26 trang )

Nhóm 4: Dương, Hoàng, Nam, M.Nhi, Trung, Phúc.
Dự án Mỹ Thuật 7 :
Sự thừa kế những tinh hoa văn hoá
thời Lý
Nhà Trần kế tiếp ngay sau thời Lý. Vì vậy khi bắt
đầu được thành lập, nhà Trần thừa hưởng toàn bộ
gia sản văn hoá thời Lý nhất là về mặt kiến trúc. Mãi
đến sau kháng chiến chống quân Nguyên Mông,
kinh thành Thăng Long bị tàn phá nặng nề đến năm
1289 nhà Trần mới cho xây dựng lại kinh đô. Các
công trình kiến trúc từ thời Lý như tháp Báo Thiên,
chùa Dạm, chùa Phật Tích… vẫn còn tồn tại sừng
sững và đẹp đẽ. Những công trình kiến trúc, những
tác phẩm nghệ thuật điêu khắc từ thời Lý là cơ sở,
nền móng cho mĩ thuật thời Trần phát triển. Mĩ
thuật có sự thay đổi về phong cách phù hợp với diều
kiện, hoàn cảnh xã hội mới. Tuy vậy cũng không thể
có ngay một phong cách khác, mà cần có thời gian.
Sự chuyển biến về phong cách sẽ diễn
ra từ từ trên cơ sở thừa kế những tinh
hoa của văn hoá nghệ thuật thời Lý.
Điều này có thể thấy rõ qua một số tác
phẩm và hình tượng nghệ thuật tiêu
biểu, nhất là trong nghệ thuật chạm
khắc trang trí. Những đề tài, hình tượng
nghệ thuật ít có sự thay đổi. Trong chạm
khắc ta lại gặp những nội dung đề tài
quen thuộc. Đó là sóng nước, rồng, hoa
sen, hoa văn tay mướp, phượng, người
chim, mây, mặt trời…. Về hình thức thể
hiện cũng có nhiều sự đồng nhất. Hoa


văn sóng nước vẫn mang tinh thần hoa
văn hình nấm, cao tầng như thời Lý.
Hình rồng trên viên gạch thuộc hoa
chùa Hoa Yên – Yên Tử – Quảng Ninh, vẫn
mang những nét điển hình của rồng thời
Lý như sự đều đặn, uốn lượn nhịp nhàng
và sự mềm mại của đường nét. Đề tài
rồng được thể hiện trong các mô típ đã
được sử dụng nhiều trong mĩ thuật thời
Lý như rồng châu vông sáng. Một số hao
văn lá vẫn mang tính cách điệu cao như
hình lá dương xỉ trang trí trên bệ đá chùa
tháp Phổ Minh (Nam Định).
Nhìn chung những chạm khắc trang trí
thời Trần vẫn mang phong cách mềm mại,
nhẹ nhàng, bộc lộ trí tưởng tượng phong
phú và tài năng sáng tạo của ông cha ta.
Những nét tinh hoa của văn hoá tạo hình thời Lý
vẫn trở lại trên các tác phẩm mĩ thuật thời Trần.
Phải chăng đó không phải là đặc điểm của mĩ
thuật thời Lý mà còn chính là đặc điểm mang
tính dân tộc đậm đà của người Việt, mặc dù thời
gian có thay đổi. Nói như vậy cũng không có
nghĩa là đồng nhất mỹ thuật thời Lý và thời Trần,
mà trên cở sở tinh hoa văn hoá Lý, mỹ thuật Trần
lại phát triển trong điều kiện xã hội hội có nhiều
biến thiên khác với thời Lý. Do đó bên cạnh việc
kế thưà về văn hoá, nghệ thuật các nghệ nhân
thời trần còn sáng tạo nhiều công trình tác
phẩm mỹ thuậtđặc sắc và mang một phong cách

