Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

mở rộng nghiệp vụ ngân hàng quốc tế tại sở giao dịch ngân hàng liên doanh việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.9 KB, 108 trang )

1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cần thiết của đề tài
Trong xu hướng quốc tế hoá mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, nền
kinh tế Việt Nam đang dần từng bước hội nhập nền kinh tế khu vực và thế
giới. Để quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước thành công, Đảng
và nhà nước ta đã rất chú trọng phát triển hoạt động kinh tế quốc tế, đặc biệt
là ngoại thương. Chỉ có thông qua các hoạt động kinh tế quốc tế, chúng ta mới
có thể phát huy được tiềm năng thế mạnh của đất nước, đồng thời tận dụng
được vốn và công nghệ hiện đại của các nước phát triển để đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, rút ngắn khoảng cách tụt hậu và
đưa nền kinh tế nước ta hoà nhập với nền kinh tế các nước trong khu vực và
trên thế giới.
Kinh tế quốc tế mở rộng, dẫn đến sự phát triển của nghiệp vụ ngân
hàng quốc tế như một tất yếu khách quan để đáp ứng nhu cầu thương mại
quốc tế của các doanh nghiệp trong nước.
Nhận thức được vị thế cũng như tầm quan trọng của nghiệp vụ ngân
hàng quốc tế, Sở giao dịch Ngân hàng Liên doanh Việt Nga đã dành sự quan
tâm đầu tư thích đáng để phát triển các nghiệp vụ này và bước đầu đạt được
một số thành công nhất định, góp phần đa dạng hoá dịch vụ, nâng cao hiệu
quả kinh doanh của ngân hàng, mở rộng các sản phẩm dịch vụ phục vụ khách
hàng trong nước. Tuy nhiên, quá trình mở rộng nghiệp vụ ngân hàng quốc tế
vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập về mặt tổ chức, nghiệp vụ, trình độ cán bộ,
việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế Do đó, kết quả đạt được chưa cao. Việc
nghiên cứu tiếp tục mở rộng nghiệp vụ ngân hàng quốc tế là cần thiết và
mang tính thời sự cao đối với các ngân hàng Việt Nam nói chung, đối với bản
thân Sở giao dịch Ngân hàng Liên doanh Việt Nga nói riêng. Vì vậy, để đạt
2
được mục tiêu của Ngân hàng là “phát triển bền vững”, một trong những
nhiệm vụ quan trọng đặt ra là phải tìm ra các giải pháp để mở rộng nghiệp vụ
ngân hàng quốc tế. Xuất phát từ thực tế đó, tôi đã chọn đề tài “Mở rộng


nghiệp vụ ngân hàng quốc tế tại Sở giao dịch Ngân hàng Liên doanh Việt ”
để làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ kinh tế.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu và luận giải để làm rõ hơn những
vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc mở rộng nghiệp vụ ngân hàng quốc tế
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh của ngân
hàng, đồng thời đưa ra một số giải pháp để mở rộng nghiệp vụ ngân hàng quốc
tế tại Sở giao dịch Ngân hàng Liên doanh Việt Nga. Để đạt được mục tiêu đó,
luận văn có nhiệm vụ :
- Làm rõ nội dung của mở rộng nghiệp vụ ngân hàng quốc tế và việc mở
rộng nghiệp vụ ngân hàng quốc tế là đòi hỏi tất yếu để tồn tại và phát triển của
ngân hàng thương mại.
- Đánh giá đúng mực thực trạng mở rộng nghiệp vụ ngân hàng quốc tế
tại Sở giao dịch Ngân hàng Liên doanh Việt Nga trong thời gian qua. Những
kết quả đạt được cũng như những hạn chế và nguyên nhân
- Trên cơ sở đó, đề ra những giải pháp thiết thực nhằm đẩy mạnh việc
mở rộng nghiệp vụ ngân hàng quốc tế tại Sở giao dịch Ngân hàng Liên doanh
Việt Nga trong những năm tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Hoạt động nghiệp vụ ngân hàng quốc tế tại Sở giao dịch
Ngân hàng Liên doanh Việt Nga trong vài năm gần đây.
3
- Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động nghiệp vụ ngân hàng quốc tế tại Sở
giao dịch Ngân hàng Liên doanh Việt Nga trong khoảng thời gian từ năm 2009
đến 2011.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin, của phép
biện chứng duy vật.
Luận văn sử dụng các phương pháp điều tra, tổng hợp, phân tích, diễn
giải, qui nạp, so sánh trên cơ sở số liệu thống kê của VRB để nghiên cứu.

5. Kết cấu của đề tài
Ngoài lời nói đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề cơ bản về mở rộng nghiệp vụ ngân hàng
quốc tế.
- Chương 2: Thực trạng về mở rộng nghiệp vụ ngân hàng quốc tế của
Sở giao dịch Ngân hàng Liên doanh Việt Nga.
- Chương 3: Các giải pháp nhằm mở rộng nghiệp vụ ngân hàng quốc
tế tại Sở giao dịch Ngân hàng Liên doanh Việt Nga.
4
CHƯƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ MỞ RỘNG
NGHIỆP VỤ NGÂN HÀNG QUỐC TẾ
1.1. Tổng quan về nghiệp vụ ngân hàng quốc tế
1.1.1. Khái quát về nghiệp vụ ngân hàng quốc tế
Nếu xét trên phương diện cung ứng dịch vụ cho khách hàng của một
NHTM và xét trên khái niệm chung về nghiệp vụ ngân hàng thì có thể hiểu
nghiệp vụ ngân hàng quốc tế của một NHTM là việc NHTM thực hiện một
hay nhiều hoạt động trong quá trình thu hút vốn và cung ứng các dịch vụ ngân
hàng trên thị trường quốc tế nhằm mục đích sinh lời.
Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế có các đặc điểm sau:
Thứ nhất: Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế gắn liền với mối quan hệ kinh
tế quốc tế và thương mại quốc tế. Tiêu biểu là trợ giúp cho hoạt động xuất
nhập khẩu, lưu chuyển vốn giữa các quốc gia.
Thứ hai: Chủ thể tham gia nghiệp vụ ngân hàng quốc tế là các Ngân
hàng có quốc tịch khác nhau hoặc giữa Ngân hàng của một nước với khách
hàng của họ ở nước khác.
Thứ ba: Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế bị chi phối bởi luật pháp, thông
lệ quốc tế, đồng thời bị chi phối bởi pháp luật và tập quán của các nước mà ở
đó ngân hàng cung ứng các dịch vụ ngân hàng quốc tế.
Thứ tư: Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế có liên quan chặt chẽ với thị
trường ngoại hối.

