Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

đề tài số 14: “Giảm trừ gia cảnh theo quy định pháp luật hiện hành – thực tế tuân thủ pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh từ tháng 7 năm 2013 và ý kiến của cá nhân em về vấn đề này”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.16 KB, 16 trang )


MỞ ĐẦU
Ở hầu hết các quốc gia, thuế là một nguồn thu nhập lớn của chính phủ, nhằm mục đích ổn
định kinh tế - xã hội, xây dựng quốc phòng an ninh. Luật thuế thu nhập cá nhân ra đời từ lâu trên
thé giới đã tạo ra một hiểu quả rõ rệt trong việc phân phối lại nguồn thu nhập, đảm bảo công bằng
xã hội. Tại Việt Nam, Luật thuế thu nhập cá nhân đã sớm hình thành và từng bước hoàn thiện để
phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra. Là loại thuế thể hiện sâu sắc, rõ nét mối quan hệ trách nhiệm
hai chiều giữa nhà nước và công dân trong quá trình xây dựng và duy trì tồn tại của xã hội công
cộng. Do đó, hơn bao giờ hết, đây được đánh giá là loại thuế quan trọng trọng hệ thống thuế của
mỗi quốc gia, cần được chú trọng cả về mặt lập quy và thực . Một trong những qui định mới của
Luật này là người nộp thuế được giảm trừ gia cảnh trước khi tính thuế. Việc giảm từ này sẽ đảm
bảo thực hiện chính sách điều tiết công bằng về thuế như người có thu nhập như nhau có hoàn cảnh
khác nhau sẽ nộp thuế khác nhau. Để hiểu hơn về vấn đề này, trong phạm vi bài tập học kỳ môn
Luật tài chính em xin lựa chọn đề tài số 14: “Giảm trừ gia cảnh theo quy định pháp luật hiện
hành – thực tế tuân thủ pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh từ tháng 7 năm 2013 và ý kiến của
cá nhân em về vấn đề này” làm nội dung tìm hiểu. Mặc dù, đã có nhiều cố gắng nhưng bài làm vẫn
không tránh khỏi thiếu sót, mong nhân được sự bổ sung góp ý của thầy cô để bài làm được hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
1

NỘI DUNG
I – Khái quát chung về Luật thuế thu nhập cá nhân và quy định giảm trừ gia cảnh.
1. Khái quát về pháp luật thuế thu nhập cá nhân.
Ở nước ta trước đây, trong điều kiện nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung,
do nguồn thu nhập của dân cư trong xã hội mang tính chất thuần nhất nên Nhà nước ta không thu
thuế đối với thu nhập của cá nhân không kinh doanh. Sau khi thực hiện đường lối đổi mới cơ chế
quản lí từ cơ chế kinh tế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, chế
độ phân phối thu nhập cá nhân theo cơ chế thị trường hình thành phát triển, thu nhập của người dân
được cải thiện. Bên cạnh đó, sự phân hóa thu nhập và phân cực giầu nghèo giữa các tầng lớp dân cư
trong xã hội diễn ra rất nhanh. Để động viên một phần thu nhập của một bộ phận dân cư có thu


nhập cao hơn so với mức thu nhập chung của cộng đồng vào ngân sách nhà nước và thực hiện điều
tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội, ngày 27/12/1990, Hội đồng nhà nước ban hành
Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, Pháp lệnh này được áp dụng trên thực tế kể
từ ngày 1/4/1991. Song đây mới chỉ là hình thức sơ khai và được áp dụng cho một bộ phận nhỏ dân
cư có thu nhập cao. Qua hơn mười năm thực hiện, pháp lệnh được sửa đổi, bổ sung 5 lần
(1994;1997;1999;2001;2004). Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, qua quá trình
áp dụng thực hiện đã bộc lộ nhiều hạn chế, vướng mắc có thể kể đến như: Phạm vi điều chỉnh hẹp,
việc tính thuế với từng loại thu nhập chưa hợp lý Bởi lẽ Pháp lệnh này chỉ áp dụng đối với những
cá nhân có thu nhập cao trong xã hội nên số lượng chủ thể nộp thuế rất hạn chế
Luật thuế TNCN được Quốc Hội thông qua ngày 21/11/2007 đã tạo khuôn khổ quan trọng
cho việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tài chính của công dân, huy động nguồn lực cho NSNN, góp
phần điều tiết hợp lý thu nhập trong dân cư. Tuy nhiên, sau 4 năm thực hiện cùng với quá trình vận
hành, biến động của tình hình kinh tế – xã hội, một số quy định của Luật đã bộc lộ hạn chế. Ngày
22/11/2012, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNCN và Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNCN, Bộ Tài Chính đã ban hành Thông tư số
111/2013/TT-BTC ngày 15/08/2013. Có các điểm mới về: Mở rộng đối tượng nộp thuế, đối tượng
chịu thuế và đảm bảo công bằng cho các đối tượng nộp thuế. Đặc biệt, quy định về mới về giảm trừ
gia cảnh đã có một bước phát triển toàn diện hơn rất nhiều tạo sự phù hợp với về tình hình kinh tế
xã hội về mức giảm trừ gia cảnh.
Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế điều tiết vào phần thu nhập của cá nhân tại thời điểm thu
nhập mà không tính đến mục đích sử dụng của cá nhân đối với thu nhập đó. Thuế TNCN có các đặc
điểm sau:
- Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu: Người nộp thuế cũng chính là người chịu thuế.
- Thuế thu nhập cá nhân có diện đánh thuế rất rộng: Đối tượng đánh thuế TNCN là toàn bộ
các khoản thu nhập của cá nhân thuộc diện đánh thuế không phân biệt thu nhập đó có nguồn gốc
phát sinh trong hay ngoài nước; Đối tượng kê khai nộp thuế là toàn bộ những người có thu nhập.
- Thuế thu nhập cá nhân cũng là một loại thuế thu nhập nhưng khác với thuế thu nhập doanh
nghiệp ở chỗ có tính tất yếu gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc gia. Thể hiện ở chỗ, nó luôn
quy định loại trừ một số khoản thu nhập trước khi tính thuế: thu nhập trợ cấp xã hội
- Thuế thu nhập cá nhân có góc độ kỹ thuật tính thuế khá phức tạp bởi diện đánh thuế rộng,

liên quan chặt chẽ với hoàn cảnh cá nhân, chính sách xã hội cụ thể, có áp dụng phương pháp lũy
tiến.
2. Về vấn đề giảm trừ gia cảnh.
Từ trước năm 2007 trở về, đã có một số văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ thuế thu
nhập với người có thu nhập cao tuy vậy vẫn chưa có quy định về giảm trừ gia cảnh. Đến Luật thuế
TNCN năm 2007 sửa đổi bổ sung năm 2012 chúng ta mới có quy định về giảm trừ gia cảnh. Đây có
thể coi là bước tiến mới trong quá trình bổ sung và hoàn thiện các quy định của Luật thuế thu nhập
cá nhân của nước ta.
2

Luật thuế thu nhập cá nhân đã bỏ hẳn khái niệm “khởi điểm chịu thuế”, thay vào đó là
“giảm trừ gia cảnh” cho đối tượng nộp thuế. Theo khoản 1 điều 19 Luật thuế TNCN 2007 sửa đổi
bổ sung năm 2012 thì : “Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi
tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân
cư trú.”
Theo quy định của pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, đối tượng nộp thuế
sẽ phải nộp số thuế nhất định nếu thu nhập của họ đạt đủ mức khởi điểm chịu thuế (5 triệu
đồng/tháng). Chính quy định này làm cho Pháp lệnh có những điểm bất hợp lý, không công bằng
bởi lẽ đã đánh đồng tất cả các đối tượng thuộc diện nộp thuế mà không xem xét, căn cứ vào hoàn
cảnh cụ thể của từng người nộp thuế. Trong khi đó, Luật thuế thu nhập cá nhân sửa đổi bổ sung một
số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân 26/2012/QH13 ngày 22/11/2012 quy định người nộp thuế
sau khi chiết giảm cho cá nhân mình 9 triệu đồng mỗi tháng (tương đương 108 triệu đồng/năm) và
3,6 triệu đồng cho mỗi người phụ thuộc, sau đó khoản thu nhập còn lại mới bắt đầu tính thuế. Quy
định này làm cho Luật thuế thu nhập cá nhân mang ý nghĩa xã hội sâu sắc.
Quy định về giảm trừ gia cảnh có ý nghĩa đó là:
Thứ nhất, giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế để trừ đi những chi phí cần thiết và hợp lý để
tái sản xuất sức lao động.
Thứ hai, các cá nhân làm ra thu nhập không chỉ phục vụ cho sự tồn tại của chính bản thân họ
mà còn phục vụ cho sự tồn tại của những người phụ thuộc, những người mà họ có trách nhiệm nuôi
dưỡng như cha, mẹ, vợ, chồng không có khả năng lao động hoặc quá tuổi lao động…để đảm bảo bù