riêng của thời Trần. Mặc dù vậy, những nét dân
tộc vẫn được thể hiện rõ trong mỹ thuật thời
Trần.
Nghệ thuật kiến trúc
Kiến trúc thời Trần lúc đầu được thừa kế
thành tựu kiến trúc thời Lý do đó có nhiều
điểm gần với kiến trúc thời Lý. Tuy vậy từ
1262 trở đi, vớikiến trúc chùa, tháp Phổ
Minh, tháp Bình Sơn, chùa Thái Lạc… cùng
với các tác phẩm chạm khắc trang trí trên
các công trình đó đã bắt đầu bộc lộ phong
cách mỹ thuật của thời Trần. Sự thay đổi về
quan niệm đã dẫn đến sự thay đổi về vị trí,
kiểu dáng các công trình kiến trúc, cách thể
hiện các đề tài trang trí mang tính hiện thực
phóng khoáng và thoáng đạt hơn.
Qua dấu vết còn lại của một số ngôi
chùa thời Lý cho thấy các chùa thời
Lý thường được xây dựng ở những
nơi đất cao và có cảnh đẹp như ở
chân núi, trên núi…Vì vậy mặt bằng
các chùa thời Lý thường được trải
dài trên ba bốn bậc cấp và cao dần.
Sang thời Trần, các chùa tháp
đượcphân bố rộng rãi trên cả nước,
tuy vậy nhiều hơn cả là những công
trình được dựng lên ở ven triền sông
của vùng đồng bằng như Hà Tây, Hải
Dương, Nam Định, Quảng Ninh…
Vì lẽ đó, bố cục mặt bằng chùa thời

Trần cũng có thể có nhiều kiểu. Chùa
Yên Tử, trung tâm của phái Trúc Lâm
tam tổ được xây dựng trên núi, do đó
phải bạt núi để xây dựng thành cụm
chùa riêng theo từng cấp bậc. Lối kiến
trúc này gần giống với lối kiến trúc
của chùa Phật Tích, chùa Dạm thời Lý.
Tuy vậy, còn có thể có bố cục theo
kiểu " nội công ngoại quốc" có nghĩa
là 3 toà Tiền Đường,Thiên Hương,
Thượng Điện được sắp xếp theo kiểu
chữ công hành lang bao quanh giống
như chữ quốc .
Kiểu bố cục mặt bằng này sẽ gặp
hiều hơn trong kiến trúc các thời kỳ
sau. Qua đó cho thấy có những thừa
kế và sự sáng tạo trong phong cách
mỹ thuật thời Trần. Cùng với kiến
trúc thời Lý, kiến túc thời Trần đã
làm phongphú thêm, hoàn chỉnh
thêm kiến trúc Phật giáo nói riêng
và đóng góp cho kho tàng kiến trúc
dân tộc nhiều công trình có giá trị
cao.
Tháp thời Trần được xây dựng theo
kiểu tháp vuông 4 mặt, có nhiều tầng,
nhỏ dần về phía ngọn. Tầng dưới cùng
thường cao nhất có thể từ 2 đến 2,2
m. Bề ngoài thường được trang trí
bằng nhiều hình tượng. Tháp có hai

loại thờ Phật, thờ Tổ và tháp có đặt xá
lị của các sư tổ ( tháp mộ). Đứng ở
dưới đất ngước nhìn lên, ngọn tháp
như vươn tới trời cao. Cây tháp như
nét nối giữa trời và đất. Từ đó, những
điều cầu nguyện, những mong muốn
sự tốt lành cho con người sẽ đến được
với Đức Phật.
Có thể vì lẽ đó, mà tháp thường
đứng với kiến trúc chùa và có
chiều cao hơn ngôi chùa rất
nhiều. Căn cứ trên các ngôi tháp
còn lại ở thời Trần như tháp Phổ
Minh, tháp Bình Sơn… thì chiều
cao của tháp thường gần bằng
hoặc bằng chu vi chân tháp ( có
nghĩa là tỷ lệ giữa các cạnh đáy
và chiều cao xấp xỉ tỉ lệ 1/4 ).
Cùng với kiến trúc Phật giáo, trong thời Trần
hai loại kiến trúc cung đình và kiến trúc lăng
mộ cũng rất khá triển.
Năm 1289, nhà Trần cho xây dựng lại kinh
thành Thăng Long. So với thời Lý, kinh thành
Thăng Long thời kỳ này đựơc mở mang thêm
nhiều đường phố, xây dựng thêm nhiều cung
điện, lầu gác. Trước đó,( năm 1253) nhà Trần
cho mở Quốc Học Viện đẩy mạnh việc thi cử,
học hành. Ngoài ra, ở vùng quê hương Nam
Định còn xây dựng phủ Thiên Trường với quy
mô tương đối lớn trong thời gian từ 1262 đến

