Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

NHỮNG bài TIẾNG ANH học THUẬT DÀNH CHO học VIÊN CAO học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.33 KB, 18 trang )

NHỮNG BÀI TIẾNG ANH HỌC THUẬT DÀNH CHO HỌC VIÊN CAO
HỌC
Bài 1
How do people earn their living?
1.The third type of economic activity, the
tertiary sector, generates wealth through the
selling of goods and services. Tertiary
activities usually include wholesale and
retail selling, educational and medical
services, administrative and governmental
activities, and the transmission of
information. Although sometimes this
category is divided, with the services
involing communication and information
being called the quaternary sector, the
differentiation is not emphasized in this
chapter.
Con người kiếm sống bằng cách nào
1. Loại hình thứ 3 của hoạt động kinh tế hay
còn gọi là khu vực thứ 3, tạo ra của cải
thông qua việc bán hàng hóa và các dịch vụ.
Các hoạt động trong ngành kinh tế thứ 3
thường bao gồm bán buôn và bán lẻ, giáo
dục và dịch vụ y tế, các hoạt động quản lý,
hành chính và truyền thông. Mặc dù đôi khi
nhóm này được phân chia theo cách mà ở đó
với các dịch vụ liên quan đến truyền thông
và thông tin được gọi là khu vực thứ 4, tuy
nhiên sự khác nhau này không được nhấn
mạnh trong chương này.
2.A map of tertiary activities, when based


on the percentage of workers angaged in
services, does not display the same pattern
of contrast between the more developed and
less developed nations as do primary and
secondary activities ( Figure 10-23). For
example, the percentage of workers exceeds
50 in the relatively rich countries of
Canada, Australia and Sweden as in the less
developed countries of Colombia and
Jodan.Included in the middle category of
2. Một bản đồ của các hoạt động kinh tế thứ
3, khi à dựa trên tỉ lệ lao động tham gia vào
các dịch vụ, đã không thể hiện một mô hình
tương phản giữa các quốc gia phát triển và
các quốc gia kém phát triển như ở các hoạt
động kinh tế thứ nhất và thứ 2 ( hình minh
họa 10-23). Chẳng hạn , Ở những nước
tương đối giàu có như Canada, Úc, Thụy
Điển và những nước kém phát triển hơn như
Colombia và Jordan, tỷ lệ lao động đểu
vượt quá 50%. Những nơi có nhóm lao động
1
workers in the service sector are Eastern
Europe and the Soviet Union, which are
centrally planned economies de-
emphasizing consumerism.
chiếm vị trí trung bình trong khối dịch vụ
Đứng ở giữa nhóm tham gia lao động trong
khu vực dịch vụ là các nước Đông Âu và
Liên Xô cũ, các nước mà nền kinh tế kế

hoạch tập trung không chú trọng tới sự tiêu
dùng.
3. There are significant differences,
however, between the more developed and
less developed countries in types of
services. In affluent countries, the
proportion of the population employed in
tertiary activities has increased over the
th
20
century ( and continues to increase ) as
mechanization has reduced labor
requirements in agriculture and
manufacturing. In fact, a nation may be
characterized as a post – industrial society if
the relative importance of its economy has
shifted from manufacturing to services. By
contrast, in poor countries, a large tertiary
sector in the economy is not the expression
of an affluent, automated society. Quite the
opposite. Where manufacturing jobs are
few, many persons attempt to earn some
money by selling cheap goods on the streets
or by performing services for richer
inhabitants. It takes little capital to be a
small- scale trader and little experience to
3.Tuy nhiên, có những sự khác nhau đáng kể
giữa các nước phát triển và các nước kém
phát triển về các loại hình dịch vụ. Ở các
nước giàu có, tỉ lệ dân số tham gia làm việc

ở các hoạt động kinh tế thứ 3 đã tăng trong
20 năm qua ( và còn tiếp tục tăng) vì cơ khí
hóa dã làm giảm yêu cầu lao động trong
nông nghiệp và sản xuất. Trên thực tế, một
quốc gia có thể được coi là xã hội hậu công
nghiệp nếu tỉ trọng nền kinh tế của nước đó
chuyển từ sản xuất sang dịch vụ. Ngược lại,
ở các nước nghèo, một khu vực kinh thế thứ
3 rộng lớn trong nền kinh tế không phải là
biểu hiện của một xã hội tự động giàu có.
Hoàn toàn đối lập. Ở những nơi các công
việc sản xuất rất ít, thì nhiều người lại cố
gắng kiếm tiền bằng cách bán hàng hóa rẻ
trên phố hoặc cung cấp các dịch vụ cho
người giàu có. Người ta chỉ cần bỏ ra 1 số
vốn nhỏ để trở thành một hộ kinh doanh nhỏ
và chút ít kinh nghiệm để trở thành người
giúp việc gia đình.
2
be a domestic servant.
Bài 2
Manufacturing in the Less Developed
Countries
Less than 10 percent of the
world's manufacturing output comes
from the developed nations, with over
half of that from only six countries
( India, Brazil, Argentina, Mexico,
South Korea and venezuela). However,
the share of the world 's manufacturing

