Tải bản đầy đủ (.docx) (109 trang)

một số giải pháp nhằm tố chức tốt công tác thanh toán và quản lý công nợ trong hoạt động kinh doanh của công ty dịch vụ và thương mại - tsc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 109 trang )

Luận
văn
Một số giải pháp nhằm tố chức tốt công
tác
thanh toán và quản lý công nợ trong
hoạt
động kinh doanh của Công ty Dịch vụ

Thương mại -
TSC
1
Lời nói đầu
Trong những năm đầu thế kỷ XXI này, nền kinh tế nước ta thực sự sôi động
với hàng loạt doanh nghiệp đã, đang và sẽ ra đời trong cơ chế thị trường co sự điều
tiết vĩ mô của Nhà nước – một cơ chế với 15 tuổi đời có thể làm nền tảng vững
chắc cho những bước đi đầy nhiệt huyết của các doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp ra đời, hoạt động nhằm đạt được mục tiêu trước mắt và
lâu dài của họ, tốc độ phát triển lâu hay chóng cho người ta cái nhìn tổng thể và
sức sống hiện tại và tiềm năng trong tương lai của các doanh nghiệp đó. Hiệu quả
sản xuất kinh doanh không tự nhiên có, nó là kết quả của sự phối hợp của một hệ
thống các yếu tố từ chính doanh nghiệp và có sự tác động từ môi trường bên ngoài.
Chính vì vậy công tác thanh toán là một mắt xích quan trọng không thể thiếu trong
quá trình hoạt động của doanh nghiệp, nó ảnh hưởng quá trình thu chi bằng tiền
của doanh nghiệp, dảm bảo tăng tốc độ chu chuyển và bảo toàn vốn của doanh
nghiệp, đảm bảo tình trạng tài chính lành mạnh cho doanh nghiệp Trong quá
trình thanh toán, sự trùng hợp về thời gian giữa sự vận động của vật tư, hàng hoá
với sự vận động của tiền vốn không phải luôn xảy ra, ccông nợ vì thế đoig hỏi phải
được quản lý một cách chặt chẽ.
Xuất phát từ tầm quan trọng của công tác thanh toán và quản lý công nợ, tôi
đã nghiên cứu mảng đề tài này từ phía doanh nghiệp có sự áp dụng các phương
pháp nghiên cứu tổng hợp, phương pháp nghiên cứu thống kê, phương pháp hoạt


động kinh tế Qua thời gian thực tập tại Công ty Dịch vụ và Thương mại thuộc
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam, tôi đã chọn đề tài:”Một số giải pháp
nhằm tố chức ttót công tác thanh toán và quản lý công nợ trong hoạt động kinh
doanh của Công ty Dịch vụ và Thương mại - TSC” làm nội dung nghiên cứu.
Đề tài này được trình bày trong ba chương:
Chương I : Lý luận chung trong công tác thanh toán và quản lý công nợ trong hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng công tác thanh toán và quản lý công nợ tại Công ty Dịch vụ
và Thương mại – TSC.
Chương III: Một số giải pháp nhằm tổ chức tốt và hoàn thiện công tác thanh toán
và quản lý công nợ tại Công ty Dịch vụ và Thương mại – TSC.
Chương I
Lý luận chung về công tác thanh toán và quản lý công nợ trong hoạt động
kinh doanh
của các doanh nghiệp.
I. Công tác thanh toán trong hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp
1. Khái niệm về thanh toán
1.1. Sự cần thiết của thanh toán tiền tệ trong nền kinh tế
Ngay từ thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ, sự phân công lao
động xã hội và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đã xuất hiện, làm cho sản xuất
hàng hoá ra đời, đổi lại người ta phải được cái gì đó mạ họ cho là tương đương.
Ban đầu việc mua bán sản phẩm lao động chỉ đơn giản là vật đổi lấy vật, nhưng khi
sản xuất hàng hoá phát triển tới mức cao hơn thì tiền tệ xuất hiện đóng vai trò trung
gian của sự trao đổi này. như vầy người ta có thể hiểu rằng trong nền kinh tế, đóng
vai trò là người mua, khi nhận sản phẩm lao động của ngườu bán thì phải chi ra cái
nà người bán chấp nhận và cụ thể là tiền tệ – sự thể hiện chung của giá trị và lao
động xã hội. Sự chi trả này chính là việc thanh toán để có sản phẩm hàng hoá dịch
vụ.
Qua sự phân tích trên ta có thể khẳng định tyanh toán là tất yếu khách quan

