TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG “ĐOÀN KẾT LÀ SỨC MẠNH,
LÀ THEN CHỐT CỦA THÀNH CÔNG” TRONG TÁC PHẨM “DI CHÚC”
CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm
đến vấn đề đoàn kết bởi theo Người: “Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một
thì nước ta độc lập tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm
lấn”
1
. Vấn đề này được Hồ Chí Minh thể hiện trên một tầm cao mới ở trong Di chúc -
tác phẩm cuối cùng của Người. Bốn mươi năm đã qua, kể từ khi Hồ Chí Minh viết
những dòng cuối cùng của bản Di chúc lịch sử, là thời gian thích hợp nhất để chúng ta
suy ngẫm về tư tưởng đoàn kết trong di sản cuối cùng mà Người để lại cho dân tộc
Việt Nam.
Những ngày thu năm nay dân tộc ta kỷ niệm 67 năm Cách mạng Tháng Tám,
Quốc khánh 2/9 và cũng là ngày kỷ niệm 43 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh muôn vàn kính yêu.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản
Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Ngày 2/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra đi về với “Thế giới người hiền” tại
ngôi nhà sàn đơn sơ thuộc khu vực của Quảng trường Ba Đình lịch sử.
Lịch sử đã có sự trùng hợp thiêng liêng và kỳ diệu. Hai sự kiện diễn ra vào hai
thời điểm khác nhau của đất nước nhưng lại gắn bó chặt chẽ như một tất yếu lịch sử.
Có sự mở đầu bằng Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 mới có chiến thắng Điện Biên
Phủ lừng lẫy chôn vùi chế độ thực dân cũ thống trị đất nước ta gần một thế kỷ; mới có
Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đánh sập chủ nghĩa thực dân mới, hoàn thành sự
nghiệp giải phóng miền Nam, dân tộc ta đã thực hiện được ước nguyện lớn lao nhất và
mong mỏi nhiều nhất lúc sinh thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đó là thống nhất đất
nước.
1
Hồ Chí Minh: toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000, trang 217.
1
Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta đón nhận quy luật cuộc sống thật
ung dung và thanh thản, Người chuẩn bị cho việc ra đi của mình bằng những lời dặn
dò tâm huyết qua bản Di chúc. Hơn 40 năm đã qua, đọc bản Di chúc mà Người để lại,
trong lòng mỗi người dân Việt Nam ai cũng dâng trào niềm xúc động trước sự quan
tâm lo lắng của Người đối với tương lai của non sông đất nước, là sự thể hiện tâm
nguyện, tình cảm, ý chí, niềm tin, trách nhiệm của Người với Tổ quốc, với nhân dân
và với sự nghiệp cách mạng.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được coi là văn kiện lịch sử vô giá, kết tinh
những tinh hoa đạo đức và tâm hồn cao đẹp. Những tư tưởng và quan điểm cốt yếu
của Người thể hiện trong bản Di chúc đã vạch ra những phương hướng phát triển cho
cách mạng Việt Nam cả hôm nay và tương lai mai sau.
Tìm hiểu Di chúc của Chủ tịch Hồ chí Minh cho chúng ta thấy một trong
những Di nguyện mà Người đã nhấn mạnh và nhắc lại nhiều lần trong bản Di chúc đó
chính là vấn đề về “Đoàn kết”. Có lẽ Người muốn nhắc nhở cho các thế sau, cho cách
mạng Việt Nam rằng “Đoàn kết” đó không chỉ là sự phát huy một truyền thống quý
báu của dân tộc ta, mà “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”, như lúc
sinh thời Người đã từng nói “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành
công, đại thành công”.
I. Tìm hiểu về “Đoàn kết” trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
hơn 40 năm đất nước thực hiện theo Di chúc của Người
1. Tìm hiểu về “Đoàn kết” trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Đoàn kết và đại đoàn kết dân tộc là một nội dung xuyên suốt trong tư tưởng
cũng như trong hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là một cống hiến đặc
sắc, có giá trị lý luận và giá trị thực tiễn hết sức quan trọng. Tư tưởng “Đoàn kết” và
“Đoàn kết dân tộc” là vấn đề được Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ thời kỳ đầu lãnh
đạo cách mạng cho đến lúc Người sắp ra đi đặc biệt quan tâm và coi trọng. Có thể nói,
2
sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta chỉ có thể được thực hiện và thành công bằng sức
mạnh của cả dân tộc, bằng đại đoàn kết dân tộc. Vì vậy, theo quan niệm của Người
“đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố quan trọng nhất bảo đảm thắng lợi
của cách mạng Việt Nam”
Với cương vị là lãnh tụ tối cao của Đảng và của dân tộc, đứng đầu Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 24 năm liền, Người đã tập hợp, quy tụ được các dân tộc,
các giai cấp, tầng lớp, đảng phái, tôn giáo, nhân sĩ trí thức yêu nước, đồng bào trong
nước và kiều bào ở nước ngoài, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong suốt tiến
trình cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Người đã trở thành linh hồn của khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng
rộng rãi và bền vững.
