Chủ đề: Nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng nợ công tại một
số nước trong liên minh EU và phản ứng chính sách của các nước
đó.
Nhóm 4:
1. Nguyễn Thị Mai Phương (Nhóm Trưởng)
2. Nguyễn Thị Tình
3. Phạm Thị Hồ Vân
4. Lê Thị Phượng
5. Phí Trọng Đức
6. Lê Tuấn Quang
7. Nguyễn Tiến Dũng
8. Nguyễn Quang Chung
Phần 1: Khái quát về Nợ công
1.1. Khái niệm
• Theo quan điểm của Ngân hàng thế giới (WB): Nợ công là toàn bộ khoản nợ của Chính
phủ và những khoản nợ được chính phủ bảo lãnh. Trong đó:
- Nợ của Chính phủ là toàn bộ các khoản nợ trong nước và nước ngoài của Chính phủ và
các đại lý của Chính phủ; các tỉnh, thành phố hoặc các tổ chức chính trị trực thuộc Chính
phủ và các đại lý của các tổ chức này; các doanh nghiệp nhà nước.
- Nợ của Chính phủ bảo lãnh là những khoản nợ trong nước và nước ngoài của khu vực tư
nhân do Chính phủ bảo lãnh.
• Theo quan điểm của quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), nợ công được bao gồm nợ của khu vực tài
chính công và nợ khu vực phi tài chính công. Trong đó:
- Khu tài chính công gồm: Tổ chức tiền tệ (NHTW, các tổ chức tín dụng nhà nước) và các
tổ chức phi tiền tệ (các tổ chức tín dụng không cho vay mà chỉ có chức năng hỗ trợ phát
triển),
- Các tổ chức phi tài chính công như: Chính phủ, tỉnh, thành phố, các tổ chức chính quyền
địa phương.
• Theo luật quản lý nợ công của Việt Nam, nợ công bao gồm nợ Chính phủ, nợ Chính phủ
bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Trong đó:
- Nợ Chính phủ: là các khoản nợ được ký kết, phát hành nhân danh nhà nước hoặc Chính
phủ, các khoản nợ doBộ tài chính ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành; nhưng
không bao gồm các khoản nợ do NHNN Việt Nam phát hành nhằm thực hiện mục tiêu
chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
- Nợ được Chính phủ bảo lãnh: là các khoản nợ doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong và
ngoài nước, chính phủ đứng ra bảo lãnh.
- Nợ chính quyền địa phương: là các khoản nợ do uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành
Tuỳ theo quan điểm của các tổ chức, nợ công được hiểu theo các nghĩa khác nhau. Việc xác
định nợ công một cách chính xác sẽ giúp các nhà quản lý đánh giá đúng những tác động tích cực,
1
tiêu cực của nợ công từ đó có biện pháp điều chỉnh hợp lý nhằm đảm bảo an ninh tài chính quốc
gia một cách bền vững.
1.2. Phân loại nợ công:
• Căn cứ vào kỳ hạn nợ:
- Nợ ngắn hạn:Là những khoản nợ có thời hạn thanh toán ngắn hạn ( thường dưới 1 năm).
Khoản nợ này chủ yếu để đáp ứng nhu cầu bù đắp thiếu hụt Ngân sách tạm thời.
- Nợ trung và dài hạn: là những khoản nợ có kỳ hạn thanh toán dài (từ 1 năm trở lên).
Khoản nợ này nhằm phục vụ nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế.
• Căn cứ vào vị trí địa lý:
- Nợ trong nước: bao gồm các khoản vay từ các chủ thế trong nước, chủ yếu chính phủ
phát hành các công cụ nợ để vay từ các chủ thể trong nước.
- Nợ nước ngoài: bao gồm khoản vay từ các chủ thể ngoài nước như: Kí kết hiệp định vay
nợ với chính phủ, tiền tệ nước ngoài; khoản vay thương mại từ chủ thế nước ngoài.
• Căn cứ vào nghĩa vụ trả nợ:
- Nợ trực tiếp: là các khoản nợ trực tiếp mà chính quyền trung ương và chính quyền địa
phương có trách nhiệm trả nợ.
- Nợ dự phòng: là các khoản nợ phát sinh khi một hoặc vài điều kiện xác định trước đó
thay đổi, đó là khoản nợ được chính phủ bảo lãnh, khi các khoản nợ này không được
con nợ trả, chính phủ phải đứng ra trả nợ thay.
• Căn cứ vào lãi suất cho vay:
- Nợ có lãi suất cố định: là những khoản nợ có mức lãi suất cố định từ khi vay cho
đến kh đáo hạn, không bị phụ thuộc vào sự biến động của thị trường
- Nợ có lãi suất thả nổi: là những khoản nợ được điều chỉnh về lãi suất khi có sự
biến động về lãi suất trên thị trường.
• Căn cứ theo loại tiền vay:
- Nợ bằng đồng nội tệ: là những khoản nợ được vay bằng chính đồng tiền của quốc gia đó.
- Nợ bằng ngoại tệ: là những khoản nợ được vay bằng các đồng ngoại tệ, có thể vay từ các
chủ thể trong nước hoặc nước ngoài.
• Theo quan điểm của quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), nợ công được bao gồm nợ của khu vực tài
chính công và nợ khu vực phi tài chính công.
• Theo luật quản lý nợ công của Việt Nam, nợ công bao gồm nợ Chính phủ, nợ Chính phủ
bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương.
Tuỳ theo quan điểm của các tổ chức, nợ công được hiểu theo các nghĩa khác nhau. Việc xác
định nợ công một cách chính xác sẽ giúp các nhà quản lý đánh giá đúng những tác động tích cực,
tiêu cực của nợ công từ đó có biện pháp điều chỉnh hợp lý nhằm đảm bảo an ninh tài chính quốc
gia một cách bền vững.