của nền kinh tế. Mục tiêu cuối cùng của mọi cuộc mua bán là người mua nhận
được hàng và người bán nhận được tiền chi trả cho số hàng đó. Vì thế thanh toán là
khâu quan trọng bậc nhất của thương mạ. Xã hội không ngừng tiêu dùng nên
không thể ngừng sản xuất. Tái sản xuất đòi hỏi không ngừng mở rộng nên quá
trình sản xuất và lưu thông đòi hỏi phải thanh toán để bù đắp được toàn bộ chi phí
sản xuất đã bỏ ra. Như vậy, có thể nói thanh toán là khâu quan trọng trong quá
3
trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, nếu quan hệ thanh toán bị gián đoạn thì quá
trính tái sản xuất giản đơn, tái sản xuất mở rộng bị gián đoạn.
1.2. Khái niệm thanh toán và cơ sở hình thành mối quan hệ thanh toán của
doanh nghiệp.
Theo ý nghĩa kinh tế, thanh toán là việc chi trả bằng tiền giữa các chủ thể,
trong những quan hệ nhất định, chẳng hạn thanh toán các khoản nợ nhà cung cấp,
thanh toán tiền lương cho cán bộ công nhân viên, thanh toán công tác phí v.v
Việc thanh toán diễn ra giữa các doanh nghiệp với nhau, giữa doanh nghiẹp với
công nhân viên Nói cách khác, đứng về phía doanh nghiệp, thanh toán tiền tệ là
việc dùng tiền tệ để thực hiện nghĩa vụ chi trả của các đối tượng liên quan trong
quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Hoạt động kinh doanh của mọi doanh nghiệp thương mại đều gắn liền với
các mối quan hệ trong giao dịch thương mại và phần lớn các mối quan hệ kinh tế
của các đối tác kinh doanh, từ các mối quan hệ này nảy sinh ra các quan hệ thanh
toán mà doanh nghiệp cần thường xuyên phải quan tâm. quan hệ thanh toán được
hiểu là các mối quan hệ kinh tếphát sinh các dòng tiền đi vào hoặc đi ra khỏi doanh
nghiệp. Quan hệ thanh toán phát sinh tại thời điểm doanh nghiệp thực hiện nghĩa
vụ chi trả ngay khi doanh nghiệp có các khoản thu cho mình. Ví dụ khi doanh
nghiệp thực hiện các nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước hay thanh toán tiền hàng
cho người bán, dòng tiền đi ra khỏi doanh nghiệp. Trường hợp người mua thanh
toán tiền hàng cho doanh nghiệp, dòng tiền lúc này đi vào doanh nghiệp. Khi kết
thúc một quan hệ thanh toán thì quỹ tiền tệ của doanh nghiệp hoặc được tạo lập
hoặc được sử dụng.Quan hệ thanh toán xuất hiện do các mối quan hệ về tài chính

trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp không thể thực hiện nghĩa vụ với ngân sách
Nhà nước qua việc đóng các khoản thes, phí, lệ phí. Trong quá trình trao đổi hàng
hoá, dịch vụ doanh nghiệp có quan hệ thanh toán với người mua, ngưới bán (tức là
nghĩa vụ chi trả của đơn vị này với đơn vị khác được tạo ra trong quá trình giao lưu
trao đổi). Nghĩa vụ thanh toán các khoản tín dụng ngắn hạn và dài hạn của các
doanh nghiệp đối với các tổ chức trung gian làm xuất hiện quan hệ thanh toán giữa
doanh nghiệp với các tổ chức này. việc sử dụng lao động của doanh nghiệp là yếu
tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh, trong nền kinh tế thị trường sức lao
động cũng được coi là hàng hoá. Như vậy, tiền lương là giá cả sức lao động và việc
doanh nghiệp trả lương cho người lao động hình thành quan hệ thanh toán giữa
doanh nghiệp với người lao động. Quan hệ thanh toán giữa doanh nghiệp với các
đơn vị kinh tế nội bộ xuất hiện khi có sự phân phối điều hoà vốn và tài sản, khi có
các khoản thu hộ, chi hộ của các cấp trên với cấp dưới và ngược lại Như vậy,
quan hệ thanh toán của doanh nghiệp phát sinh từ chính các mối quan hệ của các
doanh nghiệp với các đối tượng có liên quan với họ trong quá trình sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp.
2. các loại quan hệ thanh toán
Quan hệ thanh toán là một phần quan trọng với doanh nghiệp ở chỗ nó phục
vụ cho công tác quản lý tài chính của các doanh nghiệp. Cụ thể là các vấn đề quản
lý công nợ, vì vậy, người ta phân loại quan hệ thanh toán căn cứ như sau:
2.1. Căn cứ vào đối tượng tham gia trong quan hệ thanh toán
Theo cách phân loại thanh toán được chia thành:
• Thanh toán giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp, với khách hàng trong quá
trình sản xuất kinh doanh.
• Thanh toán giữa doanh nghiệp với người lao động trong doanh nghiệp về
tiền công, tiền thưởng, tiền trợ cấp và các khoản thu nhập khác phân phối
cho họ.
• Thanh toán giữa doanh nghiệp với ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác về
các khoản nợ tiền vay.
• Thanh toán giữa doanh nghiệp với các thành viên nội bộ trong việc điều hoà,

cấp phát, hoàn trả vốn kinh doanh, các nghiệp vụ thu hộ, chi hộ. Các nghiệp
vụ mua hộ, bán hộ trong các tổ chức thành viên.
2.2. Căn cứ vào thời hạn thanh toán
2.2.1. Thanh toán trả tiền trước
Thanh toán trước là việc trả tiền được thực hiện trước khi giao hàng một
khoảng thời gian nhất định (khoảng thời gian tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của các
bên tham gia).
Quan hệ trả tiền trước xảy ra khi người bán thiếu vốn và yêu cầu người mua
ứng trước tiền để thực hiện hợp đồng hoặc khi người bán không tin tưởng vào khả
năng thanh toán của người mua, trường hợp này khoản tiền trả trước được gọi là
tiền đặt cọc. Khi khoản tiền trả trước không mang tính chất đặt cọc thì lúc này thực
chất thanh toán trước là việc người mua cung cấp tín dụng cho người bán. nếu việc
thnah toán trước được thực hiện với mục đích hỗ trợ về mặt tài chính cho người
bán thì thời gian thanh toán tương đối dài và số tiền trả trước tương đối lớn. Mặt
khác nếu thanh toán trước với mục đích nhằm để đảm bảo thực hiện hợp đồng của
người mua thì thời hạn thanh toán trước tương đối ngắn và số tiền trả trước nhỏ
hơn.
Người mua có thể trả trước toàn bộ hoaeực không toàn bộ giá trị hợp đồng
gọi là thanh toán trước toàn phần và thanh toán trước một phần.
• Thanh toán trước toàn phần là việc người mua thanh toán toàn bộ số tiền
trong hợp đồng một số ngày sau khi ký hợp đồng. Trườngg hợp này thời
gian trả tương đối dài nên rủi ro có thể xảy ra với người mua nếu họ không
kiểm tra kỹ khả năng tài chính và tư cách của người bán. mục đích của việc
thanh toán trước tàon phần là người mua cung cấp tín dụng cho người bán
và do đó giá trả trước thường nhỏ hơn giá trị trả ngay.
• Thanh toán trước một phần là việc mau thanh toán trước một số tiền nhỏ so
với giá trị hợp đồng một số ngày trước khi giao hàng. Trường hợp này thời
gian trả trước ngắn nên thời hạn thanh toán trước một phần không tính chất
cấp tín dụng cho người bán mà được coi như một khoản tiền đặt cọc đảm
bảo cho người mua thực hiện hợp đồng. Hình thức được áp dụng khi người