đắp sức lao động cho con người trong quá trình sản xuất tiếp theo cần phải đảm bảo nhu cầu thiết
yếu không chỉ cho họ mà còn cho cả những người phụ thuộc.
Thứ ba, quy định này đảm bảo tính công bằng của việc đánh thuế TNCN. Công bằng thể hiện
khi hai người có mức lương bằng nhau và họ cũng cùng một tình trạng hôn nhân, gia đình, sức
khoẻ, sống trong những khu vực tương tự nhau về giá cá hàng hoá…Vậy khi họ có mức lương bằng
nhau nhưng ở trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau thì việc xác định họ có phải đóng thuế
hay không, mức đóng thuế là bao nhiêu cũng phải khác nhau để đảm bảo sự công bằng giữa những
người nộp thuế. Hơn nữa, việc giảm trừ gia cảnh đối với những trường hợp có người phụ thuộc sẽ
tạo điều kiện cho người chịu thuế thực hiện các nghĩa vụ vật chất mang tính đạo đức đối với người
thân thuộc qua đó góp phần củng cố tình đoàn kết, tương trợ giữa các thành viên trong cùng một gia
đình
II – Giảm trừ gia cảnh theo quy định của pháp luật hiện hành.
1. Các loại thu nhập được hưởng quy định giảm trừ gia cảnh.
Các loại thu nhập chịu thuế TNCN theo luật thuế TNCN 2007 sửa đổi bổ sung 2012 (sau đây
gọi là luật thuế TNCN 2012) rất rộng (Điều 3 Luật thuế TNCN 2012). Tuy vậy, đối tượng được áp
dụng quy định giảm trừ gia cảnh chỉ là thu nhập từ hoạt động kinh doanh và thu nhập từ tiền lương,
tiền công. Trong đó, đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công, phương pháp thu thuế được áp dụng
là thu khấu trừ tại nguồn tức là cơ quan trả thu nhập hàng tháng khi trả thu nhập cho cá nhân có thu
nhập trên mức chịu thuế có trách nhiệm giữ lại tiền thuế để nộp ngân sách.
Thu nhập từ kinh doanh là các khoản thu nhập do cá nhân bỏ vốn đầu tư và trực tiếp tiến hành
hoạt động sản xuất kinh doanh; Thu nhập từ sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc tất cả các
lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh theo quy định của pháp luật; Thu nhập từ hoạt động hành nghề
độc lập của cá nhân trong những lĩnh vực, ngành nghề được cấp giấy phép hoặc chứng chỉ hành
nghề theo quy định của pháp luật; (Khoản 1 Điều 2 thông tư 111/2013/TT-BTC).
Thu nhập từ tiền lương, tiền công là các khoản thu nhập của người lao động nhận được từ
người sử dụng lao động dưới hình thức bằng tiền hoặc không bằng tiền và các khoản phụ cấp khác,
trừ các khoản phụ cấp như: Trợ cấp, phụ cấp ưu đãi hàng tháng và trợ cấp một lần theo quy định
của pháp luật về ưu đãi người có công; Phụ cấp độc hại, nguy hiểm đối với những ngành, nghề hoặc
công việc ở nơi làm việc có yếu tố độc hại, nguy hiểm (Khoản 2 Điều 2 Thông tư 111/2013/TT-
BTC).

3

Các khoản thu nhập này đều là những thu nhập thường xuyên, có tính lâu dài, ổn định, gắn
liền với quá trình lao động của mỗi cá nhân. Việc tính giảm trừ đối với các thu nhập này là vì phải
tính tới chi phí tối thiếu bỏ ra để tiến hành hoạt động sản xuất, hoặc quan hệ lao động, cũng như
một mức độ nhất định thu nhập để ổn định cuộc sống bình thường của cá nhân trong xã hội. Nó
phản ánh khả năng và mức độ đóng góp của cá nhân cho Nhà nước. Những nhà làm luật đã xem xét
đến vấn đề đó để tính toán việc trừ đi các chi phí cần thiết trước khi tính thuế TNCN đối với người
nộp thuế, đảm bảo cho việc tái sản xuất sức lao động, thúc đẩy cá nhân tiếp tục hăng say lao động.
Trong trường hợp cá nhân cư trú vừa có thu nhập từ kinh doanh, vừa có thu nhập từ tiền
lương, tiền công thì sẽ tính giảm trừ gia cảnh một lần vào tổng thu nhập từ kinh doanh và tiền
lương, tiền công.
2. Người nộp thuế được giảm trừ gia cảnh.
Căn cứ vào khái niệm giảm trừ gia cảnh thì đối tượng được hưởng quy định giảm trừ gia cảnh
là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh từ hoạt động kinh doanh, tiền lương, tiền công
trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam, không phân biệt nơi trả và nhận thu nhập. Trong đó, theo quy
định tại Khoản 2 Điều 2 Nghị định 65/2013/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế
thu nhập cá nhân và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân; và được
hướng dẫn chi tiết tại Điều 1 thông tư 111/2013/TT-BTC thì cá nhân cư trú là cá nhân có đủ hai
điều kiện sau đây: Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc
trong 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam, trong đó ngày đến và ngày đi được
tính là một (01) ngày và có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam bao gồm: có nơi ở đăng ký thường trú,
hoặc có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn.
Ta thấy rằng, theo quy định của pháp luật hiện nay thì một cá nhân không phân biệt nguồn
gốc quốc tịch nếu đáp ứng các điều kiện trên đầu được coi là đối tượng cư trú để xác định nghĩa vụ
nộp thuế tại Việ Nam. Cá nhân kê khai thu nhập phát sinh tại Việt Nam và thu nhập phát sinh ngoài
Việt Nam. Còn đối với cá nhân không cư trú, đây là những đối tượng không đáp ứng điều kiện quy
định đối với cá nhân cư trú. Cá nhân này chỉ phải kê khai thu nhập phát sinh tại Việt Nam. Vì vậy,
khi xét đến hoàn cảnh của từng đối tượng nộp thuế để tính xét giảm trừ gia cảnh, chỉ có thể xét đối
với các đối tượng là cá nhân cư trú. Các cá nhân không cư trú, không có mặt tại Việt Nam trong

một khoảng thời gian dài theo quy định (183 ngày) hoặc không có nơi ở thường xuyên ở Việt Nam,
hơn nữa lại chỉ phải kê khai thu nhập phát sinh ở Việt Nam nên khó có thể kiểm soát các nguồn thu
nhập cũng như kiểm tra tính xác thực của hoàn cảnh cụ thể đối với các đối tượng này.
3. Mức giảm trừ gia cảnh.
Để đảm bảo yêu cầu đời sống, sinh hoạt tối thiểu cho người nộp thuế, Luật thuế TNCN
cũng đã quy định mức giảm trừ gia cảnh gồm hai phần, phần đối với chính bản thân của người nộp
thuế và phần đối với những người phụ thuộc mà người nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng. Theo
luật thuế TNCN 2012, quy định cụ thể như sau:
 Mức giảm trừ với bản thân người nộp thuế là 9 triệu đồng/tháng (108 triệu
đồng/năm). Mức 9 triệu đồng là mức tính bình quân cho cả năm, không phân biệt một số tháng
trong năm tính thuế có thu nhập thấp hơn 9 triệu hoặc không có thu nhập. Mức giảm trừ 9 triệu
đồng/tháng trong quy định của pháp luật hiện hành là dựa trên việc tiêu dùng các chi phí sinh hoạt
cần thiết của bản thân người nộp thuế trong một tháng cũng như tình hình kinh tế xã hội (giá cả
hàng hóa, tình hình lạm phát, mức lương tối thiểu ).Những đối tượng có thu nhập vượt quá
“ngưỡng” này thì mới phải nộp thuế TNCN. Quy định này còn thể hiện ý nghĩa chỉ những người có
thu nhập từ trung bình khá trở lên mới phải nộp thuế (và chỉ phải nộp phần thu nhập vượt lên mức
giảm trừ này). Những năm sau đó, khi thu nhập tăng lên, mức giảm trừ sẽ tiến gần với mức thu
nhập trung bình trong xã hội và khi đó những người có thu nhập ở mức trung bình trở lên sẽ phải
nộp thuế TNCN. Do vậy điều luật thể hiện tính tự động mở rộng diện tích đánh thuế để thực hiện
nguyên tắc mọi công dân có thu nhập (trừ những người có thu nhập quá thấp) đều có nghĩa vụ nộp
thuế cho Nhà nước, từ đó đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của tầng lớp dân cư.
4