occurring within the less developed
nations is growing, as well as the
percentage of the exports of these
exports composed of industrial products.
Manufactured products in the early
1980s accounted for over 40 percent of
the nonfood exports of these countries,
which compares to 20 percent in 1965
and 10 percent 1955.
Sản xuất ở những nước kém phát
triển
Gần 10% sản lượng sản xuất của
thế giới có nguồn gốc từ các quốc gia
kém phát triển, quá nửa trong số đó đến
từ 6 quốc gia (Ấn Độ, Brazil, Argentina,
Mexico, Hàn Quốc và venezuela). Tuy
nhiên, thì phần sản xuất ở các nước kém
phát triển ngày càng tăng, và số phần
trăm xuất khẩu của các nước này gồm
các sản phẩm công nghiệp. Những sản
phẩm được sản xuất ra vào khoảng đầu
những năm 1980 chiếm hơn 40% là các
mặt hàng xuất khẩu phi thực phẩm của
các nước này, so với 20% trong năm
1965 và 10% vào năm 1955.
3
Much of the manufacturing is
generated and controlled by
multinational corporations, either
through subsidiaries or by contracting

out to local enterprises. The investment
of the multinationals in the less
developed countries is geographically
uneven. The oil rich countries of
southwest asia, africa, southeast asia and
Latin America are a major priority. The
bulk of the remainder of the investment
goes to in the intermediate class of the
countries Latin America (Brazil,
Argentina) and southeast asia (Malaysia,
singapore). In the poorest coutries of the
world, multinational invest mainly in
plantations and mining (independent
commision on international
development issues 1980, pp.174-87)
Phần lớn các sản xuất này được
tạo ra và kiểm soát bởi các tập đoàn đa
quốc gia, hoặc thông qua các công ty
con hoặc bằng cách ký cho các doanh
nghiệp địa phương thầu. Việc đầu tư
của các công ty đa quốc gia ở các nước
kém phát triển là không đồng đều về mặt
địa lý. Các quốc gia giàu về dầu mỏ Tây
Nam Á, Châu Phi, Đông Nam Á và Mỹ
Latinh là ưu tiên hàng đầu. Phần lớn
các phần còn lại của đầu tư dành cho
các quốc gia trung gian của các nước
Mỹ Latinh (Brazil, Ác-hen-ti-na) và
Đông Nam Á (Malaysia, Singapore). Ở
các nước nghèo nhất thế giới, các công

ty đa quốc gia đầu tư chủ yếu vào các
đồn điền và khai thác mỏ (Ủy ban độc
lập về các vấn đề phát triển quốc tế năm
1980, pp.174-87)
The effect these patterns of investment
is to widen spatial inequalities within the
less developed countries, focusing
industrial development in the cities,
while the rural hinterlands remain tied to
traditional economies (Coates, Johnston,
and Knox 1977, pp. 127 – 99). These
differences between the major urban
centers and rural areas often result in
considerable internal migration, along
with the many economic, social, and
political changes that accompany
extensive residential and occupational
movements (chapters4 and 11)
Tác động của những mô hình đầu
tư như vậy là sự gia tăng không đồng
đều về mặt không gian giữa các nước
kém phát triển, phát triển công nghiệp
tập trung ở những thành phố lớn, trong
khi đó các vùng nội địa nông thôn gắn
liền với các nền kinh tế truyền thống.
(Coates, Johnston, and Knox1977,
pp.127 – 29). Những khác nhau giữa
trung tâm thành phố chính và các vùng
nông thôn thường dẫn tới di dân nội địa
đáng kể, cùng với sự thay đổi rất nhiều

về kinh tế, xã hội và chính trijmaf kèm
theo sự thay đổi này là những phong
trào về dân cư và nghề nghiệp ở diện
4
rộng.
Foreign investment in the less developed
countries tends to concentrate in urban
areas, often ports or capital cities. In
Nigeria, for example, during the 1960s,
three-quarters of the capital invested in
medium and large scale industry were
provided by foreign investors mainly
British. As with most of the less
developed countries, Nigerian capital
was not available for major industrial
development. Foreign firms employed
60,000 people, capitalizing on the
abundance of cheap labor in the country.
Most of these firms concentrated on the
processing of raw materials for the local
market, so they were largely located in
the major cities of Lagos-Ibadan and
Port Harcourt.
Đầu tư nước ngoài ở các nước kém phát
triển có xu hướng tập trung vào các khu
vực đô thị, cảng biển hoặc thành phố
lớn.
Ví dụ, tại Nigeria trong những năm
1960, 3/4 vốn đầu tư vào các ngành
công nghiệp có quy mô vừa và lớn được

cung cấp bởi các nhà đầu tư nước
ngoài, chủ yếu là người Anh. Như hầu
hết các nước kém phát triển, nguồn vốn
của Nigeria không đủ cho phát triển các
ngành công nghiệp chính. Các công ty
nước ngoài thuê 6000 người, dựa vào
nguồn lao động rẻ, dồi dào của đất
nước. Các công ty này tập trung vào chế
biến các mặt hàng thô cho các chợ ở địa
phương, vì thế họ đặt địa điểm tại các
thành phố chính của Lagos-Ibanda và
Port Harcourt.
Bài 3
SOME ECONOMIC LAWS
Basic human needs are simple, but every
individual has additional personal wants
which may be very complex. These
complex personal wants are satisfied in
MỘT SỐ QUY LUẬT KINH TẾ
Những nhu cầu cơ bản của con người rất
đơn giản, nhưng mỗi người lại có những
mong muốn cá nhân khác và những
mong muốn này hết sức phức tạp.
5
different ways by different things. A car,
a bottle of whisky and a newspaper
satisfy very different wants and the
whisky is not a close substitute for the
car. This special characteristic of
satisfying a want us know in economics

