Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

Báo cáo: Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp khắc phục thất thu thuế ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.38 KB, 52 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – MARKETING
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
CHUYÊN NGÀNH NGÂN HÀNG
BÁO CÁO MÔN THUẾ
ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG, NGUYÊN
NHÂN VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
THẤT THU THUẾ Ở VIỆT NAM
GVHD: THS. Trần Thị Mơ
Lớp: 11DNH2
Nhóm thực hiện : Nhóm 6
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – MARKETING
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
CHUYÊN NGÀNH NGÂN HÀNG
ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG, NGUYÊN
NHÂN VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
THẤT THU THUẾ Ở VIỆT NAM
DANH SÁCH NHÓM:
1. Huỳnh Minh Nguyễn
2. Nguyễn Hửu Duy
3. Trần Khánh Duy
4. Nguyễn Thị Yến Ngọc
5. Huỳnh Thị Kim Phụng
6. Nguyễn Huy Toàn
7. Lưu Bích Trâm
8. Trương Hạnh Thanh Trúc
9. Phan Thị Ngọc Tuyền
10. Hà Ngọc Thúy Vy
11. Hồ Thị Hòa Hợp


Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2014
MỤC LỤC
3
LỜI MỞ ĐẦU
4
CHƯƠNG 1.KHÁI QUÁT VỀ THUẾ Ở VIỆT NAM
1.1. Sơ lược về Thuế
1.1.1. Khái niệm, vai trò
1.1.1.1. Khái niệm:
− Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có
nghĩa vụ phải thực hiện đối với NN, phát sinh trên cơ sở các văn bản
pháp luật do NN ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả
trực tiếp cho đối tượng nộp thuế.
− Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã
hội do chính con người định ra và nó gắn liền với phạm trù NN và
pháp luật.
− Thuế hay thu NSNN là việc NN dùng quyền lực của mình để tập
trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ NSNN nhằm
thỏa mãn các nhu cầu của NN.
− Thuế là số tiền thu của các công dân, hoạt động và tài sản huy động
tài chính cho chính quyền, nhằm tái phân phối thu nhập, hay nhằm
điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội.
− Đóng thuế vừa là quyền lợi được thực thi trách nhiệm công dân đóng
góp cho sự phát triển phồn vinh của đất nước, vừa là nghĩa vụ phải
thực hiện của mỗi công dân.
1.1.1.2. Vai trò:
− Huy động nguồn lực tài chính, đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho nhà nước.
− Pháp luật thuế là công cụ chủ yếu của NN nhằm huy động tập trung
một phần của cải vật chất trong xã hội vào NSNN.
− Thuế là công cụ điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong

phân phối
− Pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của NN đối với nền kinh tế
và đời sống xã hội.
-5-
− Pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế và công bằng xã hội.
1.1.2. Đặc điểm, nguyên tắc chung về thuế
1.1.2.1. Đặc điểm
− Thuế do cơ quan quyền lực NN cao nhất ban hành.
− Thuế là khoản nộp mang tính nghĩa vụ bắt buộc của các pháp nhân và
thể nhân đối với NN không mang tính đối giá hoàn trả trực tiếp.
− Thuế là công cụ phản ánh quan hệ phân phối lại của cải vật chất dưới
hình thức giá trị giữa NN với các chủ thể khác trong xã hội.
− Thuế là tiền đề cần thiết để duy trì quyền lực chính trị và thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ của NN.
− Thuế dựa vào thực trạng của nền kinh tế (GDP, chỉ số giá tiêu dùng,
chỉ số giá sản xuất, thu nhập, lãi suất, ).
1.1.2.2. Nguyên tắc chung
Các sắc thuế đều cần thỏa mãn ba nguyên tắc chung sau đây:
− Trung lập: sắc thuế không được bóp méo các hoạt động sản xuất, dẫn
tới phúc lợi xã hội (tổng hiệu dụng) của nền kinh tế bị giảm đi.
− Đơn giản: việc thiết kế sắc thuế và tiến hành trưng thu thuế phải
không phức tạp và không tốn kém.
− Công bằng: sắc thuế phải đánh cùng một tỷ lệ vào các công dân có
điều kiện như nhau. Giữa các công dân có điều kiện khác nhau, thì
thuế suất cũng cần khác nhau (vì thông thường người có điều kiện tốt
hơn có xu hướng tiêu dùng hàng hóa công cộng nhiều hơn).
-6-
1.1.3. Phân loại
1.1.3.1. Các sắc thuế khi phân loại theo phương thức đánh thuế sẽ

gồm hai loại là thuế trực thu và thuế gián thu
1.1.3.1.1.Thuế trực thu (Direct tax)
Thuế trực thu loại thuế thu trực tiếp vào khoản thu nhập, lợi ích thu được của
các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân. Thuế trực thu là loại thuế mà người, hoạt động, tài
sản chịu thuế và nộp thuế là một Ví dụ: Thuế TNCN, Thuế TNDN…
− Đặc điểm:
• Thuế này có tính công bằng hơn thuế gián thu, vì phần đóng góp về
thuế thường phù hợp đối với khả năng của từng đối tượng,có tính
phân loại đối tượng nộp.
• Thuế trực thu có nhược điểm là hạn chế phần nào sự cố gắng tăng thu
nhập của các đối tượng, vì thu nhập và lợi nhuận càng cao thì phải
nộp thuế càng nhiều.
• Thuế trực thu do người có thu nhập phải trả một cách trực tiếp và có ý
thức cho NN, nên họ cảm nhận ngay được gánh nặng về thuế và có
thể dẫn tới những phản ứng từ chối hoặc trốn thuế.
• Việc quản lí thu thuế này phức tạp và chi phí thường cao so với thuế
gián thu
1.1.3.1.2.Thuế gián thu (Indirect tax)
Thuế gian thu là loại thuế được cộng vào giá, là một bộ phận cấu thành của
giá cả hàng hoá.Thuế gián thu là hình thức thuế gián tiếp qua một đơn vị trung gian
(thường là các DN) để đánh vào người tiêu dùng.Thuế gián thu là thuế mà người
chịu thuế và người nộp thuế không cùng là một. Chẳng hạn, chính phủ đánh thuế
vào công ty (công ty nộp thuế) và công ty lại chuyển thuế này vào chi phí tính vào
giá hàng hóa và dịch vụ, do vậy đối tượng chịu thuế là người tiêu dùng cuối cùng.
Ví dụ: Thuế GTGT, Thuế tiêu thụ đặc biệt, Thuế xuất nhập khẩu
− Đặc điểm:
-7-
• Thuế này dễ thu hơn thuế trực thu vì tránh được quan hệ trực tiếp giữa
người chịu thuế (người tiêu dùng) với cơ quan thu thuế.
• Thuế này dễ điều chỉnh hơn thuế trực thu vì những người chịu thuế