 Mức giảm trừ cho mỗi người phụ thuộc mà người nộp thuế có nghĩa vụ nuôi dưỡng
là 3,6 triệu đồng/tháng. Việc giảm trừ này sẽ được tính kể từ tháng phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng.
Trường hợp chỉ số giá tiêu dùng (CPI) biến động trên 20% so với thời điểm Luật có hiệu lực thi
hành hoặc thời điểm điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh gần nhất thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội
điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo quy định tại Khoản 4 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật thuế thu nhập cá nhân 2012 thì thực hiện theo mức do Ủy ban Thường vụ Quốc hội
quy định để áp dụng cho kỳ tính thuế tiếp theo. Mỗi người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ một lần

vào một người nộp thuế trong năm tính thuế. Trường hợp nhiều người nộp thuế có chung người phụ
thuộc phải nuôi dưỡng thì phải tự thỏa thuận để đăng ký giảm trừ gia cảnh vào một người nộp thuế.
Có thể hiểu quy định này như sau: Giả sử ông A làm việc tại nhà máy K có thu nhập thường
xuyên từ tiền lương hàng tháng là 30 triệu đồng. Ông K phải nuôi 2 con nhỏ (dưới 18 tuổi). Hàng
tháng Nhà máy X sẽ phải thực hiện khấu trừ thuế của ông K như sau:
Thu nhập của ông A được giảm trừ gia cảnh là: 7,2 triệu + 9 triệu = 16,2 triệu (Cho bản thân
là 9 triệu + 2 người phụ thuộc là 7,2 triệu do 3,6 triệu/người/tháng). Do vậy thu nhập chịu thuế là:
30 triệu – 16,2 triệu =13,8 triệu.
Quy định này đã đảm bảo thực tế nền kinh tế Việt Nam khi mà chỉ số giá tiêu dùng tăng cao,
những con số lạm phát đáng báo động đã tác động rất lớn đến thu nhập và khung thuế, mức giảm
trừ của người lao động. Hơn nữa, Việt Nam là một trong những nước có lạm phát cao; do tác động
tiêu cức của cuộc khủng hoảng, suy thoái, toàn cầu dẫn đến giá cả hàng hoá, dịch vụ tăng cao (chỉ
số CPI năm 2009 là: 6,52%; 2010: 11,75%, 2011 là 18,13%
1
. Theo đó việc quy định mức giảm trừ
gia cảnh theo quy định tại Luật thuế TNCN 2007 đối với bản thân người nộp thuế là 4 triệu đồng/
tháng và người phụ thuộc là 1,8 triệu đồng/tháng là tương đối thấp, lại cố định trong thời gian tương
đối dài sẽ không đảm bảo tính phù hợp.
4. Nguyên tắc tính giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc.
Theo điểm c khoản 1 Điều 9 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài
chính hướng dẫn thực hiện Luật Thuế thu nhập cá nhân, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
Thuế thu nhập cá nhân và Nghị định số 65/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập
cá nhân, cụ thể các nguyên tắc như sau:
- Người nộp thuế được tính giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc nếu người nộp thuế
đã đăng ký thuế và được cấp mã số thuế.
- Khi người nộp thuế đăng ký giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc sẽ được cơ quan
thuế cấp mã số thuế cho người phụ thuộc và được tạm tính giảm trừ gia cảnh trong năm kể từ khi
đăng ký. Đối với người phụ thuộc đã được đăng ký giảm trừ gia cảnh trước ngày Thông tư
111/2013/TT-BTC có hiệu lực thi hành thì tiếp tục được giảm trừ gia cảnh cho đến khi được cấp mã

số thuế.
- Trường hợp người nộp thuế chưa tính giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc trong năm
tính thuế thì được tính giảm trừ cho người phụ thuộc kể từ tháng phát sinh nghĩa vụ nuôi dưỡng khi
người nộp thuế thực hiện quyết toán thuế và có đăng ký giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc.
Riêng đối với người phụ thuộc khác theo hướng dẫn tại tiết d.4, điểm d, khoản 1, Điều 9 Thông tư
số 111/2013/TT-BTC (như: anh, chị, em ruột; ông, bà nội ngoại; cô, dì ) thì thời hạn đăng ký giảm
trừ gia cảnh chậm nhất là ngày 31/12 của năm tính thuế, quá thời hạn nêu trên thì không được tính
giảm trừ gia cảnh cho năm tính thuế đó.
- Mỗi người nộp thuế chỉ được tính giảm trừ một lần và một người nộp thuế trong năm tính
thuế.
Ví dụ: Trong gia đình hai vợ chồng đều có thu nhập rơi vào mức chịu thuế có hai người phụ thuộc.
Các trường hợp đăng ký giảm trừ người phụ thuộc do hai vợ chồng tự xác định là: một là giảm trừ
vào vợ; hai là giảm trừ vào chồng; ba là giảm trừ vào vợ một người phụ thuộc, giảm trừ vào chồng
một người phụ thuộc.
Trường hợp nhiều người nộp thuế có chung người phụ thuộc phải nuôi dưỡng thì người nộp
1
/>5

thuế tự thoả thuận để đăng ký giảm trừ gia cảnh vào một người nộp thuế.
Ví dụ: Một bà mẹ 70 tuổi không có thu nhập riêng, có hai con đều có thu nhập rơi vào mức
chịu thuế. Để được giảm trừ gia cảnh, các con bà phải tự thoả thuận người được giảm trừ gia cảnh
cho mẹ và người đó đăng ký theo mẫu qui định gửi cho cơ quan chi trả thu nhập.
- Người nộp thuế có trách nhiệm kê khai số người phụ thuộc được giảm trừ và phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật về việc kê khai này.
5. Những người phụ thuộc được giảm trừ gia cảnh và hồ sơ kê khai xác định người
phụ thuộc.
Theo quy định tại Điều 19 Luật Thuế TNCN 2012 và theo quy định của Thông tư số
111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Luật Thuế thu nhập cá
nhân, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân và Nghị định số
65/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân (sau

đây gọi tắt là Thông tư số 111/2013/TT-BTC) thì người phụ thuộc là người mà đối tượng thuế có
trách nhiệm nuôi dưỡng bao gồm:
a. Con của người nộp thuế: bao gồm cả con đẻ, con nuôi hợp pháp, con ngoài giá thú,
con riêng của vợ, con riêng của chồng. Nhưng con của người nôp thuế phải thuộc vào một trong các
trường hợp sau:
- Con dưới 18 tuổi (tính đủ theo tháng) có tài sản riêng hoặc không có tài sản riêng,
quy định này phù hợp với các quy định của pháp luật liên quan, đảm bảo sự phát triển bình thường
của trẻ em. Mặc dù pháp luật lao động quy định, người từ đủ 15 tuổi trở lên đã có thể tham gia một
số quan hệ lao động, tức họ đã có thể có thu nhập riêng. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hôn
nhân gia đình thì cha mẹ vẫn có nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng cho con chưa thành niên ( chưa đủ
18 tuổi) hoặc đã thành niên nhưng hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự,
không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Ví dụ: Con ông A sinh ngày 13 tháng 5 năm 2014 thì được tính là người phụ thuộc từ tháng 5
năm 2014.
- Con từ đủ 18 tuổi trở lên bị khuyết tật, không có khả năng lao động. Có nghĩa là con đã trên
18 tuổi nhưng do bị tàn tật và không có khả năng lao động nên không thể tự nuôi sống bản thân thì
vẫn được coi là đối tượng phụ thuộc. Theo đó,cha mẹ được tính giảm trừ gia cảnh cho đối tượng
phụ thuộc là con, trước khi tính thuế.
- Con đang theo học tại Việt Nam hoặc nước ngoài tại bậc đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp, dạy nghề, kể cả con từ 18 tuổi trở lên đang học bậc học phổ thông (tính cả trong
thời gian chờ kết quả thi đại học từ tháng 6 đến tháng 9 năm lớp 12) không có thu nhập hoặc có thu
nhập bình quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 1.000.000 đồng. Nếu
những đối tượng này có thu nhập mà thu nhập đó vượt mức quá 1.000.000 đồng/ tháng thì ít nhất họ
có thể trang trải được một phần chi phí sinh hoạt và học tập của mính. Do đó, họ không được coi là
đối tượng phụ thuộc.
Thực tế, dù con đã thành niên nhưng nếu con vẫn đang tiếp tục đi học thì ngoài chi phí sinh
hoạt thông thường còn phát sinh rất nhiều các chi phí khác, thậm chí lớn hơn rất nhiều. Ví dụ như
chi phí thuê nhà trọ, học phí,chi phí mua dụng cụ, học tập,sách vở, Vì vậy, việc quy định đây là đối
tượng phụ thuộc cho người nộp thuế sẽ là một hình thức khuyến khích phát triển giáo dục,đặc biệt
là đối với việc đào tạo một nguồn nhân lực có trình độ cao mà Việt Nam hiện đang rất thiếu. Quy