1264. Ngày nay các nhà khảo cổ còn tìm thấy
nhiều dấu vết của khu cung điện đó. ở đây có
khu Trùng Quang được to lớn và đẹp đẽ được
Trần Nguyên Đán ví như cung điện nhà Hán,
ngoài ra còn có nhiều cung điện làm chỗ nghỉ
và làm việc cho các vua, các Thái Thượng
Hoàng.
Nơi đây có trường học, chùa Tháp Phổ
Minh… Tất cả các công trình đó làm cho
phủ Thiên Trường trở thành nơi đô hội
sầm uất, thịnh vượng của nhà Trần.
Cuối thời Trần, lợi dụng sự suy yếu của
giai cấp thống trị của nhà Trần, Hồ Quý
Ly đã nuôi âm mưu cướp ngôi của nhà
Trần. Năm 1397, Hồ Quý Ly đã ép vua
Trần Thuận Tông dời đô về Vĩnh Lộc –
Thanh Hoá và xây dựng ở đây một kinh
đô mới, đó là thành Tây Đô. Năm 1400,
khi đã lên ngôi, Hồ Quý Ly vẫn coi đây là
kinh đô cho nước Đại Ngu của mình.
Kiến trúc cung đình thời Trần có 3 công
trình lớn như kinh thành Thăng Long, Phủ
Tây Đô và Phủ Thiên Trường( Nam Định).
Ngoài hai thể loại kiến trúc cung đình và
kiến trúc Phật giáo, thời kỳ này đã bắt
đầu có những kiến trúc lăng mộ của các
vua hoặc quan lớn như: Trần Thủ Độ cũng
được xây lăng ở Hưng Nhân ( Thái Bình ) .
Mặc dù vậy về kiểu dáng cũng chưa có gì
đáng kể. Phần lớn các lăng ngày nay đã bị

tàn phá, không còn được nguyên vẹn và
việc xác định vị trí lăng rất khó. Tài liệu
thì không còn nhiều, tuy vậy cũng có một
số tài liệu nhắc đến khu lăng mộ của Trần
Thủ Độ ở Thái Bình, lăng vua Trần Anh
Tông, Trần Minh Tông, Trần Hiển Tông ở
An Sinh - Đông Triều – Quảng Ninh…
Nghệ thuật điêu khắc
Thời kỳ này điêu khắc vẫn gắn liền với kiến
trúc, đi cùng kiến trúc và mang đặc điểm
phong cách phù hợp với kiến trúc. Đi với
kiến trúc chùa tháp có tượng Phật, tượng
sấu, tượng rồng. Với lăng mộ có tượng quan
hầu, tượng thú vừa mang tính chất trang trí
cho lăng mộ vừa là người canh gác, hậu cần
giữ cho trang nghiêm, tĩnh lặng của ngôi mộ
tạo sự bình yên cho linh hồn người đã khuất.
Nếu các bức tượng phù điêu còn lại của thời
Lý tập trung nhiều ở chùa Phật Tích, chùa
Dạm…thì ở thời Trần các tác phẩm tìm được
lại tập trung ở các khu lăng mộ là chính.
Trong số những tác phẩm điêu khắc còn lại
của thời Trần có rất nhiều tượng đá. Tượng
Phật thì hầu như chưa tìm được tác phẩm
nào, nhưng bệ đá hoa sen thì lại tìm được
khá nhiều như bệ đá chùa Ngọc Đình
(1374), chùa Bối Khê (1382)…
Theo nhiều nhà nghiên cứu mĩ thuật thì
những bệ đá hoa sen có thể là bệ tượng
Phật hoặc để bày đồ lễ và thường được đặt

