Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tieu luan đấu TRANH dân tộc ở các nước ĐANG PHÁT TRIỂN ý NGHĨA của nó TRONG QUÁ TRÌNH đấu TRANH GIỮ VỮNG độc lập dân tộc và CHỦ NGHĨA xã hội ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.29 KB, 27 trang )

ĐẤU TRANH DÂN TỘC Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN, Ý NGHĨA
CỦA NÓ TRONG QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH GIỮ VỮNG ĐỘC LẬP
DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
Thời đại hiện nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội, mở đầu bằng thắng lợi của cuộc cách mạng tháng mười Nga năm 1917. Đây
không chỉ là một luận điểm mà là một thực tế đã được lịch sử nhân loại kiểm
nghiệm. Hiện nay bên cạnh sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội,
còn xuất hiện hai sự quá độ chuyển tiếp; một là sự quá độ chuyển tiếp kinh tế thế
giới từ giai đoạn quốc tế hoá sang giai đoạn toàn cầu hoá; hai là sự chuyển tiếp
của hệ thống quan hệ quốc tế từ thế giới hai cực sang trật tự thế giới mới đang
hình thành. Trong thời kỳ chuyển tiếp đó, bao giờ cũng có những lực lượng đấu
tranh cho triển vọng phát triển của thế giới, hình thành nên những xu thế, và lực
lượng khác nhau trong đấu tranh giải quyết mâu thuẫn của thời đại. Mặt khác,
cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại và quá trình toàn cầu hoá đang
diễn ra mạnh mẽ cuốn hút tất cả các nước đang phát triển vào vòng xoáy của nó.
Các nước phát triển, các thế lực đế quốc chủ nghĩa đang triệt để lợi dụng toàn
cầu hoá kinh tế để bành trướng các quan hệ tư bản, tạo ảnh hưởng trên toàn thế
giới, thiết lập vĩnh viễn hệ thống phân công lao động và hệ thống quan hệ quốc
tế do các nước tư bản phát triển chi phối. Chủ nghĩa tư bản đang nắm trong tay
các phương tiện về kinh tế, quân sự, khoa học công nghệ hiện đại, mạng lưới
thông tin, chất xám, các cơ chế quốc tế… sẵn sàng dùng sức mạnh, kể cả sức
mạnh quân sự, để thực hiện lợi ích của chúng. Các nước đang phát triển và chậm
1
phát triển nổ lực tranh thủ quá trình toàn cầu hoá để thực hiện phát triển rút
ngắn, và phấn đấu cho một trật tự thế giới dân chủ, bình đẳng, không bị lệ thuộc
bởi sự nô dịch của chủ nghĩa tư bản. Vấn đề cơ bản đặt ra cho các quốc gia đang
phát triển hiện nay là, tạo môi trường hoà bình, độc lập dân tộc và toàn vẹn chủ
quyền quốc gia, duy trì sự ổn định khu vực và thế giới để phát triển. Đấu tranh
dân tộc ở các nước đang phát triển hiện nay không chỉ diễn ra gay go phức tạp,
mà nó còn biểu hiện bằng những nội dung, hình thức mới, với tính chất mới và


trong điều kiện mới. Đảng ta nhận định: “Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế
khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này đang bị một số
nước phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều
mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu
tranh. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và
mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển. đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai
cấp tiếp tục diễn ra gay gắt … các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường cuộc
đấu tranh để lựa chọn và quyết định con đường phát triển của mình”
1
. Vì vậy
nghiên cứu vấn đề đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp trong thời đại hiện nay
có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên nghiên cứu vấn đề này
có phạm vi rất rộng. Do vậy nội dung bài tiểu luận tập trung phân tích làm rõ nội
dung đấu tranh dân tộc ở các nước đang phát triển trong giai đoạn hiện nay, trên
cơ sở đó rút ra ý nghĩa trong quá trình đấu tranh giữ vững độc lập dân tộc, và chủ
nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
NỘI DUNG
1. Tình hình thế giới những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI và
cuộc đấu tranh dân tộc ở các nước đang phát triển hiện nay.
1
ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr 64 – 65.
2
1.1. Tình hình thế giới những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI.
Lịch sử phát triển của xã hội loại người là một quá trình lịch sử phát triển
tự nhiên, liên tục và có sự kế thừa. Tuy nhiên không phải lúc nào lịch sử ấy cũng
phát triển tuần tự, tự nhiên mà có những lúc quanh co, phức tạp, đột biến với
những nhịp độ đa dạng. Bước sang thế kỷ XXI, loài người đã chứng kiến một thế
giới đầy biến động, với những nét hết sức đặc trưng, bởi do nhiều yếu tố kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường tự nhiên đã tích luỹ từ thế kỷ trước để lại.
Đặc biệt những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, loài người bị cuốn hút vào

xu hướng toàn cầu hoá hết sức mạnh mẽ, dẫn đến tình hình thế giới trở nên biến
động phức tạp, nổi lên là một số đặc điểm cơ bản sau:
Một là, sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực diễn ra ở cuối thế kỷ
XX đã đi vào thoái trào, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, tạo điều
kiện cho chủ nghĩa tư bản tạm thời thắng thế. Đại hội XI khẳng định: “Chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Ðông Âu sụp đổ là tổn thất lớn đối với phong trào
cách mạng thế giới, nhưng một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong
đó có Việt Nam, vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới,
giành được những thành tựu to lớn, tiếp tục phát triển; phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế có những bước hồi phục. Tuy nhiên, các nước theo con đường
xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và cánh tả còn gặp nhiều khó khăn, các
thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm cách xóa bỏ chủ nghĩa xã hội”
2
.Cuộc đấu
tranh dân tộc, giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn
thế giới, ngày càng gay go phức tạp với những nội dung, hình thức và phương pháp
mới. Các học giả tư sản cho rằng, chủ nghĩa xã hội đã hoàn toàn thất bại, và chủ
nghĩa tư bản hiện đại đã hoàn toàn thắng thế, nhưng thực chất các nước xã hội chủ
2
ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr 68.
3
nghĩa còn lại trong quá trình cải cách đổi mới, đã nhận thức và tìm ra con đường
đúng đắn, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội một cách thuyết phục cả về lý luận và
thực tiễn. Trong khi đó, chủ nghĩa tư bản đang tự điều chỉnh thích nghi để phát triển
trong “miền có thể” của nó, thì nó cũng đã bộc lộ những khuyết tật, những bế tắc,
mâu thuẫn nội tại không thể điều hoà được, bản chất hiếu chiến, phản động ngày
càng bộc lộ, làm cho nhân loại nhìn nhận đánh giá hoài nghi về khả năng thích nghi
của nó. Mặt khác, dưới tác động tiêu cực của toàn cầu hoá, xã hội loài người ngày
càng phân hoá sâu sắc, một bộ phận giàu lên, sống vương giả về mọi mặt, còn đại
đa số nhân dân lao động vẫn tiếp tục sống cùng quẫn, đói nghèo, bệnh tật, chết chóc