Thứ năm: Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế có đòi hỏi cao về trình độ, năng
lực quản lý, công nghệ của ngân hàng và các bên có liên quan.
5
Thứ sáu: Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế có tính rủi ro cao, nguyên nhân
phức tạp và khó kiểm soát. Tuy nhiên, rủi ro cao thường đi đôi với lợi nhuận lớn.
1.1.2. Một số mô hình tổ chức nghiệp vụ ngân hàng quốc tế
Thông thường khi nhắc đến nghiệp vụ ngân hàng quốc tế thì có thể xét
trên hai phương diện. Đó là ngân hàng thực hiện cung ứng dịch vụ ngân hàng
tại nước ngoài thông qua việc mở thêm các cơ sở kinh doanh đặt tại nước
ngoài hoặc ngân hàng có thể thực hiện nghiệp vụ ngân hàng quốc tế ngay tại
trụ sở chính thông qua một bộ phận chuyên trách.
Một số hình thức tổ chức thực hiện nghiệp vụ ngân hàng quốc tế ở
nước ngoài tiêu biểu là :
- Văn phòng đại diện: Đây là mô hình tổ chức đơn giản nhất của một
ngân hàng hoạt động tại thị trường nước ngoài, nhằm mục đích trợ giúp cho
các công ty trong nước là khách hàng của ngân hàng mẹ kinh doanh ở nước
ngoài, như là cung cấp các thông tin kinh tế, đánh giá tín nhiệm của đối tác
nước ngoài…
- Ngân hàng liên doanh: là định chế tài chính độc lập với ngân hàng mẹ
hạch toán độc lập, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Đây
là hình thức ngân hàng góp vốn để kinh doanh theo khuôn khổ của pháp luật
nước sở tại.
- Ngân hàng con ở nước ngoài: Đây cũng là một định chế tài chính độc
lập do ngân hàng mẹ sở hữu hoàn toàn để phù hợp với luật nước ngoài. Ngân
hàng con cũng hạch toán độc lập, tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm về
kết quả kinh doanh.
- Chi nhánh ngân hàng ở nước ngoài: Đây là hình thức tổ chức phổ
biến nhất đối với phần lớn các ngân hàng hoạt động trên phạm vi quốc tế. Chi
nhánh ngân hàng nước ngoài là một bộ phận thuộc cơ cấu tổ chức của ngân
hàng trong nước và chịu sự chỉ đạo của trụ sở chính, không phân tách về mặt

6
pháp lý với ngân hàng mẹ. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện hàng
loạt nghiệp vụ ngân hàng tại nước chủ nhà trong khuôn khổ pháp luật và điều
kiện kinh doanh tại nước chủ nhà.
Dạng tiêu biểu hơn cả là tổ chức bộ phận kinh doanh quốc tế chuyên
biệt ngay tại trụ sở chính của ngân hàng mà vẫn đạt được các mục đích phục
vụ khách hàng như các hình thức khác.
1.1.3. Các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế và rủi ro
1.1.3.1. Nghiệp vụ tín dụng quốc tế
Tín dụng quốc tế là việc nhượng quyền sử dụng vốn của chủ thể nước
này cho chủ thể nước kia nhằm mục đích kinh doanh theo nguyên tắc hoàn
trả, có kỳ hạn và thu lãi.
Khi nhắc đến hoạt động tín dụng của một ngân hàng bất kể phạm vi
trong nước hay quốc tế thì cũng phải xem xét trên hai khía cạnh đó là hoạt
động huy động vốn và cho vay vốn.
a. Hoạt động huy động vốn
Vốn ngoại tệ có vai trò đặc biệt trong hoạt động của các nghiệp vụ ngân
hàng quốc tế. Ngân hàng có thể huy động nguồn vốn này qua các hình thức
thu hút các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân dưới dạng nhận tiền gửi thanh
toán, tiền gửi tiết kiệm, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu bằng ngoại tệ hay vay
ngân hàng và các tổ chức tài chính nước ngoài qua các cơ sở chi nhánh, ngân
hàng con của mình, thu hút nguồn kiều hối Đặc biệt, ngân hàng có thể huy
động vốn vào Việt Nam thông qua các thị trường vốn quốc tế bằng cách tham
gia thị trường trái phiếu quốc tế như thị trường trái phiếu nội địa, thị trường
trái phiếu nước ngoài, thị trường trái phiếu Châu Âu (Eurobond Market).
b. Hoạt động cho vay vốn
* Tín dụng xuất khẩu
7
Ngân hàng thương mại có thể cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu bằng
cách cho phép nhà xuất khẩu được hưởng một hạn mức thấu chi để sử dụng

cho mọi khoản chi phí phục vụ hoạt động xuất khẩu, hoặc cho nhà xuất khẩu
vay trước khi giao hàng theo các yêu cầu cụ thể, giúp anh ta có thể mua
nguyên vật liệu để sản xuất hàng hoá xuất khẩu, hoặc cho vay tạm ứng trên cơ
sở bộ chứng từ thanh toán hàng xuất khẩu chưa đến hạn thanh toán sau khi
giao hàng, thông qua một số hình thức cụ thể như sau:
+ Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ: Nhà
xuất khẩu có thể yêu cầu Ngân hàng đáp ứng một phần giá trị bộ chứng từ
nhờ thu làm đảm bảo.
+ Tín dụng ứng trước trong phương thức tín dụng chứng từ: Nhà xuất
khẩu có thể mang L/C đến ngân hàng để chiết khấu các hối phiếu của bộ
chứng từ hoặc với một L/C cho phép chuyển nhượng toàn bộ quyền sở hữu,
một thư tín dụng trả chậm thì nhà xuất khẩu có thể nhận được một khoản tín
dụng từ ngân hàng.
+ Chiết khấu giấy tờ có giá: Bao gồm chiết khấu hối phiếu trơn, hối
phiếu của bộ chứng từ nhờ thu, bộ chứng từ hàng hoá.
+ Nghiệp vụ Factoring: Factoring là một hình thức tài chính trong hoạt
động xuất khẩu. Đó là những hoạt động mua bán những khoản thanh toán
chưa tới hạn và ngắn hạn từ những hoạt động xuất khẩu cung ứng hàng hoá
dịch vụ. Do đó, chúng ta có thể gọi Factoring là hoạt động bao thanh toán.
+ Nghiệp vụ Forfaiting: là nghiệp vụ tài chính xuất khẩu, ngân hàng
mua bán những khoản thanh toán chưa đến hạn nhưng là những khoản thanh
toán trung và dài hạn (từ 2 đến 8 năm) đã được các ngân hàng của nhà nhập
khẩu bảo đảm. Là hình thức chiết khấu các hối phiếu, miễn truy đòi.
* Tín dụng nhập khẩu
8
Tín dụng nhập khẩu hay còn gọi là tài trợ nhập khẩu được ngân hàng
cấp cho nhà nhập khẩu thông qua việc mở L/C, chấp nhận hối phiếu, cấp tiền
vay dựa trên hàng nhập khẩu Cụ thể có các hình thức sau:
+ Cho vay mở L/C: khi ngân hàng mở L/C trả chậm cho nhà nhập khẩu
thì ngân hàng đã gián tiếp cấp cho nhà nhập khẩu một khoản tín dụng.