as its utility. Utility is not the same as
usefulness. A submarine, for example,
may or may not be useful in peacetime,
but it satisfies a want. Many nations
want submarines. Economists describe
this kind of utility as ‘the relationship
between a consumer and a commodity’.
Những mong muốn phức tạp này của
con người được đáp ứng bằng nhiều
cách khác nhau bởi những thứ khác
nhau. Một chiếc xe hơi, một chai rượu
mạnh và một tờ báo có thể làm thỏa mãn
những nhu cầu rất khác nhau và một
chai rượu mạnh không thể là sự thay thế
tương đương cho chiếc xe hơi. Tính đặc
thù của việc đáp ứng nhu cầu này trong
kinh tế học được gọi là độ thỏa dụng. Độ
thỏa dụng không giống với sự hữu dụng.
Ví dụ, một chiếc tàu ngầm có thể có
hoặc không có ích trong thời bình,
nhưng nó lại làm thỏa mãn nhu cầu.
Nhiều quốc gia cần tàu ngầm. Các nhà
kinh tế học mô tả độ thỏa dụng này như
là mối quan hệ giữa người tiêu dùng và
hàng hóa.
Utility varies between different people
and between different nations. A
vegetarian does not want meat but may
rate bananas very highly. A mountain –
republic like Switzerland has interest in

submarines, while maritime nations rate
them highly. Utility also varies with
time. In time of war, the utility of bombs
is high and that of pianos is low. Utility
is therefore related to our sense of
prioritles. The utility of a commodity is
also related to the quantity available to
the consumer. If men buy a large
quantity of paper, they will lose interest
in buying more paper will go down. The
Độ thỏa dụng thay đổi giữa những con
người khác nhau và giữa các quốc gia
khác nhau. Một người ăn chay không
cần thịt, nhưng lại đánh giá cao về
chuối. Một đất nước cộng hòa ở vùng
núi như Thụy Sĩ ít quan tâm tới tàu
ngầm, trong khi những quốc gia ở gần
biển lại đánh giá rất cao đối với tàu
ngầm. Độ thỏa dụng cũng biến đổi theo
thời gian. Trong thời chiến, bom có độ
thỏa dụng cao còn đàn piano thì thấp.
Độ thỏa dụng vì vậy liên quantới ý thức
của chúng ta về mức độ ưu tiên. Độ thỏa
dụng của hàng hóa cũng liên quan tới số
6
utility of a commodity consequently
decreases as the consumer’s stock
increases.
lượng hàng hóa có sẵn dành cho người
tiêu dùng. Nếu người ta mua một số

lượng giấy lớn, họ sẽ mất dần sự quan
tâm tới việc mua giấy. Nhu cầu về giấy
sẽ giảm. Vì vậy, độ thỏa dụng của hàng
hóa sẽ giảm xuống khi lượng tồn kho
của người mua tăng lên.
In most economic systems, the prices of
the majority of goods and services are
fixed. The individual cannot change the
prices of the commodities he wants, and
when planning his expenditure, he must
accept these prices. A consumer will go
on buying cigarettes as long as his
satisfaction continues and they render
utility. If he continues to pay the current
price, his satisfaction is greater than his
financial sacrifice. With each purchase,
however, his satisfaction decreases,
although the prices remain the same. If a
consumer’s supply of money is limited,
appoint will come when the financial
sacrifice is greater than the satisfaction
of smoking cigarettes. He will stop
buying the commodity. The ciagarettes
are the same, but their itility has
changed. If the prices rose, he would
buy fewer if they fell, he might buy
more.
Đối với hầu hết các hệ thống kinh tế, giá
cả của hầu hết hàng hóa và dịch vụ đã
được cố định. Mỗi cá nhân không thể

thay đổi được giá cả của hàng hóa mà họ
cần, và khi sắp xếp kế hoạch chi tiêu, họ
phải chấp nhận những mức giá đó. Một
người tiêu dùng sẽ tiếp tục mua thuốc lá
cho đến khi nào anh ta vẫn tiếp tục hài
lòng với việc mua thuốc lá và thuốc lá
vẫn còn có ích lợi đối với anh ta. Nếu
anh ta tiếp tục trả tiền mua thuốc là với
mức giá hiện tại, mức độ vừa lòng của
anh ta sẽ lớn hơn sự chấp nhận hy sinh
về tài chính. Tuy nhiên, khi càng mua
nhiều thuốc lá thì mức độ hài lòng sẽ
giảm dần, mặc dù giá thuốc lá vẫn ở
mức đó. Nếu nguồn tiền của người tiêu
dùng có hạn, sẽ đến lúc sự chấp nhận hy
sinh tài chính sẽ lớn hơn sự thỏa mãn
đối với việc hút thuốc lá. Anh ta sẽ dừng
không mua nữa. Thuốc lá thì vẫn như
vậy, nhưng độ thỏa dụng đã thay đổi.
Nếu giá tăng lên, anh ta sẽ mua ít hơn;
7
nếu giá giảm đi, anh ta sẽ mua nhiều
hơn.
We can see that the nature of a
commodity remains the same, but its
utility changes. This indicates that a
special relationship exists between
goods and services on the one hand and
a consumer and his money on the other
hand. The consumer’s desire for a