Các nhà nghiên cứu đã tiến hành thống kê, phân tích những bài viết, bài nói của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được công bố trong Hồ Chí Minh Toàn tập (12 tập), kết quả
cho thấy các bài viết đề cập đến vấn đề “Đoàn kết” và “Đại đoàn kết dân tộc” chiếm tỷ
lệ trên 40%. Trong một số bài, Người đã nhiều lần nói đến đoàn kết, đại đoàn kết dân
tộc: 16 lần trong bài Sửa đổi lối làm việc (tập 5), 17 lần trong Bài nói tại buổi khai
mạc Đại hội thống nhất Việt Minh – Liên Việt (tập 6), 19 lần trong Diễn văn kỷ niệm
Quốc khánh năm 1957 (tập 8)…Và trong bản Di chúc đầu tiên, được Người viết vào
ngày 15-5-1965, chỉ với hơn 1000 từ nhưng có tới 8 lần Người nói về vấn đề đoàn kết.
Đoàn kết trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Trước hết, về đoàn kết trong Đảng, “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ
phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến
nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ
tháng lợi này đến thắng lợi khác.
3
Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu Đảng và của dân ta. Các đồng chí
từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng như giữ
gìn con ngươi của mắt mình.
Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê
bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất
của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.
Trong Di chúc, Hồ Chí Minh đề cập rất nhiều vấn đề từ đấu tranh giành độc lập
cho dân tộc, cho đến xây dựng đất nước sau khi chiến tranh kết thúc, từ đối nội đến đối
ngoại, từ việc chung đến việc riêng…Trong bộn bề những công việc đại sự đó, cái mà
Người đặc biệt quan tâm là ''Trước hết nói về Đảng'', là vấn đề đoàn kết trong Đảng.
Quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận về vấn đề đoàn kết trong Đảng được Hồ Chí
Minh nêu lên trong Di chúc, đó là:
Điều đầu tiên, Người nhấn mạnh vai trò của đoàn kết trong Đảng đối với mọi
thắng lợi của cách mạng nước ta, bản Di chúc viết năm 1965 có đoạn: ''Nhờ đoàn kết
chặt chẽ… cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh
đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác''
2
.
Điều quan trọng hơn là Hồ Chí Minh đã đặt ra những yêu cầu và giải pháp để
củng cố khối đoàn kết trong Đảng khi đất nước bước vào thời kỳ xây dựng sau chiến
tranh, bởi Người đã dự đoán được sự tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ mặc
dù còn nhiều “khó khăn gian khổ”. Theo Hồ Chí Minh: “Đánh đổ giai cấp địch đã
khó, đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội còn gian khổ, khó khăn hơn nhiều” bởi vậy
“việc hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra, việc xây dựng lại thành
phố và làng mạc đẹp đẽ hơn, đàng hoàng hơn trước chiến tranh…” và việc ''chống lại
những gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra cái mới mẻ, tốt tươi'' là nhiệm vụ cực kỳ to lớn,
phức tạp và khó khăn. Chính trong điều kiện mới này lại đòi hỏi ''Đảng phải mạnh hơn
bao giờ hết''. Đảng chỉ mạnh hơn khi sự đoàn kết thống nhất trong Đảng được tăng
2
Sđd, tập 12, trang 497.
4
cường, điều này chỉ có thể thực hiện được tốt khi ''Các đồng chí từ Trung ương đến
các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của
mắt mình''
3
. Muốn củng cố, phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng thì cần
“thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình Phải có tình đồng chí
thương yêu lẫn nhau”.
Về phong trào cộng sản thế giới. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện
đoàn kết không chỉ diễn ra trong quốc gia dân tộc, mà thực hiện đoàn kết trong cả
phong trào cộng sản thế giới, Người viết: “Là một người suốt đời phục vụ cách
mạng….Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi
phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và
chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình. Tôi tin chắc rằng các đảng anh em và các nước
anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại.”
Về đoàn kết quốc tế. Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng định, thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam không thể tách rời sự đoàn
kết, sự ủng hộ và giúp đỡ tận tình của các nước xã hội chủ nghĩa, bầu bạn khắp năm
châu. Vì vậy, một trong những dự kiến đầu tiên của Người ngay sau khi chiến tranh
kết thúc là: “tôi sẽ thay mặt nhân dân ta thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã
hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc
chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta”
4
.