1.3. Rủi ro nợ công:
Nợ công tạo áp lực gây ra lạm phát
Lạm phát được tạo ra do hai nguyên nhân chính: Do tổng cầu tăng lên hoặc do chi phí đẩy.
Chính phủ tăng vay nợ bằng phát hành trái phiếu, một mặt làm tiêu dùng của chính phủ tăng lên,
một mặt sẽ tạo áp lực đẩy lãi suất lên cao.
Giá vàng bùng nổ
thị trường vàng trên thế giới cũng như ở Việt Nam trong thời gian vừa qua rất sôi động với sự
tăng đột biến của giá vàng trong nước.Nó tạo thành cơn sốt vàng và theo nghiên cứu một trong
những nguyên nhân đảy giá vàng lên cao như vậy là do khủng hoảng nợ công .Vấn đề là họ thấy
2
được vàng là nơi trú ẩn an toàn,vàng luôn là tiền thật trước khủng hoảng nợ công.( vàng đã lập
kỷ lục cao nhất mọi thời đại với mức 1.928 USD hồi cuối tháng 8/2011 49 tr/lượng).
Gây gánh nặng nợ nần cho thế hệ tương lai
Thế hệ tương lai cũng phải chịu đựng sự sụt giảm về chất lượng cuộc sống do những hệ quả của
nợ công gây ra. Nợ công làm lãi suất tăng và giảm đầu tư tư nhân, tốc độ tăng trưởng kinh tế
chậm hơn, cơ hội việc làm cũng như thu nhập trong khu vực tư nhân cũng sẽ bị giảm đi.
Nền kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế.
Khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo cáo của các tổ chức
chuyên đi đánh giá tín nhiệm các công ty và quốc gia khác, niềm tin của người dân và giới đầu
tư bị lung lay, khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế.
Gây bất ổn chính trị -xã hội
Nguy cơ suy giảm chủ quyền, giảm sự độc lập về chính trị hoặc khả năng lãnh ñạo quốc
gia Các quốc gia phải chịu sức ép từ phía chủ nợ và các tổ chức tài chính quốc tế về việc phải
thắt chặt chi tiêu, tăng thuế, giảm trợ cấp xã hội, và xa hơn nữa là những yêu cầu về cải cách thể
chế, thay đổi bộ máy quản lý, thay đổi các định hướng kinh tế Ngoài ra, việc lệ thuộc quá
nhiều vào các khoản vay nợ nước ngoài cũng sẽ làm giảm vị thế của quốc gia trong các mối
quan hệ song phương, đa phương với các đối tác là các nước chủ nợ.
Phần 2: Nguyên Nhân Khủng hoảng nợ công
Khủng hoảng nợ công châu Âu với điểm bùng nổ đầu tiên là Hy Lạp vào đầu năm 2010
khi chi phí cho các khoản nợ Chính phủ liên tục tăng lên; cụ thể là lợi suất trái phiếu Chính phủ
kỳ hạn 2 năm của Hy Lạp liên tục tăng cao từ 3,47% vào tháng 01 năm 2010, lên 9,73% thời
điểm tháng 07 năm 2010 và nhảy vọt lên 26,65%/năm vào tháng 07 năm 2011. Cuộc khủng
hoảng sau đó đã lan sang Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và tiếp theo là Ý trong khu vực đồng
euro. Pháp đang là quốc gia có nhiều nguy cơ tụt hạng tín dụng. Cộng hòa Sip cũng đã bị đẩy tới
bờ vực để nhận gói cứu trợ.
Nhìn rộng ra EU, nợ công của các nền kinh tế khu vực đồng euro từ năm 2007 đã vượt
ngưỡng trần 60% GDP được qui định tại Hiệp ước Madrid, tăng liên tục trong 5 năm qua từ
66,3% lên 87,9% (2011).
2.1. Khủng hoảng nợ công ở Hi Lạp: 5 nguyên nhân chính gây khủng hoảng nợ công của
Hy Lạp
2.1.1. Tiết kiệm trong nước thấp dẫn tới phải vay nợ nước ngoài cho chi tiêu công:
Thập niên 90 tỷ lệ tiết kiệm trong nước bình quân của Hy Lạp chỉ ở mức 11%, thấp hơn nhiều
so với mức 20% của các nước như Bồ Đào Nha, Ý, Tây Ban Nha và đang có xu hướng sụt giảm
nhanh chóng. Do vậy, đầu tư trong nước phụ thuộc khá nhiều vào các dòng vốn đến từ bên ngoài.
Lợi tức trái phiếu liên tục giảm nhờ vào việc gia nhập liên minh châu Âu EU (năm 1981) và làn
sóng bán tháo trái phiếu từ dân chúng cho thấy Hy Lạp đã để vuột khỏi tay một kênh huy động
vốn sẵn có buộc chính phủ Hy Lạp tăng cường vay nợ tài trợ cho chi tiêu công.
2.1.2. Chi tiêu công tăng cao dẫn đến thâm hụt ngân sách.
Tăng trưởng GDP của Hy Lạp vẫn được ca ngợi với tốc độ tăng trung bình hàng năm là 4,3%
(2001 – 2007) so với mức trung bình của khu vực Eurozone là 3,1%. Tuy nhiên, trong giai đoạn
này, mức chi tiêu chính phủ tăng 87% trong khi mức thu của chính phủ chỉ tăng 31%, khiến cho
ngân sách thâm hụt vượt quá mức cho phép 3% GDP của EU.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), chi tiêu cho quản lý công trong tổng số
chi tiêu công của Hy Lạp năm 2004 đã cao hơn nhiều so với các nước thành viên OECD khác
trong khi chất lượng và số lượng dịch vụ không được cải thiện nhiều. Năm 2008, khủng hoảng tài
3
chính toàn nổ ra đã ảnh hưởng khá mạnh đến các ngành công nghiệp chủ chốt của Hy Lạp.