commodity tends to diminish as he buys
more units of that commodity. Thus
tendency is called the Law of
Diminishing Marginal Utility.
Chúng ta có thể thấy bản chất của hàng
hóa vẫn giữ nguyên, nhưng độ thỏa dụng
thì thay đổi. Điều này chỉ ra rằng có một
mối quan hệ đặc biệt tồn tại giữa một
bên là hàng hóa và dịch vụ, với một bên
là người tiêu dùng và tiền của họ. Mong
muốn về hàng hóa của người tiêu dùng
có khuynh hướng giảm đi khi họ mua
nhiều đơn vị hàng hóa đó. Khuynh
hướng này được gọi là Quy luật lợi ích
(độ thỏa dụng) cận biên giảm dần.
Utility is of course related to the Laws
of Supply and Demand. When
economists talk about a Law of Supply,
they mean that a rise in prices tens to
increase the supply of a commodity,
while a fall in prices tens to reduce it.
When they talk about a Law of Demand,
they mean that a fall in prices tends to
increase the demand for a commodity,
while a rise in prices tends to decrease
the demand. In any economic situation,
a consumer will decide to buy a
commodity only in terms of its
particular utility to him
Độ thỏa dụng chắc chắn là liên quan tới

Quy luật Cung - Cầu. Khi nhà kinh tế
học bàn về Quy luật Cung, họ nói rằng
sự tăng lên về giá sẽ dẫn đến sự tăng lên
về lượng cung hàng hóa, trong khi việc
giảm giá lại có xu hướng làm giảm
lượng cung. Khi nói về Quy luật Cầu, họ
cho rằng việc giảm giá sẽ làm tăng cầu
về hàng hóa, trong khi việc tăng giá sẽ
làm giảm lượng cầu hàng hóa. Trong
mỗi tình huống kinh tế, một người tiêu
dùng sẽ quyết định mua một loại hàng
hóa chỉ theo quan điểm về độ thỏa dụng
cá biệt của hàng hóa đó đối với bản thân
họ.
If the prices of a particular commodity
rise in the economy as a whole, the rise
Nếu giá cả của một hàng hóa cá biệt
tăng trong tổng thể nền kinh tế thì tự
8
will naturally encourage producers to
make more of that commodity. If, on the
other hand, prices fall locally or
throught the world producers will reduce
production. Supplies of many
commodities can generally be adjusted
to suit market conditions. This means
that changes in market prices lead to
changes in the quantity of a particular
commodity made available to
consumers. Household goods and

furniture are in this category. In such
instances, supply is said to be elastic,
because it can be increased or decreased
rapidly to suit market prices.
nhiên nó sẽ kích thích nhà sản xuất sản
xuất thêm nhiều loại hàng hóa đó. Mặt
khác, nếu giá cả giảm một cách cục bộ
hoặc trên toàn thế giới, các nhà sản xuất
sẽ cắt giảm việc sản xuất. Lượng cung
của nhiều hàng hóa sẽ được điều chỉnh
tổng thể cho phù hợp với tình hình thị
trường. Điều này có nghĩa là những sự
thay đổi về giá cả thị trường này dẫn tới
sự thay đổi về số lượng hàng hóa cá biệt
sẵn có dành cho người tiêu dùng. Hàng
hóa gia dụng và đồ gỗ nằm trong hạng
mục này. Đối với những loại hàng hóa
này, cầu được cho là co giãn, bởi vì nó
có thể tăng hoặc giảm một cách nhanh
chóng phù hợp với giá cả thị trường.
The principle of elasticity operates in the
area of demand as well as in the area of
supply. People very seldom have
everything they want. They usually have
to choose carefully how they will spend
their money. When they exercise this
choice, they work according to their
personal scale come of preferences,
beginning with provide comfort or
convenience of some kind (telephones,

insurance, etc) and finally come the non
– essenals like holidays anh trips to the
theater, which are important parts of life
but not comparable with food anh
Nguyên lý về sự co giãn tác động trong
cả lĩnh vực cầu và cung. Người ta rất
hiếm khi có được mọi thứ mình mong
muốn. Họ thường phải lựa chọn một
cách cẩn thận việc họ sẽ tiêu tiền như
thế nào. Khi thực hiện lựa chọn, họ dựa
theo cán cân mức độ ưu tiên của cá
nhân, bắt đầu bằng những thứ thiết yếu
như thực phẩm và nhà ở. Tiếp theo trên
cán cân của họ mới đến những hàng hóa
mang lại tiện nghi, dễ chịu (như điện
thoại, bảo hiểm…), và cuối cùng sẽ là
những thứ không thiết yếu như các kỳ
nghỉ hoặc đi đến rạp hát, những thứ cũng
9
shelter. If it is necessary to pay very
high prices for the essentials of life,
people pay them – even if this means
spending all their income. In such cases
demand is inelastic. For non-essentials,
however, demand is elastic and
particulary responsive to changes in
price.
quan trọng trong cuộc sống nhưng
không thể so sánh với thực phẩm và chỗ
ở. Nếu cần phải trả mức giá cao cho