định này phù hợp với quy định của nhiều quốc gia khác trên thế giới: ví dụ như: trong luật các quốc
gia Pháp, Đức, Nhật Ở Nhật Bản, con đã thành niên vẫn được coi là người sống phụ thuộc và cần
được cha mẹ trợ cấp toàn phần, nhất là khi các chi phí cho giáo dục chiếm một khoản không nhỏ.
Vì vậy, cha mẹ vẫn được tính giảm trừ gia cảnh đối với con trong trường hợp này.
Ví dụ: Anh E có con đang học tại trường Đại học Luật Hà Nội, trong năm con anh có
tham gia mua bán chứng khoán có khoản thu nhập từ đầu tư này là 18 triệu đồng (bình quân 1,5
triệu đ/tháng tức là trên 0,5 triệu đồng). Trong trường hợp này con anh C không phải là người phụ
thuộc.
 Hồ sơ chứng minh người phụ thuộc
6

(1) Con dưới 18 tuổi cần một trong các giấy tờ sau: Hồ sơ chứng minh là bản sao chụp
Giấy khai sinh và bản chụp Chứng minh nhân dân (nếu có).
(2) Con trên 18 tuổi trở lên bị khuyết tật, không có khả năng lao động, hồ sơ chứng minh
gồm:
- Bản chụp Giấy khai sinh và bản chụp Chứng minh nhân dân (nếu có).
- Bản chụp Giấy chứng nhận khuyết tật theo quy định của pháp luật về người khuyết tật.
(3) Con đang theo học tai các bậc học theo hướng dẫn tại tiết d.1.3, điểm d, khoản 1,Điều
9 Thông tư 11/2013/TT-BTC, hồ sơ chứng minh gồm:
- Bản chụp Giấy khai sinh.
- Bản chụp Thẻ sinh viên hoặc bản khai có xác nhận của trường hoặc giấy tờ khác chứng
minh đang theo học tại các trường học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, trung học phổ
thông hoặc học nghề.
(4) Trường hợp là con nuôi, con ngoài giá thú, con riêng thì ngoài các giấy tờ theo từng
trường hợp nêu trên, hồ sơ chứng minh cần có thêm giấy tờ khác để chứng minh mối quan hệ
như:bản chụp quyết định công nhận việc nuôi con nuôi, quyết định công nhận việc nhận cha, mẹ,
con của cơ quan nhà nước có thẩm quyền…
b. Vợ hoặc chồng của người nộp thuế: đáp ứng điều kiện tại điểm đ, khoản 1 Điều 9
Thông tư 11/2013/TT-BTC cụ thể:
- Đối với người trong độ tuổi lao động phải đáp ứng đồng thời các điều kiện sau : Bị khuyết

tật không có khả năng lao động ; Không có thu nhập hoặc có thu nhập bình quân tháng trong năm từ
tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 1.000.000 đồng.
- Đối với người ngoài độ tuổi lao động phải không có thu nhập hoặc thu nhập bình quân
tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 1.000.000 đồng.
Trong quan hệ giữa vợ và chồng, pháp luật hôn nhân và gia đình chỉ đặt ra quyền và nghĩa
vụ về nhân thân là vợ chồng chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi
mặt chứ không đặt ra nghĩa vụ nuôi dưỡng. Việc không đặt ra nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa vợ và
chồng là bỏi nhà làm luật cho rằng giữa vợ và chồng đã tồn tại sở hữu chung hợp nhất đối với
những loại tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân. Vợ chồng có thể dùng tài chung để chăm
sóc,giúp đỡ bệnh tật không có khả năng lao động, không có thu nhập thì người chồng, vợ cộng lại
đương nhiên là người phải chịu trách nhiệm về tài sản chính trong gia đình. Thực tế, là họ phải
“nuôi” vợ, chồng của mình. Trong trách nhiệm tài sản này lại càng cần thiết hơn khi vợ, chồng chia
tài sản trong thời ký hôn nhân, giữa hai bên vợ chồng không có tài sản chung nữa. Vì vậy, khi vợ
hoặc chồng là đối tượng nộp thuế thì người vợ, người chồng đang ốm đau, bệnh tật được coi là
người phụ thuộc để được giảm trừ gia trước khi tính thuế. Điều đó là hoàn toàn phù hợp và đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể
Ví dụ 1: Chị H 30 tuổi lấy chồng và thu nhập mỗi tháng của chồng chị là 9.000 USD. Chị
H không đi làm mà ở nhà chăm sóc hai con nhỏ dưới 18 tuổi. Trong trường hợp này chồng chị sẽ
được tính giảm trừ người phụ thuộc cho 2 con, không được giảm trừ gia cảnh chị vợ vì chị H đang
trong độ tuổi lao động không được diện được giảm trừ.
Ví dụ 2: Ông A là chủ hộ kinh doanh, có 2 con đang trong độ tuổi đi học, vợ ngoài độ
tuổi lao động, không có thu nhập thì hai con và vợ đều được giảm trừ gia cảnh.
 Hồ sơ bao gồm:
(1) Bản chụp Chứng minh nhân dân.
(2) Bạn chụp sổ hộ khẩu (chứng minh được mối quan hệ vợ chồng) hoặc Bản chụp Giấy
chứng nhận kết hôn.
Trường hợp vợ hoặc chồng trong độ tuổi lao động thì ngoài các giấy tờ nêu trên hồ sơ chứng
minh cần có thêm giấy tờ khác chứng minh người phụ thuộc không có khả năng lao động như bản
chụp Giấy xác nhận khuyết tật theo quy định của pháp luật về người khuyết tật đối với người
khuyết tật không có khả năng lao động, bản chụp hồ sơ bệnh án đối với người mắc bệnh không có

khả năng lao động( như bệh AIDS, ung thư,suy thận mãn,…
c. Cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ, mẹ vợ (hoặc cha chồng, mẹ chồng); cha dượng, mẹ kế;cha
nuôi, mẹ nuôi hợp pháp của người nộp thuế:
Với nhóm đối tượng nầy thì phải đáp ứng điều kiện là ngoài độ tuổi lao động hoặc trong độ
tuổi lao động theo quy định của pháp luật nhưng bị khuyết tât, không có khả năng lao động, không
7

có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng không vượt quá mức qui định (mức thu nhập bình quân tháng
trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 1.000.000 đồng). Theo quy định của Bộ luật
lao động, nam hết tuổi lao động là 60 tuổi, nữ là 55 tuổi thì sau tháng tròn 60 tuổi đối với nam, tròn
55 tuổi đối với nữ mà không có thu nhập hoặc thu nhập bình quan dưới 1 triệu đồng/tháng được kê
khai là người phụ thuộc, giảm trừ gia cảnh của người nộp thuế. Trường hợp hồ sơ chứng minh
người phụ thuộc (chứng minh nhân dân, bản sao giấy khai sinh) không ghi ngày, tháng sinh mà chỉ
ghi năm sinh thì tháng sau năm đủ 60 tuổi được kê khai là người phụ thuộc.
Ví dụ: Giả sử: Một bà mẹ 80 tuổi không có thu nhập riêng, có hai con đều có thu nhập rơi
vào mức chịu thuế. Như vậy bà sẽ là đối tượng được trừ về người phụ thuộc với mức 3,6 triệu
đồng/tháng. Vào năm 2014 bà mẹ này có thêm khoản thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản là
90 triệu. Như vậy bà có thu nhập bình quân tháng là 7,5 triệu (trên 1.000.000 đồng/tháng) nên bà sẽ
không phải là người phụ thuộc. Một trong những con bà nếu đã kê khai bà là người phụ thuộc và đã
giảm trừ gia cảnh cho bà 3,6 triệu đồng/tháng thì cuối năm quyết toán phải nộp thêm tiền thuế vì bà
không thuộc đối tượng được giảm trừ gia cảnh.
 Hồ sơ đối với cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ, mẹ vợ ( hoặc cha chồng, mẹ chồng), cha dượng,
mẹ kế, cha nuôi hợp pháp, mẹ nuôi hợp pháp gồm có :
(1) Bản chụp Chứng minh nhân dân.
(2) Giấy tờ hợp pháp để xác định mối quan hệ của người phụ thuộc với người nộp thuế
như bản chụp sổ hộ khẩu( nếu có cùng sổ hộ khẩu ), giấy khai sinh, quyết định công nhận việc nhận
cha, mẹ,con của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Trường hợp trong độ tuổi lao động thì ngoài các giấy tờ nêu trên , hồ sơ chứng minh cần có
thêm giấy tờ chứng minh là người khuyết tật, không có khả năng lao động như bản chụp Giấy xác
nhận khuyết tật theo quy định của pháp luật về người khuyết tật đối với người khuyết tật không có