Ngành du lịch và vận tải biển, doanh thu đều sụt giảm trên 15% trong năm 2009. Kinh tế Hy Lạp
cũng lâm vào tình trạng khó khăn, nguồn thu để tài trợ cho ngân sách nhà nước bị co hẹp mạnh.
Trong khi đó Hy Lạp lại phải tăng cường chi tiêu công để kích thích kinh tế. Tính đến tháng
01/2010, nợ công của Hy Lạp ước tính lên tới 216 tỷ Euro và mức nợ lũy kế đạt mức 130% GDP.
Sự già hóa dân số và hệ thống lương hưu vào loại hào phóng bậc nhất khu vực châu Âu của
Hy Lạp cũng được coi là một trong những gánh nặng cho chi tiêu công. Ước tính tổng số tiền chi
trả cho lương hưu khu vực công của Hy Lạp sẽ tăng từ 11,5% GDP (2005) lên 24% (2050).
2.1.3. Nguồn thu giảm sút cũng là một nhân tố dẫn tới tình trạng thâm hụt ngân sách và
gia tăng nợ công. Trốn thuế và hoạt động kinh tế ngầm ở Hy Lạp là nhân tố làm giảm
nguồn thu ngân sách.
Theo đánh giá của WB, kinh tế không chính thức ở Hy Lạp chiếm tới 25 - 30% GDP(so với
mức 15,6% GDP của Việt Nam; 13,1% GDP của Trung Quốc và Singapore; 11,3% GDP của
Nhật Bản). Hệ thống thuế với nhiều mức thuế cao và bộ luật phức tạp cùng với sự điều tiết dư
thừa và thiếu hiệu quả của cơ quan quản lý là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trốn thuế và kinh tế
ngầm phát triển ở Hy Lạp.
Theo Tổ chức Minh bạch quốc tế, Hy Lạp là một trong những nước có tỷ lệ tham nhũng cao
nhất trong EU. Năm 2008, hơn 13% người Hy Lạp đã chi tới 750 triệu EUR tiền phong bì cho
các lãnh đạo khu vực công và khu vực tư, trong đó có bác sĩ là những người đòi nhiều tiền hơn
cho các cuộc phẫu thuật; các nhà quy hoạch thành phố và các quan chức ở địa phương cũng liên
quan đến những vụ việc nhận hối lộ Thủ tướng Hy Lạp George Papandreou thừa nhận “tham
nhũng mang tính hệ thống” là vấn đề cơ bản nhất dẫn đến tình trạng nợ công Hy Lạp. Thiệt hại
mà tham nhũng gây ra cho Hy Lạp ước tính vào khoảng 8% GDP. Tham nhũng không chỉ gây ra
trốn thuế, nó còn làm tăng chi tiêu chính phủ, nhắm tới duy trì mức lương cao cho công chức và
thực hiện các dự án có vốn đầu tư lớn thay vì nhắm vào các dự án tạo ra nhiều việc làm và nâng
cao năng suất lao động. Mức lương cao không chỉ tạo ra gánh nặng ngân sách mà còn làm cho
tính cạnh tranh của nền kinh tế Hy Lạp yếu đi. Lương cao, đồng euro tăng giá từ mức 1 euro đổi
hơn 0,8 USD lên đến 1 euro đổi 1,6 USD trong suốt giai đoạn từ 2000-2008 khiến sức cạnh tranh
của hàng hóa Hy Lạp yếu và hệ quả tất yếu là một cán cân thương mại thâm hụt triền miên.
2.1.4. Sự tiếp cận dễ dãi với nguồn vốn đầu tư nước ngoài và việc sử dụng nguồn vốn
không hiệu quả.
Bên cạnh đó, việc gia nhập Eurozone năm 2001 là cơ hội lớn để Hy Lạp có thể tiếp cận với
thị trường vốn quốc tế với việc sử dụng một đồng tiền được những nền kinh tế lớn như Đức và
Pháp bảo đảm cùng với sự quản lý chính sách tiền tệ của Ngân hàng TƯ châu Âu (ECB). Nhờ
việc gia nhập Eurozone Hy Lạp nghiễm nhiên có được hình ảnh ổn định cao và chắc chắn trong
mắt các nhà đầu tư, dễ dàng thu hút vốn đầu tư nước ngoài với mức lãi suất thấp. Gần một thập
kỷ qua, Chính phủ Hy Lạp liên tục bán trái phiếu để thu về hàng trăm tỷ USD. Số tiền này lẽ ra
có thể giúp kinh tế Hy Lạp tiến rất xa nếu chính phủ có kế hoạch chi tiêu hợp lý. Tuy nhiên,
chính phủ Hy Lạp đã chi tiêu quá tay (phần lớn cho cơ sở hạ tầng) mà hầu như không quan tâm
đến các kế hoạch trả nợ.
2.1.5. thiếu tính minh bạch và niềm tin của các nhà đầu tư.
Sự thiếu minh bạch trong số liệu thống kê của Hy Lạp đã làm mất niềm tin của các nhà đầu tư
mà quốc gia này đã tạo dựng được với tư cách là một thành viên của Eurozone và nhanh chóng
xuất hiện các làn sóng rút vốn ồ ạt khỏi các ngân hàng của Hy Lạp, đẩy quốc gia này vào tình
trạng khó khăn trong việc huy động vốn trên thị trường vốn quốc tế. Sự phụ thuộc vào nguồn tài
chính nước ngoài đã khiến cho Hy Lạp trở nên rất dễ bị tổn thương trước những thay đổi trong
niềm tin của giới đầu tư. Trong thời đại hội nhập, thì minh bạch luôn là một đòi hỏi lớn của các
4
nhà đầu tư. Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp do chính phủ không minh bạch các số liệu, cố
gắng vẽ nên bức tranh sáng, màu hồng về tình trạng ngân sách về những chính sách sắp ban hành
để khắc phục những khó khăn về ngân sách hay vấn đề kinh tế vĩ mô do vậy, hiệu lực của những
chính sách đó sẽ bị hạn chế nhiều.
