Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

chất trữ tình và chất trí tuệ trong thơ xuân quỳnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (694.39 KB, 64 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC




NGUYỄN THỊ HỒNG KHANH




CHẤT TRỮ TÌNH VÀ CHẤT TRÍ TUỆ
TRONG THƠ XUÂN QUỲNH





KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC





SƠN LA, NĂM 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC





NGUYỄN THỊ HỒNG KHANH




CHẤT TRỮ TÌNH VÀ CHẤT TRÍ TUỆ
TRONG THƠ XUÂN QUỲNH


Chuyên ngành: Lí luận văn học

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Giảng viên hƣớng dẫn: TS. Nguyễn Văn Bao




SƠN LA, NĂM 2014
LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn phòng Đào tạo, phòng Quản lí khoa học và
Quan hệ quốc tế, các thầy cô trong khoa Ngữ Văn, đặc biệt là các thầy cô trong
tổ Lí luận văn học – Văn học nước ngoài cùng các bạn sinh viên lớp K51 –
ĐHSP Ngữ Văn đã giúp đỡ em trong quá trình thực hiện khóa luận.
Em xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo – TS. Nguyễn
Văn Bao đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo giúp đỡ em hoàn thành khóa luận tốt
nghiệp này.

Sơn La, tháng 5 năm 2014
Sinh viên


Nguyễn Thị Hồng Khanh
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Đối tƣợng, mục đích, phạm vi nghiên cứu 4
4. Phƣơng pháp nghiên cứu 4
5. Cấu trúc khóa luận 5
NỘI DUNG 6
CHƢƠNG 1. XUÂN QUỲNH – NỮ THI SĨ TÀI HOA, ĐẰM THẮM 6
1. Thi sĩ – nghệ sĩ, tƣ chất nghệ sĩ 6
2. Xuân Quỳnh – Cây xƣơng rồng trên cát 9
3. Những chùm hoa độc đáo 12
3.1. Quá trình sáng tác 12
3.2. Những tác phẩm tiêu biểu 15
Tiểu kết 16
CHƢƠNG 2. THƠ XUÂN QUỲNH – GIÀU CHẤT TRỮ TÌNH 17
2.1.Trữ tình là gì? 17
2.2. Thơ trữ tình 17
2.2.1. Thơ 17
2.2.2. Thơ trữ tình 19
2.3. Biểu hiện của thơ Xuân Quỳnh giàu chất trữ tình 21
2.3.1. Chất trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh được thể hiện qua nội dung: tình yêu
21
2.3.1.1. Tình yêu cuộc sống – thời đại 21

2.3.1.2. Tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước 24
2.3.1.3. Tình yêu gia đình, bạn bè 26
2.3.2. Chất trữ tình trong thơ Xuân Quỳnh được thể hiện qua hình thức ngôn
ngữ 30
2.3.2.1. Giàu hình ảnh, giản dị, gần gũi 32
2.3.2.2. Đậm chất dân gian 34
2.3.2. Giàu nhạc điệu 36
Tiểu kết 38
CHƢƠNG 3. THƠ XUÂN QUỲNH – ĐẬM CHẤT TRÍ TUỆ 39
3.1. Khái niệm trí tuệ 39
3.2. Chất trí tuệ trong thơ 39
3.3. Chất trí tuệ trong thơ Xuân Quỳnh 43
3.3.1. Chất trí tuệ được thể hiện qua nội dung thơ 43
3.3.1.1 Thơ viết về cuộc sống – thời đại 43
3.3.1.2. Thơ viết về tình yêu 46
3.3.1.3. Thơ viết về thiếu nhi 47
3.3.2. Chất trí tuệ được thể hiện qua hình thức 48
3.3.2.1. Sự độc đáo trong cấu tứ của thơ Xuân Quỳnh 48
3.3.2.2. Tạo dựng kết cấu theo dòng cảm nhận 51
Tiểu kết 56
KẾT LUẬN 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO 59









1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử Việt Nam được bạn bè trong nước và ngoài nước biết tới như một lịch
sử đầy oanh liệt với những chiến công chói lọi. Lịch sử đó đã trải qua biết bao
nhiêu trận chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược đem lại bình yên cho nước
nhà. Một cuộc Cách mạng Tháng Tám đầy gian nan, kháng chiến chống Pháp đầy
vất vả song rất đáng tự hào. Đặc biệt là cuộc kháng chiến chống Mỹ giành thắng lợi
đã không chỉ đem lại cho Việt Nam một nền độc lập vững bền mà còn tạo sự tích
cực trên thế giới.
Làm nên kì tích đó phải kể đến những đóng góp không nhỏ của sức mạnh
tổng hợp toàn dân tộc trong đó có văn học nghệ thuật. Văn học nghệ thuật thời
chống Mỹ không chỉ cổ vũ tinh thần yêu nước mà còn thể hiện được tình yêu gia
đình, yêu lẽ phải, công bằng, yêu cuộc sống. Trong đó đã có biết bao nhà thơ
trưởng thành từ hai cuộc kháng chiến của dân tộc. Trong số đó phải kể đến nhà
thơ Xuân Quỳnh – một nữ thi sĩ tài hoa, đằm thắm. Thơ chị là tiếng nói của một
tâm hồn giàu lòng yêu thương, chứa đựng những cảm xúc, tâm tình vừa sâu kín
lại vừa bộc bạch của chính bản thân; vừa là tiếng nói của một trí tuệ sắc sảo,
thông minh, nhạy bén trước thời cuộc…Thơ Xuân Quỳnh chính là một biểu
tượng cả về trí tuệ lẫn tình cảm mà bạn đọc ai cũng biết đến. Lermontov – văn
hào Nga thế kỉ XIX đã hóm hỉnh chia đàn bà thành hai hạng: một đó là hạng hồn
nhiên, chỉ có tình cảm mà thiếu hụt về trí tuệ; còn một hạng đàn bà trí tuệ nhưng
lại thiếu hụt về tình cảm. Ông đã thất vọng vì không kiếm đâu ra một người đạt
được sự toàn vẹn, đầy đủ cả hai yếu tố đó. Và khi đã tiếp cận với thơ Xuân
Quỳnh tôi đã tìm ra đáp án cho mình. Xuân Quỳnh chính là lời giải đáp ấy.
Thơ Xuân Quỳnh có lẽ vì vậy mà được rất nhiều người yêu thích, nhiều
thế hệ mến mộ và nó đã từng trở thành những cuốn sách gối đầu giường của
biết bao độc giả.
Thơ chị được đưa vào chương trình sách giáo khoa các cấp học làm cho thế
hệ học sinh hiểu thêm hơn về sự đặc sắc, vẻ đẹp của thơ cũng như vẻ đẹp trong

tâm hồn thi sĩ. Là một trong những người mến mộ và yêu thích thơ chị, mong
muốn tìm hiểu sâu hơn về chất trữ tình, cũng như chất trí tuệ trong thơ chị. Từ
đó hiểu rõ hơn, sâu hơn về con người chị. Đồng thời để phục vụ cho việc giảng