những hàng hóa thiết yếu của cuộc sống,
họ vẫn sẽ trả, thậm chí nếu việc này
đồng nghĩa với việc phải chi tiêu hết cả
thu nhập của mình. Trong những trường
hợp như vậy, cầu không co giãn. Tuy
nhiên, đối với hàng hóa không thiết yếu,
cầu lại co giãn và phản ứng lại theo một
cách đặc thù để làm thay đổi giá cả hàng
hóa.
Bài 4
Some superstitions have been with us
for so long that they have been become
customs. In many parts of the world it is
polite to say "heath" or "God bless you"
when someone sneezes. People used to
think that the soul could escape from the
body during a sneeze. they sad that
"God bless you" to protect people from
losing their soul. Today we no longer
believe that people who sneeze are in
danger of losing their soul, but we say "
God bless you" anyway. We say it not
Những con mèo đen và những chiếc
gương vỡ
Nhiều mê tín dị đoan đã tồn tại với
chúng ta lâu nay đã trở thành phong tục
tập quán .Ở nhiều nơi trên thế giới khi
có ai đó hắt hơi, bạn nên lịch sự nói "sức
khỏe" hoặc " Chúa phù hộ cho bạn".
Mọi người thường nghĩ rằng linh hồn có

thể thoát ra khỏi cơ thể trong quá trình
hắt hơi. Họ nói " Chúa phù hộ cho bạn”
để bảo vệ người dân khỏi mất linh hồn
của họ.Ngày nay chúng ta không còn tin
10
because we are supertitious, but because
we are polite.
rằng những người hắt hơi có nguy cơ
mất linh hồn của họ, nhưng chúng ta vẫn
nói " Chúa phù hộ cho bạn ". Chúng tôi
nói rằng nó không phải vì chúng ta mê
tín , nhưng vì chúng ta là lịch sự.
Superstitions about numbers are so
widespread that some people called
numerologist make a living giving
advice about numbers. In 1937, when
the Toyoda family of Japan wanted to
form a car company, they asked a
numerologist if “Toyota" would be
good name for the company. The
numerologist said it would not be. He
explained that " Toyoda" took ten
strokes of the pen to write, and 10 was
not a lucky number. " Toyota",
however, took eight strokes to write,
and eight was a very lucky number. the
numerologist recommended " Toyota"
as a better name for the company. The
family took his advice. As a result,
millions of people drive " toyotas", and

not " Toyoda".
Mê tín dị đoan về những con số này là
rất phổ biến -một số người người mà
được gọi là thày tướng số kiếm sống
bằng việc đưa ra lời khuyên về những
con số. Năm 1937, khi gia đình Toyoda
của Nhật Bản muốn thành lập một công
ty xe hơi, họ hỏi một thày tướng số nếu
rằng liệu cái tên "Toyoda" có phải là
một cái tên tốt cho công ty hay không.
Thày tướng số này cho biết cái tên này
sẽ không tốt. Ông giải thích rằng
"Toyoda" mất mười nét bút để viết, và
số 10 không phải là một con số may
mắn. "Toyota", tuy nhiên, chỉ mất tám
nét để viết, và số tám là một số rất may
mắn. Và ông đề nghị lấy tên "Toyota"
sẽ là một tên tốt hơn cho công ty. Gia
đình nghe theo lời khuyên của ông. Kết
quả là, hàng triệu người lái xe "Toyota",
chứ không phải "Toyoda".
Many people are superstitious about
numbers. They think that they are lucky
numbers and unlucky number.The
number 13 often considered unlucky. In
some parts of the world buildings have
no 13th floor ans streets have no houses
with the number 13. In Japan, 4 is
considered unlucky because in the
Japanese the word " four" is pronounced

the same as the word "death". Japanese
never give gifts of four knives, four
napkins, or four of anything. What are
Nhiều người mê tín dị đoan về con số.
Họ nghĩ rằng có những con số may
mắn và không may mắn. Số 13 thường
được coi là không may mắn. Một số nơi
trênthế giới các tòa nhà thì không có
tầng 13 và đường phố thì không có nhà
nào mang số 13. Tại Nhật Bản, số 4
được coi là không may mắn bởi vì trong
tiếng Nhật từ "bốn" được phát âm giống
như từ "chết". Nhật Bản chưa bao giờ
tặng quà mà là bốn con dao, bốn khăn
ăn, hoặc bốn bất cứ điều gì. Con số may
11
the lucky numbers? Seven is a lucky
number in many places, and * is
considered lucky in Japan and China. In
China, businesses often open on August
8 (8-8), and many couples register to get
married at eight past eight August 8.
mắn là gì? Số Bảy là con số may mắn ở
nhiều nơi, và được coi là may mắn ở
Nhật Bản và Trung Quốc. Ở Trung
Quốc, những thương nhân thường khai
trương vào ngày 08 tháng 8 và nhiều
cặp vợ chồng đăng ký kết hôn vào lúc
08:08 phút ngày 08 Tháng Tám.
For examples, in many parts of the