2.2. Khủng hoảng nợ công ở Tây Ban Nha: 5 nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng ở Tây
Ban Nha:
2.2.1. Kinh tế Tây Ban Nha đang rơi vào tình trạng bất ổn do lợi suất trái phiếu tăng vọt
Điều đầu tiên liên quan tới con số 7 hay ám chỉ 7% với lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm của
Tây Ban Nha. Mọi người thường xuyên nhắc lại mức 7% thể hiện cho sự bất ổn.
Tuy nhiên, dù trong hoàn cảnh căng thẳng như vậy, Tây Ban Nha vẫn tìm được nguồn tài trợ
200-220 tỷ euro tới năm 2014 với lãi suất 8-9%. Điều này có thể tác động khiến lãi suất trung
bình các khoản nợ nước này tăng từ 4,1% hiện tại lên 5%. Mặc dù đây không phải điều dễ chịu
gì, nhưng chắc chắn không phải là “bất ổn”.
2.2.2. Nợ tư nhân đang gây sức ép cho kinh tế Tây Ban Nha
Tây Ban Nha có mức nợ tư khổng lồ, nhưng lại có tình hình tài chính công tương đối lành
mạnh so với các hàng xóm châu Âu của mình. Nợ công trên GDP Tây Ban Nha chỉ ở dưới 60%,
nhưng nợ tư Tây Ban Nha lên tới trên 200% GDP.
Nhiều người không hiểu bản chất những khoản nợ này. Một phần lớn nợ khu vực phi tài chính
trong số này được các công ty Tây Ban Nha đầu tư vào các thị trường mới nổi dọc châu Mỹ
Latinh, Đông Âu và châu Á.
2.2.3. Kinh tế Tây Ban Nha không thể tìm ra động lực tăng trưởng
Mặc dù thật sự, nhu cầu nội địa của Tây Ban Nha vẫn đang giảm, nhưng ít người chú ý kinh
tế nước này nhanh chóng bù đắp bằng xuất khẩu tăng vọt. Trong 3 tháng đầu năm 2012, xuất
khẩu hàng hóa, dịch vụ của Tây Ban Nha chạm mức kỷ lục trong lịch sử.
2.2.4. Kinh tế Tây Ban Nha mất tính cạnh tranh từ khi euro ra đời và không thể điều
chỉnh chính sách, phá giá euro
Tuy nhiên, khả năng cạnh tranh của Tây Ban Nha lại đang tăng nhanh. Lương danh nghĩa
giảm, cùng với năng suất lao động theo giờ tăng khiến chi phí lao động giảm mạnh. Chi phí lao
động giảm có thể giúp doanh nghiệp giảm giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh.
2.2.5. Thị trường lo ngại về các khoản nợ của 17 khu vực tự trị của Tây Ban Nha tăng
nhanh trong khi chính phủ trung ương nước này dường như không thể hạn chế chi tiêu
Tổng nợ các khu vực chiếm 13% GDP, một tỷ lệ có thể kiểm soát được nhưng thị trường
thường hay đánh giá chúng trên tổng nợ quốc gia Tây Ban Nha. Mọi người thường hay đề cập tới
việc cứu trợ các khu vực ngập nợ nhất như Catalonia hay Valencia để tái cấp vốn cho các khoản
“nợ cũ của họ”, mà quên đi rằng những khoản cứu trợ đó sẽ không được tính vào tổng nợ công
hiện tại của Tây Ban Nha.
Chính quyền trung ương Tây Ban Nha gần như đã kiểm soát hoàn toàn lượng tiền chuyển tới các
khu vực tự trị, với ngoại lệ duy nhất là hạt Basque và Navarre. Khi chúng ta tiếp tục thấy những
bất đồng chính trị về việc giảm chi tiêu khắp các khu vực, chính quyền trung ương Tây Ban Nha
cuối cùng cũng kiểm soát được lượng tiền được phân bổ.
Đương nhiên, không có điều nào trong số này có ý nghĩa nếu Tây Ban Nha vẫn gặp khó khăn
trong việc tìm đủ tiền cho tới khi các cải cách cấu trúc nước này phát huy toàn bộ hiệu quả. Tuy
nhiên, thị trường cần nhìn nhận lại và có đánh giá công bằng với kinh tế Tây Ban Nha. Điều này
không chỉ có lợi cho Tây Ban Nha, mà còn có thể ẩn chứa những cơ hội lớn cho chính nhà đầu
tư.
2.3. Nguyên nhân ở các nước khác
5
2.3.1 Ireland - không có vấn đề về ngân sách nhưng có nợ tư nhân khổng lồ
Năm 2011, Ireland có mức nợ lên tới 130% GDP và thâm hụt ngân sách là 13% GDP. Nợ
công của Ireland tăng hơn 500% trong giai đoạn 2001-2010. Các khoản nợ công của Ireland có
thể chưa tới mức khiến nền kinh tế này suy sụp nhưng gây ra một cuộc khủng hoảng khác còn
nguy hiểm gấp bội, đó là “khủng hoảng lòng tin” của thị trường vào năng lực của Chính phủ
khiến các nhà đầu tư đã bán tống bán tháo trái phiếu chính phủ. Chỉ số trái phiếu giảm và kết cục
là Ireland không thể trông chờ vào nguồn thu từ trái phiếu để bù vào lỗ hổng ngân sách.