khả năng lao động, bản chụp hồ sơ bệnh án đối với người mắc bệnh không có khả năng lao đông
như bệnh AIDS, ung thư, suy thận mãn,…
d. Các cá nhân: là người ngoài độ tuổi lao động hoặc trong độ tuổi lao động theo quy định
của pháp luật nhưng bị khuyết tật, không có khả năng lao động, không nơi nương tựa, không có thu
nhập hoặc có thu nhập nhưng không vượt quá mức qui định (mức thu nhập bình quân tháng trong
năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 1.000.000 đồng) mà đối tượng nộp thuế đang phải
trực tiếp nuôi dưỡng. Bao gồm:
- Anh ruột, chị ruột, em ruột của người nộp thuế.
- Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cô ruột, dì ruột, cậu ruột, chú ruột, bác ruột của người
nộp thuế.
- Cháu ruột của người nộp thuế (bao gồm con của anh ruột, chị ruột, em ruột).
- Người phải trực tiếp nuôi dưỡng khác theo quy định của pháp luật.
Người khác không nơi nương tựa có thể là những chủ thể có quan hệ họ hàng khác như ông
bà nội; ông bà ngoại; cô ruột, dì ruột, chú ruột, bác ruột, cậu ruột, anh, chị, em ruột; cháu ruột và
các cá nhân khác mà đối tượng nộp thuế đang trực tiếp nuôi dưỡng. Rõ ràng giữa cô, dì, chú, bác và
các cháu không có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau. Nhưng thực tế cho thấy, có trường hợp cháu không
còn bố, mẹ, anh, chị, em, ông bà nội, ông bà ngoại thì thông thường cô, dì, chú, bác, sẽ là người
nuôi dưỡng, giáo dục các cháu. Ngược lại nếu cô, dì, chú, bác không có người nuôi dưỡng thì các
cháu sẽ chăm sóc cho họ. Các chi phí trong quá trình trực tiếp nuôi dưỡng cũng phải được tính giảm
trừ cho người nộp thuế.
Các đối tượng trong độ tuổi lao động là người tàn tật, không có khả năng lao động và được
coi là đối tượng phụ thuộc phải đáp ứng đồng thời hai điều kiện:
Một là: Không có khả năng lao động được cơ quan y tế cấp huyện trử lên xác nhận hoặc có
bản khai có xác nhận của UBND cấp xã. Trường hợp không có xác nhận trên người nộp thuế tự
khai và đề nghị UBND cấp xã xác nhận cụ thể về sự tàn tật của ngừoi phụ thuộc.
Hai là, không có thu nhập hoặc có thu nhập bình quân tháng trong năm từ các nguồn thu nhập
không vượt quá 1 triệu đồng.
Đặc biệt, theo quy định luật thuế sửa đổi bổ sung năm 2013 thì nhà làm luật cũng dự trù:
“Trường hợp chỉ số giá tiêu dùng (CPI) biến động trên 20% so với thời điểm Luật có hiệu lực thi
hành hoặc thời điểm điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh gần nhất thì Chính phủ trình Ủy ban

thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh quy định tại khoản này phù hợp với biến
8

động của giá cả để áp dụng cho kỳ tính thuế tiếp theo.”. Đây là quy định mới mà trước đây chưa
có. Quy định này là rất hợp lý và đảm bảo lợi ích cho cả người nộp thuế và nhà nước, phù hợp với
tình hình phát triển của kinh tế xã hội, tránh tình trạng pháp luật vừa ra đời thì đã lỗi thời, không
phù hợp với thực tiễn.
 Hồ sơ bao gồm:
(1) Bản chụp Chứng minh nhân dân hoặc Giấy khai sinh.
(2) Các giấy tờ hợp pháp để xác định trách nhiệm nuôi dưỡng theo quy định của pháp
luật.
Trường hợp người phụ thuộc trong độ tuổi lao động thì ngoài các giấy tờ nêu trên, hồ sơ
chứng minh cần có thêm giấy tờ chứng minh không có khả năng lao động như bản chụp Giấy xác
nhận khuyết tật theo quy định của pháp luật về người khuyết tật đối với người khuyết tật không có
khả năng lao động, bản chụp hồ sơ bệnh án đối với người mắc bệnh không có khả năng lao động
(như bệnh AIDS, ung thư, suy thận mãn,…)
Các giấy tờ hợp pháp quy định trên là bất kỳ giấy tờ pháp lý nào xác định mối quan hệ của
người nộp thuế với người phụ thuộc như:
- Bản chụp giấy tờ xác định nghĩa vụ nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật (nếu có).
- Bản chụp sổ hộ khẩu (nếu có cùng sổ hộ khẩu).
- Bản chụp đăng ký tạm trú của người phụ thuộc (nếu không cùng sổ hộ khẩu).
- Bản tự khai của người nộp thuế theo mẫu ban hành kèm theo văn bản hướng dẫn về quản lý
thuế có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người nộp thuế cư trú về việc người phụ thuộc
đang sống cùng.
- Bản tự khai của người nộp thuế theo mẫu ban hành kèm theo văn bản hướng dẫn về quản lý
thuế có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người nộp thuế cư trú về việc người phụ thuộc
hiện đang cư trú tại địa phương và không có ai nuôi dưỡng ( trường hợp không sống cùng).
(3) Cá nhân cư trú là người nước ngoài, nếu không có hồ sơ theo hướng dẫn đối với từng
trường hợp cụ thể nêu trên thì phải có các tài liệu pháp lý tương tự để làm căn cứ chứng minh người
phụ thuộc.

(4) Đối với người nộp thuế làm việc trong các tổ chức kinh tế, các cơ quan hành chính, sự
nghiệp của bố,mẹ,vợ (hoặc chồng), con và những người khác thuộc diện được tính là người phụ
thuộc đã khai rõ trong lý lịch của người nộp thuế thì hồ sơ chứng minh người phụ thuộc thực hiện
theo các trường hợp tiết g.1,g.2,g.3,g.4,g.5, điểm g khoản 1, Điều 9 Thông tư 111/2013/TT-BTC
hoặc chỉ cần Tờ khai đăng ký người phụ thuộc theo mẫu ban hành kèm theo văn bản hướng dẫn về
quản lý thuế có xác nhận của Thủ trưởng đơn vị và bên trái tờ khai. Thủ trường đơn vị chỉ chịu
trách nhiệm đối với các nội dung sau: họ tên người phụ thuộc, năm sinh và quan hệ với người nộp
thuế; các nội dung khác, người nộp thuế tự khai và chịu trách nhiệm .
6. Kê khai tạm giảm trừ đối với người phụ thuộc và thời hạn nộp hồ sơ chứng minh.
Theo quy định của Thông tư số 111/2013/TT-BTC, không phải tất cả những người có thu
nhập từ tiền công, tiền lương, có thu nhập từ kinh doanh đều phải đăng ký và nộp hồ sơ chứng minh
người phụ thuộc. Việc đăng ký và nộp hồ sơ chỉ áp dụng đối với những cá nhân cư trú, có thu nhập
từ tiền công, tiền lương,có thu nhập từ kinh doanh đạt mức thu nhập bình quân tháng trên 9 triệu
đồng trở lên . Còn những cá nhân cư trú có thu nhập tiền công, tiền lương, có thu nhấp từ kinh
doanh dưới mức 9 triệu đồng/tháng thì không phải đăng ký và nộp hồ sơ về người phụ thuộc. Đây là
quy định nhằm giảm thiểu các thủ tục hành chính, tiết kiệm thời gian và chi phí cho xã hội.
Trường hợp đối tượng nộp thuế có thu nhập từ tiền lương, tiền công thường xuyên, ổn định
từ 2 nơi trở lên; hoặc vừa có thu nhập từ kinh doanh vừa có thu nhập từ tiền lương tiền công thường
xuyên ổn định; hoặc có thu nhập từ kinh doanh thường xuyên ổn định từ 2 nơi trở lên thì đối tượng
nộp thuế được lựa chọn nơi đăng ký giảm trừ gia cảnh, cụ thể như sau:
Về giảm trừ cho bản thân: đối tượng nộp thuế được lựa chọn khai giảm trừ cho bản thân ở
một nơi phát sinh thu nhập; đồng thời phải thông báo cho đơn vị chi trả thu nhập khác hoặc cơ quan
thuế (nơi có hoạt động kinh doanh khác) biết để không tính giảm trừ trùng.
Về giảm trừ cho người phụ thuộc: trường hợp, đối tượng nộp thuế có nhều người phụ
thuộc,mà số người phụ thuộc tính giảm giảm trừ mở một nơi phát sinh thu nhập không đủ giảm trừ
9