thường không cảm nhận đầy đủ gánh nặng của loại thuế này.
1.1.3.2. Phân loại theo cơ sở tính thuế:
− Thuế thu nhập: cơ sở đánh thuế là thu nhập kiếm được
− Thuế tiêu dùng: cơ sở đánh thuế là giá hàng hoá được tiêu thụ
− Thuế tài sản: cơ sở đánh thuế là giá trị tài sản của các thể nhân, pháp
nhân.
1.1.3.3. Phân loại theo mức thuế
− Thuế đánh theo tỷ lệ % : thuế luỹ tiến, thuế luỹ thoái, thuế tỷ lệ cố
định.
− Thuế đánh trên mức tuyệt đối: Ấn định một số thu bằng tiền trên một
đơn vị tính thuế như trọng lượng, khối lượng , diện tích, đơn vị sản
phẩm.
1.1.3.4. Phân loại theo chế độ phân cấp và điều hành ngân sách
− Thuế trung ương và thuế địa phương.
1.2. Các yếu tố cấu thành một sắc thuế:
1.2.1. Tên gọi
Phản ánh nội dung chính của từng loại thuế và để phân biệt với những loại
thuế khác. Thường đặt tên sắc thuế theo đối tượng đánh thuế (TNDN, TNCN ),
theo từng mặt hàng (thuế rượu, thuế thuốc lá…) hoặc theo nội dung (thuế tiêu thụ
đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu…)
1.2.2. Đối tượng nộp thuế
Là cá nhân hoặc pháp nhân có đối tượng tính thuế, có trách nhiệm phải nộp
− Người nộp thuế : người đem tiền thuế nộp cho cơ quan NN.
− Người chịu thuế: người có thu nhập bị thuế điều tiết.
-8-
1.2.3. Đối tượng chịu thuế
Là những căn cứ để xác định số tiền thuế phải nộp, là cơ sở tính thuế được
thể hiện dưới dạng tiền tệ.
Về cơ bản có 3 đối tượng tính thuế:
− Giá trị hàng hóa, dịch vụ

− Giá trị tài sản
− Thu nhập của DN hoặc cá nhân.
1.2.4. Thuế suất:
Thuế suất là linh hồn của 1 sắc thuế.
− Thuế suất tuyệt đối: là mức thuế suất tính
− Thuế suất tương đối: là mức thuế được tính thuế.
− Thuế GTGT: 0%, 5%, 10%.
− Thuế TTĐB: thuốc lá 65%, rượu 75%,
− Thuế môn bài: 3 trđ, 2 trđ, 1 trđ…
1.2.5. Ưu đãi,miễn giảm thuế
Mục đích khuyến khích phát triển sản xuất, thu hút đầu tư, chuyển dịch cơ
cấu KT
Ưu đãi về thuế suất: Áp dụng thuế suất thấp hơn trong thời gian nhất định
với lĩnh vực, ngành nghề hoặc địa bàn đầu tư
Ưu đãi về miễn thuế, giảm thuế :
Miễn, giảm thuế cho toàn bộ TN hoặc phần TN
cần khuyến khích
Bên cạnh ưu đãi thuế suất, miễn giảm còn có các hình thức khấu hao nhanh,
chuyển lỗ
1.3. Quản lý thuế
1.3.1. Cơ cấu tổ chức ngành thuế Việt Nam
Ở Việt Nam bộ máy quản lý thuế được tổ chức thống nhất từ Trung ương
đến địa phương và chịu trách nhiệm quản lý trong phạm vi cả nước tất cả các loại
-9-
thế, phí và lệ phí (thuế nội địa) cảu NSNN, các loại thu từ hoạt động xuất nhập khẩu
do ngành Hải quan quản lý. Cơ cấu tổ chức ngành thuế ở nước ta như sau:
Bộ Tài chính
Tổng cục Hải quan Tổng cục thuế Kho bạc nhà nước
Cục thuế Cục thuế
Cục thuế

Chi cục thuế
Chi cục thuế
Chi cục thuế
Tổ
Đội
Hình 1-1. Cơ cấu tổ chức ngành thuế Việt Nam
Bộ máy quản lý thuế được tổ chức thống nhất thành hệ thống theo ngành dọc
từ Trung ương đến địa phương.
− Ở Trung ương có Tổng cục thuế trực thuộc Bộ Tài chính.
− Ở các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương có các Cục thuế
trực thuộc Tổng cục thuế, đồng thời chịu sự chỉ đạo song trùng của
Uỷ ban nhan dan cùng cấp.
− Ở các quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và các cấp tương
đương có Chi cục thuế chịu sự chỉ đạo song trùng của Cục thuế và Uỷ
ban nhân dân huyện, thị cùng cấp.
Chức năng, nhiệm vụ của Tổng cục thuế
Tổng cục thuế là tổ chức thuộc Bộ tài chính, thực hiện chức năng quản lý
Nhà nước đối với các khoản thu nội địa theo quy định của pháp luật. Tổng cục thế
có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ chính như sau:
− Trình Bộ trưởng Bộ tài chính: Chiến lược phát triển, quy hoạch dài
hạn, 5 năm và hàng năm của ngành thuế, các văn bản quy phạm pháp
-10-
Chính phủ
luật về quản lý thu thuế; đề xuất và tham gia xây dựng, bổ sung, sửa
đổi các văn bản quy phạm pháp luật về thuế.
− Lập dự toán thu thuế hằng năm theo quy định của Luật NSNN.
− Hướng dẫn, chỉ đạo cấp dưới tổ chức thu thuế và thu khác trên địa bàn
và đảm bảo thu đủ, thu kịp thời vào NSNN.
− Tổ chức thanh tra, kiểm tra, kiểm soát bộ máy thu thuế và các đổi
tượng nộp thuế; xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật.