+ Tín dụng chấp nhận hối phiếu: là khoản tín dụng đảm bảo cho việc
chấp nhận hối phiếu mà ngân hàng dành cho nhà nhập khẩu. Chấp nhận hối
phiếu có nghĩa là ngân hàng đồng ý chi trả theo mệnh giá hối phiếu nếu người
ký phát không chi trả.
+ Cho vay trên cơ sở hối phiếu tự nhận nợ: ngân hàng sẽ cấp cho nhà
nhập khẩu một khoản tín dụng đặc biệt trên cơ sở hối phiếu tự nhận nợ do nhà
nhập khẩu phát hành gọi là tín dụng chiết khấu hối phiếu tự nhận nợ. Hình
thức này phát triển khá rộng rãi trong ngoại thương. Nó phục vụ cho những
điều khoản thanh toán đơn giản.
+ Hoá đơn tín thác: Nhà nhập khẩu có thể nhận tài trợ từ NHTM để
nhập khẩu hàng hóa theo cách khi nhận được vận đơn, nhà nhập khẩu ký tên
vào một chứng từ pháp lý được gọi là hoá đơn tín thác
+ Tín dụng theo hợp đồng khung: là hình thức tín dụng dành cho nhà
nhập khẩu nước ngoài nhằm hỗ trợ cho việc thanh toán tiền hàng nhập khẩu
và thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của nước xuất khẩu.
* Tài trợ dự án đầu tư
Tài trợ dự án đầu tư: là hoạt đông tín dụng đối với những dự án kinh tế
với thời hạn sử dụng vốn khá lâu và phải thực hiện nhiều lần thanh toán, trên
cơ sở độc lập. Những người cho vay trông vào những khoản tiền thu được từ
dự án như là nguồn vốn để hoản trả nợ. Đây là việc cho vay dựa vào chính
khả năng thu nhập của dự án, khác với việc cho vay dựa vào tài sản thế chấp
9
Tài trợ dự án có thể không có bảo lãnh nhưng thường được bảo lãnh ở mức
hạn chế.
* Đồng tài trợ
Cho vay đồng tài trợ được hiểu là việc nhiều tổ chức tín dụng với sự
đại diện của một tổ chức tín dụng được gọi là “Tổ chức tín dụng đầu mối” hay
“gọi là ngân hàng đại diện” cùng nhau góp vốn để cho vay đối với một dự án
vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng. Lý do của việc đồng tài trợ
là những khoản vay lớn mà một ngân hàng không có đủ nguồn vốn để thực

hiện tài trợ, vì những lí do phân tán rủi ro, chi phí quản lý thấp do chỉ cần một
ngân hàng đầu mối thực hiện. Hình thức cấp tín dụng đối với đồng tài trợ có
thể là cho vay hợp vốn, đồng bảo lãnh hoặc kết hợp cả hai hình thức.
* Thuê mua tài chính quốc tế
Thuê mua tài chính quốc tế là một thoả thuận hợp đồng cho phép một
bên (bên đi thuê) được sử dụng tài sản thuộc quyền sở hữu của công ty cho
thuê (bên cho thuê) và thực hiện các khoản chi trả định kỳ được quy định cụ
thể tại hợp đồng thuê. Bên đi thuê có thể thuê từ công ty cho thuê nội địa
thông qua việc công ty này nhập khẩu đối tượng thuê từ nhà xuất khẩu nước
ngoài hoặc có thể thuê trực tiếp từ công ty cho thuê nước ngoài.
* Bảo lãnh Ngân hàng
Bảo lãnh là nghiệp vụ của ngân hàng trong đó ngân hàng cam kết bảo
lãnh chịu trách nhiệm trả tiền cho người thụ hưởng nếu bên được bảo lãnh
không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ đã thoả thuận với bên yêu cầu
bảo lãnh (bên cho vay). Bên được bảo lãnh có trách nhiệm thực hiện đầy đủ
những cam kết của mình với bên yêu cầu bảo lãnh và với ngân hàng bảo lãnh.
Bảo lãnh có rất nhiều hình thức khác nhau, sau đây là một số hình thức
tiêu biểu:
+ Bảo lãnh thanh toán
10
+ Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
+ Bảo lãnh dự thầu
+ Bảo lãnh tiền ứng trước hay bảo lãnh tiền đặt cọc
+ Bảo lãnh vay vốn nước ngoài
+ Thư tín dụng dự phòng
1.1.3.2. Nghiệp vụ thanh toán quốc tế
a. Khái niệm và các phương tiện sử dụng trong thanh toán quốc tế
- Khái niệm thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả về tiền tệ phát
sinh từ các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng và dịch vụ phi

mậu dịch giữa các tổ chức, cá nhân nước này với tổ chức, cá nhân nước khác,
giữa một quốc gia với một tổ chức quốc tế, thường được thông qua quan hệ
giữa các Ngân hàng của các nước có liên quan.
Xét về mặt kinh tế, thanh toán quốc tế bao gồm hai lĩnh vực:
+ Thanh toán mậu dịch: là quan hệ thanh toán phát sinh trên cơ sở hàng
hoá dịch vụ thương mại kết hợp xuất nhập khẩu dựa trên giá quốc tế.
+ Thanh toán phi mậu dịch: là thanh toán phát sinh không liên quan đến
hàng hoá, không mang tính chất thương mại.
- Các phương tiện thanh toán trong thương mại quốc tế
+ Hối phiếu (Bill of Exchange)
+ Lệnh phiếu (Promissory note)
+ Séc
+ Thẻ thanh toán (Payment card)
b. Nội dung các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu
Trong quan hệ thanh toán quốc tế, phương thức thanh toán có một vị trí
rất quan trọng. Quan hệ thanh toán quốc chỉ có thể được thực hiện thông qua
các phương thức thanh toán. Phương thức thanh toán là phương pháp, cách
11
thức tiến hành nghiệp vụ nhất định, thông qua đó người nhập khẩu trả tiền,
nhận hàng và người xuất khẩu giao hàng, nhận tiền.
Có rất nhiều phương thức thanh toán quốc tế khác nhau, sau đây là một
số phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu đang được sử dụng trong thương
mại quốc tế.
* Phương thức chuyển tiền (Remittance)
Chuyển tiền là một phương thức trong đó khách hàng (người trả tiền -
người nhập khẩu) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất
định cho người khác (người hưởng lợi - người xuất khẩu) ở một địa điểm nhất
định bằng hình thức chuyển tiền do khách hàng yêu cầu, hoặc bằng điện -
Telegrahic Transfer (TT), hoặc bằng thư - Mail Tranfer (MT), hoặc chuyển
tiền qua hệ thống Swift (được sử dụng phổ biến nhất hiện nay). Ngân hàng