thì được đăng ký số người phụ thuộc chưa giảm hết vào nơi phát sinh thu nhập khác để giảm trừ.
Theo qui định tại Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 có hiệu lực kể từ ngày
01/10/2013, việc Người nộp thuế đăng ký giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc (NPT) cần chú ý

một số điểm như sau:
- Người nộp thuế được tính cho giảm trừ gia cảnh cho NPT nếu người nộp thuế đã đăng ký
thuế và được cấp mã số thuế. Tổ chức, cá nhân trả thu nhập chịu thuế thực hiện đăng ký thuế để
được cơ quan thuế cấp mã số thuế. Trường hợp tổ chức, cá nhân trả thu nhập đã được cấp mã số
thuế trước ngày 1/7/2013 thì được tiếp tục sử dụng mã số đó. Hồ sơ đăng ký được thực hiện theo
văn bản hướng dẫn về quản lý thuế. Địa điểm nộp hồ sơ đăng ký theo quy định của cơ quan quản lý
thuế, trường hợp đặc biệt thì được quy định như sau: Cá nhân có thu nhập chịu thuế từ tiền lương,
tiền công nộp hồ sơ đăng ký thuế cho tổ chức, cá nhân trả thu nhập hoặc cơ quan thuế trực tiếp quản
lý tổ chức, cá nhân trả thu nhập. Tổ chức, cá nhân trả thu nhập có trách nhiệm tổng hợp tờ khai
đăng ký thuế của cá nhân và nộp cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý; Cá nhân có nhiều nguồn thu
nhập: từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công, từ các khoản thu nhập chịu thuế khác được lựa chọn
địa điểm nộp hồ sơ đăng ký thuế tại cơ quan, đơn vị trả thu nhập hoặc tại Chi cục Thuế nơi kinh
doanh; Cá nhân có thu nhập chịu thuế khác có thể nộp hồ sơ đăng ký thuế tại bất kỳ cơ quan thuế
nào.
- Đối với cá nhân là người phụ thuộc và người nộp thuế có kê khai giảm trừ gia cảnh nếu chưa
có mã số thuế thì cơ quan thuế tự động cấp mã số thuế cho người phụ thuộc căn cứ trên thông tin
của người phụ thuộc tại Tờ khai đăng ký giảm trừ gia cảnh (theo mẫu ban hành kèm theo văn bản
hướng dẫn về quản lý thuế) của người nộp thuế.
• Đăng ký người phụ thuộc lần đầu
Người nộp thuế có thu nhập từ tiền lương, tiền công đăng ký người phụ thuộc theo mẫu
16/ĐK-TNCN ban hành kèm theo văn bản hướng dẫn về quản lý thuế và nộp hai (02) bản cho tổ
chức, cá nhân trả thu nhập để làm căn cứ tính giảm trừ cho người phụ thuộc.
Tổ chức, cá nhân trả thu nhập lưu giữ một (01) bản đăng ký và nộp một (01) bản đăng ký cho
cơ quan thuế trực tiếp quản lý cùng thời điểm nộp tờ khai thuế thu nhập cá nhân của kỳ khai thuế đó
theo quy định của luật quản lý thuế.
Riêng đối với cá nhân trực tiếp khai thuế với cơ quan thuế thì cá nhân nộp một (01) bản đăng
ký người phụ thuộc theo mẫu 16/ĐK-TNCN cho cơ quan thuế trực tiếp quản lý tổ chức trả thu nhập
cùng thời điểm nộp tờ khai thuế thu nhập cá nhân của kỳ khai thuế đó theo quy định của Luật Quản
lý thuế.
• Đăng ký khi có thay đổi về người phụ thuộc.

Khi có thay đổi (tăng, giảm) về người phụ thuộc, người nộp thuế thực hiện khai bổ sung thông
tin thay đổi của NPT thuộc theo mẫu 16/ĐK-TNCN và nộp cho tổ chức, cá nhân trả thu nhập hoặc
cơ quan thuế đối với người nộp thuế thuộc diện khai thuế trực tiếp với cơ quan thuế.
Địa điểm, thời hạn nộp hồ sơ chứng minh người phụ thuộc:
- Địa điểm nộp hồ sơ chứng minh người phụ thuộc là nơi người nộp thuế nộp bản đăng ký
người phụ thuộc mẫu 16/ĐK-TNCN. Tổ chức trả thu nhập có trách nhiệm lưu giữ hồ sơ chứng
minh người phụ thuộc và xuất trình khi cơ quan thuế thanh tra, kiểm tra thuế.
- Thời hạn nộp hồ sơ chứng minh NPT: trong vòng ba (03) tháng kể từ ngày nộp tờ khai đăng
ký NPT (bao gồm cả trường hợp đăng ký thay đổi NPT).
Quá thời hạn nộp hồ sơ nêu trên, nếu người nộp thế không nộp hồ sơ chứng minh NPT sẽ
không được giảm trừ cho NPT và phải điều chỉnh lại số thuế phải nộp.
Người nộp thuế chỉ phải đăng ký và nộp hồ sơ chứng minh cho mỗi một người phụ thuộc một
lần trong suốt thời gian được tính giảm trừ gia cảnh.Trường hợp người nộp thuế thay đổi nơi làm
việc, nơi kinh doanh thì thực hiện đăng ký và nộp hồ sơ chứng minh người phụ thuộc như trường
hợp đăng ký người phụ thuộc lần đầu nêu trên.
7 . Trách nhiệm của cơ quan trả thu nhập trong việc tiếp nhận và chuyển bản đăng ký
người phụ thuộc cho cơ quan thuế.
- Tiếp nhận bản đăng ký người phụ thuộc được giảm trừ của người nộp thuế.
10

- Hàng tháng, thực hiện tạm giảm trừ gia cảnh cho số người phụ thuộc theo đúng bản đăng
ký người phụ thuộc của đối tượng nộp thuế trước khi tính số thuế tạm khấu trừ, nộp thuế vào NSNN
và không phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc khai tạm tính giảm trừ gia cảnh này.
- Chuyển 01 bản đăng ký giảm trừ người phụ thuộc của người nộp thuế cho cơ quan thuế
trực tiếp quản lý cơ quan trả thu nhập.
Như vậy, cá nhân có thu nhập trên mức chịu thuế cần nêu có người phụ thuộc thi cần nộp
bản đăng ký cho cơ quan trả thu nhập để được tính và khấu trừ ngay từ đầu năm.
Ví dụ: chị K đăng ký giảm trừ cho 1 con vậy số tiền được trừ gia cảnh là 12,6 triệu
đồng/tháng, nếu tháng 8/2014 chị nhận tiền lương là 13 triệu đồng thì cơ quan trả thu nhập sẽ khai
và khấu trừ thuế của chị là 13 tr. đ – 12,6 tr. đ = 0,4 tr. đ x 5% = 20.000 đồng. Giả sử tháng 11 chị

sinh con và đăng ký giảm trừ thêm một cháu thì số tiền được trừ sẽ là 16,2 triệu đồng. Nếu lương
của chị các tháng sau vẫn là 13 triệu đồng thì cơ quan trả thu nhập sẽ không khấu trừ. Cuối năm cơ
quan trả thu nhập chỉ cấp một chứng từ khấu trừ thuế cho chi K để chi quyết toán với cơ quan thuế.
III – Thực tiễn áp dụng quy định giảm trừ gia cảnh trong Luật Thuế TNCN từ tháng
7/2013 và ý kiến cá của cá nhân.
1. Thực tiễn áp dụng quy định giảm trừ gia cảnh trong Luật Thuế TNCN từ tháng
7/2013.
Từ 01/7/2013, Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) sửa đổi chính thức có hiệu lực. Theo tính
toán sơ bộ của Tổng cục Thuế, ngân sách Nhà nước (NSNN) sẽ giảm thu khoảng 5.200 tỷ đồng
trong 6 tháng cuối năm 2013 và giảm 13.350 tỷ đồng trong năm tài khóa 2014
2
. Đối với ngân sách
nhà nước thì nguồn thu từ ngân sách nhà nước về trước mắt sẽ bị giảm sút, tuy nhiên về lâu dài, quy
định về mức giảm trừ gia cảnh tăng lên sẽ khuyến khích sản xuất, lao động trong đời sống nhân dân
tăng thu cho nhà nước. Đặc biệt quy định điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh sẽ được điều chỉnh dựa
trên tình hình kinh tế xã hội (chỉ số CPI) là rất cần thiết và phù hợp với thực tế, trách được tình
trạng luật chưa ra mà đã lạc hậu với thực tế.
a.Những ưu điểm đã đạt được:
Với các quy định góp phần cải cách thủ tục hành chính, Luật Thuế TNCN quy định thuận
tiện cho các cá nhân có người phụ thuộc là: tự kê khai và tự chịu trách nhiệm. Đối với người lao
động làm việc trong các tổ chức kinh tế, cơ quan hành chính sự nghiệp có bố, mẹ, vợ (hoặc chồng),
con và những người khác thuộc đối tượng được tính là người phụ thuộc (đã khai rõ trong lý lịch) thì
hồ sơ chứng minh người phụ thuộc chỉ cần tờ khai đăng ký người phụ thuộc, có xác nhận của thủ
trưởng đơn vị về các nội dung: họ tên người phụ thuộc, năm sinh và quan hệ với đối tượng nộp
thuế, không cần bản sao chứng minh nhân dân, hộ khẩu hay giấy tờ nào khác.
Trường hợp cá nhân nộp thuế gian lận khi kê khai người phụ thuộc nhằm trốn thuế, người đó
sẽ bị xử lý theo quy định của Luật Quản lý thuế (phạt từ 1 đến 3 lần số tiền thuế gian lận). Luật
Quản lý thuế không khống chế thời gian hồi tố nên nếu 10 - 20 năm nữa ngành thuế tập hợp dữ liệu,
phát hiện có gian lận thì vẫn xử lý nghiêm khắc.
Bên cạnh đó, Luật Thuế TNCN chỉ quy định giảm trừ gia cảnh cho các cá nhân có thu nhập