Chức năng, nhiệm vụ của Cục thuế:
Ở cấp tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương và Cục thuế. Cục thuế
là tổ chức trực thuộc Tổng cục thuế, có chức năng tổ chức thực hiện thu thuế, phí, lệ
phí và các khoản thu khác của NSNN trên địa bàn quản lý theo quy định của pháp
luật. Có các nhiệm vụ chính như sau:
− Chỉ đạo hướng dẫn, tổ chức, thực hiện văn bản pháp quy về thuế,
quản lý công tác thu thuế và thu khác thống nhất trên địa bàn.
− Phân tích, đánh giá công tác quản lí thuế; tham mưu với cấp uỷ,chính
quyền địa phương về lập dự toán thu NSNN, công tác thuế trên địa
bàn; phối hợp chặt chẽ với các ngành cơ quan, đơn vị liên quan để
thực hiện nhiệm vụ được giao.
− Thực hiện các biện pháp nghiệp vụ thu thuế đối với các đối tượng nộp
thuế theo sự phân cấp; hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra các Chi cục thuế
trong việc quản lý thu thuế.
Chức năng, nhiệm vụ của Chi cục thuế
Chi cục Thuế đặt tại các quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương là các đơn vị trực thuộc Cục Thuế, có chức năng quản lý
thu thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác của NSNN trên địa bàn theo đúng quy
định của Pháp luật. Chi cục thuế có các nhiệm vụ chính sau:
− Tổ chức triển khai thực hiện thống nhất các văn bản quy phạm pháp
luật về thuế, quy trình nghiệp vụ quản lý thuế trên địa bàn.
-11-
− Phân tích, đánh giá công tác quản lý thuế, tham mưu với cấp uỷ Đảng,
Chính quyền địa phương về lập dự toán NSNN, công tác thuế trên địa
bàn; phối hợp với các cơ quan, đơn vị trên địa bàn để thực hiện nhiệm
vụ được giao.
− Tổ chức thực hiện các biện pháp thu thuế đối với các tổ chức, các
nhân do Chi cục thuế trực tiếp quản lý: tính thuế, lập sổ thuế, thông
báo thuế, phát hành các lệnh thu thuế, và thu khác theo lênh của pháp
luật thuế; đôn đốc các tổ chức, cá nhân nộp thuế đầy đủ kịp thời vào

kho bạc.
− Thanh tra, kiểm tra, kiểm soát việc kê khai thuế, hoàn thuế, miễn,
giảm thuế, nộp thuế, quyết toán thuế và chấp hành chính sách, pháp
luật thuế đối với các tổ chức và các cá nhân nộp thuế nội bộ cơ quan
thuế và các tổ chức, cá nhân được uỷ nhiệm thu thuế.
Sau đây là những nội dung chính của Quản lý thuế hiện hành tại Việt
Nam.
1.3.2. Khái niệm và mục tiêu quản lý thuế
1.3.2.1. Khái niệm
Quản lý thuế là những biện pháp nghiệp vụ do cơ quan có chức năng thu
NSNN thực hiện, bao gồm: Lập kế hoạch thu, tổ chức thu thuế, kiểm tra, thanh tra,
xử lý phạt vi phạm nhằm đảm bảo thu thuế đầy đủ, kịp thời và đúng luật.
Ngày nay vai trò của thuế ngày càng nâng cao, vì vậy bộ máy quản lý thuế
ngày được hoàn thiện hơn, chuyên nghiệp hơn, hợp tác với đối tượng nộp thuế, giúp
người nộp thuế thể hiện quyền và nghĩa vụ công dân của mình.
1.3.2.2. Mục tiêu của quản lý thuế
Một là, đảm bảo kế hoạch thu thuế đầy đủ, kịp thời và đúng luật nhằm tài trợ
kịp thời cho những chi tiêu công cụ của nhà nước, đồng thời thực hiện chức năng và
nhiệm vụ của nhà nước.
Hai là, nâng cao nhận thức của cán bộ thuế cũng như người nộp thuế, cán bộ
thuế phải có trách nhiệm giúp người nộp thuế hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của
-12-
mình thông qua công tác tiếp xúc, tuyên truyền, tư vấn, giải thích…Vấn đề người
nộp thuế chưa nhận thức đúng về thuế là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng
thất thu thuế và gian lận thuế.
Ba là, cả cơ quan thuế và đối tượng nộp thuế phải tôn trọng pháp luật về thuế
nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung.
1.4. Xử lý vi phạm pháp luật về thuế
Hành vi vi phạm trong lĩnh vực thuế là hành vi do tổ chức, cá nhân vi phạm
những quy định của các luật thuế, pháp lệnh về thuế, những quy định về lập chứng

từ mua bán hàng hoá, mở và ghi sổ kế toán, những quy định về các khoản thu phí,
lệ phí và các quy định hiện hành về các khoản thu khác của ngân sách Nhà nước.
1.4.1. Đối tượng áp dụng
Các nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật về thuế (người vi
phạm), không phân biệt cố ý hoặc vô ý, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt
Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác.
Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm pháp luật về thuế do
thực hiện các hành vi cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm pháp luật
về thuế đối với mọi vi phạm pháp luật do mình gây ra.
1.4.2. Các hành vi vi phạm pháp luật về thuế
Hành vi vi phạm quy định về thủ tục thuế gồm: vi phạm về chậm nộp hồ sơ
đăng ký thuế, chậm thông báo thay đổi thông tin so với thời hạn quy định; vi phạm
lập, khai không đầy đủ các nội dung trong hồ sơ khai thuế; vi phạm về chậm nộp hồ
sơ khai thuế so với thời hạn quy định; vi phạm các quy định về cung cấp thông tin
liên quan đến xác định nghĩa vụ thuế; vi phạm trong việc chấp hành quyết định
kiểm tra, thanh tra thuế, cưỡng chế thi hành quyết đinh hành chính thuế.
Hành vi vi phạm chậm nộp tiền thuế gồm: khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế
phải nộp hoặc tăng số thuế được hoàn; trốn thuế, gian lận thuế, vi phạm của cơ quan
thuế, công chức thuế trong quản lý thuế; vi phạm của Ngân hàng thương mại, tổ
chức tín dụng khác, người bảo lãnh nộp tiền thuế, Kho bạc nhà nước, cá nhân, tổ
-13-
chức có liên quan trong việc thực hiên jcacs quy định của Luật Quản lý thuế; vi
phạm về thì hành quyết định cưỡng chết thi hành quyết định hành chính thuế.
-14-
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THẤT THU THUẾ CỦA VIỆT NAM
2.1. Thực trạng thất thu thuế của Việt Nam
2.1.1. Thực trạng chung của nền kinh tế
Trong bối cảnh kinh tế khó khăn, nhiệm vụ thu ngân sách của ngành Tài
chính là hết sức nặng nề. Trước tình hình đó, toàn Ngành đang triển khai đồng bộ
các giải pháp quản lý thu, chống thất thu ngân sách, hạn chế nợ đọng thuế nhằm