do chiến tranh và do sự bóc lột tàn nhẫn của giai cấp tu sản. Tất cả những điều đó
dẫn đến cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp để xoá bỏ áp bức bóc lột, bất
công diễn ra ngày càng gay go, phức tạp mang tính quy luật.
Hai là, xu hướng toàn cầu hoá đã cuốn hút các quốc gia, dân tộc vào nhịp
sống chung của toàn thế giới. Toàn cầu hoá là xu hướng khách quan, mang tính
quy luật của quá trình phát triển xã hội loài người. Toàn cầu hoá đã tạo ra những
mặt tích cực, làm thức tỉnh các quốc gia dân tộc về sự phát triển, hội nhập của
mình đối với thế giới hiện đại. Họ tự thấy mình phải làm gì để tồn tại trong một
thế giới hội nhập với sức cạnh tranh và những thách thức vô cùng quyết liệt.
Đồng thời toàn cầu hoá cũng đã tạo cơ hội cho các nước tiếp tục kinh nghiệm
của nhau để tìm ra cách thức hội nhập như thế nào để tồn tại và phát triển. Song
toàn cầu hoá cũng làm nảy sinh những tiêu cực, buộc các quốc gia dân tộc phải
tự vươn lên để khẳng định mình. Thực chất của toàn cầu hoá là một sân chơi
chung buộc các thành viên tham gia tự bộc lộ mình, nước giàu, có phương thức
hội nhập đúng đắn càng có lợi, ngược lại, nước yếu càng gặp nhiều khó khăn,
thách thức thường bị thu thiệt. Các nước phát triển nắm lợi thế về vốn. Khoa học
4
- công nghệ, thị trường, trình độ năng lực quản lý và khả năng tiếp cận thị trường
tốt, đang chi phối nền kinh tế thế giới, buộc các nước đang phát triển phải chịu
sức ép, lệ thuộc. Vì vậy đấu tranh của các dân tộc đang phát triển chống áp bức,
gò ép, lệ thuộc cũng là một vấn đề đấu tranh dân tộc nan giải.
Ba là, Mỹ và đồng minh phương tây cũng như các nước lớn đang muốn
giành quyền chỉ đạo, chi phối mọi công việc của thế giới. Với bản chất và những
lợi thế tạm thời, các nước lớn đặc biệt là Mỹ và đồng minh phương tây muốn
thâu tóm và điều khiển toàn bộ thế giới theo sự chỉ đạo của Mỹ, tham vọng thiết
lập trật tự thế giới một cực do Mỹ đứng đầu. Tham vọng bá quyền này không
phải bây giờ mới nảy sinh mà Mỹ đã theo đuổi từ lâu. Sau khi chủ nghĩa xã hội
lâm vào thoái trào, Mỹ cho rằng đây là cơ hội tốt nhất để Mỹ thực hiện ý đồ đó.
Vì thế Mỹ không từ bỏ bất cứ âm mưu, thủ đoạn nào để can dự vào tất cả các
lĩnh vực của các quốc gia dân tộc và toàn thế giới.

Bốn là, Khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, kinh tế trí thức ra đời,
thúc đẩy sự tiến bộ nhanh chống của xã hội loài người. Đại hội Xi chỉ rõ: “Cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hóa diễn
ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước. Các mâu thuẫn
cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn
tồn tại và phát triển”
3
.Cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, loài người đã đạt được
những thành tựu khoa học - công nghệ phát triển chưa từng thấy. Những thành
tựu mới về khoa học - công nghệ trên tất cả các lĩnh vực thông tin, điện tử, tin
học, sinh học, vật liệu … đã và đang phục vụ nâng cao đời sống con người. Nhờ
những phát minh khoa học - công nghệ, con người ngày càng làm chủ cuộc sống,
làm chủ xã hội. Khoa học - công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, góp
3
ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr 67.
5
phần thúc đẩy tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia dân tộc.
Song đồng thời khoa học - công nghệ cũng đặt con người, mỗi quốc gia dân tộc
trước những đòi hỏi mới, phải không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt, tiếp thu
khoa học - công nghệ hiện đại nhanh, có hiệu quả mà không bị xâm phạm đến
lợi ích và chủ quyền quốc gia dân tộc, không bịu áp đặt, lệ thuộc. Vấn đề hội
nhập quốc tế, tiếp thu khoa học - công nghệ hiện đại, cũng là một đặc điểm chi
phối đến cuộc đấu tranh dân tộc của các nước đang phát triển hiện nay.
Năm là, sự bùng nổ thông tin, làm tăng nhanh tính hiểu biết và phạm
vi quan tâm của con người. Thời đại hiện nay, do các yếu tố thông tin cập
nhật hàng ngày, con người được tiếp nhận thông tin nhiều kênh, nhiều lĩnh
vực, nên khả năng hiểu biết của con người ngày càng nhanh nhạy, nhờ vậy
con người trở nên năng động, sáng tạo và chủ động hoạt bát hơn nhiều so với
trước đây. Thông tin đã thúc đẩy các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội, khoa học – công nghệ, quốc phòng an ninh, đối ngoại của các quốc gia

dân tộc, làm nhanh quá trình toàn cầu hoá và các xu hướng phát triển của xã
hội. Đồng thời nó cũng đặt ra cho con người phải chủ động vươn lên tiếp
nhận, xử lý thông tin một cách khôn khéo, vì lợi ích và sự phát triển của
quốc gia dân tộc mình, cũng như toàn nhân loại. Muốn vậy con người phải
có trình độ học vấn để tiếp thu những thành tựu của thời đại.
Sáu là, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo diễn ra ở nhiều nơi ngày càng
gay gắt. Đại Hội XI khẳng định: “Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và
phát triển là xu thế lớn; nhưng đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh
cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt
động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và
cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp. Khu vực châu Á
6
- Thái Bình Dương và Ðông Nam Á phát triển năng động, nhưng cũng tiềm ẩn
những nhân tố mất ổn định. Tình hình đó tạo thời cơ phát triển, đồng thời đặt ra
những thách thức gay gắt, nhất là đối với những nước đang và kém phát triển”
4
.
Quá trình toàn cầu hoá, bên cạnh việc tăng thêm quan hệ hợp tác, sự hiểu bết
giữa các quốc gia, dân tộc, đã nảy sinh làm thức tỉnh về lợi ích, quyền lợi của các
quốc gia, cộng thêm với sự phát triển của chủ nghĩa bá quyền, mưu toan làm bá
chủ thế giới của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ đã đẩy xung đột
trong xã hội loài người hiện nay diễn ra dưới những màu sắc dân tộc, sắc tộc, tôn
giáo với những quy mô, phạm vi, mức độ căng thẳng, quyết liệt khác nhau. Xu
hướng các cuộc xung đột này khi ngấm ngầm, khi bùng phát mà ảnh hưởng của
nó không chỉ tác động với những nước trực tiếp tham gia mà còn ảnh hưởng theo
kiểu dây chuyền tới nhiều nước có liên quan, buộc cả thế giới phải quan tâm.
Ảnh hưởng của các cuộc xung đột này rất lớn, làm nảy sinh nhiều tình huống
phức tạp mới của xã hội loại người, như chạy đua vũ trang, sản xuất vũ khí giết
người hàng loạt, cấm vận, chiến trang, khủng bố Việc giải quyết các cuộc
xung đột này không đơn giản, liên quan đến nhiều quốc gia, nhiều lĩnh vực,