Trước khi qua đời, điều Hồ Chí Minh “đau lòng” nhất là “sự bất hoà” trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, bởi vậy, Người không quên nhắc nhở
“Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết
giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô
sản, có lý, có tình”. Thực tế cho thấy, với uy tín, nhiệt tình cách mạng và chủ nghĩa
quốc tế trong sáng, ngay từ những năm 1920, Người đã có nhiều đóng góp quan trọng
vào sự đoàn kết, thống nhất giữa các lực lượng cách mạng trên thế giới.
3
Sđd, tập 12, trang 510, 512, 504, 504.
4
Sđd, tập 12, trang 509, 511.
5
Suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh gắn bó trọn vẹn với dân tộc, với Đảng Cộng
sản Việt Nam, với nhân dân và bạn bè quốc tế. Cũng suốt đời mình, Người luôn phấn
đấu, cống hiến cho sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, đoàn kết dân tộc và quốc tế. Vì
vậy, trước khi qua đời Người ''để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng,
cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng” Việt Nam và cho đồng chí,
bầu bạn, thanh niên, nhi đồng quốc tế.
Về công cuộc kháng chiến chống Mỹ. Với tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, Chủ
tịch Hồ Chí Minh tin tưởng vào sự tất thắng của cách mạng toàn dân tộc trong công
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ để thống nhất đất nước. Trong Di chúc, Người
viết: “…Nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng,
nhân dân ta luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng…Cuộc kháng chiến chống
Mỹ có thể kéo dài mấy năm nữa. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều
người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn. Dù khó
khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ
nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam,
Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà…”. Niềm tin tất thắng đó và sự tiên đoán tài tình
của Người đã được cả dân tộc hoàn thành bằng chiến thắng mùa xuân năm 1975, miền
Nam hoàn toàn được giải phóng, đất nước thống nhất, non sông Việt Nam thu về một
mối như Di nguyện của Người hằng mong ước.
Về công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh. Trong bản Di chúc thứ hai
được Người viết vào tháng 5/1968, vấn đề đoàn kết lại được Người căn dặn: “Ngay
sau cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi, công việc toàn
Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương
nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man. Đó là
một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn. Chúng ta phải có kế hoạch rõ ràng,
chu đáo, để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm… Công việc trên đây rất to lớn,
nặng nề, và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại
6
những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng
lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải huy động toàn dân, tổ chức và giáo dục
toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”.
Về đoàn hết toàn dân. Bên cạnh việc nhấn mạnh đến đoàn kết trong Đảng,
Người cũng đặc biệt quan tâm đến xây dựng khối đoàn kết toàn dân bởi đây “là một
truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta''. Với Hồ Chí Minh, tương lai của
đất nước, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được quyết định bởi chính truyền
thống đoàn kết, điều này được thể hiện ở những dòng cuối cùng của Di chúc: ''Điều
mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng
một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần
xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới''.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, để củng cố và tăng cường khối đoàn kết toàn
dân tộc, Đảng phải luôn quan tâm đến ''công việc đối với con người''. Theo Người:
''Trong bao năm kháng chiến chống thực dân Pháp, tiếp đến chống đế quốc Mỹ, đồng
bào ta, nhất là đồng bào nông dân đã luôn luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính
phủ ta, ra sức góp của góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn gian khổ. Nay ta
đã hoàn toàn thắng lợi, tôi có ý đề nghị miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp
tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi,
đẩy mạnh sản xuất”3. ''Đối với những nạn nhân của chế độ cũ…thì Nhà nước phải
dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những
người lao động lương thiện''. Đây không chỉ là quan điểm tập hợp lực lượng hết sức
rộng rãi mà còn thể hiện sâu sắc tư tưởng bao dung, nhân ái Hồ Chí Minh.
Sự nghiệp xây dựng đất nước cần có khối đoàn kết đông đảo, rộng rãi, mạnh mẽ
và chắc chắn. Khối đoàn kết đó không chỉ gồm toàn bộ những người từ phía ''bên này''
mà có cả người của phía “bên kia”. Người cho rằng sự nghiệp xây dựng đất nước cần
đến lực lượng của tất cả mọi người, ''không để sót một người nào''.
7
Đoàn kết và Đoàn kết toàn dân là quan điểm được Người theo đuổi và thực
hiện trong thực tiễn trong suốt cuộc đời làm cách mạng và phụng sự Tổ quốc. Người
đã trở thành linh hồn của khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng rộng rãi và bền vững,
ngay cả lúc sắp ra đi, điều mà Người mong mỏi nhất cũng chính là vấn đề đoàn kết
“Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu,
xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và
góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
2. Đất nước sau hơn 40 năm thực hiện theo Di chúc của Người
Trong Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam
(nay là Đảng Cộng sản Việt Nam), tại lễ Truy điệu trọng thể Chủ tịch Hồ Chí Minh
ngày 9-9-1969, toàn Đảng, toàn quân và toàn thể dân tộc Việt Nam vĩnh biệt Người đã
nguyện thề:
“Giương cao mãi mãi ngọn cờ độc lập dân tộc, quyết chiến quyết thắng giặc
Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước để thỏa
lòng mong ước của Người.