ngăn chặn các hành vi gian lận thuế, vi phạm trong sản xuất kinh doanh, nâng cao
tính tuân thủ pháp luật của người nộp thuế…
Những khó khăn chung của nền kinh tế đã tạo áp lực lớn thu NSNN của
ngành Thuế nói riêng và ngành Tài chính nói chung trong năm 2013. Trong khi đó,
nhiệm vụ thu NSNN của ngành Thuế lại đang đối mặt với thực trạng trốn thuế và
gian lận thuế ngày càng tinh vi và phức tạp. Theo báo cáo của Tổng cục Thuế, số
thu NSNN của ngành Thuế trong 8 tháng đầu năm 2013 ước đạt 390.712 tỷ đồng,
tương đương 60,6% so với dự toán, bằng 107,2% so với cùng kỳ năm 2012. Trong
tháng 8/2013, Ngành thu ước đạt 38.100 tỷ đồng, bằng 5,9% so với dự toán, bằng
101,8% so với thực hiện cùng kỳ năm 2012.
Báo cáo sơ kết công tác 6 tháng đầu năm của Tổng cục Thuế năm 2013 cho
thấy, Thanh tra Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế đã tiến hành nhiều cuộc thanh tra,
kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về thuế, trong đó có nội dung
hoàn thuế GTGT tại 7 Cục Thuế (TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Bình
Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Bắc Ninh). Toàn Ngành đã tiến hành
1.064 cuộc kiểm tra nội bộ (riêng kiểm tra chuyên đề về thuế GTGT là 577 cuộc),
đạt 53% kế hoạch, qua đó kiến nghị truy thu ước đạt 2,37 tỷ đồng nộp NSNN.
Riêng trong tháng 7/2013, Tổng cục Thuế kiểm tra việc hoàn thuế GTGT tại 2 Cục
Thuế An Giang và Long An. Kết quả, qua thanh, kiểm tra hồ sơ khai thuế tại các
cục thuế đã phát hiện NNT kê khai thiếu thuế GTGT số tiền là 65,8 triệu đồng và
thuế TNDN phải tạm kê khai bổ sung 330 triệu đồng.
Trong 5 tháng đầu năm 2013, ngành Thuế đã thực hiện thanh, kiểm tra
18.198 DN, đạt 25,2% nhiệm vụ kế hoạch, tăng 6,1% so với cùng kỳ năm 2012; Số
thuế xử lý tăng thu qua thanh tra, kiểm tra là 3.185,9 tỷ đồng, bằng 99,7% so cùng
kỳ năm 2012; Số tiền nộp vào NSNN là 2.342,8 tỷ đồng, bằng 73,5% so với số truy
thu và phạt, tăng 54,5% so cùng kỳ. Trong đó, Ngành đã thanh tra, kiểm tra 382 DN
lỗ, có dấu hiệu chuyển giá và DN có hoạt động giao dịch liên kết; truy thu, truy
hoàn, phạt là 127,24 tỷ đồng, giảm khấu trừ qua thanh tra là 16,8 tỷ đồng, giảm lỗ
qua thanh tra là 444,1 tỷ đồng.
Ngoài ra, trong 6 tháng đầu năm 2013, toàn Ngành đã thu được 30% số nợ

thuế tại thời điểm 31/12/2012 chuyển sang. Tuy nhiên, tổng số nợ 6 tháng đầu năm
vẫn ở mức cao với con số 64.632 tỷ đồng, tăng 15.497 tỷ đồng (tăng 32%) so với
thời điểm 31/12/2012, trong đó chiếm tỷ trọng lớn nhất là 2 nhóm nợ: Tiền thuế nợ
đến 90 ngày chiếm 27,5%, tăng 32,8% so với thời điểm 31/12/2012; Tiền thuế nợ
trên 90 ngày chiếm tỷ trọng 54,8%, tăng 26,9% so với thời điểm 31/12/2012. Cùng
với đó, cơ quan thuế đã thực hiện gia hạn nộp thuế GTGT cho 105.037 DN, với số
tiền là 4.428,5 tỷ đồng; gia hạn nộp thuế TNDN cho 45.037 DN, với số tiền thuế
được gia hạn là 951,7 tỷ đồng.
Những khó khăn chủ yếu tác động đến kết quả thu của ngành Thuế bao gồm
hàng hóa tiêu thụ chậm, lượng hàng tồn kho vẫn ở mức cao, tình trạng DN ngừng
hoạt động kinh doanh vẫn tiếp tục xảy ra, thị trường bất động sản chưa có dấu hiệu
phục hồi Không chỉ có vậy, lợi dụng tình hình kinh tế khó khăn, không ít DN sử
dụng nhiều “mánh” để gian lận thuế như: kê khai thu nhập giảm để nộp thuế ít, khai
lỗ để trốn thuế, lập công ty “ma” để tự in hóa đơn thuế giá trị gia tăng GTGT Đặc
biệt, hiện tượng DN FDI kê khai lỗ đang khá phổ biến (khoảng 50% tổng số DN
FDI đang hoạt động trên cả nước, trong đó có nhiều DN kê khai lỗ liên tục trong 3
năm). Thực trạng này đã gây tổn thất rất nhiều cho ngân sách nhà nước, chúng ta sẽ
tìm hiểu rõ vấn đề này ngay sau đây.
2.1.2. Tình hình trốn thuế của các doanh nghiệp FDI
Hiện tượng DN FDI kê khai lỗ đang khá phổ biến (khoảng 50% tổng số DN
FDI đang hoạt động trên cả nước, trong đó có nhiều DN kê khai lỗ liên tục trong 3
năm). Điển hình tại tỉnh Bình Dương - địa phương thu hút FDI khá tốt, năm 2010,
trong tổng số 1.490 DN có tới 754 DN FDI kê khai lỗ, chiếm 50,6%. Đáng chú ý,
dù làm ăn thua lỗ trong thời gian dài nhưng nhiều DN vẫn không ngừng mở rộng
đầu tư.
Từ năm 2006 đến nay, hiện tượng chuyển giá của các DN FDI ngày càng
tinh vi hơn, với việc điều chuyển lợi nhuận từ nơi có thuế suất cao sang nơi có thuế
suất thấp hơn để tránh thuế. Những vụ việc chuyển giá “đình đám” thời gian qua
của Coca - Cola, Adidas, Metro Cash & Carry, Keangnam và Nestlé liên tục báo
lỗ.