bán không tin tưởng vào khả năng thanh toán của người mua.
2.2.2. Thanh toán ngay
Thanh toán ngay là việc trả tiền được tiến hành song song với việc giao hàng
hoặc ngay khi hàng hoá được xuất chuyển.
Tại thời điểm người mua thanh toán tiền hàng cho người bán, quyền sở hữu
đã được chuyển giao: người mua được quyền sở hữu hàng hóa, mất quyền sở hữu
tiền tệ, người bán sở hữu tiền tệ nhưng lại mất quyền sở hữu hàng hoá. ở đây sự
vận động hàng hoá và tiền tệ có sự ăn khớp về cẳ mặt không gian và thời gian.
Thanh toán ngay thường được sử dụng nhiều nhất trong bán lẻ. Thanh toán
ngay có thể sử dụng trong các ngân hàng. đó là sự tiến hành thanh toán qua hệ
thống tài khoản tiển gửi ngân hàng giữa các đối tác kinh doanh. Khi tiền gửi của
người bán sẽ phát sinh Có tài khoản này sẽ đồng thời phát sinh Nợ tài khoản tiền
gửi của người mua.
2.2.3. Thanh toán sau
Trên thực tế, việc thanh toán không phải lúc nào cung được thực hiện trước
hặc sau khi giao hàng theo kiểu ”tiền trao cháo múc ”, người bán hàng khi đã kinh
doanh không nên kinh doanh theo một số cách cứng nhắc và cố định, họ không biết
cần phải áp dụng nhiều hình thức khác nhau để đảm bảo vừa thu được tiền hàng
vừa không mất khách hàng trong đó có các hình thức thanh toán sau.
Thanh toán sau là việc chi trả sau một thời gian nhất định so với ngày nhận
hàng hoá, dịch vụ.
Ngược lại với thanh toán trước, thanh toán sau đươc xem như người mau
được chiếm dụng vốn một thời gian của người bán. thanh toán sau ảnh hưởng vô
cùng lớn đến việc thanh toán công nợ của người bán vì người bán có thu hồi được
tiền hàng hay không quả thực phụ thuộc nhiều vào khả năng tài chính và tư cách
cảu người mua. Tất nhiên để đảm bảo không bị thua thiệt xuất phát từ món tiền
“bị” trả sau này, người bán khi ký hợp đồng sẽ kèm theo một số điều kiện tín dụng
cho người mua, người mua thường trả một giá cao hơn so với thanh toán ngay.
Phần chênh lệch này có thể gọi người bán tạm coi là lãi có được tại thời điểm trả
sau do khoản tiền tính với giá dành cho thanh toán ngay sinh ra. Nói cách khác,

đây chính là phần lãi mà người mua phải trả cho người bán do việc thanh toán
chậm gây nên.
Thanh toán sau là một hình thức được áp dụng phổ biến hiện nay nhằm giúp
các doanh nghiệp mở rộng thị phần, tăng khách hàng và vị thế thương mại. Song
nếu thanh toán trước có thể rủi ro cho người mua thì thanh toán sau có thể gây rủi
ro cho người bán trong trường hợp không thu hồi được nợ hoặc nợ đọng quá lâu.
áp dụng hình thức này, người bán thường tin cậy vào người mua hoặc có những
ràng buộc nhất định đối với người mua.
Phân loại quan hệ thanh toán theo thời hạn giúp các nhà quản lý kinh tế áp
dụng một cách linh hoạt cho từng đối tượng khách hàng và lấy lợi ích từ hình thức
này bù đắp cho rủi ro nếu có xảy ra ở hình thức khác và có thể kế hoạch hoá được
các dòng tiền đi ra và đi vào doanh nghiệp.
2.3. Căn cứ vào phương tiện thanh toán
Theo cách này người ta phân thành 2 loại: thanh toán dùng tiền mặt và thanh
toán không dùng tiền mặt.
2.3.1. Thanh toán dùng tiền mặt
Khi tiền tệ – vật ngang giá chung ra đời do tính tất yếu của sự phát triển
phân công lao động xã hội, nó được sử dụng dưới dạng vàng bạc nến, song gây tốn
kém và cồng kềnh vận chuyển. Vì vậy trong thời đại ngày nay người ta sử dụng
giấy làm nguyên liệu chính để làm dấu hiệu tiền tệ. Tiền mặt ra đời từ đó và làm cơ
sở cho quan hệ thanh toán dùng tiền mặt.
Thanh toán dùng tiền mặt là việc sử dụng trực tiếp tiền mặt trong quan hệ
thanh toán.
a, Đặc điểm của thanh toán dùng tiền mặt.
• Phương thức giao dịch, thanh toán chủ yếu là giao dịch trực tiếp , người ta
trả tiền giao trực tiếp, người trả tiền giao trực tiếp tiền mặt cho người nhận,
không thực hiện nghiệp vụ thanh toán qua ngân hàng.
• Phạm vi thanh toán bị giới hạn.
• Trong quan hệ thanh toán bằng ytiền mặt, tiền tệ thực hiện chức năng lưu
thông, việc mua bán hàng hoá, cung ứng lao vụ được kết thúc khi người bán