ở vị trí tôn nghiêm nhất trong chùa. Bệ đá
hoa sen thường được thể hiện là một khối
chữ nhật, phần trên cùng chạm hai lớp cánh
sen, phần tiếp theo thu nhỏ lại, bốn góc tạo
hình bốn con chim thần. Các mặt chia ô
chạm rồng, mây, hoa, lá… Dưới cùng là bế
đệ
Trong một số lăng mộ của vua quan
thời Trần có những con vật gần gũi
với đời sống người dân như con
trâu, con chó… bên cạnh những đề
tài chính thống khác như tứ linh…
Mặc dù vậy ngay cả trong những
pho tượng thể hiện đề tài chính
thống vẫn bắt gặp những nét dân
gian, chất hiện thực sinh động và
biểu hiện cảm xúc mạnh mẽ. Trên
các pho tượng thời Trần, trang trí
hoa văn đơn giản và bớt đi nhiều so
với thời Lý.
Các tác phẩm chạm khắc, trang trí vẫn thể
hiện những đề tài quen thuộc như : rồng,
mây, sông nước, hoa lá… Tuy vậy cũng có
một số thay đổi như đề tài thể hiện tổng
hợp: đầu rồng, sừng tê, ngọc báu… Hình
tượng các cô tiên dâng hương, dâng hoa
đều thể hiện trong hình thức nửa người,
nửa chim rất phong phú và sinh động. Hình
tượng này gặp nhiều trong các trang trí ở
chùa Lạc Thái – Hải Hưng. Mật độ các hoa

văn trang trí thoáng hơn, đường nét bớt sự
đều đặn và phóng khóang hơn. ở một số
nơi còn trang trí các đề tài mang đậm chất
dân gian như tác phẩm: " Dê, hoa, lá" ở bệ
tượng phật chùa Bối Khê (1382) – Hà Tây.
Hình tượng rồng mặc dù về cơ bản vẫn giữ
nhiều nét kế thừa rồng thời Lý song trong
cách thể hiện lại có nhiều sự thay đổi. Các
uốn khúc không còn đều đặn, thoăn thoắt
mà khúc doãng, khúc mau tạo sự sống động
và hiện thực cho con rồng thời Trần. Những
nét mềm mại trong con rồng thời Lý bớt đi
nhiều, thay vào đó là nét mập mạp, khoẻ
khoắn và cứng cáp hơn. Một vài chi tiết như
chân, đầu móng rõ ràng khúc chiết hơn.
Có thể so sánh ở nhiều tác phẩm, nhiều thể
loại nghệ thuật để thấy rõ sự thay đổi trong
phong cách sáng tạo của thời Trần dựa trên
những cơ sở tinh hoa nghệ thuật được tiếp
thu của thời Lý. Đặc điểm này bộc lộ rất rõ
trong mỹ thuật thời Trần.
Nghệ thuật hội hoạ
Bên cạnh những tác phẩm chân dung mang tính
chất lý tưởng như bức tranh chân dung 72 người
học trò vủa Khổng Tử, thời Trần còn có bộ tranh
chân dung của những người có công trongcuộc
kháng chiến chống quan Nguyên Mông. Những
bức tranh đó được tập trung trong bộ " Trung
hưng thực lục". Trong đó có ghi rõ tiểu sử, chép
truyện và vẻ hình. Đây là một bộ sách có giá trị