Phải thừa nhận rằng hoạt động của khu vực DN FDI đã góp phần không nhỏ
đến sự đổi thay, phát triển lớn mạnh của nền kinh tế Việt Nam, giải quyết việc làm
cho hàng triệu lao động. Tuy nhiên, chính sách ưu đãi đầu tư của nhà nước, đang
bộc lộ nhiều hạn chế, cơ quan nhà nước không chỉ đau đầu, nhức nhối trước vấn
nạn chuyển giá, lỗ giả, lãi thật, một bộ phận DN FDI đã bỏ trốn, “xù nợ” thuế xuất
nhập khẩu…
Phản ánh của nhiều cục hải quan cho thấy, DN FDI trốn nợ
thuế đã ở mức đáng lo ngại, số nợ thuế mỗi vụ lên đến hàng chục tỷ đồng.
Điển hình như trường hợp của Công ty trách nhiệm hữu hạn Diing Long Việt
Nam tại Bình Dương. Công ty này nợ thuế nhập nguyên liệu để sản xuất hàng xuất
khẩu lên tới hơn 17 tỷ đồng. Số tiền này chưa kịp thu hồi thì ban giám đốc của
Diing Long đã về nước. Công ty rơi vào tình trạng vắng chủ trong khi tài sản đã thế
chấp tại ngân hàng. Hiện công ty chỉ còn một nhà xưởng trên diện tích 3 ha tại Mỹ
Phước ước tính trị giá 70 tỷ đồng, song, tài sản này đã được thế chấp tại ngân hàng
với số tiền vay trên 100 tỷ đồng. Với trường hợp như vậy, cơ quan hải quan gần
như "bó tay" để đòi được thuế của doanh nghiệp.
Đối tượng DN FDI bỏ trốn và nợ thuế chủ yếu tập trung ở các DN sản xuất
xuất khẩu. Theo lý giải của một số chuyên gia kinh tế, do biến động kinh tế, sản
xuất xuất khẩu khó khăn, giá nhân công tại Việt Nam cũng không còn cạnh tranh so
với nhiều nước trong khu vực, nhiều DN FDI lợi dụng cơ hội này để “tháo chạy”.
Thực tế DN FDI bỏ trốn, xù nợ thuế không còn là cá biệt. Hải quan Hải
Phòng mới đưa ra thống kê, tại đơn vị hiện còn 14 DN nợ thuế có chủ là người
nước ngoài đã bỏ trốn, với tổng số nợ gần 11,7 tỷ đồng. Các DN này mở tờ khai
trong khoảng thời gian từ năm 2003 trở lại đây, số nợ của các DN bao gồm nợ thuế
NK, thuế GTGT và một số trường hợp nợ tiền phạt chậm nộp. Trong số 14 DN này,
DN có số nợ nhiều nhất trên 7,2 tỷ đồng (gần 3,7 tỷ thuế GTGT và hơn 3,5 tỷ thuế
NK) là Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Kenmark.
Lãnh đạo Hải quan Hà Nội cho biết, đơn vị đang rà soát các nguồn nợ thuế,
tập trung vào đối tượng DN FDI. Còn theo Cục Hải quan TP.Hồ Chí Minh, hiện còn
1.114 DN nợ thuế bỏ trốn khỏi địa chỉ đăng kí kinh doanh, không kinh doanh tại địa

chỉ đăng ký, ngưng và tạm ngưng hoạt động. Số DN nêu trên nợ thuế XNK tổng
cộng trên 416 tỷ đồng.
Theo Hải quan Đồng Nai, những DN phát sinh nợ đọng trên địa bàn còn có
thể rà soát và đôn đốc kịp thời, nhưng với những trường hợp DN ngoài tỉnh, đặc
biệt là DN FDI các biện pháp xem chừng không hiệu quả. Việc kiểm chứng hoạt
động của các DN này để đôn đốc thuế rất tốn kém về chí phí đi lại, nhân lực để theo
dõi. Trong khi đó, việc phối hợp giữa các bộ, ngành, cơ quan chức năng còn rời rạc,
mang tính cục bộ, chưa hỗ trợ tích cực cho yêu cầu quản lý thuế.
Tại Bình Dương và Đồng Nai, rất nhiều trường hợp DN nước ngoài nợ thuế,
bỏ trốn về nước không có cách nào thu hồi được thuế. Hầu hết các DN đều thế chấp
tài sản tại ngân hàng, khi DN có vấn đề khó khăn trong hoạt động, ngân hàng thu
hồi tài sản, cơ quan hải quan không có nguồn để trích thu hồi thuế.
Hiện nay, Hải quan Bình Dương và Đồng Nai cũng đang vướng vào vụ khó
thu hồi thuế nợ trên 22 tỷ đồng của Công ty CP điện GREE (trụ sở tại KCN Việt
Nam - Singapore). DN đã ngưng hoạt động, lãnh đạo DN "bặt vô âm tín".
Không có cách nào thu hồi nợ thuế 13 tỷ đồng đối với trường hợp Công ty
TNHH Woolim Vina (Hàn Quốc ngừng hoạt động từ cuối 2008), Hải quan Bình
Dương cũng đã phải đề nghị Tổng cục Hải quan hướng dẫn đơn vị yêu cầu mở thủ
tục phá sản đối với DN này. Ngày 4/11/2010 Cục Hải quan Bình Dương đã đề nghị
cơ quan quản lý xuất nhập cảnh dừng xuất cảnh đối với chủ DN để phối hợp xử lý
số nợ thuế của công ty. Tuy nhiên, vụ việc cũng vô cùng phức tạp liên quan đến tòa
án, ngân hàng Việt Nam, Ngân hàng LD Shinhan Vina và công ty Woolim
ind.Co.,Ltd (Công ty mẹ Công ty TNHH Woolim Vina) tại Hàn Quốc…
2.2. Nhận diện các hành vi gian lần thuế
2.2.1. Các hành vi gian lận thuế nội địa
2.2.1.1. Bỏ ngoài sổ sách kế toán
Đây là thủ đoạn khá phổ biến hiện nay. Theo đó, người nộp thuế thường sử
dụng đồng thời hai hệ thống sổ sách kế toán, một hệ thống sổ kế toán nội bộ phản
ánh đầy đủ các giao dịch kinh tế, hệ thống kế toán còn lại chỉ phản ánh một phần
các giao dịch kinh tế để khai thuế. Kiểu hành vi này thường xảy ra ở các DN kinh