Đem hết sức mình tiếp tục phấn đấu thực hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa cao đẹp mà Người đã vạch ra cho giai cấp công nhân và nhân
dân ta, đem lại phồn vinh cho đất nước, hạnh phúc cho đồng bào.
Hết lòng hết sức giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi
của mắt mình, tăng cường sức chiến đấu của Đảng, làm hạt nhân cho khối đoàn kết
toàn dân, bảo đảm cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp và dân tộc Việt Nam hoàn
toàn thắng lợi.
Luôn luôn phát huy tình cảm quốc tế trong sáng của Hồ Chủ tịch, hết lòng góp
sức vào việc khôi phục và tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong phe xã hội chủ nghĩa
và giữa các Đảng anh em trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế Vô
sản; thắt chặt tình đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc Đông Dương; ra sức ủng hộ
8
phong trào cách mạng của nhân dân các nước, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Suốt đời học tập đạo đức, tác phong của Người, bồi dưỡng phẩm chất cách
mạng, không sợ gian khổ, không sợ hy sinh, rèn luyện mình thành những chiến sỹ
trung thành với Đảng, với dân, xứng đáng là đồng chí, là học trò của Hồ Chủ tịch.
Noi gương Người, toàn thể nhân dân ta, thanh niên ta nguyện ra sức trau dồi mình
thành những con người mới, làm chủ đất nước, làm chủ xã hội mới, mang lá cờ bách
chiến bách thắng của Hồ Chủ tịch tới đích cuối cùng”.
Hơn bốn mươi năm qua, thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và lời
thề trước vong linh của Người, dân tộc ta, đất nước ta đã vượt qua muôn vàn hy sinh
gian khổ, khó khăn, thách thức, nhưng với tinh thần đoàn kết toàn dân tộc như Người
hằng vun đắp, các con cháu của Người đã tiếp tục phát huy truyền thống quý báu đó,
đã viết nên những trang sử vẻ vang, những thành tựu vĩ đại trong thời đại Hồ Chí
Minh.
Trong cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước, thực hiện Di chúc thiêng liêng của
Người, quân và dân cả nước đã biến đau thương thành sức mạnh, đẩy mạnh phong
trào thi đua “một người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, “kiên quyết vượt
mọi khó khăn, ra sức xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa (XHCN). Miền
Bắc vừa xây dựng và bảo vệ XHCN, đánh thắng chiến tranh phá hoại, làm nên chiến
thắng Điện Biên Phủ trên không, vừa làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn cho tiền tuyến
miền Nam “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, ra sức thi đua
lao động, tất cả cho tiền tuyến miền Nam, tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược. Ở
miền Nam, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lược
lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam đã vận động các tầng lớp nhân dân từ
các đô thị và vùng nông thôn, không phân biệt giai cấp, tín ngưỡng, tôn giáo, địa vị xã
hội…đoàn kết một lòng, đứng lên chống giặc Mỹ xâm lược và ngụy quyền tay sai.
Các phong trào đấu tranh ở trong nước và các phong trào phản đối chiến tranh của
9
người dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng miền
Nam thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam đã diễn ra mạnh mẽ và rộng khắp.
Qua đó đã phát huy được sức mạnh toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh của thời đại,
tạo nên một sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam, làm nên đại thắng mùa xuân
1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, giang sơn thu về một
mối, hoàn thành Di nguyện lớn lao nhất của Bác Hồ kính yêu.
Đất nước thống nhất, Đảng và Nhà nước tiếp tục lãnh đạo dân tộc Việt Nam
thực hiện xây dựng đất nước theo Di chúc của Người. Đảng và Nhà nước ta không
ngừng chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Nhờ thấm nhuần tư tưởng đoàn kết của Hồ Chủ tịch, qua đó bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; thực hiện công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước
thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, sự nghiệp CHN, HĐH được đẩy mạnh; kinh tế tăng
trưởng khá nhanh. Các lĩnh vực của đời sống xã hội đã có sự phát triển vượt bậc, đời
sống của nhân dân ngày càng được nâng cao rõ rệt. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc
phòng an ninh được giữ vững. Hoạt động đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế được
đẩy mạnh. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố và tăng
cường. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh
tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục
đi lên với triển vọng tốt đẹp. Những thành tựu trên là sự phát huy tinh thần đoàn kết
một lòng của cả dân tộc, tất cả vì Tổ quốc Việt Nam thân yêu, vì lý tưởng của Bác Hồ
vĩ đại.