chuyển tiền thường phải thông qua đại lý, hoặc chi nhánh của mình ở nước
người hưởng lợi để thực hiện việc chuyển tiền.
Các bên tham gia vào nghiệp vụ chuyển tiền gồm có: người chuyển tiền
(Remitter) là người nhập khẩu; người thụ hưởng (Beneficiary) là người xuất
khẩu; ngân hàng trả tiền (Paying bank) là ngân hàng bên người xuất khẩu;
ngân hàng uỷ nhiệm chuyển tiền (Remitting bank) thường là ngân hàng phục
vụ người nhập khẩu.
Sơ đồ 1.1: Quy trình nghiệp vụ thanh toán chuyển tiền
(1) Giao dịch thương mại.
REMITTING BANK
REMITTER
PAYING BANK
BENEFICIARY
(3)
(2) (4)
(1)
12
(2) Người nhập khẩu sau khi kiểm tra hàng hoá (hoặc bộ chứng từ hàng
hoá) phù hợp với thoả thuận của hai bên thì viết lệnh chuyển tiền và gửi đến
ngân hàng phục vụ mình yêu cầu chuyển tiền trả cho nhà xuất khẩu.
(3) Ngân hàng chuyển tiền làm thủ tục chuyển tiền thông qua ngân
hàng đại lý.
(4) Ngân hàng đại lý (ngân hàng trả tiền) thanh toán tiền cho người thụ hưởng.
Trong quan hệ mua bán ngoại thương, phương thức thanh toán chuyển
tiền chỉ được lựa chọn khi các khoản thanh toán có giá trị nhỏ, hoặc trong
trường hợp mối quan hệ giữa nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu là tin cậy nhau.
* Phương thức mở tài khoản ghi sổ (Open Account)
Phương thức thanh toán mở tài khoản ghi sổ là phương thức thanh toán
trong đó người bán mở một tài khoản (quyển sổ) trên đó ghi các khoản tiền
mà người mua nợ về tiền hàng hóa hay khoản chi khác có liên quan đến việc

mua hàng (theo tháng, quý hoặc nửa năm), thanh toán nợ hình thành trên tài
khoản sau khi người bán đã hoàn thành việc giao hàng, dịch vụ.
Trong phương thức thanh toán ghi sổ chỉ có hai bên tham gia thanh
toán là người mua và người bán.
Sơ đồ 1.2: Quy trình nghiệp vụ thanh toán ghi sổ
(1). Giao hàng hoặc dịch vụ và gửi chứng từ hàng hóa
(2). Báo nợ trực tiếp
* Phương thức thanh toán nhờ thu (Collection of Payment).
NGƯỜI MUA
(2)
(1)
NGƯỜI BÁN
13
Nhờ thu là phương thức thanh toán mà người xuất khẩu sau khi hoàn
thành nghĩa vụ giao hàng, hoặc cung ứng dịch vụ cho khách hàng thì uỷ thác
cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền ở người nhập khẩu trên cơ sở hối
phiếu do mình lập ra. Cơ sở pháp lí quốc tế của nghiệp vụ này là Quy tắc
thống nhất về nhờ thu bản sửa đổi vào năm 1995, gọi là URC 522, có hiệu lực
thi hành từ ngày 1/1/1996.
Phương thức thanh toán này có sự tham gia của các bên cụ thể như sau:
- Người ủy thác thu tiền/ người xuất khẩu/ người gửi giấy nhờ thu/
người phát hành hối phiếu (Drawer)
- Ngân hàng chuyển chứng từ nhờ thu/ ngân hàng phục vụ người xuất
khẩu/ ngân hàng nhận sự ủy thác thu tiền (Remitting Bank)
- Ngân hàng thu tiền/ ngân hàng phục vụ người nhập khẩu/ ngân hàng
xuất trình thu hộ tiền (Presenting Bank), thường là ngân hàng đại lý hay chi
nhánh của ngân hàng chuyển chứng từ (Collecting Bank)
- Người trả tiền/ người nhập khẩu (Drawee)
Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại các hình thức thanh toán nhờ
thu nhưng nếu căn cứ vào chứng từ sử dụng trong thanh toán quốc tế thì có

hai hình thức thanh toán nhờ thu cơ bản sau:
+ Nhờ thu phiếu trơn (Clean collection) là phương thức trong đó người
bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ số tiền từ người mua, chỉ căn cứ vào hối
phiếu do người bán ký phát, còn chứng từ hàng hoá thì gửi thẳng cho người
mua, không qua ngân hàng.
+ Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary collection) là phương thức
trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua không
những căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hoá gửi kèm
theo với yêu cầu là ngân hàng chỉ trao bộ chứng từ hàng hoá cho người mua
để đi nhận hàng khi họ đã thanh toán tiền (Nếu phương thức thanh toán là
14
thanh toán đổi lấy chứng từ-Documentary against payment-D/P), hoặc đã ký
chấp nhận thanh toán (Nếu phương thức thanh toán là chấp nhận hối phiếu
đổi lấy bộ chứng từ - Documentary against Acceptance-D/A).
Sơ đồ 1.3 : Quy trình nghiệp vụ thanh toán nhờ thu
(1). Căn cứ vào hợp đồng người xuất khẩu giao hàng hoá cho nhà nhập
khẩu.
(2). Người xuất khẩu lập toàn bộ chứng từ hàng hoá theo yêu cầu của
hợp đồng thương mại cùng hối phiếu trả ngay (nếu là thanh toán theo D/P)
hay hối phiếu kỳ hạn (nếu là thanh toán theo D/A) gửi tới ngân hàng phục vụ
mình nhờ thu hộ tiền ở người nhập khẩu.
(3). Ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu chuyển hối phiếu kèm uỷ thác
thu, bộ chứng từ thanh toán cho ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu ở nước
ngoài để thu tiền người nhập khẩu.
(4). Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu thông báo đã nhận được hối
phiếu cho nhà nhập khẩu và đề nghị thanh toán.
(5). Nhà nhập khẩu trả ngay tiền đối với hối phiếu trả tiền ngay, ký chấp
nhận thanh toán đối với hối phiếu trả chậm gửi cho ngân hàng phục vụ mình.
NGÂN HÀNG
CHUYỂN CHỨNG