không một ai có thể áp đặt một cách chủ quan. Vấn đề đặt ra là, con người phải
biết tôn trọng những quy luật chung để cùng tồn tại, tôn trọng quyền và lợi ích
chính đáng của mọi người, mọi quốc gia dân tộc, tìm đến một tiếng nói chung để
có biện pháp thích hợp. Đảng ta nhận định: “những cuộc chiến tranh cục bộ,
xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can
thiệp, lật đổ, ly khai, hoạt động khủng bố, những tranh chấp về biên giới, lãnh
thổ, biển đảo và các tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính
chất ngày càng phức tạp”
5
4
ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr 67.
5
ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Nxb CTQG, H. 2006, tr. 73.
7
Bảy là, khủng bố và chống khủng bố trở thành mối quan tâm của cả thế
giới. Sau sự kiện 11/9/2001, hoạt động khủng bố diễn ra dưới nhiều hình thức
khác nhau trên phạm vi toàn thế giới, tạo nên tình trạng mất ổn định, khó phòng
ngừa, khó ngăn chặn và đối phó. Khủng bố có thể gắn với xu hướng ngày càng
hoạt động gia tăng mang tính quốc tế của các tổ chức tội phạm, chúng sát nhập,
liên kết thành liên minh tội phạm xuyên quốc gia, hoạt động ngày càng tinh vi,
hiện đại và nguy hiểm. Khủng bố và tội phạm là 2 lĩnh vực khác nhau, có liên
quan với nhau và đang có xu hướng phát triển, là mối đe doạ trên phạm vi toàn
thế giới. Vì thế chống khủng bố và chống tội phạm cũng là xu thế mới đặt ra với
nhiều nước trên thế giới hiện nay. Đại Hội XI của Đảng khẳng định: “Nhân dân
thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận
mệnh loài người. Ðó là giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống
khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, hạn chế
sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo
Việc giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi sự hợp tác và tinh thần trách nhiệm cao
của tất cả các quốc gia, dân tộc”

6
.
Tám là, sự cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, thảm hoạ thiên tai.
Quá trình phát triển của xã hội hiện đại, con người càng ra sức bóc lột, khai thác
tài nguyên ồ ạt dẫn đến nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt. Ngay cả những tài
nguyên vô tận như nước ngọt, không khí cũng trở thành quý hiếm. Một mặt, dân
số càng đông hơn, nhu cầu khai thác lớn; mặt khác, các tài nguyên ấy không hề
sản sinh thêm mà cạn dần đi làm cho môi trường, sinh thái thay đổi, ô nhiễm
nặng, thiên tai dữ dội dẫn đến con người phải hứng chịu thảm hoạ núi lửa, cháy
rừng, lũ lụt, động đất, mưa bão
6
ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr 69.
8
Chín là, cạnh tranh kinh tế, phân hoá giàu nghèo. Toàn cầu hoá dẫn đến
một thị trường kinh tế chung trên phạm vi toàn thế giới. Trên thị trường chung
ấy, các chủ thể kinh tế cạnh tranh nhau một cách quyết liệt theo quy luật khách
quan về các mặt cung cầu, giá cả, giá trị, lợi nhuận. Cuộc cạnh tranh ấy ngày
càng quyết liệt và trở thành “chiến tranh” với nhiều thủ đoạn, “vũ khí” rất khác
nhau, tấn công “huỷ diệt” lẫn nhau vì những lợi nhuận khổng lồ mà không có
điểm dừng. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến quá trình phân hoá giàu
nghèo giữa các quốc gia, dân tộc, cá nhân, và cộng đồng xã hội. Mặt tích cực của
cạnh tranh kinh tế làm cho nền kinh tế phát triển, chất lượng cao, đa dạng hoá
sản phẩm, chi phí sản xuất thấp, phục vụ tốt hơn cho các nhu cầu tiêu dùng của
con người; mặt tiêu cực là loại trừ lẫn nhau, những nền kinh tế yếu kém khó có
cơ hội tồn tại và phát triển. Nguy hiểm hơn là từ cạnh tranh kinh tế có thể dẫn
đến làm bùng nổ những xung đột về chính trị, văn hoá, xã hội, điều đó sẻ làm
cho tình hình thế giới ngày càng trở nên phức tạp.
Mười là, con người phải đối mặt với những bệnh tật và đại dịch thế kỷ.
Cuộc sống xã hội của con người bao giờ cũng có hai mặt của nó. Cùng với
những tiến bộ về kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ, con người văn minh