doanh hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bán lẻ, ăn uống, khách sạn, xây dựng
dân dụng và sản xuất nhỏ. Đây chính là một kiểu hoạt động kinh tế ngầm mà môi
trường thuận lợi của nó là nền kinh tế tiền mặt.
Một số vụ trốn thuế bị phanh phui thời gian qua cho thấy hành vi này khá
phổ biến và gây thất thu ngân sách. Chẳng hạn, Công ty TNHH thông tin tín nhiệm
và xếp hạng DN Việt Nam đã trốn thuế 1.028 triệu đồng qua hành vi không ghi sổ
kế toán tiền bán quyền mua căn hộ; Công ty Viễn thông điện lực bán hàng không
xuất hóa đơn, không phản ánh vào sổ kế toán để trốn thuế 37 tỷ đồng.
2.2.1.2. Tạo giao dịch bán hàng giả mạo
Mục tiêu của thủ đoạn này là chiếm đoạt tiền NSNN thông qua hoàn thuế
hoặc tiếp tay cho hành vi tham nhũng NSNN của một bộ phận công chức được giao
nhiệm vụ mua sắm tài sản, hàng hóa, dịch vụ cho cơ quan nhà nước. Thủ đoạn này
cũng liên quan đến hành vi giao dịch mua hàng giả mạo sẽ phân tích dưới đây nhằm
giúp cho bên mua tăng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ và giảm chi phí tính thuế
thu nhập DN.
Điển hình cho thủ đoạn này là hành vi xuất khẩu khống nhằm chiếm đoạt
tiền qua hoàn thuế GTGT từ NSNN. Xuất khẩu khống chủ yếu diễn ra đối với
phương thức xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới. Dạng gian lận này đã có một thời
bị ngăn chặn đấu tranh quyết liệt nên giảm bớt nhưng trong vài năm gần đây lại có
xu hướng bùng phát với những hình thức tinh vi hơn, đặc biệt có dấu hiệu trầm
trọng là ở các tỉnh giáp ranh Campuchia. Lợi dụng hệ thống sông ngòi chằng chịt để
quay vòng hàng hóa. Sau khi làm thủ tục xuất khẩu sang nước bạn thì lại đưa hàng
hóa quay trở lại Việt Nam không qua cửa khẩu, rồi sau đó lại làm thủ tục xuất khẩu.
Trong trường hợp này, các đối tượng cấu kết với đối tác nước ngoài để hoàn tất các
thủ tục để đủ điều kiện đề nghị hoàn thuế GTGT. Cùng với đó, các đối tượng này
cũng áp dụng chiêu thức mua hóa đơn để hợp thức hóa thuế GTGT đầu vào và chi
phí tính thuế thu nhập DN. Không phải ngẫu nhiên mà kim ngạch xuất khẩu hàng
hóa từ Việt Nam sang Campuchia tăng nhanh đáng ngờ, kèm theo đó, số tiền hoàn
thuế GTGT đối với hàng hóa xuất khẩu sang Campuchia cũng tăng nhanh chóng:
Năm 2011 tăng 196,4% so với năm 2010, năm 2012 tăng 190% so với năm 2011.

Ngoài xuất khẩu khống, giao dịch bán hàng hóa, dịch vụ giả mạo còn được
thực hiện chủ yếu thông qua các hợp đồng bán hàng khống; các hợp đồng cung cấp
dịch vụ khống và xuất hóa đơn khống. Hành vi này được thực hiện ở cả DN “ma”
và cả ở các DN đang hoạt động kinh doanh bình thường.
2.2.1.3. Tạo giao dịch mua hàng giả mạo
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tính trung bình hằng năm có khoảng
10.000 mẫu hàng hóa được phân tích phân loại. Trong đó, mẫu khai đúng chiếm
khoảng 47%, sai khoảng 53%, giảm thuế khoảng 7,4%.
Đây là hành vi trốn thuế khá phổ biến hiện nay, thực tế DN không có khoản
chi này nhưng đã tự tạo ra chứng từ để hợp pháp hóa khoản chi không có thực, vì
thế có thể gọi đây là chi khống. Chi khống thể hiện qua những bảng kê thanh toán
giả mạo với chữ ký giả, hợp đồng lao động giả mạo (có trường hợp tên người lao
động không có thật; có trường hợp tên người lao động là có thật nhưng thực sự
không làm việc cho DN đó) và thể hiện ở những hóa đơn đi mua của cơ sở kinh
doanh khác. Bằng hành vi này, DN không chỉ trốn thuế thu nhập DN mà còn trốn cả
thuế GTGT thông qua việc khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào. Đối với những hóa
đơn đi mua, để phát hiện, cơ quan thuế phải làm tốt công tác đối chiếu, xác minh.
Thực tế thời gian qua, thông qua công tác đối chiếu hóa đơn, cơ quan thuế các địa
phương đã phát hiện khá nhiều trường hợp gian lận. Chẳng hạn, năm 2012, Cục
Thuế Hà Nội đã gửi 10.200 phiếu xác minh hóa đơn, gồm 28.444 số; kết quả trả lời
xác minh 7.570 phiếu, chiếm 74,21% số phiếu gửi đi. Qua xác minh hóa đơn và
thanh tra, kiểm tra, phát hiện 786 hóa đơn vi phạm, truy thu thuế GTGT là 1.198
triệu đồng, thuế thu nhập DN là 1.658 triệu đồng và xử phạt hành vi trốn thuế 646
triệu đồng, xử phạt hành chính 369 triệu đồng”. Tuy nhiên, với công nghệ đối chiếu
hóa đơn thủ công như hiện nay thì hiệu quả còn rất thấp, bởi vì tỷ lệ hóa đơn có thể
đối chiếu so với số hóa đơn cần đối chiếu là quá nhỏ. Hơn nữa, trong trường hợp
DN bán hóa đơn sử dụng hóa đơn của những khách hàng không lấy để bán cho
những người có nhu cầu mua hóa đơn thì việc đối chiếu cũng không đem lại kết
quả.
Thủ đoạn tạo giao dịch mua hàng giả mạo không hoàn toàn trùng với thủ