chuyển giao hàng hoá hay cung ứng lao vụ, dịch vụ cho người mua, đồng
thời người mua trả tiền mặt cho người bán. Các đối tượng tham gia việc
mua bán và thanh toán chỉ có hai bên mua và bán.
• Chi phí giao dịch thấp song chi phí vận chuyển và bảo quản lại lớn.
• Quan hệ thanh toán diễn ra nhanh chóng.
b, Ưu nhược điểm của thanh toán dùng tiền mặt
Thanh toán dùng tiền mặt là hình thức thanh toán phổ biến, dễ áp dụng trong
dân cư, thời gian để thực hiện giao dịch rất nhanh chóng. Song sử dụng hình thức
thanh toán dùng tiền mặt đòi hỏi lượng tiền mặt trong lưu thông lớn làm cho chi
phí lao động xã hội (như chi phí in ấn vận chuyển, bảo quản )lớn, không những
thế độ bảo toàn cho việc dự trữ tiền mặt lại không cao, lượng tiền mặt lớn không có
lợi về mặt an ninh, ngoài ra có thể bị mất giá.
2.3.2. Thanh toán không dùng tiền mặt
Thanh toán không dùng tiền mặt là hình thức thanh toán được thực hiện
thông qua các chứng từ phát hành và nghiệp vụ trích, chuyển tiền của ngân hàng từ
tài khoản của người trả sang tài khoản của người hưởng thụ để thực hiện nghĩa vụ
chi trả giữa các bên.
a, Đặc điểm của thanh toán không dùng tiền mặt
Luôn có sự tham gia giữa các bên thứ ba làm trung gian giữa con nợ và chủ nợ là
ngân hàng.
Thanh toán không dùng tiền mặt chỉ diễn ra khi các cá nhân, đơn vị kinh té có tài
khoản tiền gửi tại ngân hàng. Do vậy phạm vi đối tượng tham gia quan hệ thanh
toán rộng hay hệp phụ thuộc vào bản thân các đối tượng tham gai vào quan hệ
thanh toán. Nói chung phạm vi thanh toán rộng hơn phạm vi thanh toán dùng tiền
mặt.
Sự vận động của hàng hoá và các chứng từ thay cho tiền tách rời nhau về mặt
không gian và thời gian.
a. Vai trò của việc thanh toán không dùng tiền mặt.
Ngày nay với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế hàng hoá, thanh toán
không dùng tiền mặt chiếm một vị trí quan trọng, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Nền kinh tế nước ta đang ở giai đoạn nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, sự
giao lưu hàng hoá phát triển không chỉ ở trong nước mà còn mở rộng ra thị trường
quốc tế, thanh toán không dùng tiền mặt vì thế có vai trò đặc biệt quan trọng riêng
với nước ta cả với nền kinh tế quốc dân cũng như đối với doanh nghiệp.
Thanh toán không dùng tiền mặtcho phép giảm được lượng tiền mặt cần sử
dụng trong các quan hệ thanh toán trong nền kinh tế do đó giảm được các chi phí
có liên quan đến việc in và phát hành tiền mặt.
Thanh toán không dùng tiền mặt cho phếp giảm các chi phí liên quan đến
việc bảo quản và vận vhuyển tiền phục vụ các quan hệ thanh toán trong nền kinh
tế.
Thanh toán không dùng tiền mặt làm cho quá trình thanh toán giản đơn và
thuận lợi hơn.
Thông qua công tác thanh toán không dùng tiền mặt ngân hàng có thể kiểm
soát và mnắm bắt được tình hình vốn của các bên tham gia thanh toán.
Thanh toán không dùng tiền mặt làm tăng nguồn vốn ngân hàng huy động từ
số dư trên tài khoản tiền gửi của các tổ chức kinh tế.
Thanh toán không dùng tiền mặt góp phần rút ngắn thời gian quay vòng của
vốn, thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng.
1
b. Nhược điểm của hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.
• Thủ tục thanh toán phức tạp.
• Do quan hệ thanh toán phải thông qua một trung gian là ngân hàng nên có
thể dẫn đến tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các bên.
• ở các nước phát triển thanh toán không dùng tiền mặt đã đước dân cư áp dụng
rộng rãi song chưa phổ biến bằng hình thức thanh toán bằng tiền mặt. đặc biệt
trong quá trình thanh toán không dùng tiền mặt phụ thuộc vào việc thực hiện
nghiệp vụ và các thủ tục của ngân hàng ở Việt nam, thanh toán không dùng
tiền mặt khó được đem ra áp dụng một cách phoỏ biến trong dân cư.
3. Vai trò của công tác thanh toán đối với doanh nghiệp
Thanh toán có ảnh hưởng rất quan trọng đến các khoản thu chi bằng tiền mặt