tiến bộ vẫn phải đối mặt với những mặt trái của nó, đó là vấn đề về bệnh tật, ô
nhiểm môi trường do chính sự phát triển của xã hội tạo ra. Đặc biệt là đại dịch
thế giới HIVAISD, H5N1, và biết đâu còn có những đại dịch khác nguy hiểm
gấp nhiều lần sẽ phát sinh. Như vậy, cùng với vấn đề chiến tranh, thiên tai, môi
trường … thì bệnh tật là một trong những mối đe doạ cuộc sống con người trên
quy mô toàn thế giới, điều đó không thể giải quyết riêng rẽ ở từng quốc gia, dân
tộc, mà đòi hỏi phải có tiếng nối chung của toàn nhân loại mới giải quyết được.
9
Trên đây là 10 đặc điểm mang tính khái quát tình hình thế giới cuối thế kỷ
XX đầu thế kỷ XXI. Tuy nhiên, đối với từng quốc gia dân tộc còn có nhiều đặc
điểm với nhiều hình thức biểu hiện khác nhau, quan hệ tác động lẫn nhau, tạo
nên một bối cảnh thế giới vừa phong phú vừa đa dạng, phức tạp, chứa đựng
nhiều yếu tố khó lường. Trong đó, đặc điểm nổi bật của thế giới hiện nay là xu
hướng toàn cầu hoá đang lôi cuốn tất cả các quốc gia, dân tộc cùng tham gia ở
các mức độ khác nhau.
Trước hết, phải khẳng định rằng, toàn cầu hoá là một quá trình khách quan
không thể đảo ngược. Một mặt, nó là sự tiếp nối và hoàn thiện các khuynh hướng
đã hình thành trong lịch sử thế giới; mặt khác, nó lại là một hiện tượng mới, bắt
đầu bằng toàn cầu hoá về kinh tế, rồi dần dần cuốn theo toàn cầu hoá về văn hoá,
xã hội, tác động mạnh mẽ đến chính trị. Ngày nay, Mỹ đang từng bước thực hiện
chủ nghĩa bá quyền và chính trị cường quyền, nhằm biến toàn cầu hoá thành Mỹ
hoá cả về kinh tế, văn hoá lẫn chính trị; nuôi hy vọng chiếm vị trí độc tôn làm bá
chủ thế giới. Thực tế đã chứng minh, thách thức do toàn cầu hoá mang lại cho
các nước đang phát triển rất đa dạng phức tạp, trong đó thách thức về chính trị là
quan trọng nhất. Toàn cầu hoá thách thức đến sự độc lập, tự chủ và chủ quyền
của các quốc gia dân tộc, de doạ đến nền an ninh và toàn vẹn lãnh thổ các nước,
ngay cả hệ thống quyền lực của các quốc gia như quyền định ra chính sách, mục
tiêu kinh tế, kiểm soát điều hoà nguồn tài nguyên thiên nhiên, quyền quản lý các
hoạt động kinh tế đều bị các nước phát triển can thiệp, chi phối, làm cho các
nước đang phát triển phải lệ thuộc từ kinh tế đến chính trị, và tất nhiên đến một

lúc nào đó văn hoá dân tộc cũng bị xâm hại. Vì vậy, để tham gia vào hội nhập
quốc tế có hiệu quả, các nước đang phát triển phải tiến hành cuộc đấu tranh gay
go, quyết liệt và phức tạp để chống lại quan hệ lệ thuộc, bất bình đẳng với các
10
nước phát triển. Cuộc đấu tranh đó vừa là cuộc đấu tranh giai cấp vừa là cuộc
đấu tranh dân tộc, trong đó đấu tranh để giữ vững độc lập dân tộc là một vấn đề
cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Đấu tranh dân tộc ở các nước đang phát triển hiện nay.
Các nước đang phát triển là một tập hợp đa dạng, gồm phần lớn các quốc
gia dân tộc trên thế giới hiện nay, có điều kiện địa lý tự nhiên, thể chế chính trị,
cũng như trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật khác nhau, đều
có chung một khát vọng thoát khỏi đói nghèo và tình trạng kém phát triển để xây
dựng một thế giới công bằng, bình đẳng cho tất cả các dân tộc.
Từ sau chiến tranh lạnh, tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp,
đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá, các nước
đang phát triển dường như rơi vào thế bị động, chịu nhiều thu thiệt trong quan hệ
quốc tế, nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Nếu như trước đây, tính đa dạng giữa các
nước đang phát triển là một trong những tiền đề tạo nên sự đoàn kết, hợp tác để
đấu tranh giành và giữ chính quyền, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia dân
tộc, thì hiện nay, chính tính đa dạng đó lại trở thành một nhân tố phức tạp đối với
quá trình thống nhất hành động của các nước đang phát triển trong cuộc đấu
tranh chung vì sự bình đẳng, phồn vinh và phát triển bền vững. Do trình độ phát
triển kinh tế, hệ giá trị văn hoá tinh thần và những lợi ích quốc gia dân tộc khác
nhau, các nước này gặp nhiều khó khăn khi tìm tiếng nói chung trong việc thống
nhất lập trường, quan điểm về giải quyết vấn đề quốc tế. Đây là điểm yếu dẫn
đến nguy cơ bị chia rẽ, phân hoá, bị các nước phát triển chèn ép trong một trật tự
thế giới bất bình đẳng và có nguy cơ bị gạt ra ngoài dòng chảy của lịch sử, dưới
tác động của xu thế toàn cầu hoá đang bị các nước tư bản phát triển chi phối,
lũng đoạn. Vì vậy, các nước đang phát triển phải ý thức được rằng, chỉ có đoàn
11

kết hợp tác chặt chẽ với nhau thì họ mới có sức mạnh để đối thoại và phát triển,
không những có thể đáp ứng được nhu cầu trong nước, mà còn tăng cường được
năng lực, vị thế của mình trong quan hệ quốc tế.
Đồng thời sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, các nước đang phát triển lại
đang đứng trước một khó khăn lớn, cơ cấu kinh tế có nhiều khiếm khuyết, sự
mất cân bằng về quân sự, khoa học - công nghệ, không những đã tạo ra sự bất
bình đẳng trong vấn đề vũ trang, giải trừ quân bị, mà còn làm phát sinh nhiều
tình trạng mất an ninh khác. Điều này được chứng minh bằng nhiều cuộc xung
đột xẩy ra ở các nước từ năm 1991 đến nay. Sự phân hoá giàu nghèo, phân hoá
kinh tế, giữa các nước, và mâu thuẫn giữa nhiều quốc gia với các nước phương
tây ngày càng gay gắt, thì tranh chấp nội bộ ở các nước đang phát triển cũng
không kém phần phức tạp, đòi hỏi họ phải chuyển từ giành và củng cố độc lập
chính quyền, an ninh chính trị gắn với độc lập tự chủ về kinh tế để phát triển.
Phần lớn các nước đang phát triển ở vào giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ
chuyển từ tiền tư bản chủ nghĩa sang tư bản chủ nghĩa, hoặc phát triển tư bản chủ
nghĩa, nên họ cần có sự hợp tác với phương tây, họ ra sức cạnh tranh nhau để thu
hút vốn đầu tư, công nghệ từ các nước phát triển, do đó khối đại đoàn kết giữa
các nước đang phát triển đã xuất hiện xu hướng lỏng lẻo. Tranh chấp, xung đột
trong nội bộ khối các nước đang phát triển có cả nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan, khác nhau diễn ra ở nhiều nơi. Xung đột chính trị thường
biểu hiện dưới hình thức xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ,
tài nguyên … Nhìn chung ở khắp các khu vực trên thế giới, hầu hết các điểm
xung đột, điểm nóng diễn ra do những mâu thuẫn trong nội bộ một nước, hoặc
giữa các nước đang phát triển tạo nên. Xung đột ở vùng Cápcazơ thuộc Liên Xô
cũ, xung đột giữa các nước Ả rập, Israen với Palextin, nội chiến ở Công gô, xung
12
đột ở Ấn Độ và Pakixtan, gần đây là xung đột ở Irăc, Li Băng …nguyên nhân
của các cuộc xung đột trên một phần do yếu tố thuộc về lịch sử; nhưng phần lớn
là do quan hệ giữa các quốc gia dân tộc không được bình đẳng trong các lĩnh vực
lãnh thổ, chính trị, kinh tế, tôn giáo, văn hoá đã tồn tại từ lâu, nay có cơ hội bùng