TỪ
NGÂN HÀNG
THU TIỀN
NGƯỜI XUẤT
KHẨU
NGƯỜI NHẬP
KHẨU
(1)

(2)(7)
(3)
(6)
(4) (5) (5’)
15
(5’). Nếu là nhờ thu kèm chứng từ thì chuyển trả chứng từ hàng hóa và
chứng từ tài chính (D/P), giữ lại hối phiếu chấp nhận (D/A).
(6) + (7) Chuyển trả tiền hoặc hối phiếu đã được ký chấp nhận
* Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (Documentary Credit)
Đây là phương thức thanh toán được dùng phổ biến nhất trong thanh
toán quốc tế, vì phương thức này có ưu điểm hơn hai phương thức thanh toán
trên là: Phương thức này đảm bảo được quyền lợi và nghĩa vụ của các bên
(nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu) trong quá trình thực hiện hợp đồng cũng
như trong thanh toán tiền hàng.
Ta có thể hiểu một cách đơn giản phương thức thanh toán tín dụng
chứng từ là phương thức thanh toán dựa vào cam kết thanh toán có điều kiện
của ngân hàng phát hành. Cam kết thanh toán có điều kiện này chính là thư
tín dụng - Letter of Credit (ký hiệu là L/C).
L/C là bất kì sự thoả thuận nào của Ngân hàng phát hành mà theo đó
Ngân hàng phát hành sẽ trả ngay hoặc đến một thời điểm trong tương lai sẽ
trả một số tiền nhất định cho người hưởng lợi với điều kiện người hưởng lợi

phải xuất trình một bộ chứng từ hoàn toàn phù hợp với các điều kiện và điều
khoản của L/C.
Thư tín dụng có nhiều loại khác nhau căn cứ các tiêu thức phân chia
khác nhau nhưng chỉ có một số loại thư tín dụng phổ biến thường sử dụng là
L/C có thể huỷ ngang, L/C không thể huỷ ngang, L/C không huỷ ngang có
xác nhận, L/C giáp lưng, L/C dự phòng
Các chủ thể tham gia phương thức tín dụng chứng từ gồm: Người yêu
cầu mở L/C (Applicant); Người nhập khẩu hay người thụ hưởng
(Beneficiary); Ngân hàng mở L/C (Issuing bank); Ngân hàng thông báo L/C
(Advising bank); Ngân hàng hoàn trả (Reimbusment bank); Ngân hàng xác
nhận (Confirming Bank); Ngân hàng chiết khấu chứng từ (Negotating Bank).
16
Sơ đồ 1.4 : Quy trình nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ
(1). Người nhập khẩu căn cứ vào hợp đồng thương mại, viết đơn đề nghị
mở tín dụng thư cho người xuất khẩu hưởng, gửi tới ngân hàng phục vụ mình.
(2). Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu căn cứ vào đơn xin mở thư tín
dụng, nếu đáp ứng các yêu cầu, ngân hàng sẽ phát hành thư tín dụng và thông
qua ngân hàng đại lý để thông báo tới người thụ hưởng (người xuất khẩu).
(3). Ngân hàng thông báo khi nhận được thư tín dụng sẽ khẩn trương
thông báo, chuyển giao thư tín dụng này cho nhà xuất khẩu.
(4). Người xuất khẩu nếu chấp nhận nội dung thư tín dụng đã mở thì
tiến hành giao hàng theo điều kiện hợp đồng.
(5). Sau khi đã hoàn thành việc giao hàng, người xuất khẩu lập bộ
chứng từ thanh toán theo thư tín dụng, gửi tới ngân hàng thông báo đề nghị
thanh toán.
(6). Nếu ngân hàng này được chỉ định là ngân hàng thanh toán, tiến
hành kiểm tra bộ chứng từ nếu thấy phù hợp với các điều khoản trong thư tín
dụng thì tiến hành thanh toán cho người xuất khẩu (trả tiền ngay, hoặc chấp
nhận, hoặc chiết khấu).
(7). Sau khi đã thanh toán, ngân hàng chuyển bộ chứng từ sang ngân

hàng phát hành và đòi tiền.
(7)
Ngân hàng phát hành
(Issuing Bank)
Ngân hàng thông
báo
(Advising Bank)
Người nhập khẩu
(Applicant)
Người xuất khẩu
(Beneficiary)
(1)
(2)
(3)
(4)
HĐTM
(5) (6)
(8)
(9)(10)
17
(8). Ngân hàng phát hành kiểm tra bộ chứng từ, nếu đáp ứng các điều
khoản của thư tín dụng thì hoàn lại tiền cho ngân hàng thanh toán.
(9). Ngân hàng phát hành báo cho người nhập khẩu biết bộ chứng từ đã
đến, đề nghị làm thủ tục thanh toán.
(10). Người nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ, nếu phù hợp thì tiến hành
trả tiền (hoặc chấp nhận thanh toán), ngân hàng sẽ trao bộ chứng từ để họ đi
nhận hàng. Trong trường hợp người nhập khẩu không thanh toán, thì ngân
hàng cũng không trao chứng từ cho họ.
Cơ sở pháp lý quốc tế của phương thức tín dụng chứng từ là Quy tắc và
thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ bản sửa đổi năm 2007, phòng