Bước sang thời kỳ mới của đất nước, trước những diễn biến phức tạp trên thế
giới, trước xu thế toàn cầu hóa. Tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết toàn Đảng, toàn
quân và toàn dân là cơ sở chính để Đảng và Nhà nước ta tăng cường vận động các
tầng lớp nhân dân phát huy quyền làm chủ, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN. Tăng cường đoàn kết, hữu nghị và hợp tác với nhân dân các
10
nước trên thế giới; góp phần đấu tranh, đập tan những âm mưu của các thế lực thù
địch, hòng phá hoại thành quả cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc của
nhân dân ta, góp phần vào sự ổn định, hòa bình trong khu vực và trên thế giới. Qua
việc phát huy sự đồng thuận xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc theo
tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước đã lãnh đạo đất nước tranh thủ thời cơ,
vượt qua bao khó khăn thách thức, đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhất là những
thành tựu về kinh tế - xã hội của công cuộc đổi mới đất nước hơn 25 năm qua.
Thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và
sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc qua 40 năm
thực hiện theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn
kết và đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức, đã là đường lối chiến lược của cách cách mạng Việt
Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo
đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Càng khẳng định
đoàn kết và khối đại đoàn kết toàn dân tộc “là sức mạnh, là then chốt của mọi thành
công” của cách mạng Việt Nam; đây là thực tiễn để kiểm chứng cho chân lý mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành
công, đại thành công”.
Kỷ niệm 67 năm Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2/9 và hơn 40 năm thực
hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả nước ta đã và đang đẩy mạnh “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, phát huy truyền thống đoàn kết và đại
đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, để thực hiện
thành công sự nghiệp cách mạng đi lên CNXH mà Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong
ước.
11
II. Biện pháp củng cố, tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng và vận
dụng vào giáo dục tinh thần đoàn kết cho thanh niên, sinh viên trong các nhà
trường Quân đội hiện nay theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
1. Biện pháp củng cố, tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng
Để không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng, nhất
là ở các tổ chức cơ sở đảng hiện nay, theo chúng tôi cần chú ý một số biện pháp
chủ yếu như sau:
Một là, Đảng đề ra đường lối chính trị đúng đắn làm cơ sở để xây dựng
đoàn kết thống nhất trong Đảng. Theo Hồ Chí Minh đường lối chính trị và đoàn
kết thống nhất trong Đảng có quan hệ mật thiết với nhau. Đường lối chính trị
đúng đắn là cơ sở tạo nên sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Thực tiễn phong
trào cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
chứng minh điều đó. Đường lối đúng đắn là sự kiên định lí tưởng cách mạng
“độc lâp dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”, vì mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Hai là, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Sự đoàn kết
thống nhất trong Đảng trước hết bắt nguồn từ sự hiểu biết và giác ngộ chính trị
của mỗi đảng viên. Vì vậy, công tác tuyên truyền trong Đảng có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng để nâng cao trình độ nhận thức cho mỗi đảng viên, có như vậy mới
tạo sự đoàn kết thống nhất cao. Thông qua tuyên truyền của Đảng làm cho làm
cho toàn Đảng, cũng như mỗi cán bộ, đảng viên thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ
Chí Minh về đoàn kết nhất trí trong Đảng và tầm quan trọng của việc giữ gìn
đoàn kết nhất trí trong Đảng; làm cho đảng viên hiểu đầy đủ, đúng đắn đường
lối để từ đó biết lãnh đạo, tổ chức quần chúng tiến hành thực hiện thắng lợi
đường lối của Đảng.
Ba là, Thực hiện tốt chế độ tự phê bình và phê bình, kiên quyết đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân. Tự phê bình và phê bình không những là vũ khí sắc
bén mà còn là động lực bên trong giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên phát huy ưu
12
điểm, khắc phục khuyết điểm. Tự phê bình và phê bình phải khách quan, công
khai, trung thực, chân thành. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Một Đảng mà giấu giếm
khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết
điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn
cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm. Như thế
là một Đảng tiến bộ,…, chân chính”. Do đó, tự phê bình và phê bình cần tiến
hành thường xuyên như “rửa mặt hàng ngày” và cần tiến hành từ trên xuống, từ
dưới lên. “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt
để…đoàn kết và thống nhất nội bộ”. Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê bình là
“cách tốt nhất”, hữu hiệu nhất để phát huy ưu điển, sữa chữa sai lầm, khuyết
điểm, nâng cao đạo đức cách mạng. Người cũng đặc biệt lưu ý rằng nâng cao
đạo đức cách mạng phải đồng thời với kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, coi
như hai mặt của một quá trình tu dưỡng, phấn đấu của người đảng viên cộng
sản.