world spilling salt is bad luck.throwing
salt, howewer is good luck. so people
who spill salt throw reserves the bad
luck. when the japaneses bump heads,
they immidiately bump heads again.
accoding to a japaneses superstiton , the
first bump means their parents will die,
but the second bump " erases" the first
bump. To reverse bad luck in general,
people turn around three times, turn
their pockets inside out, or put their hats
on backwards. In the United States,
baseball playes sometimes wear their
caps backwards when their tea m is
losing. it took silly, but the baseball
players don't mind if helps them win the
game.
Ví dụ, ở nhiều nơi trên thế giới đổ muối
là điều không may mắn. Tuy nhiên ném
muối thì lại là điều may mắn. Vì vậy
người làm đổ muối thì ném một ít muối
đổ qua vai trái. Ném muối sẽ giữ lại
điều may mắn. Khi người Nhật bị đụng
đầu, Ngay lập tức họ đụng đầu một lần
nữaTheo như sự mê tín của người Nhật
thì các vết sưng đầu tiên có nghĩa là cha
mẹ sẽ chết, nhưng vết sưng thứ hai
"xóa" các vết sưng đầu tiên. Để đảo
ngược may mắn nói chung, người dân
quay lại ba lần, lần lượt quay 3 vòng từ

trong ra ngoài, hoặc đội mũ ngược. Tại
Hoa Kỳ, các cầu thủ bóng chày đôi khi
đội mũ ngược khi đội của họ đang bị
thua . Điều này thật ngớ ngẩn, nhưng
các cầu thủ bóng chày không phiền nếu
điều này giúp họ giành chiến thắng
trong trận đấu.
Even people who say they aren't
superstitious would probably not do
what the men in the picture do
-intentionally walk under ladder and
break mirrors. almost everyone is at
least a little superstitious. One women
says that when she got married, her aunt
gave her white bath towels. "Never buy
purple towels", her aunt said. " If you
use purple towels, your marriage will
end" Does the women believe that
superstition? " no, of course" she says,
Ngay cả những người nói rằng họ không
mê tín dị đoan có lẽ sẽ không làm những
gì những người đàn ông trong bức ảnh
làm - đi dưới những cái thang và làm vỡ
gương. Hầu như tất cả mọi người ít nhất
cũng có một chút mê tín dị đoan. Một
phụ nữ cho biết khi cô kết hôn, dì của cô
ấy đã tặng cô ấy những chiếc khăn tắm
màu trắng và dặn cô ấy rằng "Không
bao giờ mua khăn tắm màu tím",. "Nếu
cháu sử dụng khăn màu tím, hôn nhân

của cháu sẽ kết thúc" Liệu người phụ
12
"It's silly". Does she use purple towela?
" well, no", she answers. " Why take
chances"
nữ này có tin vào điều mê tín dị đoan
đó không? "Không, tất nhiên là không ",
cô ta nói, "Thật ngớ ngẩn". vậy Cô ấy có
sử dụng khăn tắm màu tím không? "Ồ,
không ", Cô trả lời. "Tại sao phải liều
chứ?".
In addition to superstitions about
numbers, there are many other kinds of
superstitions about eating, sleeping,
sneezing and itching.there are
superstitions about animals and holidays
and horseshoes. there are even
superstitions about superstitions. those
superstitions tell people how to reserve
bad luck.
Thêm vào sự mê tín dị đoan về các con
số này, có rất nhiều loại mê tín dị đoan
khác nhau về ăn, ngủ, hắt hơi và ngứa.
Có mê tín dị đoan về động vật, các ngày
lễ và cả những cái móng ngựa. Thậm chí
có mê tín dị đoan về mê tín dị đoan.
Những người mê tín nói với mọi người
làm thế nào để giữ được may mắn.
Because there are so many superstitions,
it's not surprising that some of them are

contradictory. In Germany, It is good
luck when the left eye twitches and bad
luck when the right eye twitches. In
Malaysia, it is exactly the opposite; a
twitching right eye means good luck,
and a twitching left eye means bad luck.
accidentally putting on clothes inside
out brings good luck in Pakitan but bad
luck in Costa Rica.In Chile unmarried
people won't take the last piece of food
on the plate because it means they will
never marry. in Thailand,unmarried
people take the last piece because it
means they will marry someone good-
looking.
Bởi vì có rất nhiều loại mê tín dị đoan,
Không có gì phải ngạc nhiên rằng một
số trong số đó mâu thuẫn với nhau. Tại
Đức, người ta tin rằng may mắn là khi
mắt trái nháy và không may mắn khi
mắt phải nháy . Tại Malaysia, nó là hoàn
toàn ngược ,mắt phải giật có nghĩa là
may mắn, và mắt trái giật giật có nghĩa
là không may mắn. Việc vô tình mặc
quần áo trái khi đi ra ngoài mang lại
may mắn ở Pakitan nhưng không may
mắn ở Costa Rica. Ở Chile người chưa
lập gia đình sẽ không ăn phần thức ăn
còn lại trên đĩa bởi vì nó có nghĩa là họ
sẽ không bao giờ kết hôn. ở Thái Lan,