của doanh nghiệp, nếu tổ chức tốt các công tác thanh toán, doanh ngiệp đó sẽ đảm
bảo tự chủ được về mặt tài chính , thực hiện tốt khâu thanh toán , doanh nghiệp sẽ
tạo dựng uy tín đối với bạn hàng, với các tổ chức tài chính tín dụng có liên quan.
Phát huy chức năng chi trả của tiền tệ, thanh toán làm cho tiền tệ luôn lưu
chuyển, thúc đẩy và giảm tốc việc luân chuyển vật tư, hàng hoá và lao vụ trong
nền kinh tế.
Hoạt động kinh doanh sẽ bị ngừng trệ, không đem lại hiệu quả cao nếu tiền
không được trở về đúng chỗ của nó khi nợ nần dây dưa. Công tác thanh toán được
tổ chức tốt sẽ làm cho doanh nghiệp được trôi chảy và đem lại hiệu quả kinh tế
cao.
Công tác thanh toán được tổ chức tốt cũng giúp tăng vòng quay vốn làm cho
chu trình hoạt động của doanh nghiệp được thông suốt và liên tục.
Như vậy công tác thanh toán trong doanh nghiệp được thực hiện tốt sẽ đảm
bảo tình trạng tài chính lành mạnh chi doanh ngệp đảm bảo tăng tốc độ chu chuyển
vốn để tăng hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp.
II. Các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt được áp dụng tại Việt
nam.
1. Thanh toán bằng séc
1.1. Khái niệm
Séc là một lệnh trả tiền của chủ tài khoản được lập trên mẫu do ngân hàng
Nhà nước quy định yêu cầu đơn vị thanh toán trích một số tiền từ tài khoản tiền gửi
thanh toán của mình để trả cho người thụ hưởng có tên ghi trên séc hoặc người
cầm séc.
Từ định nghĩa trên ta có thể thấy các thành phần liên quan đến giao dịch
thanh toán bằng séc bao gồm:
• Người ký séc: là người chủ tài khoản tiền gửi thanh toán ở ngân hàng. chủ
tài khoản là người đứng tên mở tài khoản tiền gửi thanh toán và là chủ sở
hữu hoặc người đại diện chủ sở hữu số tiền ghi trên tài khoản đó.
• Người thụ lệnh: ngân hàng thực hiện việc trích tiền từ tài khoản của người
ký séc trả cho người thụ hưởng, ngân hàng có quyền từ chối thanh toán khi