2
dạy, bình giảng thơ Xuân Quỳnh sau này, tôi mạnh dạn chọn việc nghiên cứu:
“Chất trữ tình và chất trí tuệ trong thơ Xuân Quỳnh” làm đề tài nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề
Xuân Quỳnh – một người phụ nữ đa sầu, đa cảm; một người vợ, người mẹ
hiền dịu, đặc biệt hơn chị còn là một người nghệ sĩ đa tài. Sự nghiệp văn học của
chị được xây dựng trên nhiều lĩnh vực khác nhau như: thơ trữ tình, truyện ngắn
viết cho thiếu nhi… Ở mảng nào chị cũng gặt hái được những thành công đáng
kể. Nhưng khi nhắc tới Xuân Quỳnh người ta thường biết chị như một nhà thơ
trữ tình, một nữ thi sĩ.
Xuân Quỳnh được bạn đọc biết tới nhiều trong kháng chiến chống Mỹ.
Trong thời kỳ này, chị là một trong những cây bút trẻ, đầy nhiệt huyết đã phục
vụ đắc lực trong mặt trận văn hóa văn nghệ của cuộc kháng chiến trường kỳ đầy
gian khổ. Với Xuân Quỳnh, thơ trữ tình của chị sáng tác khá nhiều song số
lượng bài viết, nghiên cứu về chị còn phần nào hạn chế, khiêm tốn.
Trong số nghiên cứu về Xuân Quỳnh phải kể đến:
1. Nữ sĩ Xuân Quỳnh – cuộc đời để lại (Ngân Hà tuyển chọn và biên soạn,
Nhà xuất bản Văn hóa thông tin – Hà Nội 2001)
2. Xuân Quỳnh – cuộc đời và tác phẩm (Lưu Khánh Thơ, Đông Mai tuyển
chọn, Nhà xuất bản Phụ nữ)
3. Bài viết: “Con người và nhà thơ” của Lại Nguyên Ân (Hội nhà văn Việt
Nam – Báo văn học tuổi trẻ, tháng 6 năm 1995)
Nghiên cứu về thơ Xuân Quỳnh chưa nhiều song phần lớn các ý kiến đều tập
trung đánh giá về hai phương diện nội dung, nghệ thuật của những tác phẩm thơ:
Trong “Nữ sĩ Xuân Quỳnh – cuộc đời để lại”, bài viết “Cánh chuồn trong
giông bão” Chu Văn Sơn có viết: “Mỗi thi sĩ đích thực bao giờ cũng có một điệu

hồn riêng thì lo âu đó mới thực là điệu hồn Xuân Quỳnh, điệu hồn ấy Xuân
Quỳnh đã phổ trọn vẹn vào nước tiếng thơ da diết nhất của mình” [7, 171].
Còn Lại Nguyên Ân thì cho rằng: “Xuân Quỳnh không chỉ là xuất chúng
trong “giới thơ phụ nữ”. Hai chục năm nay thơ Xuân Quỳnh đã đi vào người
đọc trở thành tiếng nói tâm tình về những ngọt bùi, cay đắng ở đời. Tiếng nói
của tình yêu, tình mẫu tử - một tiếng nói hồn hậu, dung dị chứa đựng những sự

3
sống đương thời mà cũng in dấu nếp nghĩ nếp cảm của tâm hồn người Việt tự xa
xưa” [7, 259 -260].
Hay như Mai Quốc Liên có lần đã nhận xét: “Chưa có ai đã biểu hiện sự
thương yêu sâu xa, đằm thắm đến thế trong thơ tình Việt Nam như Xuân Quỳnh”
[1, 35].
Chu Nga trong bài viết: “Xuân Quỳnh – một chồi thơ xanh biếc” cũng đã
bật lên những dòng cảm xúc rất thật của mình về thơ Xuân Quỳnh: “Tôi yêu thơ
Xuân Quỳnh trước tiên vì nét trẻ trung, tươi tắn, cái vẻ hồn nhiên cởi mở của
người làm thơ, yêu cách viết nghịch ngợm, dí dỏm, không cần làm duyên mà vẫn
có duyên của người cầm bút” [6, 493].
Nguyễn Minh Thái bàn về nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh thì cho rằng: “Những
câu thơ ấy giống hệt những giọt nước sau cơn mưa còn đọng lại trên lá cây. Chỉ
cần một làn cảm xúc chợt đến khi chạm vào lá là những câu thơ ấy sẽ rơi rụng
ngay xuống một vùng tâm thức, mồn một hiện lên giữa lòng ta” [7, 121].
Có thể thấy rằng, việc nghiên cứu về thơ Xuân Quỳnh ở hai đặc điểm chất
trữ tình và chất trí tuệ chưa được nổi bật. Điểm thoáng qua ta có thể nhận biết rõ
ràng một vài đánh giá về những đặc điểm đó:
Trong: “Nữ sĩ Xuân Quỳnh – cuộc đời để lại”, bài viết “Cảm nhận về thơ
Xuân Quỳnh”, Lưu Khánh Thơ có viết: “Xuân Quỳnh là một tác giả có bản sắc
tương đối rõ nét. Bản sắc ấy ngày càng được khẳng định và được biểu hiện
nhiều sắc thái qua mỗi tập thơ…Thơ Xuân Quỳnh bao giờ cũng là tiếng nói rất
riêng của một tâm hồn phụ nữ thông minh, sắc sảo, giàu yêu thương” [7, 9].

Hay cũng trong bài viết đó, Lưu Khánh Thơ còn cho rằng: “Thơ Xuân
Quỳnh giàu tâm trạng. Nếu thơ ca là sự tự thể hiện ở mức cao nhất cái tôi trữ
tình của nhà thơ, thì ở Xuân Quỳnh, đặc điểm bản chất này của thơ càng được
bộc lộ nổi bật” [6, 10].
Còn trong “Con người và nhà thơ”, Lại Nguyên Ân cho rằng: “Xuân Quỳnh
là hiện tượng rất quan trọng của nền thơ chúng ta. Có lẽ từ Hồ Xuân Hương,
qua các chặng đường phát triển, phải kể đến Xuân Quỳnh, nền thơ ấy mới lại
thấy một nữ thi sĩ mà tài năng và sự đa dạng của một tâm hồn được thể hiện ở
một tầm cỡ đáng kể như vậy, dồi dào, phong phú như vậy” [7, 259].

4
Các bài viết về thơ Xuân Quỳnh có những đánh giá khác nhau, song đều
khẳng định tài năng thơ độc đáo của chị. Và hầu hết các bài viết đều có nhận
thức về thành công của Xuân Quỳnh trên sự nghiệp văn học. Đó là kết quả rất
xứng đáng của một con người luôn tâm huyết với sự nghiệp như chị.
Là một người yêu thích thơ Xuân Quỳnh, tôi muốn tiếp cận và tìm hiểu
toàn diện thơ chị để thấy được cái hay cái đẹp, cái triết lí cũng như những cảm
xúc trữ tình được ẩn sau những vần thơ duyên dáng, nhịp nhàng ấy. Để từ đó
thuận lợi hơn trong công việc học tập, nghiên cứu. Do vậy, tôi chọn đề tài:
“Chất trữ tình và chất trí tuệ trong thơ Xuân Quỳnh” làm đề tài nghiên cứu.
3. Đối tƣợng, mục đích, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu hai đặc điểm: chất trữ tình và chất trí tuệ trong tác phẩm thơ
Xuân Quỳnh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp của Xuân Quỳnh
- Nghiên cứu về chất trữ tình trong tác phẩm thơ Xuân Quỳnh
- Nghiên cứu về chất trí tuệ trong tác phẩm thơ Xuân Quỳnh
3.3. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, đặc điểm về

chất trữ tình, chất trí tuệ trong thơ Xuân Quỳnh đề tài góp phần làm rõ hơn hai
đặc điểm đó trong thơ chị.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng tổng hợp các phương pháp để nghiên cứu: phương pháp
phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp đánh giá.
- Phương pháp phân tích:
Đây là phương pháp cơ bản, được sử dụng thường xuyên trong quá trình
nghiên cứu. Một số tác phẩm thơ sẽ được phân tích toàn bộ và kĩ lưỡng để nêu
bật được chất trữ tình và chất trí tuệ trong thơ Xuân Quỳnh. Một số tác phẩm
khác chỉ xoay quanh một khía cạnh, vấn đề nào đó.
- Phương pháp thống kê:

5
Đây là phương pháp cơ bản, đưa vào những khảo sát cụ thể để chứng minh
cho những nhận định, đánh giá. Phương pháp này giúp người nghiên cứu có thể
lựa chọn được những tác phẩm tiêu biểu trong thơ Xuân Quỳnh.
- Phương pháp đánh giá:
Phương pháp quan trọng đóng vai trò đánh giá, khẳng định những thành
công của nhà thơ. Cần phải đánh giá được cái hay, độc đáo, đặc sắc trong tác
phẩm thơ Xuân Quỳnh để tăng tính thuyết phục cho vấn đề mà đề tài nói tới.
5. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khóa luận gồm có ba chương:
Chương 1: Xuân Quỳnh – Nữ thi sĩ tài hoa, đằm thắm
Chương 2: Thơ Xuân Quỳnh - giàu chất trữ tình

Chương 3: Thơ Xuân Quỳnh - đậm chất trí tuệ

6
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. XUÂN QUỲNH – NỮ THI SĨ TÀI HOA, ĐẰM THẮM

1. Thi sĩ – nghệ sĩ, tƣ chất nghệ sĩ
Theo từ điển thuật ngữ văn học: “Nghệ sĩ là người sáng tạo hay biểu diễn
nghệ thuật. Nghệ sĩ là tên gọi chung, ngoài ra nghệ sĩ hoạt động ở mỗi loại hình
nghệ thuật còn có tên gọi riêng như nhà văn hay văn sĩ, nhà thơ hay thi sĩ (văn
học), họa sĩ (hội họa), nhạc sĩ, ca sĩ (âm nhạc)” [5, 171].
Ở phạm vi đề tài này nghệ sĩ được hiểu là nhà văn, nhà thơ.
Văn học thuộc phạm vi cái đẹp. Còn nhà văn, nhà thơ là người sáng tạo ra
cái đẹp. Văn chương là sự kết tinh, là kết quả sự sáng tạo cái đẹp của người nghệ
sĩ để từ đó tác động tới dòng cảm xúc riêng chung của người đọc. Nghệ sĩ – thi
sĩ đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành cái đẹp trong văn chương. Để
làm được nhiệm vụ thẩm mĩ riêng của mình, nghệ sĩ cần có những năng lực,
phẩm chất đặc biệt: giàu tình cảm, tưởng tượng phong phú, tài quan sát tinh tế,
một trí nhớ tốt…
Trong các năng lực, quan sát được coi là năng lực đầu tiên. Trí tưởng tượng
của nhà văn dù có phong phú đến đâu cũng không thể phong phú bằng chính bản
thân thực tế. Cho nên không thể không biết cách quan sát những sắc thái và diễn
biến tinh vi trong cuộc sống. Quan sát thông thường chỉ để nhận biết sự vật, hiện
tượng, còn quan sát của người nghệ sĩ không chỉ để nhận biết mà còn để phát
hiện những yếu tố thẩm mĩ. Nếu không có cách quan sát tinh tế thì Xuân Diệu
không thể thấy mùa thu buồn, buồn tê tái như rặng liễu đứng chịu tang; nếu
không quan sát thì Tố Hữu sao thấy được hình ảnh một chú bé liên lạc “loắt
choắt như con chim chích”… Như vậy, quan sát là bước đầu tiên để nhận biết và
lựa chọn, để thu lượm những kiến thức cần thiết nhưng mang giá trị thẩm mĩ để
đưa vào trong tác phẩm. Mỗi tác phẩm là một kho tri thức của nhân loại, của
cuộc sống được nhà văn quan sát, lựa chọn, sắp xếp một cách vừa khoa học, vừa
nghệ thuật. Phải có một trí nhớ tốt nhà văn mới thực hiện được điều đó. Trí nhớ
để lưu giữ, bảo tồn lượng kiến thức quan sát, thu lượm được từ cuộc sống để khi
cần có thể đem ra sử dụng. Ví như Banzac nhớ rành rọt họ tên, lai lịch, hành
động, ngôn ngữ, cử chỉ của mấy nghìn nhân vật trong tiểu thuyết của mình. Gớt
có thể nhắc lại rành rọt nội dung của một tác phẩm viết dở dang từ hơn ba mươi

năm trước.

7
Văn học có thể xem như một cuốn bách khoa toàn thư về cuộc sống. Đọc
tác phẩm văn học ta có thể tìm thấy trong đó những cảm xúc của chính mình, ta
có thể đồng cảm với chính tác giả. Do vậy, người nghệ sĩ phải quan sát, phải lựa
chọn tích lũy để đưa vào tác phẩm vốn kiến thức của cuộc sống. Phải có trí nhớ
tốt để lưu giữ và bảo tồn những kiến thức đó.
Tư chất nghệ sĩ rõ nhất ở mỗi nhà văn là một con người giàu tình cảm, dễ
xúc động và nhạy cảm. Trong khoa học, tình cảm chỉ nằm trong tiền đề sáng tạo.
Còn trong văn học tình cảm nằm ngay trong thành phẩm sáng tạo. Chính vì thế
mà nhà văn, chủ thể sáng tạo không thể chỉ có lí trí lạnh lùng đã đành, mà cũng
không chỉ có tình cảm thông thường, hời hợt. Yêu ghét, vui buồn, thương mến
hay căm giận… đến độ mãnh liệt ở nhà văn.
Như Lỗ Tấn đã từng nói: “Gặp những cái gì hay và đáng yêu thì họ ôm
choàng lấy, nếu gặp những điều trái, đáng giận thì họ sẽ bác bỏ” [10, 325].
Nguyễn Du khi đứng trước số phận nghiệt ngã của Thúy Kiều cũng thốt lên rằng:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Như vậy, nhà văn luôn luôn mang một tấm lòng rộng mở, thốt lên những
lời đau xót trước cuộc sống còn nhiều khó khăn. Họ biết ngạc nhiên dù là với
một vẻ đẹp bình dị, rất nhạy cảm với đổi thay xung quanh.
Hoạt động nghệ thuật là hoạt động thẩm mĩ, hoạt động sáng tạo ra cái đẹp.
Đối với người hoạt động trong lĩnh vực văn chương ngoài việc quan sát còn cần
có một năng lực cảm thụ thẩm mĩ. Nghệ sĩ quan sát, tích lũy để tìm ra đối tượng,
để xây dựng hình tượng. Đó không phải là những quy luật, những công thức
cứng nhắc như trong các ngành khoa học tự nhiên mà đó là một loại hình nghệ
thuật sử dụng ngôn từ. Người nghệ sĩ không phải là một viên đá trần trụi giữa
cuộc sống mà tâm hồn họ phải là một cây đàn muôn điệu để họ tự biến tấu lên
những khúc nhạc riêng của mình. Những âm thanh của cuộc sống, những hình

ảnh rất đời thường khi được người nghệ sĩ cảm thụ qua con mắt cũng rất nghệ sĩ
của mình thì những cái bình thường cũng được thổi hồn và tạo nên sức sống.
Văn học là người thư kí trung thành của thời đại. Lịch sử không bao giờ
lặp đi lặp lại đồng nghĩa với việc văn học cũng không ngừng tìm tòi những cái
mới trong phong cách thể hiện. Trí tưởng tượng phong phú đã góp phần làm nên
điều đó. Gorki đã từng nhấn mạnh: tưởng tượng là một trong những biện pháp