đoạn thành lập DN “ma”, do việc tạo giao dịch mua hàng giả mạo không chỉ thực
hiện thông qua hành vi mua hóa đơn, song giữa chúng có mối liên hệ mật thiết. DN
“ma” là DN được thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp nhưng thực tế
không sản xuất kinh doanh, chỉ nhằm mục đích đủ điều kiện để được phát hành hoá
đơn, từ đó bán hóa đơn cho các đối tượng khác hoặc trung gian lập hoá đơn mua
bán khống, lập hồ sơ giả mạo để xin hoàn thuế. Mức độ thiệt hại do những hoá đơn
trôi nổi này gây ra là không thể kiểm soát được, bởi nó hoàn toàn phụ thuộc vào số
chi phí đầu vào cần hợp thức hoá của DN mua bán hoá đơn.
Hiện nay, hình thức gian lận này càng được tổ chức tinh vi hơn và có hệ
thống, tuy nhiên có một số đặc điểm mang tính định vị như: Các DN “ma” thường
thành lập dưới dạng công ty TNHH hay DN tư nhân; chủ DN thường là người có hộ
khẩu thường trú ở địa phương khác đến đăng ký thành lập DN, hạn chế về trình độ
học vấn, không am hiểu pháp luật; văn phòng giao dịch thường đi thuê thời hạn
ngắn, trụ sở chật hẹp, tài sản không tương xứng với mô hình tối thiểu của một DN
bình thường; đăng ký kinh doanh nhiều ngành nghề, chủ yếu là thương mại, dịch vụ
tổng hợp, những ngành nghề không cần phải đăng ký vốn pháp định và không bắt
buộc có chứng chỉ hành nghề; doanh thu lớn nhưng chênh lệch giữa thuế GTGT đầu
vào và thuế GTGT đầu ra ít nên kê khai thuế thấp, thậm chí có thuế GTGT phải nộp
âm nhiều kỳ nhưng không làm thủ tục xin hoàn thuế…
2.2.1.4. Ghi giá bán thấp hơn giá thực tế
Hành vi này được gọi là “down” giá. Đây là hành vi ghi giá bán trên hóa đơn
và kê khai doanh thu tính thuế thấp hơn giá khách hàng thực tế thanh toán. Hành vi
này thường gặp ở các DN kinh doanh nhà hàng khách sạn, vận tải tư nhân, xăng
dầu, kinh doanh vật liệu xây dựng, bán ô tô và xe máy, hàng trang trí nội thất Các
công ty xây dựng (nhà dân và đơn vị xây dựng vãng lai) khi thi công các công trình
ở các địa phương khác hay xây nhà tư nhân thường khai báo không trung thực,
không kê khai hoặc giấu bớt một phần công trình. Hành vi gian lận này làm giảm
thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) phải nộp, gây ảnh hưởng
không nhỏ đến số thu ngân sách hàng năm.
Để chống hành vi “down” giá ô tô và xe máy, Bộ Tài chính đã ban hành

Thông tư 71/2010/ TT-BTC hướng dẫn ấn định thuế đối với cơ sở kinh doanh ô tô,
xe hai bánh gắn máy ghi giá bán ô tô, xe hai bánh gắn máy trên hóa đơn giao cho
người tiêu dùng thấp hơn giá giao dịch thông thường trên thị trường. Đây là căn cứ
pháp lý quan trọng để cơ quan thuế đấu tranh ngăn chặn tình trạng “down” giá
nhằm trốn thuế ở hai mặt hàng này. Tuy vậy, còn một số lĩnh vực khác chưa có biện
pháp quản lý hữu hiệu.
2.2.1.5. Hạch toán kế toán và kê khai thuế sai quy định
Mục tiêu chủ yếu của hành vi hạch toán kế toán sai quy định pháp luật là che
giấu doanh thu tính thuế, hạch toán tăng chi phí tính thuế thu nhập DN và tăng thuế
GTGT đầu vào được khấu trừ. Các kiểu hạch toán sai chế độ kế toán rất đa dạng.
Khi bị kiểm tra phát hiện, cán bộ kế toán có thể lấy cớ là hạch toán nhầm để tránh
bị phạt vì hành vi trốn thuế. Kế toán có thể hạch toán giảm trừ doanh thu thông qua
các hình thức giảm giá, chiết khấu không đúng quy định. Kế toán có thể hạch toán
sai tài khoản kế toán để che giấu doanh thu.
Chẳng hạn, khi phát sinh doanh thu bán hàng, lẽ ra phải hạch toán vào tài
khoản 511 thì kế toán lại hạch toán vào các tài khoản kế toán khác, như hạch toán
vào tài khoản 338, 138 Một số DN nhượng bán, trao đổi vật tư không ghi nhận
doanh thu mà chỉ hạch toán thay đổi cơ cấu tài sản lưu động bằng các bút toán nhập,
xuất, thu, chi hoặc công nợ phải thu, phải trả; bán phế liệu không xuất hóa đơn,
không ghi nhận doanh thu hoặc hạch toán giảm chi phí sản xuất.
Các dạng hạch toán sai nhằm tăng chi phí được trừ tính thuế thu nhập doanh
nghiệp và tăng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ chủ yếu là: hạch toán toàn bộ chi
phí mua sắm tài sản cố định, xây dựng cơ bản vào chi phí quản lý DN; đưa khấu
hao tài sản cố định phúc lợi vào chi phí khấu hao tài sản cố định; tài sản cố định hết
thời gian khấu hao vẫn trích khấu hao; hạch toán vào chi phí được trừ các khoản chi
từ thiện, các khoản chi thuộc nguồn kinh phí khác đài thọ, chi mang tính chất tiêu
dùng cá nhân của chủ DN
Hành vi gian lận này chỉ có thể bị phát hiện qua kiểm tra báo cáo quyết toán
thuế hoặc qua thanh tra tại cơ sở kinh doanh. Muốn phát hiện được hành vi này, cán
bộ thanh tra, kiểm tra phải vững vàng về nghiệp vụ kế toán và phải nhanh nhạy