từ tiền công, tiền lương, từ hoạt động kinh doanh, có thể thấy đây là quy định thuận lợi vì các các
nhân này là người chịu Thuế TNCN chủ yếu hiện nay. Có rất nhiều cá nhân có thu nhập từ các
nguồn khác nhau, phát sinh vào các thời điểm khác nhau và trên thực tế trình độ quản lý của Việt
Nam là rất khó kiểm soát. Mà thực chất mục đích của luật Thuế TNCN hiện nay là nhắm vào các
nguồn thu nhập này chứ không phải là nguồn thu nhập ổn định của công chức, viên chức, người lao
động, cá nhân kinh doanh. Vì vậy quy định này tạo tâm lý thoải mái cho người dân, tránh tình trạng
trốn lậu thuế.
Việc quy định các đối tượng được xét là đối tượng phụ thuộc trong quy định giảm trừ gia
cảnh là khá đầy đủ và hợp lý. Xuất phát từ truyền thống tương thân tương ái, nhiều thế hệ cùng
chung sống dưới một mái nhà của người Việt Nam, quy định này đã thâu tóm được hết các đối
2
/>11

tượng, tạo điều kiện thuận lợi cho cả đối tượng nộp thuế và đối tượng phụ thuộc.
b. Những vướng mắc và hạn chế còn tồn đọng:
Áp dụng quy định về giảm trừ gia cảnh theo thực tế hiện nay đã bộc lộ nhiều bất cập trong đó
việc quy định mức khởi điểm chịu thuế đang là vấn đề nổi cộm nhất. Theo quy định mức khởi điểm
tính Thuế TNCN là 9 triệu đồng và mức giảm trừ cho bản thân – mức giảm trừ cho người phụ thuộc
là 9 – 3,6 triệu và đây là mức cứng không phân biệt đối tượng nộp thuế, loại thu nhập đánh thuế,
vùng địa lý… Tuy vậy, có thể thấy mức giảm trừ 9 triệu đồng chỉ phù hợp với những cá nhân có thu
nhập từ tiền lương, tiền công còn các cá nhân có thu nhập từ kinh doanh thì không hề phù hợp.
Thêm vào đó, mức 9 triệu đồng không thể áp dụng chung cho tất cả các cá nhân trên toàn lãnh
thổ Việt Nam trong khi mức phân hóa giàu nghèo, chi phí sinh hoạt của nhân dân Việt Nam trên các
vị trí địa lý khác nhau là khác nhau. Ví dụ: Mức 9 triệu đồng chỉ phù hợp với người dân sống ở
nông thôn trong khi đó ở thành phố, chi phí sinh hoạt của người dân thường phải từ 12 triệu
đồng/tháng trở lên. Trường hợp này cũng tương tự với mức giảm trừ cho người phụ thuộc.
Tương tự với mức giảm trừ gia cảnh là mức thu nhập bình quân của người phụ thuộc. Với
mức cứng là 1.000.000 đồng/tháng, họ có thể sẽ bị tước đi quyền được nuôi dưỡng nếu thu nhập chỉ
hơn có một chút (ví dụ như 1050.000 đồng/tháng).
Thực tế việc chứng minh người phụ thuộc trong một số trường hợp không đơn giản. Tại một

số bệnh viện, việc xác nhận về mức độ tàn tật thế nào để kết luận “không có khả năng lao động”
đối với người bị dị tật bẩm sinh, không có khả năng tự phục vụ bản thân thì khá dễ dàng. Nhưng đối
với trường hợp người khuyết tật có khả năng và thực tế vẫn đang làm việc, chứ không phải là mất
khả năng lao động thì thật khó xác nhận thế nào cho hợp lý. Một bất cập nữa là các bệnh viện vẫn
dùng mẫu phiếu khám bệnh chung để khám cho đối tượng xác định giảm trừ gia cảnh. Sau khi kiểm
tra tổng quát, bệnh viện sẽ đưa ra kết luận có đủ sức khỏe hay không. Theo cách này, việc khám chỉ
mang tính tương đối, dẫn đến một lượng lớn người được giảm trừ gia cảnh
Thêm vào đó, theo quy định, để được giảm trừ gia cảnh, người có thu nhập chịu thuế phải làm
bản kê khai, lấy chứng thực của uỷ ban nhân dân (UBND) phường, sau đó, gửi lại cho cơ quan chi
trả thu nhập hoặc cơ quan thuế. Tuy nhiên, chức năng của UBND phường hiện chỉ chứng thực theo
2 hình thức, chứng thực chữ ký và chứng thực hộ khẩu. Nhưng trong nhiều trường hợp, các cơ quan
chi trả thu nhập hoặc cơ quan thuế đã không chấp nhận việc chứng thực chỉ có như vậy.
Về cấp mã số thuế cho người phụ thuộc: Cụ thể, thay đổi lớn nhất trong lần sửa đổi này là
mức giảm trừ gia cảnh đối với người nộp thuế là trên 9 triệu đồng/tháng (tăng 5 triệu đồng so với
mức cũ) và mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 3,6 triệu đồng/tháng (tăng 2 triệu đồng so
với mức cũ). Theo tính toán của Tổng cục Thuế, sẽ có hơn 3 triệu người ra khỏi diện nộp thuế trên
tổng số 4 triệu người đang khai nộp hiện nay
3
. Chính vì vậy, khi chúng ta chưa áp dụng việc nộp
thuế TNCN theo hình thức phổ thông, thì cần quản chặt đối tượng có thu nhập để thu thuế. Hiện tại,
Luật thuế TNCN không hạn chế lượng người phụ thuộc và hiện chỉ mới cấp mã số thuế cho người
nộp thuế (thực tế chưa cấp hết) nên việc kiểm soát, xác định đối tượng giảm trừ gia cảnh còn phụ
thuộc vào ý thức tự giác của người nộp thuế, dẫn tới có thể kê khai trùng đối tượng người phụ
thuộc.
Một phiền toái khác đối với mã số thuế là khâu bảo mật. Thời gian qua có hiện tượng một số
người đi đăng ký mã số thuế TNCN phát hiện tên mình đã được đăng ký ở tận địa phương khác.
Trường hợp này đang xuất hiện nhiều. Nhưng đáng ngại hơn, có những người đăng ký rồi, thì bị
đánh cắp mã số. Không ít đối tượng, tổ chức mượn danh người khác để kê khai chi phí về tiền công,
tiền lương, để “né” và “lách” thuế. Vì vậy, người nộp thuế khi được cấp mã số phải cẩn thận và giữ
kín, nếu bị lộ hoặc bị mất sẽ vô cùng phiền toái.

Việc đăng ký giảm trừ gia cảnh được thực hiện theo nguyên tắc: “Mỗi người phụ thuộc chỉ
được tính giảm trừ một lần vào một người nộp thuế trong năm tính thuế”. Tuy nhiên, đi vào thực
hiện mới phát sinh ra nhiều vướng mắc. Đơn cử như câu hỏi 3 anh em cùng đóng góp tiền nuôi
dưỡng cha mẹ già trên 70 tuổi thì cả 3 anh em có cùng được tính giảm trừ gia cảnh khi nộp thuế thu
nhập cá nhân hay không. Hay con ruột trên 20 tuổi hoặc con riêng của vợ có thể được xét là người
phụ thuộc không Ngoài ra, còn có những thắc mắc về việc đối tượng phụ thuộc đã qua đời mà vẫn
để đăng ký này để hưởng giảm trừ gia cảnh thì có bị phạt không.
3
/>12

2. Ý kiến cá nhân và một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật.