2.3.2 Bồ Đào Nha - có cả vấn đề về ngân sách và vấn đề về nợ tư nhân khổng lồ.
Bồ Đào Nha là nền kinh tế có sức cạnh tranh yếu nhất trong Eurozone. Tăng trưởng của Bồ
Đào Nha chỉ đạt mức trung bình 1,3% trong giai đoạn 2000 - 2008 (so với mức 4 - 5% của Hy
Lạp và Ireland) nhưng lại phải chi trả phúc lợi cho người dân tương đương với mức của các nước
châu Âu giàu có, tăng trưởng cao. Năm 2011, thâm hụt ngân sách của Bồ Đào Nha là 8,6% GDP
nhưng mức nợ tương đương 170% GDP (bao gồm cả nợ tư nhân), cao hơn cả Hy Lạp, gây áp lực
lên hệ thống ngân hàng.
Bồ Đào Nha hiện cũng đang phải đối mặt với 3 khó khăn lớn là: bất ổn về tài chính; tăng
trưởng kinh tế thấp (quý II/2012, GDP của Bồ Đào Nha giảm 1,2% so với 0,1% trong quý I. Đây
là tháng thứ bảy liên tiếp GDP của nước này giảm); ngân sách và cán cân thanh toán bị thâm hụt
triền miên (Dự báo nợ công của Bồ Đào Nha sẽ vào khoảng gần 100% GDP vào năm 2020).
2.3.3. Đức - không nghĩ tới dài hạn
Kinh tế Đức có nhiều điểm đáng nể, thế nhưng kinh tế Đức thực tế cũng thiếu cân bằng như
nhiều nước khác trong khu vực đồng tiền chung. Đức không nghĩ tới dài hạn, tiền thu được từ
xuất khẩu dành để chi cho nhập khẩu. Họ đã đầu tư tiền tiết kiệm vào thế chấp dưới chuẩn ở Mỹ
và nợ chính phủ Hy Lạp. Điều này đẫn đến nợ công của họ ở mức cao 82%GDP.
Phần 3: Hậu quả và phản ứng, chính sách
3.1. Hậu quả:
3.1.1. Hậu quả chung:
- Cuộc khủng hoảng nợ công đã đe dọa sự tồn tại của đồng tiền euro, gây ảnh hưởng nền tài
chính toàn cầu, khiến cho thủ tướng Hy Lạp và thủ tướng Ý phải từ chức.
- Ngày 6/2/2012 Chính phủ Romania sụp đổ do khủng hoảng nợ.
- Hơn 18 triệu người thất nghiệp ở châu Âu, một phần tư dân số Hy Lạp và Tây Ban Nha
không có việc làm, khiến tỷ lệ thất nghiệp chung của eurozone lên 11,6%, cao nhất từ trước tới
nay.
- Cuộc khủng hoảng nợ công châu âu làm đồng euro mất giá so với đồng nhân dân tệ. Điều
này làm tăng áp lực chi phí cho các nhà sản xuất trung quốc, tác động tiêu cực đến xuất khẩu
trung quốc.
- Làm cho thị trường tài chính mỹ đi xuống bởi Mỹ là chủ nợ lớn của các nước thuộc khu
vực đồng euro và nếu đồng euro mất giá so với đồng đôla Mỹ, các hoạt động xuất khẩu của Mỹ
sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực. Bên cạnh đó, lợi nhuận của các công ty Mỹ có thị phần tại Châu Âu
giảm do thị trường Châu Âu đóng góp 20% tổng doanh thu của các công ty tiêu dùng ở Mỹ. Việc
tiếp tục gia tăng bất ổn ở thị trường tài chính và các điều kiện tín dụng thắt chặt ở châu âu có thể
làm giảm ý chí của các công ty cho vay, cho thuê của Mỹ, vì vậy tác động đến khôi phục kinh tế
Mỹ.Tổng thống Obama đã kêu gọi lãnh đọa của các nước EU có biện pháp mạnh nhằm ngăn
chặn khủng hoảng nợ công.
- Khủng hoảng nợ công ở Châu Âu cũng tạo ra biến động khó lường về tỷ giá. Đồng USD
và đặc biệt là đồng Yên sẽ tiếp tục tăng mạnh so với đồng euro do tính an toàn từ phía các đồng
6
tiền này. Do đó sẽ tạo ra nhưng rủi ro nhất định trong việc vay trả ngoại tệ cho các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu cũng như cho hoạt động ngoại hối của các ngân hàng thương mại.
- Cuộc khủng hoảng cũng tác động ít nhiều đến nền kinh tế việt nam, do chính sách thắt
chặt tài chính của EU nên cầu nội địa EU giảm, ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam đặc biết
là các mặt hàng dệt may thủy sản và một số mặt hàng khác đang được sản xuất trong các khu chế
xuất và khu công nghiệp Việt Nam có bạn hàng từ các nước đnag sử dụng đồng Euro.
3.1.2. Hậu quả tại Hi Lạp:
Hiện nay Hy Lạp đang đối mặt với 3 vấn đề chính, có liên quan chặt chẽ với nhau:
- Uy tín của Chính phủ Hy Lạp bị suy giảm nặng nề: Hy Lạp vay nợ rất nhiều trên các thị
trường tài chính để đảm bảo thanh khoản cho bội chi ngân sách. Giới hạn bội chi ngân sách cho
phép trong khu vực euro chỉ là 3% GDP, trong khi đó mức này của Hy Lạp năm 2009 theo dự
báo mới nhất lên tới 13,6%, và thậm chí có thể tăng tới trên 14% GDP. Để che dấu việc chi tiêu
quá tay trong nhiều năm của mình, Chính phủ Hy Lạp đã thực hiện báo cáo số liệu không nhất
quán và sai lệch, đưa ra nhiều khoản mục bất thường trong ngân sách. Điều này đã có ảnh hưởng
rất tiêu cực đến uy tín của Chính phủ Hy Lạp trên các thị trường trong nước và quốc tế. Các tổ
chức định mức tín nhiệm quốc tế nối tiếp nhau hạ mức tín nhiệm của Hy Lạp trong thời gian vừa
qua. Trong vòng 4 tháng đầu năm 2010, S&P liên tục hạ hệ số tín nhiệm của Hy Lạp, từ mức A-
xuống BBB+ rồi xuống tiếp mức BB+. Tổ chức Fitch hạ hệ số tín nhiệm của Hy Lạp từ mức
BBB+ xuống BBB- vào đầu tháng 4/2010.