phát trở lại. Mặt khác, sự tan rã của trật tự thế giới hai cực đã khiến cho những
mô hình liên kết quốc gia, liên kết dân tộc được xây dựng một cách chủ quan, gò
ép nay bị phá vỡ. Bên cạnh đó một số nước lớn phương tây thực hiện chính sách
chính trị bá chủ cường quyền, can thiệp vào công việc nội bộ các nước đang phát
triển, làm cho nội bộ các nước này bị phân hoá. Đồng thời nghèo đói cũng là một
nguyên nhân làm cho các cuộc xung đột bùng nổ. Sau chiến tranh lạnh, mặc dù
các nước đang phát triển không còn là đối tượng tranh giành ảnh hưởng của hai
hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, nhưng do đặc điểm lịch sử, vai
trò địa chính trị, địa chiến lược, khu vực kinh tế quan trọng, nên các nước đang
phát triển vẫn là khu vực thu hút sự quan tâm của các nước lớn. Hiện nay các
nước đang phát triển ngày càng tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh cho sự bình
đẳng hoá quan hệ quốc tế. Cuộc đấu tranh chống chính trị cường quyền, bảo vệ
chủ quyền độc lập dân tộc, cùng xây dựng một trật tự thế giới mới công bằng,
bình đẳng, dân chủ và phát triển là động lực thúc đẩy các nước đang phát triển
khắc phục sự chia rẽ để trở thành một thực thể thống nhất. Trong thời gian qua
đã diễn ra nhiều hoạt động khẳng định mạnh mẽ ý thức độc lập dân tộc, chống
mọi hình thức can thiệp của các thế lực bên ngoài vào công việc nội bộ của các
nước đang phát triển. Nhờ vậy, mặc dù không ngừng mở cửa, mở rộng quan hệ
với nước ngoài trên nhiều lĩnh vực, nhưng không vì vậy mà các nước đang phát
triển bị mất độc lập, chủ quyền dân tộc. Tuy vẫn còn một số nước lớn tự ý can
thiệp vào công việc nội bộ của các nước đang phát triển, nhưng do sự đấu tranh
13
tích cực của cộng đồng các quốc gia này, đời sống chính trị thế giới đã có bước
tiến nhất định trong việc tôn trọng và tuân thủ các nguyên tắc chung sống hoà
bình, toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng cùng có lợi giữa các quốc gia. Mục tiêu mà
các nước đang phát triển hướng tới là xây dựng một trật tự thế giới, trong đó mọi
quốc gia dân tộc, không kể lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo, tiến bộ hay lạc hậu đều
có quyền làm chủ vận mệnh của mình, đồng thời được đối xử bình đẳng trong
quan hệ quốc tế; bất kỳ hành động áp đặt, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ
của các quốc gia dân tộc có chủ quyền đều đi ngược lại những tiêu chuẩn giá trị

chung của thế giới, cần phải đấu tranh ngăn chặn và loại bỏ.
Đấu tranh dân tộc ở các nước đang phát triển trên các lĩnh vực hiện nay
cũng là vấn đề nan giải, phức tạp. Trong bối cảnh toàn cầu hoá đang diễn ra sôi
động, lợi ích dân tộc, chủ quyền quốc gia, bản sắc văn hoá dân tộc của các nước
đang nước phát triển bị đe doạ, lấn át, đồng hoá. Trước hết là cuộc đấu tranh
nhằm xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, làm tiền đề nền tảng cho độc lập
về chính trị và văn hoá. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không chỉ xuất phát
từ quan điểm, đường lối chính trị, mà còn từ đòi hỏi của thực tiễn phát triển của
mỗi quốc gia. Có giữ vững độc lập, tự chủ mới duy trì được sự phát triển bền
vững và có hiệu quả của nền kinh tế quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện
nay. Ngược lại, để đảm bảo độc lập tự chủ về chính trị, thì phải xây dựng được
nền kinh tế độc lập, tự chủ, đây là bài học kinh nghiệm của rất nhiều quốc gia
đang phát triển, nếu không xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ, thì rất dễ
bị lệ thuộc, bị các thế lực phản động, thù địch lợi dụng vấn đề kinh tế để lôi kéo,
hoặc khống chế, chèn ép buộc các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước
nghèo phải thay đổi chế độ chính trị, đi chệch quỷ đạo đã lựa chọn. Nói cách
khác, có xây dựng được nền kinh tế độc lập, tự chủ thì mới tạo được kinh tế, cơ
14
sở vật chất, kỹ thuật của chế độ chính trị độc lập, tự chủ; độc lập tự chủ về kinh
tế là nền tảng vật chất cho độc lập tự chủ về chính trị, không thể có độc lập tự
chủ về chính trị, nếu kinh tế bị lệ thuộc. Độc lập tự chủ về kinh tế còn là cơ sở,
nền tảng cho độc lập tự chủ trên các mặt khác, làm nền tảng để phát huy sức
mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia.
Đó là những điều kiện vô cùng cần thiết cho sự nghiệp xây dựng và phát
triển của các quốc gia đang phát triển và cũng là điều kiện cần thiết, cấp bách
của nội dung đấu tranh cho độc lập dân tộc ở mỗi quốc gia hiện nay.
Nếu quan niệm chủ quyền quốc gia độc lập một cách tuyệt đối “không
chịu bất kỳ ảnh hưởng nào từ bên ngoài” thì chưa đúng và chưa đủ với bối cảnh
quốc tế hiện nay, bởi vì khi tham gia vào quá trình này các chính phủ từng nước
phải chấp nhận giới hạn quyền lực riêng của mình trên một số lĩnh vực, thông