8
quan trọng nhất để nhà văn xây dựng hình tượng. Qua óc tưởng tượng nhà văn
mới biểu hiện sống động dưới ngòi bút của mình những dáng điệu, nội tâm của
nhân vật. Có một trí tưởng tượng phong phú nhà văn mới có thể tìm ra được
những bố cục với những thế tương đồng và tương phản hợp lý.
Trí tưởng tượng giúp nghệ sĩ khám phá, sáng tạo. Song nếu chỉ dừng ở trí
tưởng tượng thì mới chỉ là ý nghĩ. Để tạo ra được một sản phẩm trọn vẹn cả về
nội dung và nghệ thuật nghệ sĩ cần phải có năng lực biểu hiện. Biểu hiện giúp
nghệ sĩ biến những suy nghĩ, tình cảm, trí tưởng tượng thành những hình tượng
sinh động, thành khách thể tinh thần để người đọc có thể cảm nhận được. Biểu
hiện là việc lựa chọn những hình ảnh ngôn ngữ thích hợp để xây dựng nên hình
tượng có ý nghĩa khái quát, biến những cái trừu tượng thành những cái cụ thể.
Những năm tháng đau thương trong thời kì kháng chiến được Nguyễn Đình Thi
ghi lại về hình ảnh một đất nước thật anh hùng:
“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều”
Cũng viết về hình ảnh đất nước nhưng trong một bài thơ khác Nguyễn
Đình Thi nhận ra đất nước đẹp ở hình sông thế núi, với rừng vàng biển bạc:
“Việt Nam đất nước ta ơi,
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mù che đỉnh Trường Sơn sớm chiều”
(Bài thơ Hắc Hải)

Có thể nói năng lực biểu hiện là một chất keo dính đặc biệt liên kết óc quan
sát trí nhớ, trí tưởng tượng thành một khối hoàn hảo, thành một công trình nghệ
thuật có giá trị. Nếu như thiếu một trong những yếu tố trên thì tác phẩm nghệ
thuật sẽ trở nên rời rạc, công sức của nhà văn sẽ trở nên vô nghĩa.
Người nghệ sĩ hòa mình với cuộc sống, ngâm mình trong những đợt sóng
ào ạt dội về từ cuộc sống đó, nhà văn phải mở lòng để đón nhận tất cả. Do đó, sự
hình thành nhân cách cũng như phong cách nghệ thuật của nhà văn có sự tác
động rất lớn của xã hội. Họ sẽ thực sự khẳng định được vị trí của mình khi biết
đón nhận những biến động của xã hội đó.

9
2. Xuân Quỳnh – Cây xƣơng rồng trên cát
Xuân Quỳnh tên thật là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh ngày 6 tháng 10
năm 1942 tại xã La Khê, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây (nay là làng La Khê, xã
Văn Khê, thị xã Hà Đông).
Xuân Quỳnh sinh ra và lớn lên ở mảnh đất giàu truyền thống văn hóa. Nơi
quê lụa Hà Đông đã có biết bao những anh hùng nổi danh như: Bố Cái Đại
Vương, Ngô Quyền…; có nhiều địa danh mang đầy chất thơ, sơn thủy hữu tình
như: chùa Tây Phương, Hương Sơn đệ nhất động… Đây còn là nơi khơi nguồn
cảm hứng của bài hát: Hà Tây – cửa ngõ thủ đô. Mảnh đất địa linh nhân kiệt này
đã nuôi nấng biết bao tâm hồn nhà văn, nhà thơ trong đó có Xuân Quỳnh.
Xuân Quỳnh được sinh ra trong một gia đình công chức. Cha Xuân Quỳnh
là Nguyễn Quang Thường (Nguyễn Quang Lục) được học chữ Hán và tiếng
Pháp nên ông uyên thâm cả về Hán học và Tây học. Ông đã từng viết báo, tiểu
thuyết, sách nghiên cứu, dịch sách và làm nhiều thơ. Mẹ Xuân Quỳnh là Nguyễn
Thị Trích (Thục Trinh) biết chút Hán học, sinh ra trong một gia đình giàu có
song vẫn cẩn miện trong Nha Phong, giữ gìn nền nếp khoa môn. Cha mẹ Xuân
Quỳnh đến với nhau từ khi còn rất trẻ (16, 17 tuổi), họ đã có được ba người con
trai song tất cả đều qua đời chỉ còn lại chị gái Đông Mai và Xuân Quỳnh. Tới
năm 31 tuổi, mẹ Xuân Quỳnh bị mắc bệnh lao và qua đời khi chị vẫn còn nhỏ,

sau một thời gian cha đã đi lấy vợ khác. Xuân Quỳnh chịu nỗi côi cút từ nhỏ
nhưng không phải vì vậy mà chị trở nên yếu đuối. Hơn ai hết chị luôn hiểu hoàn
cảnh của mình, luôn sống sao cho xứng đáng với người mẹ đã quá cố của mình
và luôn làm tròn trách nhiệm của một người con, một người em trong gia đình.
Xuân Quỳnh phải ở với bà nội, tuổi thơ của chị gắn bó với miền quê yên
lành và người bà hiền hậu. Có thể nói truyền thống gia đình đã phần nào hình
thành nên tư chất của một nhà thơ trong chị.
Xuân Quỳnh vốn là một người phụ nữ tài hoa, xinh đẹp. Chị có gương mặt
tròn, đôi mắt đen hạt nhãn, đôi má lúm đồng tiền duyên dáng. Chính nét đẹp
thuần khiết đó đã khiến biết bao chàng trai say mê. Chị còn là một người mẹ,
người vợ hết lòng vì gia đình, tình mẫu tử, nghĩa phu thê đã ăn nhập vào từng
dòng máu trong cơ thể chị. Với bè bạn và sự nghiệp, chị là một người có lòng
nhiệt tình, đam mê nên chị được đồng nghiệp hết sức quý mến.

10
Ngay từ lúc còn nhỏ, Xuân Quỳnh đã bộc lộ rõ những năng khiếu văn nghệ
trong mình. Với những truyền thống văn hóa tốt đẹp của quê hương, của gia
đình chị đã học hỏi được rất nhiều. Năm 13 tuổi, chị đã được tuyển vào đoàn
văn công nhân dân Trung ương (tháng 2 năm 1955) đóng tại trụ sở 66 phố Quán
Sứ. Tại đây cùng với năng khiếu có sẵn cùng niềm đam mê, Xuân Quỳnh đã
được đào tạo thành một diễn viên múa chuyên nghiệp. Một cô gái đẹp, đôi mắt
tinh anh rất dễ mỉm cười, chị đã thực sự nổi bật. Năm 1959, Xuân Quỳnh vinh
dự khi được đi biểu diễn ở nước ngoài, dự đại hội sinh viên thanh niên tại Viên
(thủ đô của nước Áo). Trong thời gian này chị đã sáng tác một số bài thơ song
chưa thực sự nổi bật. Tới những năm 1962- 1963, Xuân Quỳnh được đi học
khóa I trường bồi dưỡng những người viết văn trẻ tại Quảng Bá. Ở môi trường
tập hợp nhiều tài năng và trí tuệ như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Công Hoan,
Xuân Diệu,… đã tác động mạnh mẽ tới cuộc đời và sự nghiệp của Xuân Quỳnh.
Lớp viết văn này được tổ chức chặt chẽ, có nhiều chuyến đi thực tế đều đặn.
Đây cũng là lớp bồi dưỡng rất kịp thời để sau này tung lực lượng văn nghệ trẻ

vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Xuân Quỳnh học tập rất chăm chỉ,
chịu khó, kết quả cuối lớp học là tập thơ Tơ tằm, Chồi biếc của chị đã ra đời.
Học xong, Xuân Quỳnh về báo Văn nghệ thực tập một thời gian ngắn. Chị
không trở lại đoàn ca múa nhân dân Trung ương nữa mà quyết định đi theo con
đường văn nghiệp. Sau đó, báo Phụ nữ Việt Nam đã nhận chị về công tác, trong
hoàn cảnh miền Bắc xảy ra chiến tranh phá hoại leo thang của Mỹ, chị đã được
cử đi thực tế tại các cơ sở. Với một tấm lòng nhiệt tình, chị đã phục vụ đắc lực,
luôn hoàn thành nhiệm vụ được giao. Những năm tháng Mỹ bỏ bom miền Bắc,
Xuân Quỳnh theo cơ quan sơ tán với ý chí quyết tâm cao phục vụ kháng chiến.
Xuân Quỳnh đã từng đi dọc dãy Trường Sơn hòa nhập cùng những đơn vị bộ
đội. Đặc biệt ở vùng lửa Quảng Trị - Vĩnh Linh, chị đến với nhân dân ở đây
bằng lòng nhiệt huyết, trong lòng hào sụt lở. Người phụ nữ gan góc dũng cảm ấy
không hề sợ chết, chị luôn sẵn sàng cống hiến sức mình vì sự nghiệp chung. Chị
đã vượt qua bao nguy hiểm của vùng đất lửa để trở về với hơi thở của cuộc sống
hào hùng.
Xuân Quỳnh kết hôn với Lưu Tuấn – một nhạc công violon của đoàn văn
công nhân dân Trung ương. Song hạnh phúc gia đình không bền lâu bởi Xuân
Quỳnh tự nhận thấy tình yêu của Lưu Tuấn không đủ đáp ứng được sự tinh tế và
nhạy cảm của mình. Mặc dù đã có con song Xuân Quỳnh và Lưu Tuấn quyết

11
định chia tay. Đó là những tháng ngày vô cùng đau đớn với chị. Là một người
không đầu hàng với số phận, luôn khát khao hạnh phúc, chị đã chủ động đi tìm
tình yêu của mình:
“Núi cao biển rộng sông dài
Tôi đi khắp chốn tìm người tôi yêu”
Giữa lúc Xuân Quỳnh đang hụt hẫng thì Lưu Quang Vũ đã đến bên đời chị.
Anh là một người có tài, đã từng kết hôn và có một cậu con trai. Tuy Xuân
Quỳnh hơn Lưu Quang Vũ tới bảy tuổi nhưng hai tâm hồn đó đã có điểm chung
là đam mê nghệ thuật, khát khao cống hiến. Năm 1973, họ đã kết hôn và cùng

nhau vượt qua cuộc sống túng thiếu của những năm tháng Mỹ leo thang phá
hoại miền Bắc. Từ năm 1978 đến lúc mất, chị làm biên tập viên Nhà xuất bản
Tác phẩm mới. Cùng thời gian đó, Lưu Quang Vũ cũng vào làm ban biên tập ở
Tạp chí sân khấu. Cuộc sống còn nhiều khó khăn nhưng họ đã tìm thấy hạnh
phúc của đời mình. Sống trong mái ấm của một gia đình, Xuân Quỳnh luôn bộc
lộ mình là một người vợ, một người mẹ yêu thương chồng con hết mực.
Xuân Quỳnh không chỉ gặp bất hạnh trong tuổi thơ, tình duyên lận đận mà
chị còn đau đớn về căn bệnh tim ở những năm cuối đời. Trong thời gian điều trị
bệnh tại bệnh viện Hữu nghị Việt Xô, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ tuy phải
thường xuyên đi xa song tình cảm vợ chồng của họ vẫn luôn sâu sắc.
Ngày 27 tháng 8 năm 1988, gia đình Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ cùng gia
đình của họa sĩ Doãn Châu xuống làm việc với đoàn kịch ở Hải Phòng. Chiều
ngày 29 tháng 8 năm 1988, trên chuyến xe trở về qua cầu Phú Lương – Hải
Dương thì chuyến xe chở họ đã gặp tai nạn. Gia đình gồm ba người đã mãi mãi
ra đi. Vụ tai nạn trên đường Năm đã làm chấn động làng văn nghệ Việt Nam,
làm ngơ ngác những người yêu quý cặp vợ chồng tài hoa bạc mệnh. Những
người còn lại đã tự an ủi nhau: Tạo hóa đã dựng lên một huyền thoại về những
con người tài năng – quả đúng như vậy, sự nghiệp của Xuân Quỳnh đang ở độ
viên mãn và gặt hái được nhiều thành công nhất thì chị đã đột ngột ra đi và bạn
đọc băn khoăn không biết ai sẽ có thể đi tiếp con đường đó.
Cả cuộc đời, cả sự nghiệp của Xuân Quỳnh đi qua để lại dấu chân của sự
thành công. Dưới những dấu chân đó, tạo hóa đã khéo léo cài đặt những khó
khăn trắc trở. Xuân Quỳnh là một cô gái mồ côi nghèo khổ lớn lên giữa một
thời kỳ đất nước phải đương đầu với vô vàn khó khăn về kinh tế, về chiến

12
tranh. Chị luôn gắn ý chí của mình với tình yêu cuộc sống, với thơ. Chị vẫn
sống yêu đời, yêu mãnh liệt, sáng tác quên mình. Đó là sức sống của một cây
xương rồng trên cát.
Xuân Quỳnh khác nào một cây xương rồng kiên cường và kì diệu trên sa

mạc, đã vắt kiệt mình để nở rộ những bông hoa tuyệt đẹp cho đời. Đó là một loại
cây tốt tươi với sức sống bền bỉ, dai dẳng. Mặc dù sống trên cát trắng bụi mờ
nhưng những chiếc gai của sự kiên trì vẫn vươn dài và cây xương rồng đó đã
đứng vững trên sa mạc mênh mông. Tất cả những sóng gió của cuộc đời đã tôi
luyện nên một Xuân Quỳnh thật bản lĩnh, thật cứng cỏi.
3. Những chùm hoa độc đáo
3.1. Quá trình sáng tác
Xuân Quỳnh đã xây dựng sự nghiệp văn thơ của mình với ý thức cao của
một thi sĩ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Chị và những cây bút trẻ cùng
thời đã góp phần không nhỏ trong phong trào văn hóa, văn nghệ đem lại cho
cuộc kháng chiến một tinh thần, một niềm tin mới.
Xuân Quỳnh vốn công tác trong đoàn văn công nhân dân Trung ương
nhưng chị đã quyết định chuyển sang nghiệp văn chương. Đó là một cái nghiệp
mà: “Tác dụng thanh lọc của văn chương là đến từ sự phát hiện cái đẹp của
cuộc đời, gắn với một giá trị nhân văn, vì hạnh phúc của con người. Trong cuộc
tìm kiếm ấy, nhà văn như một kẻ tử vì đạo, dũng cảm trong sự chống trả và đối
phó với mọi uy hiếp, đe dọa đến từ các hệ quyền lực và cả với sự không an toàn
của xã hội. Lao động của nhà văn tựa như một sự vắt kiệt mình, đi trong một
khát khao kiếm tìm chân lý, hướng tới lẽ phải và giảm nhẹ những khổ đau của
con người” [8, 317].
Văn nghiệp là một con đường không tránh khỏi khó khăn nhưng Xuân Quỳnh
vẫn tìm đến với nó. Chính bản thân chị cũng đã từng nói tới nguyên nhân bắt đầu
hoạt động văn học của mình: “Thứ nhất là vì thích thú: làm văn học cảm thấy như
mình được sống thêm một cuộc đời khác nữa. Vì uất ức: khi mới vào nghề bị xô
đẩy, khinh rẻ nên tôi quyết phải sống. Mà sống tức là phải viết” [7, 263].
Cũng giống như hầu hết các nữ sĩ Đông, Tây, Kim, Cổ, Xuân Quỳnh làm
thơ tả cuộc sống của chính mình về tất cả các phương diện: những khát khao
giao cảm với đời, những suy nghĩ về sự sống của một người phụ nữ. Vì lẽ đó mà