- Thanh khoản sụt giảm: Nợ còn hạn của Hy Lạp lên tới gần 400 tỷ đô la Mỹ, trong đó
riêng nợ đến hạn vào năm 2010 đã lên tới 73 tỷ đô la Mỹ (xấp xỉ 27 tỷ đô la Mỹ sẽ đáo hạn vào
tháng 4 và 5/2010). Lãi suất Hy Lạp phải trả cho các khoản vay nợ tính đến thời điểm 22/4/2010
đã lên tới mức kỷ lục cao, trên 9% đối với các khoản vay có kỳ hạn trên 10 năm.
- Nguy cơ vỡ nợ cao: Hy Lạp đang đối mặt với 2 vấn đề thâm hụt cùng một lúc, đó là thâm
hụt ngân sách (13,6% GDP năm 2009) và thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai (đạt mức kỷ lục
vào quý 3/2008, tuy nhiên dự kiến sẽ giảm mạnh trong giai đoạn 2010-2011 nếu gói vay cứu trợ
của EU/IMF được đàm phán thành công).
3.1.3. Hậu quả tại Tây Ban Nha:
Tình trạng nợ công của Tây Ban Nha đang bắt đầu lan rộng, lún sâu hơn, khả năng phải nhận
cứu trợ đã chuyển từ các ngân hàng sang ngân sách nhà nước. Báo chí Tây Ban Nha hôm thứ hai
23/7/2012 đưa tin: Ít nhất chính quyền 6 tỉnh của nước này đang rục rịch xin chính phủ trung
ương trợ cấp ngân sách sau khi tỉnh Valencia chính thức yêu cầu Madrid hỗ trợ.
Tháng 8/2012, tin xấu về khủng hoảng nợ Tây Ban Nha ngay lập tức gây nên tâm lý lo ngại
trong các nhà đầu tư, khiến cho lãi suất trái phiếu của Chính phủ Tây Ban Nha trong khu vực
đồng euro tăng lên đến 7,5%, vượt qua lãi suất của các "con nợ xấu" khác là Italia (6,37%) và
Ailen (6,21%). Nhiều nhà đầu tư tài chính quốc tế khác cũng lo lắng không kém, và điều đó đã
được thể hiện cụ thể trên giá cổ phiếu và tỉ giá hối đoái, làm cho các chỉ số thị trường chứng
khoán châu Âu và châu Á đồng loạt đi xuống, kéo theo đồng euro cũng tụt giá xuống còn ăn
1,208 USD và 94,94 yen - mức thấp nhất kể từ năm 2010.
Chưa hết, tình trạng thất nghiệp vốn đang rất cao của Tây Ban Nha (trên 24%) sẽ càng tồi tệ
thêm nếu các khoản đầu tư công bị cắt giảm và sản xuất bị trì trệ do thắt lưng buộc bụng. Người
dân Tây Ban Nha đã nhiều lần xuống đường để phản đối việc áp dụng các biện pháp tiêu cực này;
trung tuần tháng 7/2012, giới công nhân, thợ thuyền ngành khai thác mỏ cũng đồng loạt đình
công để đòi cuộc sống tốt hơn…
Đặc biệt Tây Ban Nha đang chìm trong cơn khủng hoảng lòng tin: Làn sóng phẫn nộ ngày
càng lan rộng, niềm tin của người dân dành cho giới chính trị gia Tây Ban Nha ngày càng sụt
giảm. Trong một khảo sát gần đây, có tới 96% người dân Tây Ban Nha tin rằng, tham nhũng rất
7
phổ biến trong hệ thống chính trị nước này và cuộc biểu tình quy mô lớn ngày 23-2-2013 chính là
một ví dụ điển hình cho sự xói mòn niềm tin nơi người dân. Nhiều người lo ngại rằng, nếu tình
trạng như hiện nay tiếp diễn, Tây Ban Nha có nguy cơ rơi vào thời kỳ bất ổn chính trị.
3.2. Phản ứng, chính sách:
3.2.1 Phản ứng chính sách chung:
- Ngày 2/5/2010, các nước thành viên khu vực đồng euro và Quỹ Tiền tệ Quốc tế đã thông
qua khoản vay 110 tỷ euro cho Hy Lạp, với điều kiện nước này phải thực thi các biện pháp thắt
lưng buộc bụng khắc nghiệt.
- Ngày 09/05/2010, Bộ trưởng Bộ Tài chính châu Âu đã thông qua gói giải cứu trị giá 750
tỷ euro nhằm đảm bảo sự ổn định tài chính ở khu vực châu Âu, và lập ra Ủy ban Ổn định Tài
chính châu Âu.
- Tiếp theo đó là gói cứu trợ trị giá 85 tỷ euro cho Ireland vào tháng 11 năm 2010 và 78 tỷ
euro cho Bồ Đào Nha vào tháng 5 năm 2011.
- Tây Ban Nha cũng thực hiện các biện pháp cắt giản 6 tỷ $ đầu tư công, cắt giảm 5%
lương nhân viên nhà nước cũng như giảm lương hưu.