những người chưa lập gia đình thì lại ăn
hết phần thức ăn cuối cùng bởi vì nó có
nghĩa là họ sẽ kết hôn với một người
người ưa nhìn.
Bài 5
BODY RITUALS AMONG THE NACIREMA
13
NGHI LỄ THÂN THỂ CỦA NGƯỜI NACIREMA
0
Each culture has its own way of
seeing the world and this way often
leaves its stamp on several institutions
in the society. Here Horace Miner
demonstrates that “attitudes about the
body” have a strong influence on many
institutions in Nacireman society.
1
The anthropologist has become so
familiar with the diversity of way in
which different peoples behave in
similar situations that he should not be
surprised by even the most exotic
customs. However, I found myself
astonished at what I discovered about
the magical beliefs and practices of the
Nacirema, for they present such
unusual aspects that it is possible for
me to describe that as an example of
the extremes to which human behavior
can go.

2
Professor Linton first brought the
ritual of the Nacirema to the attention
of anthropologists twenty years ago,
but the culture of this people is still
very poorly understood. They are a
North American group living in the
territory between the Canadian Creek,
the Yaqui and Tarahumare of Mexico,
and the Crib and Arawak of the
Antilles. Little is known of their origin,
although traditions state that they came
from the east.
0. Mỗi một nền văn hóa có thế giới quan
riêng và thế giới quan này thường để lại
dấu ấn của nó trên nhiều thiết chế trong xã
hội. Ở đây Horace Miner đã chứng minh
rằng “thái độ đối với cơ thể” có một tác
động mạnh mẽ như thế nào đối với nhiều
thiết chế trong xã hội của người Nacirema.
1. Nhà nhân chủng học đã quá quen
thuộc với vô vàn những cách thức mà các
dân tộc khác nhau ứng xử trong những tình
huống tương tự như nhau đến nỗi mà
không còn thấy ngạc nhiên trước những
phong tục kỳ lạ nhất. Tuy nhiên, chính tôi
vẫn thấy kinh ngạc trước những phát hiện
về tín ngưỡng và tập quán phép thuật của
người Nacirema bởi chúng thể hiện những
khía cạnh khác thường đến nỗi tôi có thể

mô tả chúng như những thái cực cực đoan
nhất mà hành vi con người có thể hướng
tới.
2. Nhờ GS Linton, cách đây 20 năm,
những nhà nhân chủng học lần đầu tiên chú
ý đến nghi lễ của người Nacirema, nhưng
sự hiểu biết của con người về nền văn hóa
của dân tộc này vẫn còn rất ít ỏi. Họ là dân
tộc Bắc Mỹ sống ở vùng lãnh thổ giữa
thung lũng Canada, xứ Yaqui và
Tarahumare thuộc Mexico, và vùng biển
Caribe và Arawak thuộc dãy An-tai. Hầu
như rất ít người biết về nguồn gốc của họ
14
3
Nacirema culture is characterized
by a highly developed market economy
thanks to its rich natural environment.
While much of the people’s time is
given to economic activities, a large
part of their in come and a considerable
part of the day are spent on ritual
activity. The focus of this activity is the
human body, the appearance and health
of which are a major concern of the
people. While such a concern is
certainly not unusual, its ceremonial
aspects and associated philosophy are
unique.
4.

The Nacireman fundamental belief
is that the human body is ugly and can
get weak and sick very easily. Living in
such a body, man’s only hope is to
prevent these characteristics through
the use of the powerful influences of
ritual and ceremony. Every household
has one or more shrines for this
purpose. The more powerful
individuals in the society have several
shrines in their houses and, in fact, the
wealth of a house is often described in
terms of the number of such ritual
centers it has. The shrine rooms of the
more wealthy are walled with stone.
Poorer families imitate the rich by
applying pottery tiles to their shrine
walls.
5
While each family has at least one
such shrine, the rituals associated with
it are no family ceremonies but are
mặc dù tương truyền rằng họ đến từ
phương Đông.
3. Nền văn hóa Nacirema được đặc trưng
bởi nền kinh tế thị trường cực kỳ phát triển
nhờ nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào.
Trong khi đa số thời gian người ta dành cho
các hoạt động kinh tế, một phần lớn thu
nhập và thời gian đáng kể trong ngày được

dành cho các hoạt động nghi lễ. Trọng tâm
của nghi lễ này là thân thể con người, tình
trạng sức khỏe và diện mạo tấm thân là vấn
đề quan tâm lớn nhất của dân tộc này. Tất
nhiên những mối quan tâm như vậy thì
chẳng có gì bất thường, xong những khía
cạnh nghi lễ và triết lý đi kèm với nó mới là
điều độc đáo.
4. Đức tín căn bản của người Nacirema
là cơ thể con người thì rất xấu xa và rất dễ
ốm yếu. Sinh cư trong một cơ thể như thế,
con người chỉ có thể hy vọng ngăn chặn
được những điều đó thông qua những tác
động mạnh mẽ của nghi lễ và nghi thức.
Mỗi gia đình đều có 1 hoặc nhiều điện thời
dành riêng cho mục đích này. Những người
quyền thế hơn trong xã hội thì có vài điện
thờ trong nhà, và thực tế, sản nghiệp của
một gia đình thì thường được quy theo số
lượng nơi cúng lễ mà nhà đó có. Tường của
những gian điện thờ của những gia đình
khá giả thì được ốp đá. Những gia đình
15
private and secret. The rites are
normally only discussed with children,
and then only during the period when
they are being taught about these
mysteries. I was able, however, to
establish sufficient relationship with the
natives to examine these shrines and to