thương mại quốc tế, xuất bản số 600, viết tắt là UCP 600.
1.1.3.3. Nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối
a. Khái niệm chung
Nếu hiểu kinh doanh ngoại hối theo nghĩa rộng thì kinh doanh ngoại
hối bao gồm việc mua bán ngoại hối (ngoại hối là phương tiện thanh toán thể
hiện dưới dạng ngoại tệ mạnh, hoặc các khoản phải thu, phải đòi bằng ngoại
tệ như là hối phiếu bằng ngoại tệ, séc bằng ngoại tệ, dư có trên các tài khoản
tại ngân hàng nước ngoài), đảm bảo ổn định số dư tài khoản kinh doanh ngoại
hối tại nước ngoài và tìm ra cách thu lời thông qua chênh lệch tỷ giá và lãi
suất giữa các đồng tiền khác nhau.
Còn nếu hiểu kinh doanh ngoại hối theo nghĩa hẹp thì kinh doanh ngoại
hối chỉ đơn thuần là việc mua bán số dư trên các tài khoản bằng ngoại tệ.
Phạm vi hoạt động kinh doanh ngoại hối là thị trường ngoại hối. Thị
trường ngoại hối được định nghĩa là bất cứ ở đâu diễn ra việc mua bán các
đồng tiền khác nhau. Đây là một thị trường không được thiết lập tại một vị trí
địa lý hữu hình nhất định, thị trường ngoại hối là thị trường có tính toàn cầu.
b. Các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối chủ yếu.
18
* Nghiệp vụ ngoại hối giao ngay (Spot)
Nghiệp vụ ngoại hối giao ngay (The Spot Foreign Exchange
Transaction) bao gồm việc trao đổi, mua bán các đồng tiền khác nhau trên các
tài khoản khác nhau tại ngân hàng và các bên tiến hành thanh toán ngay sau
khi đã thoả thuận theo tỷ giá giao ngay.
* Nghiệp vụ ngoại hối kỳ hạn (Forward)
Nghiệp vụ ngoại hối kỳ hạn hay còn là giao dịch ngoại hối kỳ hạn là
giao dịch cam kết mua bán các đồng tiền khác nhau tại một thời điểm xác
định trong tương lai theo một tỷ giá đã thoả thuận trước. Hay còn có thể hiểu
như sau : Những giao dịch ngoại hối có ngày giá trị xa hơn ngày giá trị giao
ngay gọi là giao dịch ngoại hối kỳ hạn (Forward transaction).
* Nghiệp vụ hoán đổi ngoại hối (Foreign Exchange Swaps)

Nghiệp vụ hoán đổi ngoại hối hay giao dịch hoán đổi ngoại hối là việc
đồng thời mua vào và bán ra một đồng tiền nhất định, trong đó ngày giá trị
mua vào và ngày giá trị bán ra là khác nhau.
* Nghiệp vụ tiền tệ tương lai hay còn gọi là giao dịch tiền tệ tương lai
(Currency Futures)
Giao dịch tiền tệ tương lai được thực hiện thông qua việc ký kết các
hợp đồng tiền tệ tương lai (gọi tắt là hợp đồng tương lai). Hợp đồng tương lai
là sự thoả thuận sẽ mua hoặc bán một lượng ngoại tệ nhất định vào một ngày
đã được xác định trong tương lai theo những điều kiện đã quy định trước.
* Nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ
Nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ hay còn gọi là giao dịch quyền chọn tiền
tệ là giao dịch được thực hiện qua việc ký kết hợp đồng quyền chọn tiền tệ.
Hợp đồng quyền chọn tiền tệ là quyền, chứ không phải nghĩa vụ, mua hoặc
bán một đồng tiền này với một đồng tiền khác tại tỷ giá cố định đã thoả thuận
trước, trong một khoảng thời gian nhất định. Để có quyền như vậy, người
19
mua quyền phải trả cho người bán quyền một khoản phí nhất định (gọi là
option premium).
Hợp đồng quyền chọn tiền tệ có hai loại là: Hợp đồng quyền chọn mua
tiền tệ hay còn gọi là quyền chọn mua tiền tệ (Call - Option); Hợp đồng quyền
chọn bán tiền tệ hay gọi là quyền chọn bán tiền tệ (Put - Option).
1.1.3.4. Nghiệp vụ thẻ tín dụng Quốc tế
Thẻ tín dụng là một phương tiện thanh toán hiện đại cho phép chủ thẻ
sử dụng để thanh toán cho các hàng hoá, dịch vụ tại nơi có điểm chấp nhận
thẻ hoặc rút tiền mặt với hạn mức chi tiêu nhất định mà ngân hàng cho phép
chủ thẻ căn cứ vào khả năng tài chính, số tiền ký quỹ hoặc tài sản thế chấp
của chủ thẻ. Đặc trưng nổi bật của thẻ tín dụng là chi tiêu trước, trả tiền sau.
Thẻ tín dụng đầu tiên ra đời vào năm 1949 là thẻ Diner Club do ông
Frank Mc Namara, một doanh nhân người Mỹ sáng chế ra. Ngày nay, các loại
thẻ như Master, Visa, JCB, Diner Club, Amex được sử dụng rộng rãi trên toàn

thế giới và thay nhau chiếm lĩnh các thị trường lớn.
1.1.3.5. Các nghiệp vụ khác
a. Nghiệp vụ ngân hàng điện từ và dịch vụ ngân hàng trực tuyến
Nghiệp vụ ngân hàng internet (Internet Banking - IB): là một phương
thức phân phối sản phẩm dịch vụ ngân hàng thông qua mạng máy tính. Khi có
nhu cầu, khách hàng chỉ cần nhập các thông tin cần thiết như mã truy cập, mật
khẩu của mình và nội dung yêu cầu ngân hàng vào một chương trình do ngân
hàng cài đặt là có thể tiến hành giao dịch ngay lập tức vào bất cứ lúc nào mà
không nhất thiết phải trực tiếp đến ngân hàng.
Dịch vụ ngân hàng điện tử (Email Banking): là nghiệp vụ có nội hàm
rộng hơn nghiệp vụ ngân hàng internet rất nhiều, dịch vụ này bao gồm cả việc
cung cấp các dịch vụ thông qua một số phương tiện như fax, điện thoại,
email…
20
b. Ngân hàng đại lý và dịch vụ đánh giá tín nhiệm ngân hàng đại lý.
Ngân hàng này được coi là đại lý của ngân hàng kia và ngược lại nếu
hai ngân hàng cùng duy trì tài khoản ngân hàng đại lý với nhau. Các ngân
hàng trở thành đại lý của nhau khi phát sinh nhu cầu thanh toán cho khách
hàng của Ngân hàng tại nơi mà Ngân hàng này không có chi nhánh.
Đánh giá tín nhiệm ngân hàng đại lý chính là dịch vụ quản trị rủi ro khi
tham gia vào mối quan hệ ngân hàng đại lý với Ngân hàng khác. Dịch vụ giúp
đánh giá sự lành mạnh về tài chính của bên đối tác để nắm được năng lực
thực hiện nghiệp vụ của Ngân hàng đại lý. Kết quả đánh giá này sẽ xác định
hạn mức trách nhiệm tham gia vào mối quan hệ ngân hàng đại lý.
c. Dịch vụ tư vấn.
Mọi đối tác kinh doanh đều muốn thâm nhập vào thị trường mới. Tuy
nhiên để thâm nhập vào những thị trường mới mẻ này thì đều cần phải có
những thông tin cần thiết về chúng. Nắm bắt được nhu cầu này của khách
hàng, các ngân hàng đã đưa ra loại hình dịch vụ tư vấn khách hàng. Dịch vụ
này không những mang lại cho ngân hàng một khoản phí đáng kể mà còn