tài khoản tiền gửi không đủ tiền thanh toán.
• Người thụ hưởng: là người được hưởng số tiền ghi trên tờ sé. Người thụ
hưởng có quyền chuyển nhượng cho người khác bằng cách ký tên vào nơi
quy định cho ngươì chuyển nhượng ở mặt sau tờ séc trừ trường hợp tờ séc đã
ghi cum từ: ”không được phếp chuyển nhượng”.
Người thủ lệnh là đơn vị thanh toán, là đơn vị giữ tài khoản tiền gửi thanh
toán của chủ tài khoản được cơ quan có thẩm quyền cấp hoạt động dịch vụ thanh
toán.
Đơn vị thu hộ là đơn vị được phép nhận séc với tư cách làm đại lý cho người
được thụ hưởng séc để thu hộ tiền một đơn vị cùng hệ thống với đơn vị thu nợ.
Người phát hành séc, người chuyển nhượng séc có trách nhiệm với tờ séc từ
khi mình ký phát hành hoặc khi ký chuyển nhượng cho đến khi người thụ hưởng
cuối cùng nhận đủ tiền. Trách nhiệm đối với séc bao gồm nghĩa vụ thanh toán số
tiền ghi trên séc và trách nhiệm liên đới giải quyết khiếu nại hoặc khởi kiện khi séc
bị từ chối thanh toán.
Đối với ngân hàng khi nhận kiểm tra tính hợp lệ của tờ séc, chữ kýngười
phát hành séc.
Đơn vị thanh toán có thể từ chối thanh toán séc trong các trượng hợp sau:
• Séc không hợp lệ.
• Séc có lệnh đình chỉ thanh toán.
• Séc hết hiệu lực thah toán.
• Séc kỳ phát vượt quá thẩm quyền.
1.2. Các loại séc:
- Séc ghi tên: là loại séc ghi rõ tên người hưởng lợi. Loại séc này không thể nhượng
được bằng thủ tục ký hậu, chỉ có người hưởng lợi được ghi trên séc mới được
lĩnh tiền ở ngân hàng.
- Séc vô danh: là loại séc không ghi tên người hưởng lợi, chỉ ghi câu: "trả cho
người cầm séc". Bất cứ ai cầm séc này cũng có thể lĩnh tiền của tờ séc ở ngân
hàng. Vì vậy không cần qua thủ tục ký hậu, séc vẫn có thể chuyển nhượng được
bằng hình thức trao tay.

- Séc theo lệnh: là loại séc ghi trả tiền theo lệnh của người hưởng lợi ghi trên tờ séc
đó. Trên tờ séc ghi "yêu cầu trả theo lệnh của ông…". Loại này có thể chuyển
nhượng được bằng thủ tục ký hậu.
- Séc chuyển khoản: là loại séc mà người ký phát séc ra lệnh cho ngân hàng trích
tiền từ tài khoản của mình để chuyển trả sang một tài khoản khác của một
người khác trong hoặc khác ngân hàng. Séc chuyển khoản không thể chuyển
nhượng và không thể lĩnh được tiền mặt.
- Séc bảo chi: là loại séc được ngân hàng xác nhận việc trả tiền. Mục đích của việc
xác nhận này là nhằm đảm bảo khả năng chi trả của tờ séc, chống phát séc không.
Ngân hàng xác nhận trên tờ séc với công thức: "Xác nhận số tiền…trả đến
1
ngày…tại ngân hàng…". Bắt đầu từ lúc xác nhận séc, ngân hàng sẽ lưu ký tiền gửi
trên tài khoản của khách hàng số tiền ghi trên séc sang tài khoản séc xác nhận
trong suốt thời hạn hiệu lực của tờ séc.
1.3. Những điều kiện thành lập séc.
Để thành lập một tờ séc cần có những điều kiện sau:
- Người ký phát séc phải có tiền trên tài khoản mở tại ngân hàng. Số tiền trên tờ
séc không vượt quá số dư có trên tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Tuy nhiên
theo Luật thống nhất về séc - ULC (Uniform Law for Cheque) 1931, người ký
phát séc có thể phát hành tờ séc mà tại thời điểm đó tài khoản của họ không còn đủ
số dư, miễn sao vào thời điểm lúc phải thanh toán tờ séc, trên tài khoản có đủ
tiền là được.
- Thời hạn xuất trình và thời hạn hiệu lực của séc:
+ Thời hạn xuất trình là thời hạn mà người hưởng lợi phải chuyển giao tờ
séc cho ngân hàng theo lệnh để nhận tiền. Trong thời hạn này, người ký phát séc
phải duy trì số tiền bằng mệnh giá séc trên tài khoản tiền gửi tại ngân hàng để đảm
bảo thanh toán cho người hưởng lợi.
Thời hạn xuất trình được dtính từ ngày ký phát séc đến ngày xuất trình séc
cho ngân hàng thụ lệnh.
+ Thời hạn hiệu lực: thời hạn hiệu lực của séc đối với ngân hàng là thời hạn