13

hầu hết thơ chị là thơ trữ tình. Đất nước, thời đại, thiên nhiên, con người đều
được phản ánh và thông qua cái lăng kính trữ tình đó. Xuân Quỳnh là một nhà
thơ có bản sắc và phong cách một cách rõ rệt, ngòi bút của chị dù đi vào những
vấn đề lớn lao của thời đại, của đất nước hay len lỏi vào những ngõ ngách sâu xa
của tâm hồn thì thơ chị vẫn là tiếng nói rất riêng của một người phụ nữ sắc sảo
đầy nữ tính.
Đối với người cầm bút và đặc biệt là với thế hệ nhà văn, nhà thơ trong thời
kỳ này thì việc đi từ mình tới cuộc sống chung là hướng đi tất yếu của những con
người mang sứ mệnh dệt lên tinh hoa cho văn học nước nhà. Qua thơ chị ta thấy
ngay điều đó, dù rằng bước đi đầu không tránh khỏi những chập chững, vấp váp
nhưng chị đã vượt qua và đã đạt được những thành công đáng kể.
Xuân Quỳnh thực sự bước vào sự nghiệp văn chương khi chị được cử đi
lớp đào tạo những người viết văn trẻ (1962 -1963), tập thơ đầu: Tơ tằm – Chồi
biếc đã ra đời trong thời kỳ này. Đây là tập thơ đầu tay của chị, với tâm trạng
của một người mới vào nghề, chị ý thức mình là một phần tử nhỏ nhoi trong
dòng người vô tận và sẽ có lúc mình phải nhường cuộc đời tươi đẹp này cho
những cặp tình nhân khác. Đó là tập thơ thể hiện ý thức cao của chị đối với cuộc
sống này. Tập thơ ra đời đã được bạn đọc đón nhận sôi nổi. Ở thời điểm này chị
đã sáng tác: Thuyền và biển, với tình yêu được thể hiện sâu sắc qua nỗi nhớ, sự
chờ đợi. Đặc biệt với bài thơ Sóng (đăng trên báo văn nghệ 1968), chị đã thực
sự cho bạn đọc thấy được một tâm hồn phụ nữ khát khao yêu thương.
Sau đó cùng với sự cố gắng, chị đã được bầu vào Ban chấp hành Hội nhà
văn Việt Nam. Một số tác phẩm thơ đã được dịch và in tại Liên Xô, Cộng hòa
dân chủ Đức, Pháp. Khi nhắc tới thành công của chị trên bước đường của sự
nghiệp thơ văn là nhắc tới những tác phẩm thai nghén trong giai đoạn của cuộc
kháng chiến vĩ đại. Chị hòa chung nhịp sống của mình với thời đại. Trong hai
năm 1969 -1970, chị lặn lội vào vùng đất lửa Quảng Bình hàng tháng trời, đi đâu
chị cũng có những sáng tác mới: Gió Lào cát trắng, Hoa cỏ may, Hoa dọc chiến
hào… Tất cả đều thể hiện được khát khao của một nhà thơ đang vươn tới để hòa
nhập với đời, với cuộc sống, với thời đại. Chị luôn đặt tình yêu, niềm khao khát

của mình hòa cùng tình cảm chung của thời đại. Chính vì lẽ đó mà thơ chị trong
giai đoạn này được bạn đọc biết đến khá nhiều. Thơ chị đã thực sự góp phần làm
phong phú thêm cho thơ ca chống Mỹ cứu nước. Trong thời kỳ đất nước đương
đầu với cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy gian khổ, chị cũng đã hòa nhập hết

14
mình với thời đại. Tập thơ Gió Lào cát trắng, Hoa dọc chiến hào (1974), Lời ru
trên mặt đất (1978) đã chứng minh điều đó. Xuân Quỳnh cũng có mặt hầu hết
trên khắp các chiến trường phát động phong trào văn hóa văn nghệ, góp một
phần nhỏ công sức của mình làm nên thắng lợi của công cuộc kháng chiến
chống Mỹ.
Hòa bình lập lại chị hòa chung cảm xúc thơ với niềm vui chung của thời
đại. Khi đất nước đã giành được độc lập, bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa
xã hội, Xuân Quỳnh cũng hòa chung cùng không khí đó với sự ra đời của một
loạt các tác phẩm: Sân ga chiều em đi (1984), Tự hát (1984).
Thành công đó còn tiếp diễn ở những tập truyện ngắn viết cho thiếu nhi.
Ngoài những bài thơ được in rải rác trong tập thơ người lớn, Xuân Quỳnh đã có
ba tập thơ in riêng cho thiếu nhi: Cây trong phố, Chờ trăng, Bầu trời trong quả
trứng… Những tác phẩm đó là kết quả sâu sắc của việc trao gửi tình cảm giữa
một nghệ sĩ nhạy cảm đối với con trẻ, những nét đáng yêu, ngây thơ của chúng
đã tiếp thêm cảm hứng cho ngòi bút.
Với ngòi bút tài hoa đằm thắm và nhiều cảm xúc, chị đã gây được ấn
tượng sâu sắc đối với bạn đọc. Nhiều bài thơ nổi tiếng nữa như Thuyền và biển,
Hoa cỏ may, Tự hát đặc biệt là Sóng , Truyện cổ tích về loài người đã được đưa
vào chương trình sách giáo khoa phổ thông. Nghệ sĩ Phan Huỳnh Điểu đã phổ
nhạc rất thành công những bài thơ: Thuyền và biển, Thơ tình cuối mùa thu của chị.
Xuân Quỳnh làm công tác văn nghệ từ khi còn trẻ, tuổi nghề đã góp phần
làm nên thành công trong công việc, luôn năng động, sáng tạo, nhiệt tình. Chị đã
gây dựng được ấn tượng trong lòng văn nghệ Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ. Lúc đầu với những bước đi còn chập chững, những bài

thơ còn mang tính chất chung chung khẩu hiệu, chị con quá non trẻ khi đi vào đề
tài xây dựng chủ nghĩa xã hội, những niềm đau chia cắt hai miền. Thấy được
những hạn chế của mình, Xuân Quỳnh đã nỗ lực học hỏi.
Cuộc sống có nhiều đổi thay, cùng với những bước đi vội vã của dòng thời
gian, Xuân Quỳnh đã tự tích lũy cho mình nhiều kinh nghiệm. Chị đã hòa nhập
với thực tế cuộc sống, lăn lộn cùng với những vất vả của cuộc kháng chiến để
rồi cống hiến hết mình. Xuân Quỳnh xin chuyển từ đoàn văn công sang hội liên
hiệp nghệ thuật công tác. Nhờ sự gắn bó với công việc, với thực tế, chị đã dần
xây dựng được tiền đề cho những thành công tiếp theo.