Bốn là, Tăng cường mở rộng dân chủ trong Đảng, đề cao tính tổ chức,
tính kỷ luật, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Đoàn kết nhất trí
trong Đảng không phải sự đoàn kết suôi chiều, trái lại đoàn kết được xây dựng
trên cơ sở đấu tranh để đi đến thống nhất về tư tưởng, hành động. Vì vậy nhất
thiết phải mở rộng dân chủ. Mở rộng dân chủ đi đôi với đề cao kỷ luật, kỷ cương
của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Để làm cho Đảng mạnh, thì phải mở
rộng dân chủ, thực hành lãnh đạo tập trung, nâng cao tính tổ chức kỷ luật”. Dân
chủ trong Đảng là phải làm cho tất cả đảng viên tự do biểu đạt tư tưởng, nhu
cầu, đóng góp ý kiến của mình cho Đảng với ý thức trách nhiệm cao. Các cấp ủy
Đảng phải bảo đảm thực hành dân chủ từ cơ sở. Mặt khác, cần thực hiện tốt
nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách nhằm tạo cơ sở đảm bảo sự đoàn
kết thống nhất trong Đảng.
Năm là, Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, phát hiện sớm
và kiên quyết giải quyết dứt điểm mọi hiện tượng gây mất đoàn kết trong nội bộ
13
Đảng.
Công tác kiểm tra có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tăng cường khối đoàn
kết thống nhất trong Đảng. Công tác kiểm tra giúp cho các cấp ủy kịp thời phát
hiện và ngăn chặn nguyên nhân, hiện tượng mất đoàn kết. Đồng thời biểu dương
kịp thời và có biện pháp cụ thể, thiết thực giúp cho các tổ chức đảng, cán bộ,
đảng viên chấp hành nghiêm kỷ luật của Đảng, giáo dục cán bộ, đảng viên
không ngừng chăm lo vun đắp cho khối đoàn kết thống nhất trong Đảng. Hồ Chí
Minh viết: “Muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách là khéo
kiểm soát. Kiểm soát khéo bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa, kiểm soát
khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt”.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, một mặt phải tăng
cường sự lãnh đạo chỉ đạo của cấp ủy các cấp, đề cao trách nhiệm của các cơ
quan chức năng, tích cực đổi mới nội dung, phương pháp, cách thức tiến hành,
đồng thời cần có cơ chế, qui chế cụ thể để bảo vệ và phát huy vai trò giám sát
của quần chúng, nhân dân đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng.
Sáu là, lựa chọn, bố trí đúng người đứng đầu tổ chức đảng và cơ quan
chính quyền cùng cấp, bảo đảm hạt nhân trung tâm đoàn kết. Thực tiễn cho thấy
ở cơ sỏ nào cán bộ chủ trì có đủ phẩm chất, năng lực, luôn nêu cao tinh thần
trách nhiệm, thật sự tiên phong gương mẫu; xử lý hài hòa các lợi ích, biết đặt lợi
ích của Đảng, của nhân dân, của tập thể lên trên hết, thì ở đó nội bộ đoàn kết
thống nhất, năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng, hiệu lực quản lý điều hành của
chính quyền không ngừng được giữ vững và nâng lên. Ngược lại thì đoàn kết
trong tổ chức đảng bị rạn nứt, vai trò, uy tín của Đảng bị suy giảm.
Bảy là, đẩy mạnh cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”. Chủ tịch Hồ Chí Minh là mẫu mực tuyệt vời về tinh thần
đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc, là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách
mạng, là hiện thân của sự đoàn kết nhất trí trong Đảng ta. Tăng cường đoàn kết
nhất trí trong Đảng phải luôn dựa trên cơ sở tư tưởng của Hồ Chí Minh về đoàn
14
kết. Vì vậy, cần đẩy mạnh việc tuyên truyền về tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, làm cơ sở tạo ra phong trào hành động cách mạng làm theo tấm gương
của Người.
2. Vận dụng vào giáo dục tinh thần đoàn kết cho thanh niên, sinh viên
trong các nhà trường Quân đội hiện nay theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mối quan tâm thứ hai, sau khi Bác
nói về Đảng, đó là vấn đề Đoàn viên và Thanh niên, Người Di nguyện rằng: “Đoàn
viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại
khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ,
đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa
“chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất
cần thiết”.
Sinh thời, Hồ Chí Minh thường nói “Bác rất yêu quý thanh niên”, và Người
thường giải thích “Thanh niên tượng trưng cho sức sống của cuộc đời, cái đẹp của đất
nước và tinh thần của dân tộc. Một năm khởi đầu bằng mùa xuân, một đời người khởi
đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”. Vì thế lòng yêu nước, tình cảm
thương dân của Người gắn liền với sức sống của nhân dân là thanh niên. “Thanh niên
là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già…xung phong trong công cuộc
phát triển kinh tế và văn hóa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên là
lực lượng cơ bản trong bộ đội, công an, dân quân tự vệ…Trong mọi công việc, thanh
niên thi đua thực hiện khẩu hiệu: Đâu cần, thanh niên có, việc gì khó, thanh niên làm”.