qua việc tuân thủ những luật chơi chung và chịu tác động của tình trạng tuỳ
thuộc lẫn nhau ngày càng cao giữa các nước. Tuy nhiên, nếu quan niệm chủ
quyền một cách linh hoạt hơn trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
quốc tế, thì có thể lập luận rằng với sự chủ động hội nhập kinh tế thế giới, các
chính phủ không hề từ bỏ hoặc giảm bớt quyền lực Nhà nước của mình, thậm chí
về quyền lực, khả năng thực thi quyền lực còn được củng cố và mở rộng hơn,
nhờ có sự hợp tác quốc tế. Thực tiễn phát triển của xã hội loại người cho thấy,
quyền lực Nhà nước vẫn đang ngày một gia tăng, mở rộng ra nhiều lĩnh vực, rõ
nhất là ở việc thể hiện quyền lập pháp và hành pháp của Nhà nước.
Cần phải đổi mới quan niệm về an ninh quốc gia, quan niệm truyền thống
về an ninh quốc gia (chủ yếu nói đến an ninh quân sự), thường bị phê phán là
phiến diện và không còn phù hợp với tình hình quốc tế hiện nay. Giờ đây, xu
hướng chung cho rằng cần có quan niệm tổng thể về an ninh quân sự, an ninh
15
chính trị, an ninh kinh tế, an ninh xã hội, an ninh môi trường, và an ninh về con
người. Trong đó, an ninh quân sự liên quan đến cảm nhận về sự tồn tại của các
mối đe doạ tấn công xâm lược của các lực lượng quân sự đối địch, làm tổn hại
độc lập chủ quyền và thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia. An ninh chính
trị liên quan đến sự ổn định chính trị, sự tồn tại của các thiết chế chính trị, hệ
thống Nhà nước, ý thức hệ và nền tảng tư tưởng của quốc gia. An ninh kinh tế
liên quan đến khả năng tiếp cận các nguồn lực tài chính, thị trường cần thiết đảm
bảo cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế, phúc lợi của nhân dân và sức
mạnh của Nhà nước, bảo đảm có thể ngăn ngừa và đối phó hiệu quả với những
biến động của môi trường trong nước và quốc tế, góp phần đắc lực giữ vững ổn
định an ninh chính trị xã hội và tăng cường khả năng quốc phòng quốc gia. An
ninh kinh tế bao hàm cả an ninh lương thực và tài chính. An ninh xã hội gắn với
sự duy trì và bảo vệ hợp lý, phù hợp các giá trị văn hóa cơ bản của cộng đồng
các dân tộc trong mỗi quốc gia, khi mà các quốc gia dân tộc ngày càng phụ thuộc
lẫn nhau nhiều hơn, các quan hệ quốc tế trở nên đa dạng, phức tạp, biến động
không ngừng, thì an ninh của từng quốc gia, dân tộc luôn gắn với an ninh của

khu vực và an ninh toàn cầu. Do vậy, nếu khu vực mất ổn định, thì các quốc gia
trong khu vực ấy cũng không thể ổn định được, vì thế sự ổn định an ninh của
từng quốc gia, dân tộc và khu vực cũng như toàn thế giới vừa là điều kiện vừa
là hệ quả của nhau.
Đấu tranh dân tộc ở các nước đang phát triển hiện nay cũng được thể hiện
dưới hình thức đấu tranh bảo vệ các giá trị văn hóa, tinh thần, giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc trước nguy cơ xâm lấn, đồng hoá bởi các giá trị văn
hóa phương tây. Sự khác nhau đó, một mặt phản ánh sinh động đời sống văn
hóa, xã hội của mỗi cộng đồng dân tộc, mặt khác, chúng thể hiện bản lĩnh, cốt
16
cách tinh thần, nét đẹp, nhân cách, ước mơ hoài bảo, lý tưởng của dân tộc, bản
sắc văn hóa của dân tộc đó. Trước những ưu thế về kinh tế, khoa học và công
nghệ, các nước phát triển tìm mọi cách để áp đặt hệ giá trị, quan điểm tư tưởng,
văn hóa lối sống của họ lên những nước nghèo, những quốc gia bị lệ thuộc. Đây
chính là nguy cơ “đồng nhất hoá các hệ giá trị và chuẩn mực, đe doạ và làm cạn
kiệt khả năng sáng tạo của các nền văn hóa”. Thực tế cho thấy, do sự du nhập ồ
ạt của lối sống văn hóa phương tây, một số bộ phận không nhỏ thanh, thiếu niên
ở các nước đang phát triển hiện nay có xu hướng hướng ngoại, họ thích lối sống
phương tây, lối sống Mỹ, nghe nhạc Roóc, uống rượu mạnh hơn là những bản
nhạc, vở kịch truyền thống, lối sống của dân tộc mình. Các tệ nạn xã hội như bạo
lực, ma tuý, mãi dâm đang huỷ hại không nhỏ một bộ phận lớp trẻ. Trong đời
sống văn học, nghệ thuật xuất hiện các tác phẩm đi theo khuynh hướng sáng tác
tiêu cực, phủ nhận những giá trị văn học truyền thống của dân tộc, cổ vũ cho chủ
nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa thực dụng, làm băng hoại những giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc. Nguy cơ gây ô nhiễm môi trường văn hóa từ mạng Internet
cũng gây không ít phiền toái cho các nhà quản lý trên lĩnh vực văn hóa ở các
nước đang phát triển. Rất nhiều hình ảnh, tin tức, ấn phẩm không phù hợp với
đạo lý, thuần phong mỹ tục của các dân tộc, được tán phát gây ảnh hưởng độc
hại. Vì vậy vấn đề thách thức đặt ra đối với các nước đang phát triển là làm thế
nào để vừa hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế một cách bền vững, vừa tiếp thu

được những tinh hoa văn hóa của nhân loại, mà không làm mai một đi bản sắc
văn hóa dân tộc. Những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc phải được kế
thừa và đổi mới một cách hợp lý. Đồng thời, cần mạnh dạn đấu tranh xoá bỏ
những hủ tục lạc hậu đang cản trở sự phát triển của đất nước, chủ động tiếp thu
17
có chọn lọc những giá trị tích cực từ bên ngoài, làm giàu thêm cho hệ giá trị chân
- thiện - mỹ của quốc gia dân tộc mình.
Tóm lại, trước sự biến động của tình hình thế giới vừa qua, đã gây nên
những vấn đề phức tạp có tính chất toàn cầu, mối quan hệ giữa các dân tộc và
cuộc đấu tranh dân tộc trở nên gay go quyết liệt, đó là cuộc đấu tranh nhằm xây
dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ; đấu tranh để cũng cố độc lập về chính trị,
bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền an ninh quốc gia; đấu tranh để bảo vệ các
giá trị văn hóa - tinh thần, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên vấn đề dân
tộc và đấu tranh dân tộc không tồn tại một cách độc lập, ngược lại nó luôn gắn
với vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, chịu sự chi phối của đấu tranh giai cấp,
thắng lợi của đấu tranh dân tộc sẽ có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của đấu
tranh giai cấp. Tính gay go phức tạp của đấu tranh dân tộc ngày nay, chứng tỏ
mâu thuẫn của thời đại hiện nay không hề mất đi, ngược lại nó còn thể hiện tính
quyết liệt, phức tạp lâu dài, vì vậy để đấu tranh dân tộc ở các nước đang phát
triển có hiệu quả, cần phải gắn chặt đấu tranh dân tộc với đấu tranh giai cấp, phải
dương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
2. Những vấn đề đặt ra trong quá trình đấu tranh giữ vững độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, trước sự tác động của tình hình thế
giới, của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, việc chúng ta đấu tranh để
giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một vấn đề tất yếu khách quan.
Đấu tranh giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, là đấu
tranh để xây dựng và giữ vững nền kinh tế độc lập tự chủ; đấu tranh để giữ vững
nền độc lập chính trị định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ chủ
quyền an ninh quốc gia; đấu tranh bảo vệ giữ gìn và phát huy nền văn hóa đậm đà