15
Sau ngày mất, rất nhiều tác phẩm của Xuân Quỳnh được tái bản: Hoa cỏ
may (1989), Thơ Xuân Quỳnh (1992), Thơ tình Xuân Quỳnh – Lưu Quang Vũ
(1994), Tuyển tập truyện thiếu nhi (1995).
Tuy Xuân Quỳnh có thơ đăng từ cuối những năm năm mươi nhưng chị vẫn
thuộc thế hệ những nhà thơ chống Mỹ - thế hệ nhà thơ có đóng góp đáng kể
trong nền thơ hiện đại Việt Nam. Mỗi nhà thơ trước hết đều quan tâm đến tính
chiến đấu và ý thức trách nhiệm của mình, Xuân Quỳnh luôn cố gắng trau dồi
ngòi bút. Ý thức đó gắn bó thơ chị với cuộc sống và chị thực sự có ích cho cuộc
sống chung. Bên cạnh ý thức công dân chị còn có một cái gốc khỏe khoắn: đó là
bản lĩnh, tài năng. Do vậy chị là một cây bút nữ có năng lực sáng tạo dồi dào, sự
sáng tạo với chị là một niềm vui, một sự say mê thôi thúc. Tuy chị đã mãi mãi đi
xa song những đóng góp của chị sẽ được ghi nhận trong lòng bạn đọc nói riêng
và thơ ca dân tộc đặc biệt trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ nói chung.
Với lòng say mê, nhiệt tình, với tố chất của sự tài năng độc đáo, chị đã thu
về một vụ mùa bội thu với những tác phẩm chính như:
Tơ tằm – Chồi biếc. NXB Văn học – 1963
Hoa dọc chiến hào. NXB Văn học - 1968
Gió Lào cát trắng.NXB Văn học – 1974
Lời ru trên mặt đất. NXB Tác phẩm mới – 1978

Thơ tình Xuân Quỳnh – Lưu Quang Vũ.NXB Văn học - 1994
Và những tác phẩm viết cho thiếu nhi như:
Bầu trời trong quả trứng. NXB Kim Đồng – 1982
Truyện Lưu Nguyễn. NXB Kim Đồng – 1983
Mùa xuân trên cánh đồng. NXB Kim Đồng – 1984
Tuyển tập truyện thiếu nhi. NXB Phụ nữ - 1995
3.2. Những tác phẩm tiêu biểu
Với những đóng góp lớn lao của Xuân Quỳnh trong nền văn học hiện đại
Việt Nam, các tác phẩm của Xuân Quỳnh đã được những giải thưởng như:
- Hoa cỏ may – giải thưởng về thơ của Hội nhà văn Việt Nam năm 1990.

16
- Bầu trời trog quả trứng – giải thưởng văn học thiếu nhi của Hội nhà văn
Việt Nam, 1982 -1983.
- Giải thưởng của Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.
- Năm 2001, nhà thơ được truy tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ
thuật cho các tác phẩm: Gió Lào cát trắng (1974), Hoa cỏ may (1989), Tự hát
(1984).
Với những giải thưởng cao quý trên Xuân Quỳnh sẽ mãi được in dấu trong
lòng bạn đọc. Ngày 29 tháng 8 năm 2008, tròn hai mươi năm ngày mất của cặp
vợ chồng nghệ sĩ tài hoa – cặp vợ chồng nghệ sĩ duy nhất được trao hai giải
thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng Nhà Nước, nhiều hoạt động kỉ niệm mang ý
nghĩa lớn đã được Hội nhà văn Việt Nam và Hội nghệ sĩ sân khấu các đoàn nghệ
thuật tổ chức để tưởng nhớ tới hai nghệ sĩ lớn của nền nghệ thuật Việt Nam. Bộ
phim tài liệu về cuộc đời Xuân Quỳnh – Lưu Quang Vũ của đạo diễn Nguyễn
Thước dài 45 phút được công chiếu vào tháng 8 năm 2008, một lần nữa khẳng
định được vị trí của Xuân Quỳnh trong nền văn học nước nhà.

Tiểu kết
Như vậy, xinh đẹp, thông minh, lớn lên trong gian khó…tất cả đã tôi luyện

tạo nên một tài năng lớn Xuân Quỳnh. Dù số phận nghiệt ngã, dù phải ra đi ở
tuổi tràn đầy tài năng, nhiệt huyết nhưng Xuân Quỳnh dâng hiến cho đời hàng
loạt tác phẩm có giá trị. Xuân Quỳnh đích thực là người nghệ sĩ tài hoa – đằm
thắm – người nghệ sĩ chân chính.

17
CHƢƠNG 2. THƠ XUÂN QUỲNH – GIÀU CHẤT TRỮ TÌNH

2.1. Trữ tình là gì?
Trữ tình là một trong ba phương thức thể hiện đời sống bên cạnh hai thể
loại văn học kịch và tự sự, làm cơ sở cho loại tác phẩm văn học. Nếu tự sự thể
hiện tư tưởng, tình cảm của tác giả bằng con đường tái hiện một cách khách
quan các hiện tượng đời sống thì trữ tình lại phản ánh đời sống bằng cách bộc lộ
trực tiếp ý thức của con người. Nghĩa là con người tự cảm thấy mình qua những
ấn tượng, ý nghĩ, cảm xúc chủ quan của mình đối với thế giới và nhân sinh.
Cũng thực hiện chức năng truyền tải nội dung như những thể loại văn học
khác tuy nhiên sự truyền tải ấy lại thiên về những suy nghĩ, cảm xúc của tác giả
hơn. Phương thức trữ tình cũng tái hiện các hiện tượng đời sống như trực tiếp
miêu tả phong cảnh thiên nhiên hoặc thuật lại ít nhiều sự kiện tương đối liên tục
như Mưa xuân của Nguyễn Bính, Quê hương của Giang Nam, Núi đôi của Vũ
Cao. Nhưng sự tái hiện này không mang mục đích tự thân mà tạo điều kiện để
chủ thể bộc lộ những cảm xúc, chiêm nghiệm, suy tưởng của mình. Ở đây,
nguyên tắc chủ quan là nguyên tắc cơ bản trong việc chiếm lĩnh hiện thực, là
nhân tố cơ bản quy định những đặc điểm cốt yếu của tác phẩm trữ tình.
Chính vì vậy mà phương thức trữ tình yêu cầu rất khắt khe những tiêu
chuẩn cả về nội dung lẫn hình thức. Một nội dung phong phú, đa cảm xúc đi
cùng với đó là một hình thức hàm súc, giàu nhịp điệu. Tất cả tạo nên đặc trưng
riêng ở thể loại trữ tình.
2.2. Thơ trữ tình
2.2.1. Thơ

Sáng tạo văn học nghệ thuật có rất nhiều hình thức biểu hiện trong đó thơ là
một hình thức tiêu biểu chiếm số lượng lớn. Có rất nhiều cách hiểu về thơ.
Trong từ điển thuật ngữ văn học: “Thơ là hình thức sáng tác văn học phản
ánh cuộc sống, thể hiện tâm trạng, cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm xúc,
giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu” [5, 262].
Bàn về thơ, Sóng Hồng đã viết: “Thơ là một hình thái nghệ thuật cao quý,
tinh vi. Người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện sự nồng cháy trong
lòng. Nhưng thơ là tình cảm và lý trí được kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có