- Mới đây, để củng cố hơn nữa hệ thống ngân hàng tài chính và củng cố niềm tin của các
nhà đầu tư toàn cầu, EU đã tiến hành kiểm tra sức khỏe của 91 ngân hàng trong 20 nước thành
viên, kết quả có 7 ngân hàng không đủ tiêu chuẩn là: Hypo Real Estate của Đức, Agricultural
Bank of greece SA của Hy Lạp và 5 ngân hàng khác của Tây ban Nha. Các ngân hàng này cần
tăng vốn thêm 3,5 tỷ EUR để duy trì tỷ lệ vốn ở mức 6%.
- Châu Âu sẽ tiến tới lập một liên minh ngân hàng và một ngân sách chung, cho phép can
thiệp vào ngân sách của quốc gia thành viên.
3.2.2 Các giải pháp cho khủng hoảng nợ Hy Lạp
Để tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách khổng lồ nêu trên, Hy Lạp vay chính trên các thị
trường tài chính quốc tế. Dự kiến nợ còn hạn của Hy Lạp đã lên tới gần 400 tỷ đô la Mỹ (chiếm
tới gần 120% GDP của nước này), trong đó riêng nợ đáo hạn vào năm 2010 đã lên tới 73 tỷ đô la
Mỹ (khoảng 27 tỷ đô la Mỹ đáo hạn ngay trong tháng 4 và 5/2010).
Bức tranh khủng hoảng nợ của Hy Lạp trở nên trầm trọng hơn khi mà những nỗ lực của
Chính phủ Hy Lạp để vay nợ từ các thị trường tài chính vào cuối tháng 3 vừa qua đã không đem
lại kết quả như mong đợi. Hy Lạp thực hiện phát hành trái phiếu chính phủ mới và mở lại đợt
phát hành trái phiếu chính phủ cũ trong hai ngày liên tiếp, làm cạn kiệt cầu về chứng khoán nợ
của nước này và do đó vay được rất ít, tổng cộng chỉ được gần 5,4 tỷ euro. Đồng thời những bất
ổn về chính trị - xã hội khiến giới đầu tư quan ngại về khả năng của Chính phủ Hy Lạp trong việc
thực hiện chính sách cứu vãn tình hình cũng như đàm phán gói vay cứu trợ với EU và IMF, hậu
quả là tình hình đã xấu lại càng trở nên xấu hơn.
Trước mắt, để giải quyết vấn đề thanh khoản và nguy cơ vỡ nợ trên, bên cạnh việc chấp thuận
gói vay cứu trợ của EU/IMF, Hy Lạp có thể xem xét một số lựa chọn khác như: tiếp tục vay nợ
trên thị trường tài chính, bảo lãnh nợ EU, phát hành trái phiếu EU, ký kết các thoả thuận song
phương, và tăng cường phát triển cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên khả năng Hy Lạp sử dụng được các
biện pháp thay thế nêu trên là hạn chế. Về mặt dài hạn, Hy Lạp cần phải thực hiện cắt giảm chi
tiêu ngân sách và tăng các khoản thu, đồng thời thực hiện tái cấu trúc nợ. Cuối cùng, Hy Lạp cần
phải đạt được các mục tiêu ngân sách và tăng trưởng 3 năm (2010-2012) đặt ra trong “Chương
trình Tăng trưởng và Ổn định” của nước này.
Ngày 21/10, Hy Lạp thông qua chính sách tiết kiệm ngân sách mới bao gồm tăng thuế, cắt
giảm trợ cấp, sa thải 30.000 công chức trước áp lực nợ công lên tới 162% GDP. Sau nhiều lần trì
8
hoãn, gói cứu trợ thứ 2 trị giá 130 tỷ euro đã được thành viên cuối cùng của châu Âu là Đức
thông qua nhằm giúp đưa nợ công quốc gia này giảm về gần 121% GDP vào năm 2020.Tháng
3/2012, các chủ nợ tư nhân đồng ý hoán đổi 85% nợ cho Hy Lạp, giúp cắt giảm khoảng 100 tỷ
EUR nợ khỏi nghĩ vụ nợ của quốc gia này. Ngay lập tức, ngày 9/3, Fitch và Moody’s đồng loạt
tuyên bố Hy Lạp đã vỡ nợ. Trước đó, vào ngày 28/2, Athens cũng bị một hãng định mức tín
nhiệm hàng đầu khác là S& P xem là đã vỡ nợ một phần
Khắc phục tình trạng tham nhũng và trốn thuế
- Nạn tham nhũng và trốn thuế ở Hy Lạp đã quá mức nghiêm trọng. Để khắc phục tình
trạng này, chính phủ Hy Lạp buộc phải đưa ra những biện pháp mạnh tay, cải tổ hoàn toàn bộ
máy. Chính phủ phải có chương trình hành động lâu dài. Phải tẩy sạch quốc nạn tham nhũng với
tinh thần, tư cách một cuộc cách mạng thật sự. Một số biện pháp cơ bản có thể đưa ra là:
- Phải thiết lập một hệ thống tổ chức chuyên sâu ở các cấp, các ngành với mạng lưới hoạt
động công khai và bí mật, theo dõi thường xuyên những người và vụ việc có dấu hiệu tham
nhũng để kịp thời ngăn chặn và xử lý.
- Kê khai tài sản riêng của các viên chức trong tất cả các tổ chức của bộ máy công quyền,
kể cả những người giữ cương vị lãnh đạo cao, những cán bộ chủ chốt, chuyên viên cao cấp, đầu
ngành khi được bổ nhiệm công việc cũng như khi thôi việc, nghỉ hưu.
- Có những chế tài xử lý mạnh mẽ hơn nữa với các hành vi tham nhũng
- Nâng cao tính minh bạch của hệ thống thuế, như thay thế một loạt quan chức ngành này,
tiến hành điều tra nội bộ nhằm vào những hành vi hối lộ, khai man trốn thuế
Nâng cao hiệu của quản lý chi tiêu công
- Đảm bảo quy mô chi ngân sách nhà nước. Theo đó, giảm tỉ lệ chi thường xuyên, hạn chế
lương thưởng cho cán bộ công chức, tinh giảm bộ máy hành chính.