trong đánh giá báo tài chính của DN.
2.2.2. Các hành vi gian lận thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
Trong điều kiện các hoạt động thương mại quốc tế ngày càng gia tăng, kéo
theo sự tăng trưởng không ngừng của kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu, đồng thời,
các hành vi gian lận về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu cũng gia tăng
đáng kể về hình thức gian lận, số vụ gian lận và quy mô số thuế gian lận.
Theo thống kê của cơ quan Hải quan, gian lận thuế trong hoạt động xuất
khẩu, nhập khẩu ngày càng gia tăng và có diễn biến phức tạp với các phương thức,
thủ đoạn gian lận thuế ngày càng tinh vi, thay đổi theo hướng lợi dụng những bất
cập trong quy trình thủ tục hải quan và sự thay đổi chính sách mặt hàng Trong đó,
phổ biến nhất là các hành vi buôn lậu, gian lận, trốn thuế về mặt hàng, số lượng, mã
hàng, xuất xứ, trị giá tính thuế hay lợi dụng các chính sách ưu đãi, ân hạn thuế hoặc
nợ thuế để trốn thuế. Cụ thể như sau:
2.2.2.1. Buôn lậu
Đây là hành vi buôn bán trái phép qua biên giới những loại hàng hoá cấm,
không khai báo, tránh sự quản lý của hải quan và trốn nghĩa vụ thuế. Thời gian qua,
việc buôn bán, vận chuyển, tiêu thụ hàng nhập lậu, hàng cấm có diễn biến phức tạp,
với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, khó kiểm soát. Hàng nhập lậu chủ
yếu là hàng tiêu dùng như quần áo, vải, giày dép, đồ chơi trẻ em, rượu, bia và các
loại nước giải khát, hàng điện máy gia dụng, điện lạnh, thực phẩm… Sau khi nhập
lậu vào Việt Nam, các mặt hàng này được xé nhỏ, vận chuyển bằng xe khách, xe tải
và được hợp pháp hoá bằng hệ thống hoá đơn mua qua bán lại giữa các DN.
Bên cạnh hoạt động buôn lậu nêu trên, lợi dụng sự thông thoáng về thủ tục
hải quan, nhiều chủ hàng đã thực hiện hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu nhưng
không khai báo đầy đủ các mặt hàng hoặc cố tình khai thiếu số lượng hàng xuất
khẩu, nhập khẩu để không phải nộp thuế.
2.2.2.2. Khai sai chủng loại hàng hoá
Với sự gia tăng của khối lượng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trong khi
nguồn lực của cơ quan hải quan có hạn và thực hiện yêu cầu đơn giản, nhanh
chóng, thuận lợi trong thủ tục hải quan, cơ quan hải quan chỉ tiến hành kiểm tra

thực tế hàng hóa khi có nghi vấn hoặc có mức độ rủi ro cao. Do đó, việc phân loại,
khai báo và áp mã hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu để tính thuế phụ thuộc rất lớn vào
mức độ tuân thủ của người nộp thuế. Thực tế thời gian qua, nhiều chủ hàng đã lợi
dụng các vấn đề trên để thực hiện gian lận thuế nhập khẩu bằng việc khai báo sai
tên hàng, sai mã số hàng hóa. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tính trung
bình hằng năm có khoảng 10.000 mẫu hàng hóa được phân tích phân loại. Trong
đó, mẫu khai đúng chiếm khoảng 47%, sai khoảng 53%, giảm thuế khoảng 7,4%.
Các hành vi thường gặp là:
− Thứ nhất, Cố tình khai sai tên hàng hóa, chủng loại hàng hóa nhập
khẩu nhằm mục đích giảm số thuế phải nộp. Chủ yếu là khai sai mã số
hàng từ mã hàng có thuế suất cao sang mã hàng có thuế suất thấp.
Nhiều trường hợp, người nộp thuế lợi dụng sự phức tạp của các hàng
hóa là các hỗn hợp, các hóa chất khó phân biệt, xác định bằng cảm
quan để khai theo hướng có lợi cho mình.
− Thứ hai, Người nộp thuế gian lận thuế bằng cách nhập khẩu hàng hóa
là sản phẩm hoàn chỉnh nhưng lại tháo bớt một số bộ phận để trở
thành hàng hóa chưa hoàn thiện nhằm hưởng thuế suất thấp của hàng
linh kiện.
2.2.2.3. Khai sai xuất xứ hàng hóa nhập khẩu
Thuế suất thuế nhập khẩu của Việt Nam được phân biệt theo xuất xứ hàng
hóa nhập khẩu. Lợi dụng việc áp dụng thuế suất ưu đãi hoặc thuế suất ưu đãi đặc
biệt đối với các hàng hóa có xuất xứ từ các nước, vùng lãnh thổ, khu vực thị trường
đã có thỏa thuận về ưu đãi tối huệ quốc hay ưu đãi đặc biệt với Việt Nam, các chủ
hàng hóa cố tình khai sai xuất xứ hàng hóa nhập khẩu và làm các giấy chứng nhận
xuất xứ (C/O) giả để được hưởng các mức thuế suất ưu đãi, ưu đãi đặc biệt.
2.2.2.4. Gian lận giá tính thuế
Gian lận thuế trong hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu thông qua giá tính thuế
là hành vi rất phổ biến hiện nay. Các hành vi gian lận thường được các chủ hàng
thực hiện dưới các hình thức sau:

×