18
bản sắc dân tộc. Trước sự tác động của toàn cầu hoá, sự chống phá của các thế lực
thù địch trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, đặt ra cho chúng ta phải xây dựng
một nền kinh tế độc lập tự chủ, không lệ thuộc vào các thế lực bên ngoài, giữ
vững sư ổn định về chính trị, văn hóa, xã hội để phát triển đất nước theo con
đương xã hội chủ nghĩa, đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách
mạng nước ta hiện nay. Tiến hành tốt điều đó cần phải quán triệt và thực hiện tốt
một số vấn đề có ý nghĩa chiến lược cơ bản sau:
Một là, nhận thức đúng đắn, về đặc điểm tình hình thế giới, trong nước
để có đường lối chiến lược sách lược đúng giữ vững độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
Nhận thức đầy đủ về tình hình đất nước trước hết chúng ta phải nhận thức
rõ thực chất và điều kiện khả năng bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. Đảng ta khẳng định, chúng ta quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, là một vấn đề mang
tính khách quan, phù hợp với xu hướng vận động phát triển của xã hội loài người,
phù hợp với xu thế của thời đại. Chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội có Đảng cộng
sản dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo, có chính quyền, có nền tảng liên minh công -
nông - trí vững chắc, có sự hội nhập giao lưu kinh tế thế giới, có sự ủng hộ cổ vũ
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, có thành tựu sau hơn 20 năm đổi
mới, quần chúng nhân dân cần cù sáng tạo tin theo Đảng. Đó là cơ sở là động lực
cơ bản cho phép cách mạng nước ta tham gia hội nhập quốc tế, vững bước trên
con đường chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên chúng ta cũng nhận thức đúng những khó
khăn thách thức mà cách mạng nước ta phải trải qua. Việt Nam bước vào thời kỳ
quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước vốn là thuộc địa nữa phong kiến,
điểm xuất phát thấp, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, trong bối
19
cảnh hết sức đặc biệt: vừa bị bao vây cấm vận, bị đe doạ bởi những mầm hoạ
chiến tranh, giải quyết gánh nặng hậu quả của mấy chục năm chiến tranh để lại,
vừa phải đương đầu với những chấn động sâu sắc và to lớn của cuộc khủng hoảng

sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên xô và Đông âu. Trong khi đó thực lực đất nước
luôn tiềm tàng những khó khăn phức tạp: Nghèo nàn về văn hoá và vật chất, trình
độ dân trí thấp, nhịp độ tăng trưởng kinh tế chưa vững chắc, tham gia hội nhập
quốc tế trong môi trường cạnh tranh gay gắt, khốc liệt. Hơn nữa chúng ta còn phải
đối đầu với những nguy cơ thách thức to lớn, đó là, nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ chệch hướng xã
hội chủ nghĩa, nguy cơ về nạn tham nhũng, tệ quan liêu, và sự suy thoái về đạo
đức của một bộ phận cán bộ đảng viên, nguy cơ “Diễn biến hoà bình” của các thế
lực thù địch. Đó thực sự là nhưng khó khăn thách thức đan xen, tác động lẫn nhau,
thường xuyên đe doạ sự sống còn của Đảng và của chế độ chúng ta, vì vậy để giữ
vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, một vấn đề có ý nghĩa chiến lược đặt ra
là phải nhận thức sâu sắc, đúng đắn, đầy đủ về đặc điểm tình hình thế giới, điều
kiện khả năng của đất nước, trên cơ sở đó xác định đúng đường lối chiến lược,
sách lược, đưa đất nước tiến mạnh, tiến chắc trên con đường xã hội chủ nghĩa.
Hai là, kiên định lập trường nguyên tắc độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, tiến hành đổi mới hội nhập quốc tế sáng tạo
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về đất nước và thời đại,
Đảng ta kiên định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho sự nghiệp cách mạng, vì mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Đại hội Đảng lần thứ X nhấn mạnh: “trong quá trình đổi
mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng
20
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”
7
. Đồng thời với kiên định lập
trường nguyên tắc độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải
tiến hành đổi mới, hội nhập quốc tế một cách sáng tạo, mặt khác đổi mới hội
nhập quốc tế sáng tạo phải xuất phát và dựa trên sự kiên định ấy. Đổi mới, trước
hết là đổi mới tư duy, phải nhận thức một cách đúng đắn những nguyên lý chủ
nghĩa Mác - Lênin, không giáo điều và càng không xét lại, mà vận dụng nó một

cách sáng tạo, linh hoạt phù hợp với bối cảnh cụ thể của đất nước, làm cho nó có
sức sống mới trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chúng ta học
Mác - Ăngghen, Lênin nhưng phải tìm những giải pháp cụ thể cho cách mạng
nước ta, phù hợp với điều kiện lịch sử nước ta, do đó đổi mới tuyệt nhiên không
phải thay đổi mục tiêu chủ nghĩa xã hội, xa rời các qua điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà là xuất phát
từ những quan niệm đó để hành động một cách đúng đắn theo mục tiêu độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đổi mới chính là một tiến trình thúc đẩy
sự phát triển độc lập của chủ nghĩa Mác - Lênin ở trên mãnh đất hiện thực Việt
Nam phù hợp, có hiệu quả, chứ không phải là sự giáo điều, rập khuôn máy móc
hay thực dụng rơi vào cơ hội. Đảng ta chỉ rõ: “Kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin là
vấn đề có tính nguyên tắc số một đối với Đảng ta. Trung thành với chủ nghĩa
Mác - Lênin có nghĩa là nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lênin, vân dụng một cách đúng đắn, thích hợp với điều kiện nước
ta, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo”
8
. Rõ ràng,
không thể có đổi mới sáng tạo nếu không xuất phát từ sự kiên định chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, và đến lượt nó, sự kiên định sẽ trở nên
mất hết ý nghĩa, rơi vào chung chung trừu tượng nếu không có sự đổi mới cụ thể
7
ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H. 2001, tr, 19.
8
ĐCSVN, Văn kiện Đại hội dại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb sự thật, H, 1991, tr 127.
21
sáng tạo. Hội nhập trên cơ sở bảo đảm nền kinh tế độc lập tự chủ, hội nhập chứ
không phải hoà tan, hội nhập phải đảm bảo an ninh toàn vẹn lãnh thổ, duy trì sự
ổn định về chính trị, và bảo vệ giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X chỉ rõ: “Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu
hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy

phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất”
9
Công cuộc đấu tranh giữ vững
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay chính là kết quả và sự thể
hiện hết sức sinh động, thuyết phục về sự kết hợp nhuần nhuyễn những vấn đề
chiến lược đó. Đó cũng chính là nguồn gốc, là cơ sở quyết định quá trình hoạch
định đường lối để cách mạng nước ta từng bước đi đến thắng lợi.
Ba là, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Độc lập tự chủ về kinh tế không chỉ là một nội dung đấu tranh dân tộc, mà
còn là một nội dung của đấu tranh giai cấp, đây là vấn đề cơ bản đầu tiên để giữ
vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Điều cốt lõi nhất trong quá trình hội
nhập, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
phải vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chứ không đi chệch
hướng. Vì vậy đấu tranh giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội hiện nay,
vấn đề cần thiết là phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Mặt khác, trong quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế, tuyệt đối không
chấp nhận sự áp đặt điều kiện về kinh tế, chính trị, càng không để lợi ích kinh tế
làm thay đổi đường lối chính sách, từ bỏ con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Thực tế cho thấy chúng ta có ý chí quyết tâm, biết động viên và tổ chức lực
lượng, tỉnh táo, sáng suốt và khôn ngoan trong chỉ đạo chiến lược và sách lược hội
9
ĐCSVN, Sđd, tr 114.
22
nhập, chắc chắn chúng ta sẽ xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ, giữ vững
được định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc tạo nên nguồn sức mạnh và
động lực to lớn cho quá trình đấu tranh giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội ở nước ta hiện nay.
Đại đoàn kết dân tộc là một tất yếu khác quan, lá sản phẩm của quá trình

đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Ngay từ khi ra đời dân tộc ta đã
biết phát huy khối đại đoàn kết dân tộc, chúng ta đã làm nên những kỳ tích lịch sử
hào hùng, dệt thành bản anh hùng ca cách mạng. Kế thừa truyền thống quý báu
của dân tộc, Đảng ta luôn luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân, coi đó
là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn cho sự nghiệp cách
mạng nước ta. Ngay khi mới thành lập Đảng đã quan tâm đến nhiệm vụ xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất nước, trong
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhờ phát huy được khối đại đoàn kết của
dân tộc, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên những chiến thắng lịch sử, đánh
bại những thế lực thực dân, đế quốc hung bạo, có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn
hơn ta nhiều lần. Hồ Chủ Tịch khẳng Định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
thành công, thành công, đại thành công”
10
. Trong giai đoạn cách mạng mới, đại
đoàn kết dân tộc được coi là động lực chủ yếu để phát triển đất nước, là cơ sở để
phát huy sự năng động sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, thực hiện thắng lợi
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đòi hỏi phải
không ngừng xây dựng, cũng cố khối đại đoàn kết dân tộc, coi đây là vấn đề có ý
nghĩa chiến lược trong đấu tranh giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở
nước ta hiện nay.
10
Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb. CTQG, H, 2000, tập 10, tr.350
23
Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc là thực hiện đoàn kết giữa các dân tộc,
tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng
của đất nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và
người đã nghĩ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam. Phải nêu
cao tinh thần chủ nghĩa yêu nước, ý chí tự lực tự cường và tự hào dân tộc, giữ
vững độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn
nhau trong xây dựng đất nước, phát huy dân chủ trong đời sống xã hội dưới sự

lãnh đạo của Đảng, xây dựng đồng bộ và đổi mới các chính sách kinh tế - xã hội,
phát huy sức sáng tạo của nhân dân. Giữ gìn và phát triển khối đại đoàn kết toàn
dân là trách nhiệm của toàn dân tộc. Lịch sử của đất nước đã chứng minh, đoàn
kết toàn dân tộc là sức mạnh vô địch, đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết, mọi sự
phá hoại đoàn kết dân tộc đều bị lịch sử lên án và loại bỏ. Trong điều kiện tình
hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp hiện nay, yêu cầu đại đoàn kết dân tộc
càng trở nên quan trọng trong bảo vệ phát triển bản sắc, truyền thống văn hoá của
dân tộc, tạo sức mạnh tổng hợp, nhằm chống lại những âm mưu chia rẻ của kẻ thù,
bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Năm là, giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam, nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội của sự nghiệp cách mạng nước ta
Giữ vững và nâng cao sức lãnh đạo của Đảng là một biểu hiện cơ bản nhất,
nổi bật và tập trung nhất của sự kiên định con đường đấu tranh giữ vững độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi sự nghiệp
cách mạng nước ta hiện nay. Nhìn lại sự nghiệp đổi mới 20 năm qua, nhất là quá
trình khắc phục những trì trệ, yếu kém đưa nước ta vượt qua khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, càng thấy nổi bật lên tính đúng đắn đầy thuyết phục: Giữ vững,
24
phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa sống còn đối với đất nước, dân tộc
và chế độ, là nhân tố bảo đảm căn bản cho những thắng lợi của công cuộc đổi mới
đất nược. Việc giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng ta không chỉ là vấn đề thuộc về
nguyên tắc của lý luận Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn là kết luận
nóng hổi được rút ra từ yêu cầu bức bách của cuộc sống, từ tình cảm và lý trí sáng
suốt của nhân dân ta. Bởi vậy Đảng ta luôn luôn nổ lực rèn luyện bản lĩnh chính
trị, học tập và nâng cao toàn diện kiến thức, tự phê bình nghiêm khắc với những
mặt còn non kém; đồng thời, lường trước những nguy cơ khiến cho Đảng tự đánh
mất vị trí vai trò lãnh đạo của mình và quyết tâm khắc phục chúng. Trong điều
kiện tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến động phức tạp, trước sự tác
động ảnh hưởng của toàn cầu hoá, và quá trình hội nhập quốc tế, Đảng tự nhận

thức rằng Việt Nam sẽ không thể đi tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội, không thể đổi
mới, hội nhập quốc tế thắng lợi, nếu như Đảng không tự vươn lên tự xây dựng,
chỉnh đốn mình, dựa hẳn vào nhân dân để xây dựng Đảng, ngăn chặn những tệ
quan liêu, tham nhũng, những mầm hoạ khủng hoảng từ trong Đảng thì không thể
lãnh đạo cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng. Vì vậy từ quan niệm đó đã biến
thành hành động một cách chủ động và hiệu quả của Đảng, tạo điều kiện cho
chúng ta tham gia hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, góp phần giữ vững độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
KẾT LUẬN
Những đặc điểm cơ bản của tình hình thế giới những năm cuối thế kỷ XX,
đầu thế kỷ XXI cho thấy, vấn đề dân tộc và đấu tranh dân tộc trên thế giới nói
chung và ở các nước đang phát triển nói riêng là một trong những vấn đề vừa cơ
25

×