lịch sử và giá trị nghệ thuật cao. Song rất tiếc là
đến nay vẫn chưa tìm thấy được tranh, mà chỉ
lưu truyền những câu thơ vua ban khi tặng
tranh. Qua đó chúng ta biết được một di sản văn
hoá của dân tộc rất quý giá mặc dù không thể
thưởng thức trực tiếp được.
Những bài thơ đó chứng tỏ một điều rất rõ
ràng là cùng với sự phát triển của kiến trúc
và điêu khắc thời Trần cũng có nhiều tác
phẩm đánh dấu sự phát triển của hội hoạ.
Cuối thế kỷ XIV, tình hình suy yếu của nhà
Trần làm nảy sinh mưu đồ phản loạn, vì thế
vua Trần cho vẽ tranh "tứ phụ" nêu gương
bốn người có công giúp vua dựng nghiệp
lớn như: Tô Hiến Thành, Chu Công Hoắc
Quang và Gia Cát Lượng . Năm 1394, vua
ban tặng cho Hồ Quý Ly và mong Hồ Quý Ly
sẽ noi theo tấm gương của những trung
quân này. Bộ tranh chân dung này có lẽ
cũng được vẻ theo lối tượng trương, mang
tính lý tưởng hoá.
Năm 1396, nhà nước cho ban hành tiền
giấy. Trên các đồng tiền giấy đầu tiên có
vẽ hình công, sóng nước, mây, phượng,
rồng, tuỳ theo giá trị tiền từ 10 đồng
đến 1 quan tiền. Điều này cũng phần
nào cho biết rõ thêm về hình vẽ thời
Trần.
Ngoài ra qua thơ còn cho biết số tranh
vẽ của thời kỳ này như bài: " Đề Đường

Minh Hoàng dục mã đồ " trong Hoàng
Việt thi văn tuyển ( Hà Nội- 1957 trang
75). Qua bài thơ chúng ta cảm nhận
được nội dung đề tài của bức tranh và
sự thông cảm của tác giả trước nổi khổ
của nhân dân.
Bài thơ vịnh tranh vẽ con Hạc vừa bay
vừa quay đầu lại cũng gồm bốn câu.
Hai câu đầu nhà thơ cho thấy hình vẽ
trong tranh đó là: " Phất phơ rặng
trúc, đá một toà - Thung thăng vỗ
cánh biếng bay xa". Hai câu thơ sau
bộc lộ sự triết lý, sự suy tư của nhà
thơ trước hình tượng trong tranh vẽ,
liên hệ với cuộc sống cách ứng xử
trong cuộc đời: " Ngoảnh cổ quay đầu
không phòng nạn – E khi trước mắt
lưới giăng ra"
Thời Trần đã trôi qua khá lâu, sốlượng
tác phẩm không còn nhiều.
Tuy vậy, qua nhiều nguồn tư liệu
và sự dày công nghiên cứu của
nhiều nhà lý luận mỹ thuật cũng
làm rõ những thành tựu về các mặt
kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ thơì
Trần. Qua đó thế hệ cháu con cảm
nhận được giá trị và phong cách
nghệ thuật của ông cha qua các
thời kỳ lịch sử. Thời kỳ sau tiếp
thu, kế thừa tinh hoa của thời kỳ

trước. Đồng thời trên cơ sở đó phát
triển phù hợp với hoàn cảnh xã hội
đương thời.
Nếu phong cách mỹ thuật thời Lý
bộc lộ rõ tính tư tưởng hoá, mẫu
mực, đường nét mềm mại, nhịp
nhàng, chau chuốt thì mỹ thuật
thời kỳ Trần mang đậm nét hiện
thực, sống động, khoẻ khoắn, đơn
giản. Mặc dù vậy, cả hai thời kỳ Lý
và Trần mĩ thuật Phật giáo đều tiêu
biểu. Do đó, dù có sự khác nhau~
về phong cách mỹ thụât của hai
thời kỳ này cũng có nhiều nét
tương đồng, biểu hiện nét mỹ thuật
dân tộc.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×