Sinh viên là một bộ phận ưu tú trong tầng lớp thanh niên. Được học tập và rèn
luyện để trở thành những trí thức tương lai, họ có khả năng tiếp thu những thành tựu
mới của khoa học - công nghệ tiên tiến, có thể đưa nước ta “đi tắt”, “đón đầu” để hội
nhập khu vực và quốc tế.
Trong toàn bộ sự nghiệp giáo dục nói chung, thì việc giáo dục đạo đức cho
sinh viên có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó là cơ sở nền tảng hình thành con người
15
mới vừa hồng, vừa chuyên. Với vị trí của nó, mà giáo dục phải là sự nghiệp của toàn
Đảng, toàn dân, trong đó vai trò của nhà trường nói chung và trường đại học nói riêng
là hết sức quan trọng. Để hoàn thành nhiệm vụ cao cả đó, đòi hỏi phải có sự kết hợp
chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
Ngày nay, mặt trái của nền kinh tế thị trường đang nuôi dưỡng chủ nghĩa cá
nhân và lối sống thực dụng, lấy đồng tiền làm giá trị cao nhất những mặt trái của cơ
chế thị trường đó đang gặm nhấm những giá trị tốt đẹp của dân tộc, làm khô héo lòng
nhân ái trong con người. Bên cạnh những chuẩn mực đạo đức cũ của dân tộc vẫn còn
nguyên giá trị, có sự pha tạp của văn hóa ngoại lai, có những cái phản giá trị đạo đức
truyền thống, đã dẫn đến sự lựa chọn sai lầm các giá trị đạo đức của một bộ phận sinh
viên.
Một điều đáng nói, trong chương trình giảng dạy ở các nhà trường Quân đội,
các môn khoa học Lý luận chính trị là những môn trang bị thế giới quan, nhân sinh
quan, xây dựng niềm tin, lý tưởng cho sinh viên. Vậy mà vẫn còn một bộ phận không
nhỏ sinh viên có ý thức học tập mang tính đối phó, thụ động. Chính vì vậy, trước
những biến động phức tạp của thế giới, trước những khó khăn phức tạp của cuộc sống,
nhiều sinh viên không đủ bản lĩnh để giữ vững phẩm chất chính trị của mình, có
những trường hợp bị tha hóa bởi những hiện tượng tiêu cực của xã hội. Đây chính là
mảnh đất để các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo, mua chuộc và thực hiện “diễn biến
hòa bình” đối với sinh viên.
Trước thực trạng suy thoái đạo đức của một bộ phận sinh viên và thanh niên
hiện nay, việc giáo dục đạo đức cho sinh viên, làm cho họ có đủ đức tài, mà trong đó
đức là gốc, đáp ứng nhu cầu của thực tiễn xây dựng đất nước là một trong những vấn
đề cấp bách, đảm bảo cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta khỏi nguy
cơ tụt hậu và chệch hướng.
* Từ việc nghiên cứu tư tưởng về đoàn kết trong “Di chúc” của Hồ Chí Minh,
có thể rút ra một số vấn đề cần nhấn mạnh trong việc giảng dạy hiện nay:
16
Từ thực tiễn này, việc giảng dạy tư tưởng đoàn kết Hồ Chí Minh cần phải giúp
cho sinh viên hiểu và thể hiện bằng những hành động cụ thể như sau:
- Giúp cho sinh viên thực sự thấy được tầm quan trọng của việc xây dựng khối
đoàn kết trong lớp, trong khoa và trong trường.
- Cần có quan niệm đúng đắn về đoàn kết. Đoàn kết luôn đi liền với đấu tranh,
biết tự phê bình và phê bình nhau để tăng cường đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến
bộ trong học tập và cuộc sống.
- Đoàn kết là phải biết yêu thương giúp đỡ nhau, phải luôn dũng cảm bảo vệ
nhau trước những hành động của kẻ xấu, kẻ ác. Biết phát huy tinh thần của tập thể
trong mọi hoạt động của lớp, của khoa và của Trường.
- Muốn đoàn kết chặt chẽ thì cần tôn trọng những quan điểm riêng của từng
người, biết gác lại những bất đồng, phát huy tương đồng và luôn biết hy sinh cái tôi cá
nhân mà vì tập thể với tinh thần “mình vì mọi người”.