củng cố quan hệ khách hàng và ngân hàng để từ đó mở rộng các nghiệp vụ
khác. Mặt khác, các đặc điểm kinh doanh riêng có của hệ thống ngân hàng đã
tạo cho nó những lợi thế hơn hẳn bất kỳ nhà cung cấp thông tin nào khác về
khối lượng và chất lượng thông tin mà nó có được.
d. Séc du lịch.
Séc du lịch là loại séc đích danh có mệnh giá in trên mặt séc, nhờ loại
séc này mà khách du lịch có thể không cần mang theo tiền mặt khi đi du lịch
vì séc du lịch có thể thanh toán một cách chắc chắn ở mọi nơi. Séc du lịch có
thể coi là phương tiện thanh toán thuận tiện và chắc chắn như tiền mặt.
1.1.3.6. Các rủi ro trong nghiệp vụ ngân hàng quốc tế
a. Rủi ro về khả năng thanh toán (Credit risk)
21
Là rủi ro liên quan đến khả năng của đối tác trong việc thực hiện nghĩa
vụ đã cam kết theo hợp đồng. Trong thị trường tài chính đó chính là khả năng
chi trả các khoản phải trả khi đến hạn.
- Rủi ro về khả năng thanh toán trên thị trường tiền tệ: Trên thị trường
tiền tệ, không có rủi ro khả năng thanh toán về phía người đi vay nhưng về
phía người cho vay hay gửi tiền thì luôn có rủi ro vì người đi vay có thể
không có khả năng trả khoản nợ họ đã vay.
- Rủi ro khả năng thanh toán trên thị trường hối đoái: Xuất hiện khi
đối tác không có khả năng chi trả cho các hợp đồng mua bán đã cam kết.
- Rủi ro quốc gia: Là một dạng rủi ro về khả năng thanh toán không
phải do phía đối tác không có khả năng thanh toán mà xuất phát từ chủ quyền
của quốc gia đó. Rủi ro quốc gia cũng xuất hiện khi có sự thay đổi về chính trị
khi chính quyền mới phủ nhận hoặc từ chối các khoản vay của chính quyền cũ.
b. Rủi ro về giá (Rate risk)
Là rủi ro khi giá cả biến động theo chiều bất lợi đối với trạng thái luồng
tiền (cash flow position) và trạng thái ngoại tệ (foreign exchange position).
- Rủi ro lãi suất trên thị trường tiền tệ: Trên thị trường tiền tệ, rủi ro lãi
suất xuất hiện khi có sự không trùng khớp về thời hạn giữa tiền gửi và tiền

vay hay nói cách khác có rủi ro khi xuất hiện trạng thái thị trường tiền tệ.
Có hai dạng không trùng khớp về thời hạn nguồn vốn :
+ Thời hạn nguồn vốn dài hơn thời hạn cho vay hay sử dụng vốn dài
hạn, cho vay ngắn hạn : Gọi là trạng thái dương (Possitive gap). Duy trì trạng
thái dương sẽ tạo ra lợi nhuận khi lãi suất tăng và rủi ro lỗ khi lãi suất giảm.
+ Thời hạn nguồn vốn ngắn hơn thời hạn cho vay hay sử dụng vốn
ngắn hạn, cho vay dài hạn : Gọi là trạng thái âm (Negative gap). Duy trì trạng
thái âm sẽ tạo ra lợi nhuận khi lãi suất giảm và rủi ro lỗ khi lãi suất tăng.
22
- Rủi ro tỷ giá trên thị trường hối đoái : Trên thị trường hối đoái, rủi ro
tỷ giá xuất hiện dưới hai dạng: dạng thứ nhất là do trạng thái ngoại tệ ròng,
dạng thứ hai do trạng thái hoán đổi hoặc không trùng khớp về kỳ hạn. Trường
hợp thứ nhất, nếu trạng thái dương sẽ bị lỗ khi tỷ giá giảm so với giá mua và
ngược lại với trạng thái âm. Trường hợp khác xảy ra khi thực hiện các giao
dịch hoán đổi mặc dù các giao dịch này không ảnh hưởng đến trạng thái hối
đoái ròng nhưng có thể xuất hiện sự chênh lệch về thời hạn giữa các giao dịch
hoán đổi. Do đó, nếu tỷ giá biến động không như dự đoán thì sẽ dẫn đến lỗ.
c. Rủi ro về tính thanh khoản (Liquidation Risk)
Rủi ro thanh khoản xuất hiện do luồng tiền trong giao dịch không cân
bằng khi phải trả nợ trong khi chưa chuẩn bị được luồng tiền vào để trả nợ.
Rủi ro thanh khoản đi cùng với rủi ro về giá.
- Rủi ro trên thị trường tiền tệ: rủi ro thanh khoản xuất hiện khi vốn cho
vay dài hơn so với thời hạn của nguồn vốn hiện có. Đến thời điểm phải trả nợ
của nguồn vốn đi vay mà không cân đối luồng tiền vào sẽ dẫn đến mất khả
năng thanh toán.
- Rủi ro trên thị trường hối đoái: Rủi ro này xuất hiện từ sự không chắc
chắn về khả năng có được đồng ngoại tệ vào thời điểm cần thiết, tức là khi có
trạng thái Swap bán trước dài hơn nguồn vốn, hay trạng thái hối đoái bán
trước, đến thời điểm phải thanh toán không mua lại được.
d. Rủi ro trong thanh toán quốc tế