- Nâng cao tính trách nhiệm, minh bạch, dân chủ trong chi tiêu công; đảm bảo tính hiệu quả
và hiệu lực của những chương trình và cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cho xã hội
Cơ cấu vay vốn hợp lý
- Lập các kế hoạch vay nợ, sử dụng nợ cũng như trả nợ chi tiết, hiệu quả. Hiện tại, hầu hết
các khoản nợ của Hy Lạp đều là các khoản nợ ngắn hạn. Do đó chính phủ Hy Lạp cần xây dựng
tỷ lệ nợ ngắn hạn và dài hạn phù hợp đồng thời có kế hoạch lập ngân sách dài hạn.
- Đánh giá chính xác hiệu quả của các dự án sử dụng vốn vay nước ngoài khi đi vào hoạt
động. Từ đó có kế hoạch trả nợ hợp lý.
3.2.3 Các giải pháp của khủng hoảng nợ công Tây Ban Nha:
Áp lực ngày càng gia tăng khi 9 trong tổng số 17 bang của Tây Ban Nha yêu cầu được chính
quyền trung ương viện trợ gần 17 tỷ euro (23 tỷ USD) để duy trì hoạt động. Số tiền này chiếm tới
93% tổng số tiền trong quỹ cứu trợ địa phương mà Thủ tướng Mariano Rajoy, người luôn phản
đối việc nhận cứu trợ của châu Âu, lập ra hồi tháng 7 để bảo vệ các chính quyền tự trị khỏi bị vỡ
nợ. Vì hiện nay các địa phương này đều không thể thu hút nguồn vốn từ việc phát hành trái phiếu
nên Chính phủ sẽ buộc phải giải quyết vấn đề ngân sách này. Điều đó càng gia tăng áp lực lên Bộ
Tài chính Tây Ban Nha.
Những khó khăn chồng chất, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng đã buộc Tây Ban Nha phải
chính thức xin giải ngân khoản tiền gần 40 tỷ euro từ gói cứu trợ của châu Âu để tái cấp vốn cho
hệ thống ngân hàng đang gặp khó khăn. Hệ thống ngân hàng vốn được xem là điểm yếu nhất
trong hệ thống kinh tế Tây Ban Nha do đang chịu thua lỗ nặng từ các khoản cho vay mua nhà đất
khi bong bóng bất động sản bùng nổ. Hiện nợ xấu trong hệ thống ngân hàng của nước này chiếm
hơn 10% và hầu hết đều nằm trong lĩnh vực bất động sản.
9
Tin xấu về các khoản nợ của Tây Ban Nha đã gây nên tâm lý lo ngại cho các nhà đầu tư,
khiến cho chi phí vay mượn của nước này tăng vọt. Lãi suất trái phiếu của Chính phủ Tây Ban
Nha đã có lúc tăng vọt lên 7,5%, vượt qua cả lãi suất vốn được xem là “khủng” của các nước
khác trong khối như Italia (gần 6,4%) hay Ai-len (hơn 6,2%). Nếu chi phí vay mượn tiếp tục gia
tăng, Tây Ban Nha sẽ không trả được nợ và tình hình này giống hệt hoàn cảnh của Hy Lạp, Ai-
len khi xin viện trợ khẩn cấp từ EU và IMF. Tuy nhiên, do quy mô kinh tế của Tây Ban Nha lớn
gấp đôi so với quy mô của cả ba nền kinh tế Hy Lạp, Ai-len, Bồ Đào Nha cộng lại. Nếu Tây Ban
Nha vỡ nợ, hậu quả sẽ nghiêm trọng hơn rất nhiều và thậm chí có thể khiến Eurozone tan rã.
Mặt khác, vấn đề nợ công của Tây Ban Nha không phải đến từ việc chi tiêu quá mức mà chủ
yếu do khoản nợ của các hộ gia đình và công ty đối với hệ thống ngân hàng. Không những thế,
nước này còn phải thắt chặt chi tiêu để nhận được sự giúp đỡ từ EU cho hệ thống ngân hàng.
Trong bối cảnh kinh tế sụt giảm nghiêm trọng, việc phải thực hiện các biện pháp khắt khe đã
khiến các ngân hàng Tây Ban Nha càng thêm cùng quẫn. Được biết, khoản giải ngân gần 40 tỷ
euro mà Chính phủ Tây Ban Nha chính thức đề nghị được dùng để tái cấp vốn cho các ngân hàng
quốc doanh là Bankia, Catalunya Banc, NCG Banco và 2,5 tỷ euro trong số này sẽ được cấp cho
ngân hàng mua bán nợ xấu mới được thành lập.
Cho dù đã áp dụng mọi biện pháp kinh tế được cho là khắc nghiệt đến cùng cực, tình hình
khó khăn về kinh tế của 5 nước phải xin cứu trợ vẫn không được cải thiện. Kinh tế liên tiếp tăng
trưởng âm, thất nghiệp không ngừng gia tăng buộc cả người dân và Chính phủ phải thắt chặt hầu
bao đồng thời châm ngòi cho những bất ổn xã hội nghiêm trọng. Tình thế đó đã khiến các chuyên
gia kinh tế không dám đưa ra những nhận định chắc chắn về 12 nước còn lại trong khối. Liệu
quốc gia nào sẽ trở thành nạn nhân tiếp theo của cuộc khủng hoảng nợ công và tương lai
Eurozone sẽ đi về đâu vẫn còn là một dấu hỏi lớn.
Nguồn tài liệu mà nhóm thu thập thông tin để hoàn thành đề tài gồm:
- Wikipedia
- Vnexpress
- antg.cand.com.vn
- tailieu.vn
- taptritaichinh.vn
10