18
nghệ thuật. Tình cảm và lý trí ấy được diễn đạt một cách rõ nét những hình
tượng đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng vang lên những nhạc điệu khác
thường.” [5, 262]. Và điều đáng lưu ý ở thơ là: “Thơ cũng ví như cây đàn trăm
dây, gảy ra nhiều khúc kỳ kỳ, lạ lạ, tiếng bổng, tiếng trầm, tiếng khoan, tiếng
nhặt, âm hưởng biến hóa vô cùng” – Phạm Quỳnh [5, 262].
Qua nhiều ý kiến phát biểu và nhận định đánh giá về thơ của một số tác giả
ta bắt gặp họ đều có một điểm chung là thấy được cái hay, cái đẹp với nhận thức
và cảm xúc cá nhân.
Nhắc tới thơ ta như biết tới một công cụ, phương tiện để thi sĩ ấp ủ, truyền
tải cảm xúc của chính mình. Thơ như một phương tiện kỳ diệu nào đó đã khơi
dậy ở bản năng con người một tình cảm trong sáng, mãnh liệt. Như Tố Hữu đã
nói: “Thơ là nhụy của cuộc sống, thơ là cái gương của tâm hồn”. Như vậy có rất
nhiều quan niệm về thơ và dường như quan niệm nào cũng có lí do. Do đó, để
đưa ra một quan niệm chính xác về thơ là rất khó. Song không phải bởi vậy mà
ta không thấy hết được giá trị của thơ trong văn học nghệ thuật.
Thơ là sản phẩm có sự kết hợp nhuần nhuyễn và hài hòa giữa ý thức, tình
cảm và thực tế. Những cảm xúc mãnh liệt mà tha thiết trong thơ được sàng lọc
qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Với thi sĩ, tố chất quan trọng không
phải chỉ là kinh nghiệm sống mà còn là người trả lời câu hỏi: “Mình phải thể
hiện điều đó bằng cảm xúc, tình cảm thế nào?”. Tất nhiên câu hỏi đó sẽ không

bị bỏ lửng bởi chính những cảm xúc, tư tưởng của thi sĩ đã trả lời. Họ không
được giam mình trong cái ao tù của sự cố hữu, không đi theo lối mòn mà phải
biết sáng tạo khám phá những điều mới mẻ với tinh thần tự do trong tư tưởng,
trong cách diễn đạt, cách thể hiện mình.
Một lời thơ hay, một bài thơ đẹp phải hướng bạn đọc tới thế giới “Chân,
thiện, mỹ”. Nhờ vậy mà nhân cách con người được hoàn thiện hơn. Nếu đọc thơ
của Hồ Chí Minh ta thấy một nhân cách lớn lao, vĩ đại của một vị lãnh tụ; còn
đọc thơ Xuân Quỳnh ta lại bắt gặp một chân lý đẹp đẽ của tình yêu.
Thơ là tiếng nói được cất lên từ tâm hồn, từ ước mơ, khát vọng của người
nghệ sĩ. Thơ ra đời, tồn tại, và phát triển theo suốt chiều dài phát triển của lịch
sử. Văn học nghệ thuật như chứng minh rằng cảm hứng về cuộc sống, về ý thức
bản thân là không bao giờ vơi cạn. Người nghệ sĩ luôn khát khao vươn lên chân
lý làm người qua các tác phẩm của mình. Hiểu được điều đó Huy Cận đã nói:

19
“Cái chỗ đến cuối cùng của thơ là phải đem đến một cái gì nâng sự sống lên”
[11, 7]. Qua đó người nghệ sĩ thấy được vai trò, tầm quan trọng của mình trong
việc đem lại niềm tin yêu vào cuộc sống.
Khi nói về vai trò, đóng góp của thơ ca trong đời sống tình cảm của con
người, Tố Hữu trong buổi trả lời phỏng vấn tạp chí văn nghệ số 48 (tháng 5 năm
1961) đã nói: “Thơ là chuyện đồng điệu, thơ là tiếng nói đồng ý, đồng chí, đồng
tình”. Ở đây cho thấy cái đẹp của thơ chính là tiếng nói chung của những tâm
hồn đồng điệu, qua thơ để xích lại gần nhau hơn. Do đó nhà thơ cần phải có
những phát hiện mới hơn để soi đường cho những nhân cách đang bị cái nhỏ bé,
tủn mủn của mình che lấp được ló rạng, ra đời. Một sự nhận định đúng đắn sẽ là
điểm tựa của những ước mơ để rồi từ đó một sự sáng tạo mới, một năng lực mới
sẽ vững vàng đi về chân lý, về tương lai.
2.2.2. Thơ trữ tình
Theo từ điển thuật ngữ văn học: “Thơ trữ tình là thể loại mà trong đó
những cảm xúc, suy tư của nhà thơ hoặc nhân vật trữ tình trước các hiện tượng

đời sống được thể hiện một cách trực tiếp. Tính chất cá thể hóa cảm nghĩ và tính
chất chủ quan hóa của sự thể hiện là những dấu hiệu tiêu biểu của thơ trữ tình.
Là tiếng hát của tâm hồn, thơ trữ tình có khả năng thể hiện những biểu hiện
phức tạp của thế giới nội tâm, từ cung bậc của tình cảm cho tới những chính
kiến, những tư tưởng triết học” [5, 269].
Tác phẩm trữ tình làm sống dậy cái thế giới chủ thể của hiện thực khách
quan giúp ta đi sâu vào thế giới của những suy tư, tâm trạng, nỗi niềm – một
phương diện rất năng động, hấp dẫn của hiện thực. Đối với một tác phẩm thơ trữ
tình hay thì đó là sự cấu thành của hai yếu tố nội dung và hình thức mà nên. Nội
dung tác phẩm trữ tình được thể hiện gắn liền với hình tượng nhân vật trữ tình.
Đó là hình tượng người trực tiếp thổ lộ suy nghĩ, cảm xúc, tâm trạng trong tác
phẩm. Nhân vật trữ tình không có diện mạo, hành động, lời nói, quan hệ cụ thể
như nhân vật tự sự và kịch. Nhưng nhân vật trữ tình cụ thể trong giọng điệu,
trong cách cảm, cách nghĩ. Qua những trang thơ ta như gặp tâm hồn người, tấm
lòng người.
Cần phân biệt nhân vật trữ tình và nhân vật trong thơ trữ tình. Nhân vật
trong thơ trữ tình là đối tượng để nhà thơ gửi gắm tình cảm, là nguyên nhân trực
tiếp khơi dậy nguồn tình cảm của tác giả.

20
Thơ trữ tình vì vậy luôn mang lại quan niệm về một cá nhân, con người cụ
thể, sống động, một cái “tôi” có nỗi niềm riêng.
Về hình thức của thơ trữ tình lại có sự khác biệt rõ nét. Tuy cũng mang tính
hình tượng, gợi cảm, hàm súc như trong tác phẩm tự sự và kịch nhưng lại thể
hiện theo cách riêng. Có thể nói ngôn ngữ thơ bão hoà cảm xúc và ngôn ngữ thơ
giàu nhạc tính là hai đặc điểm chính làm nổi bật nên hình thức của tác phẩm thư
trữ tình.
Đối với đặc điểm thứ nhất, ngôn ngữ thơ bão hoà cảm xúc thì có thể thấy
ngôn ngữ thơ không bao giờ là ngôn ngữ khách quan, yên tĩnh của tác phẩm tự
sự. Lời thơ thường là lời đánh giá trực tiếp thể hiện một quan hệ của chủ thể đối

với cuộc đời:
Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi!
Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt
Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát
Chuyến phà rào rạt, bến nước Bình Ca
Lời thơ trữ tình còn mang tính chất “mê hoặc”. Lời thơ thường phải khác thường để
đưa ta vào những chân lí “bí ẩn”, thâm thuý của đời sống. Lời thơ Lửa đèn của
Phạm Tiến Duật cũng đầy “mê hoặc” hấp dẫn như chứa đựng những điều sâu xa:
Trái nhót như ngọn đèn tín hiệu
Trỏ lối sang mùa hè
Quả cà chua như cái đèn lồng nhỏ xíu
Thắp mùa đông ấm những đêm thâu
Quả ớt như ngọn lửa đèn dầu
Chạm đầu lưỡi chạm vào sức nóng
Tính chất “mê hoặc” làm cho người đọc thơ như chạm vào luồng điện, gây ấn
tượng ám ảnh trong tâm trí.
Đối với đặc điểm thứ hai của thơ trữ tình, ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính.
Thơ phản ánh cuộc sống qua những rung động của tình cảm. Như nhịp đập của
trái tim, ngôn ngữ thơ có nhịp điệu riêng của nó. Thế giới nội tâm của nhà thơ
không chỉ biểu hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ mà bằng cả âm thanh nhịp điệu của

×