have the rituals described to me.
6
The focal point of the shrine is a
box or chest which is built into the
wall. In this chest are kept many
charms and magical potions without
which no native believes he could live.
These preparations are bought from a
variety of specialized practitioners. The
most powerful of these are the
medicine men, whose assistance must
be rewarded with substantial gifts.
However, the medicine men do not
provide the curative potions for their
clients, but decide what the ingredients
should be and then write them down in
an ancient and secret language. This
writing is understood only by the
medicine men and by the herbalists
who, for another gift, provide the
required charm.
7
The charm is not disposed of after
it has served its purpose, but is placed
in the charmbox of the household
shrine. As these magical materials are
specific for certain ills, and the real or
imagined maladies of the people are
many, the charmbox is usually full. The
nghèo hơn bắt chước những người giàu

bằng cách ốm gạch gốm lên điện thờ của
nhà mình.
5. Mặc dù mỗi gia đình có ít nhất một
điện thờ như thế nhưng những nghi thức
liên quan đến nó thì không phải là nghi lễ
toàn gia mà riêng tư và bí mật. Những nghi
lễ này thường chỉ được thảo luận với con
trẻ, nhưng cũng chỉ vào giai đoạn mà chúng
được dạy về những điều huyền bí. Tuy
nhiên thì tôi có thể tạo lập được mối quan
hệ mật thiết với những người dân ở đây để
nghiên cứu về những điện thờ này và được
người ta kể cho nghe về những nghi thức
đó.
6. Trung tâm của điện thờ là một chiếc
hộp hay một chiếc tủ nhỏ được gắn trong
tường. Trong chiếc hộp hoặc chiếc tủ này,
người ta để rất nhiều thứ bùa ngải, nước
thần mà không người dân bản địa nào tin
rằng anh ta có thể sống nổi nếu thiếu
chúng. Những bùa ngải và nước thần này
được mua từ những ông bà chuyên về bùa
ngải. Người có quyền năng nhất trong số
họ là thày lang, những người mà hễ nhờ
đến họ là phải tạ bằng những món quà hậu
hĩnh. Tuy nhiên những ông thày lang cũng
không cho khách hàng của mình thứ thủy
diệu nào cả mà chỉ quyết định các vị rồi
viết chúng ra bằng một thứ ngôn ngữ huyền
bí và bác cổ. Những văn bản này chỉ có

16
magical packets are so numerous that
people forget what their purposes were
and fear to use them again. While the
natives are very vague on this point, we
can only assume that the idea in
keeping all the old magical materials is
that their presence in the charmbox
before which the body rituals are
conducted will in some way protect
them.
8
Beneath the charmbox is a small
font, which looks like our modern bath.
Each day every member of the family,
one after another, enters the shrine
room, bows his or her head before the
charmbox, mixes different sort of holy
water in the font, and proceeds with a
brief rite of ablution. The holy waters
are bought from the Water Temple of
the community, where the priests
conduct elaborate ceremonies to make
the liquid ritually pure.
những ông thày lang và những người bào
chế mới hiểu được, và những người bào
chế này sẽ cho khách hàng bùa ngải khi
nhận được một món lễ vật khác.
7. Sau khi đã phục vụ xong mục đích của
nó, bùa ngải ấy không được vứt đi mà được

giữ trong hộp đặt trong điện thờ. Vì những
thứ bùa ngải thần diệu này chỉ dành cho
những loại bệnh nhất định mà trong khi đó
người ta lại có vô số những loại bệnh tật
thật hoặc là do tưởng tượng, nên cái tủ này
lúc nào cũng đầy. Những gói bùa ngải
nhiều đến mức mà người ta quên mất mục
đích của chúng và không dám dùng lại
chúng nữa. Do người dân bản xứ rất lờ mờ
về vấn đề này nên người ta chỉ có thể đồ
rằng lý do của việc giữ lại tất cả những bùa
ngải đó bởi vì khi tiến hành nghi thức cơ
thể trước tủ bùa ngải, sự hiện diện của
chúng trong tủ bùa ngải sẽ bảo vệ họ bằng
cách này hay cách khác.
8. Bên dưới tủ bùa ngải là một cái bồn
nhỏ, giống như cái bồn tắm của chúng ta.
Mỗi ngày mỗi thành viên trong gia đình lần
lượt bước vào điện thờ, cúi đầu xuống tủ
bùa ngải, hòa trộn nhiều thứ nước thần
thánh khác nhau vào trong bồn rồi thực
hiện một nghi thức tẩy trần nhanh chóng.
Những thứ nước thần thánh này được mua
ở thủy tự của làng, nơi mà những cố đạo
thực hiện nhiều nghi thức phức tạp để làm
17
cho thứ nước đó trở nên tinh khiết phục vụ
cho mục đích tế lễ.
18

×