* Những định hướng về giáo dục đạo đức cho sinh viên Quân đội hiện nay
Trước hết, cần thấy thực trạng của đoàn kết trong học sinh, sinh viên hiện nay:
thực tế cho thấy, đa số sinh viên đều có quan điểm đúng đắn về vấn đề đoàn kết và
biết đoàn kết giúp đỡ nhau trong học tập và cuộc sống. Tuy nhiên, hiện nay có hai hiện
tượng đang xảy ra:
Thứ nhất, một bộ phận sinh viên chưa có quan điểm đúng đắn về đoàn kết như:
đoàn kết một chiều, không gắn với đấu tranh thể hiện ở việc che giấu hay không phê
phán cái xấu, cái thiếu văn minh của nhau, thi hộ, làm bài tập hộ, học hộ
Thứ hai, một bộ phận khác thiếu tinh thần đoàn kết để kẻ xấu lấy đồ của bạn bè,
đánh bạn mà không có phản ứng gì, thậm chí ngay trong phạm vi lớp học cũng mâu
thuẫn, cãi vã, đánh lộn nhau…
Lồng ghép trong quá trình giảng dạy và liên hệ thực tiễn cho sinh viên nhận
thức được rằng: Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình
17
đổi mới hiện nay ở nước ta, đó cũng chính là nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH) là những yếu
tố “bất biến” trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Do đó phải kiên định xây
dựng tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, lòng yêu nước, yêu CNXH cho sinh viên. Qua
đó làm cho sinh viên ý thức được rằng, họ chính là lực lượng chính cho sự nghiệp
cách mạng của nước nhà, là tương lai của đất nước. Cơ chế thị trường là phương tiện
để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.
Kế thừa và phát huy những giá trị, chuẩn mực đạo đức truyền thống, đạo đức
cách mạng. Trong đó giá trị đạo đức truyền thống là yêu nước, tinh thần đoàn kết là
những giá trị cao nhất, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam. Ngày nay
yêu nước là yêu CNXH, yêu nhân dân. Trong cơ chế thị trường, khi mà các quan hệ
xã hội của con người đang có nguy cơ bị đồng tiền làm tha hóa, thì việc xây dựng lòng
yêu nước, yêu CNXH là một việc làm cấp bách và thiết thực, soi sáng cho sinh viên
định hướng những giá trị nhân cách, phẩm giá, giúp cho họ ngăn ngừa những sai lệch
về chuẩn mực đạo đức do mặt trái của cơ chế thị trường mang lại. Ngày nay, trong nền
kinh tế thị trường, lòng yêu nước thể hiện qua sự năng động, sáng tạo, biết làm giàu
chính đáng, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, phải xuất phát từ lợi ích của
đất nước để định hướng hoạt động của bản thân mình, không vì lợi ích riêng tư mà
xâm hại đến lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc. Yêu nước là trung thành với Tổ quốc,
trong bối cảnh quốc tế hóa, toàn cầu hóa, thì trung với nước lại càng quan trọng, vì
thiếu nó thì nhân tài sẽ không đứng vững nổi trước sự cám dỗ, mua chuộc của bên
ngoài và khi đó, tài càng cao thì họa càng lớn.
Giáo dục cho sinh viên thấm nhuần về thế giới quan và nhân sinh quan của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng
tư tưởng, thành niềm tin chân lý trong thế hệ trẻ. Xây dựng bản lĩnh chính trị cho sinh
18
viên là để họ có bản lĩnh chính trị vững vàng trước những diễn biến phức tạp của đời
sống, làm chủ tương lai, làm chủ sự nghiệp của mình.
Giáo dục cho sinh viên luôn có ý thức tự lực, tự cường, chủ động trong học tập
và trong nghiên cứu khoa học. Học tập để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, không
ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn
cách mạng mới. Không chấp nhận sự nghèo đói, không làm giàu bất chính, không tiêu
cực, gian lận trong thi cử; chống chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, hẹp hòi. Khơi dậy lòng
nhân ái truyền thống trong sinh viên, vì lòng thương người là đạo lý của cuộc sống, là
đạo lý làm người, “Thương nguời như thể thương thân” là nét đẹp truyền thống của
dân tộc, và ngày nay đó chính là tình thương giai cấp đối với giai cấp công nhân, tình
thương yêu vô cùng rộng lớn đối với nhân lao động, đối với người cùng khổ.
Ngày nay, thanh niên, sinh viên nói chung, sinh viên Quân đội nói riêng, họ đều
là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, nguồn lực quan trọng
trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Thanh niên là những người chủ, là lực lượng
xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành
công hay không, đất nước bước vào thế kỷ 21 có xứng tầm với cộng đồng thế giới hay
không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường XHCN hay không, phần
lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh
niên. Do đó, Đảng và Nhà nước ta coi giáo dục là quốc sách hàng đầu để đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài, trong giáo dục và đào tạo phải đặc biệt quan tâm đến thanh
niên, đó chính là việc thực hiện theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996.
2. Toàn văn Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh – NXB. Trẻ, 4/2009
3. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh – NXB. CTQG, Hà Nội 2003
4. Báo Nhân Dân, các số ra ngày 20/8 và 01/9 năm 2009
5. Báo Khánh Hòa, các số ra ngày 21,27,31 tháng 8 và 3/9 năm 2009
6. Tư tưởng Đạo đức Hồ Chí Minh – TS. Hoàng Trung – NXB. Đại học quốc gia
Tp.Hồ Chí Minh 2005
20