* Rủi ro trong phương thức thanh toán nhờ thu
- Đối với ngân hàng chuyển chứng từ: Nhìn chung, ngân hàng chuyển
chứng từ chỉ chịu rủi ro khi đã thanh toán hay đã cho nhà xuất khẩu vay trước
khi nhận được tiền chuyển đến từ ngân hàng xuất trình.
- Đối với ngân hàng xuất trình: Nếu ngân hàng xuất trình chuyển tiền
cho ngân hàng chuyển chứng từ trước khi nhà nhập khẩu thanh toán, thì phải
23
chịu rủi ro nếu như nhà nhập khẩu không nhận chứng từ và không thanh toán
hoặc không chấp nhận thanh toán. Nếu ngân hàng xuất trình cho nhà nhập
khẩu vay để thanh toán thì có thể chịu rủi ro tín dụng từ phía nhà nhập khẩu.
* Rủi ro trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
- Rủi ro trong xử lý nghiệp vụ
+ Thực hiện sai quy trình nghiệp vụ
+ Không tuân thủ quy định của thông lệ quốc tế đã thống nhất áp dụng
trong phương thức thanh toán quốc tế (UCP600, URC522, URR725 )
- Rủi ro do nguyên nhân lừa đảo quốc tế
+ Lừa đảo về hàng hóa: Đây là dạng lừa đảo dễ xảy ra đối với những
đối tác có quan hệ buôn bán lần đầu. Đôi khi chúng còn tìm cách tăng khả
năng thành công bằng cách yêu cầu LC xác nhận bởi một ngân hàng khác.
+ Chứng từ giả mạo: Bộ chứng từ (làm giả) hoàn hảo nhưng không có
lô hàng nào được giao.
+ LC giả mạo : Dạng lừa đảo này thường xảy ra đối với loại LC được
mở trực tiếp cho người thụ hưởng, không sử dụng ngân hàng thông báo; hàng
hóa được gửi thẳng cho một cái tên đích danh.
+ Dạng lừa đảo có sự tiếp tay của khách hàng:
• Dạng thứ nhất : Người nhập khẩu đề nghị ngân hàng mở LC, người
thụ hưởng xuất trình bộ chứng từ giả và đem chiết khấu, khi nhận được yêu
cầu hoàn trả tiền thì ngân hàng mở LC không thể liên lạc được với người
nhập khẩu.
• Dạng thứ hai: LC bị các tổ chức tội phạm lợi dụng để rửa các khoản

tiền có nguồn gốc bất hợp pháp. Việc phát hành và thanh toán LC diễn ra hoàn
toàn bình thường, các ngân hàng không thể biết tình trạng thực của hàng hóa.
+ Lợi dụng LC dự phòng: Do tính giản đơn và điều kiện thanh toán dễ
dàng, LC dự phòng những năm gần đây có dấu hiệu bị lợi dụng lừa đảo.
24
1.2. Mở rộng nghiệp vụ ngân hàng quốc tế
1.2.1. Nội dung về mở rộng nghiệp vụ ngân hàng quốc tế
Đối với mỗi NHTM, mở rộng nghiệp vụ ngân hàng quốc tế là việc ngân
hàng mở rộng quy mô, địa bàn hoạt động, các sản phẩm dịch vụ cung ứng cho
khách hàng, hình thức cung ứng các sản phẩm dịch vụ và mở rộng phạm vi,
đối tượng, chủ thể tham gia vào nghiệp vụ này. Đồng thời, mở rộng các
nghiệp vụ ngân hàng quốc tế còn bao hàm cả việc mở rộng chất lượng từng
nghiệp vụ cụ thể.
Xuất phát từ khái niệm trên, mở rộng các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế
bao gồm hai nội dung :
- Mở rộng theo chiều rộng, theo đó, ngân hàng gia tăng về mặt
‘‘lượng’’: quy mô hoạt động lớn hơn, địa bàn hoạt động rộng hơn, ngân hàng
cung ứng nhiều sản phẩm dịch vụ hơn cho khách hàng, các đối tượng chủ thể
tham gia vào từng nghiệp vụ cũng nhiều hơn, đa dạng hơn.
Như vậy, khi mở rộng các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế theo chiều
rộng, ngân hàng chỉ quan tâm đến việc làm sao để cung cấp nhiều sản phẩm
dịch vụ hơn, đồng thời mở rộng địa bàn cũng như quy mô hoạt động để thu
hút tối đa lượng khách hàng, tăng thu phí dịch vụ và giảm thiểu rủi ro.
- Mở rộng theo chiều sâu, trong đó ngân hàng chú trọng mở rộng chất
lượng từng nghiệp vụ cụ thể, làm sao để nâng cao trình độ của nhân viên đối
với từng nghiệp vụ, thực hiện chuyên môn hóa, phân chia nhân viên chuyên
phụ trách từng nội dung nghiệp vụ cụ thể, nâng cao chất lượng phục vụ của
ngân hàng. Điều này được biểu hiện qua chất lượng của nhân viên chuyên
trách về nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, nâng cao trang thiết bị công nghệ phục
vụ cho việc thực hiện nghiệp vụ để đạt được mục tiêu là tăng chất lượng

nghiệp vụ, tăng doanh thu của từng nghiệp vụ, doanh thu của từng nghiệp vụ
cụ thể năm sau cao hơn năm trước.
25
Vấn đề cơ bản mà ngân hàng phải giải quyết khi mở rộng các nghiệp vụ
ngân hàng quốc tế theo chiều sâu đó là mối quan hệ giữa mở rộng nghiệp vụ
và nâng cao chất lượng nghiệp vụ. Bởi chất lượng sản phẩm dịch vụ là nhân
tố hàng đầu quyết định thành công trong sản xuất kinh doanh của bất kỳ
doanh nghiệp nào. Đối với ngân hàng, chất lượng sản phẩm dịch vụ lại càng
trở nên quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt trên thị trường
như hiện nay. Khi sử dụng sản phẩm dịch vụ, khách hàng có sự so sánh, đánh
giá và quyết định lựa chọn sử dụng sản phẩm của những ngân hàng có chất
lượng tốt, thậm chí khách hàng thay đổi quan hệ từ ngân hàng có chất lượng
sản phẩm thấp sang ngân hàng có chất lượng sản phẩm cao hơn. Như vậy,
chất lượng sản phẩm dịch vụ cung ứng là nhân tố quyết định sự trung thành,
mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng.
Chất lượng sản phẩm dịch vụ có vai trò quan trọng như vậy nên nếu mở
rộng ngân hàng không đi cùng với nâng cao chất lượng thì việc mở rộng của
ngân hàng đó không đem lại lợi ích gì, thậm chí còn làm tăng chi phí, giảm số
lượng khách hàng, làm xấu đi hình ảnh của ngân hàng, từ đó giảm uy tín,
giảm doanh thu và lợi nhuận của ngân hàng. Ngược lại, việc mở rộng các
nghiệp vụ ngân hàng quốc tế cùng với nâng cao chất lượng chẳng những duy
trì được lượng khách hàng truyền thống mà còn thu hút thêm được khách
hàng mới, mở rộng thị phần và gia tăng uy tín của ngân hàng trên thị trường.
Doanh thu và lợi nhuận của ngân hàng nhờ vậy cũng tăng lên.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá mức độ mở rộng nghiệp vụ ngân hàng quốc tế
- Mức độ đa dạng nghiệp vụ ngân hàng quốc tế: Số lượng các nghiệp
vụ ngân hàng quốc tế, số lượng sản phẩm dịch vụ trong từng nghiệp vụ cụ
thể
- Thị phần các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế: vể mạng lưới chi nhánh,
số lượng khách hàng, quan hệ đại lý…

×