Thứ nhất, không nên tuyệt đối hóa mức khởi điểm nộp thuế cũng như mức giảm trừ gia
cảnh cho bản thân đối tượng nộp thuế và cho đối tượng phụ thuộc. Nước ta đang trong giai đoạn
phát triển kéo theo sự biến động không lường của giá trị đồng tiền, mức 9 – 3,6 triệu đồng sẽ thực
sự không phù hợp với tốc độ phát triển mạnh mẽ của quốc gia và chi phí sinh hoạt cơ bản của nhân
dân tại các vị trí địa lý khác nhau. Để khắc phục tình trạng này, quy định về giảm trừ gia cảnh nên
linh hoạt hơn bằng cách quy định khác nhau về mức giảm trừ theo vị trí địa lý hoặc theo chỉ số giá
tiêu dùng; tương đối hóa mức giảm trừ bằng cách quy định bám theo mức lương tối thiểu chung. Ví
dụ: Mức giảm trừ cho bản thân đối tượng nộp thuế là từ 10 – 20 lần mức lương tối thiểu chung, mức
giảm trừ cho đối tượng phụ thuộc là từ 3 – 5 lần mức lương tối thiểu chung.
Với mức thu nhập bình quân của người phụ thuộc cũng nên quy định linh hoạt hơn, tránh tình
trạng họ không được xác định là người phụ thuộc cũng không có đủ thu nhập để tự trang trải cho
bản thân.
Thứ hai, cần đẩy mạnh hơn nữa việc đăng ký và cấp mã số thuế cá nhân, tiến tới mỗi công
dân đều có một mã số để theo dõi quản lý, không phân biệt có thu nhập chịu thuế hay không có thu
nhập chịu thuế. Cần thống nhất các văn bản hướng dẫn thực hiện về chính sách thuế TNCN và quản
lý thuế TNCN đối với quy định về cấp mã số thuế cho người phụ thuộc. Đối với việc quản lý mã số
thuế cho người phụ thuộc Kế thừa quy định việc cấp mã số thuế cá nhân cho người nộp thuế, nay bổ
sung thêm quy định về cấp mã số cho người phụ thuộc. Với quy định này, cá nhân tự giác kê khai

và cơ quan thuế cũng có thể giám sát được việc khai đó có trung thực hay không thông qua mã số
thuế của người phụ thuộc. Do vậy cơ quan quản lý cần siết chặt quản lý về thuế, thường xuyên kiểm
tra, kịp thời ngăn chặn hành vi gian lận thuế. Giải pháp bảo vệ mã số thuế cá nhân là người nộp thuế
vào trang tncnonline.com.vn, gõ số chứng minh thư hoặc hộ chiếu của bất kỳ ai cũng có thể biết
được mã số thuế của người đó. Như vậy, nếu chẳng may bị rơi giấy tờ thì thông tin mã số thuế sẽ dễ
dàng bị người khác biết được. Với trường hợp các cá nhân cùng kê khai một người phụ thuộc, bà
Lan cho biết từ 01/7/2013 khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TNCN có hiệu lực,
cơ quan thuế sẽ tự động cấp mã số thuế cho người phụ thuộc. Khi đó, nếu cá nhân khác lại sử dụng
người phụ thuộc đó thì hệ thống sẽ nắm được và từ chối.
Thứ ba, để cơ chế tự khai, tự nộp thuế TNCN phát huy hiệu quả, cần tăng cường công tác
hướng dẫn, kiểm tra, tổ chức hệ thống thông tin dịch vụ kế toán, kê khai và tính thuế. Đồng thời cần
có lộ trình triển khai phù hợp, từng bước từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, chia theo từng
nhóm để quản lý; nên có cơ chế khuyến khích các đối tượng nộp thuế tự nguyện áp dụng phương
pháp tự khai nộp thuế, chẳng hạn như cho phép được hưởng các khoản khấu trừ đặc biệt hoặc các
chế độ ưu đãi khác.
Thứ tư, đơn giản hóa các thủ tục chứng minh người phụ thuộc đặc biệt là các đối tượng
khuyết tật không có khả năng lao động. Cần quy định rõ trách nhiệm của UBND xã phường, cơ sở y
tế trong việc xác nhận. Theo các bệnh viện, cần có một mẫu riêng với các chỉ tiêu cụ thể để xác
định người không có khả năng lao động tránh tình trạng cơ sở y tế xác nhận nhưng cơ quan thuế
không chấp nhập gây khó khăn cho đối tượng nộp thuế. Hơn nữa, cần có các biện pháp xác định
“mức độ phụ thuộc”, tránh tình trạng lợi dụng quy định giảm trừ gia cảnh để gian lận trốn lậu thuế;
hoặc tình trạng không được giảm trừ gia cảnh chỉ vì không thể chứng minh “sự phụ thuộc”.
Thứ năm, kiện toàn tổ chức bộ máy thuế, chú trọng việc bồi dưỡng nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực của ngành thuế song song với việc tăng cường cơ sở vật chất cho ngành thuế theo
hướng hiện đại hóa công tác quản lý thuế.
KẾT LUẬN
Quá trình xây dựng và thực hiện Luật thuế thu nhập cá nhân mà cụ thể là quy định về mức giảm
trừ gia cảnh còn nhiều khó khăn và bất cập, đòi hỏi phải có một lộ trình sửa đổi và bổ sung. Tuy
nhiên, Luật thuế thu nhập cá nhân ra đời đã đáp ứng được phần nào mong mỏi của người dân về
tính công bằng trong thu nhập và đảm bảo an sinh phúc lợi xã hội. Với sự hợp tác giữa người dân và

Chính phủ, trong tương lai không xa việc áp dụng thuế sẽ được toàn dân hưởng ứng một cách tích
13

cực góp phần xây dựng một đất nước Việt Nam công bằng, dân chủ, văn minh. Mặc dù, Luật thuế
TNCN năm 2012 mới chỉ có hiệu lực từ ngày 1/7/2013 nhưng bước đầu cũng cho chúng ta thấy
những ưu điểm của nó và tuy nhiên bên cạnh đó cũng còn hạn chế. Do đó, vấn đề hoàn thiện hành
lang pháp lý là điều cấp thiết và quan trọng nhất.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thuế Việt Nam, Nxb.Công an nhân dân,
Hà Nội,2011;
2. Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007;
3. Luật thuế thu nhập cá nhân sửa đổi năm 2012;
14

4. Nghị định số 65/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật
Thuế thu nhập cá nhân và Luật sửa đỏi bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân;
5. Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài Chính hướng dẫn thực
hiện Luật thuế thu nhập cá nhân và Nghị định số 65/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế thu
nhập cá nhân;
6. Lê Thu Thủy, “Những vấn đề đặt ra khi thực thi luật thuế TNCN ở Việt Nam”, tạp
chí luật học, số 5/2009.
7. Vấn đề giảm trừ gia cảnh trong Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007 – Thực trạng
và kiến nghị từ kinh nghiệm Nhật Bản, Khóa luận tốt nghiệp, Trần Thúy Mai, Hà Nội, 2012.
9. Các website: www . l awsoft. thu vienphapluat.vn
www.vneconomy.vn
www.tintuc thu ongmai.vn
www.doanhnhan360.com

www.dddn.com.vn
www.khoinghiep.org.vn

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

TNCN: Thu nhập cá nhân
NSNN : Ngân sách nhà nước
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
UBND : Ủy ban nhân dân
DN : Doanh nghiệp
NPT : Người phụ thuộc.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
15

NỘI DUNG 2
I – Khái quát chung về Luật thuế thu nhập cá nhân và quy định giảm trừ gia cảnh 2
1.Khái quát về pháp luật thuế thu nhập cá nhân 2
2.Về vấn đề giảm trừ gia cảnh. 2
II – Giảm trừ gia cảnh theo quy định của pháp luật hiện hành 3
1.Các loại thu nhập được hưởng quy định giảm trừ gia cảnh 3
2.Người nộp thuế được giảm trừ gia cảnh 4
3.Mức giảm trừ gia cảnh 4
4.Nguyên tắc tính giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc 5
5.Những người phụ thuộc được giảm trừ gia cảnh và hồ sơ kê khai xác định người phụ thuộc 6
6.Kê khai tạm giảm trừ đối với người phụ thuộc và thời hạn nộp hồ sơ chứng minh 9
7 . Trách nhiệm của cơ quan trả thu nhập trong việc tiếp nhận và chuyển bản đăng ký người phụ thuộc cho cơ quan
thuế 10
III – Thực tiễn áp dụng quy định giảm trừ gia cảnh trong Luật Thuế TNCN từ tháng 7/2013 và ý kiến cá của cá nhân.
11

1. Thực tiễn áp dụng quy định giảm trừ gia cảnh trong Luật Thuế TNCN từ tháng 7/2013 11
2.Ý kiến cá nhân và một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật 13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 14
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 15
16

×