mà trong đó, ngân hàng vẫn đóng vai trò là người thụ lệnh, thực hiện việc chi trả
cho người hưởng lợi.
Thời hạn hiệu lực được qui định là một năm kể từ ngày hết hạn xuất trình.
Sau khi hết thời hạn hiệu lực của tờ séc, ngân hàng thụ lệnh không có nghĩa
vụ thực hiện việc chi trả. Tuy nhiên người ký phát vẫn còn nguyên nghĩa vụ thanh
toán tiền trên séc cho người hưởng lợi vì tờ séc vẫn còn hiệu lực pháp lý của một
hợp đồng dân sự.
1.4. Các loại séc thường áp dụng trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp
1.4.1. Séc chuyển khoản
Séc chuyển khoản là loại séc không có khả năng chuyển đổi thành tiền mặt.
Séc chuyển khoản áp dụng thanh toán trong phạm vi cùng một ngân hàng
hoặc hai ngân hàng khác nhau nhưng cùng một địa bàn tham gia thanh toán bù.
Quy trình thanh toán séc chuyển khoản
Đơn vị mua
1
Đơn vị
bán
5 2
3
'
3
Ngân
hàng
phục vụ
đơn
vị
mua
Ngân
hàng

4
phục
vụ
đơn vị
bán
6
Bước 1: Theo hợp đồng hoặc đơn đặt hàng đã ký, đơn vị bán thực hiện nghĩa
vụ giao hàng hoặc cung cấp dịch vụ cho đơn vị mua.
Bước 2: Ngay sau khi nhận được hàng hoá, dịch vụ cung ứng, đơn vị mua
phát hành séc chuyển khoản giao trực tiếp cho đơn vị bán.
Bước 3: Trong thời hạn hiệu lực của tờ séc, đơn vị bán nộp séc và bảng kê
nộp séc váo ngân hàng phục vụ mình yêu cầu thanh toán.
Bước 3': Đơn vị bán có thể chuyển séc trực tiếp đến ngân hàng bên mua
(ngân hàng phục vụ đơn vị mua).
Bước 4: Ngân hàng phục vụ đơn vị bán chuyển séc sang ngân hàng phục vụ
đơn vị bán.
Bước 5: Sau khi kiểm tra các chứng từ nếu thấy hợp lệ, ngân hàng phục vụ
bên mua tiến hành ghi nợi tài khoản tiền gửi của đơn vị mua và gửi giấy báo nợ
cho đơn vị mua.
Bước 6: Ngân hàng bên mua thông báo sang ngân hàng bên bán đã trích tiền
của đơn vị mua.
* Nguyên tắc áp dụng séc chuyển khoản:
- Nguyên tắc phát hành séc: số tiền ghi trên séc không được phép vượt quá
số dư tài khoản tiền gửi.
- Nguyên tắc thanh toán: ngân hàng ghi nợ tài khoản tiền gửi của đơn vị phải
trả trước khi ghi có tài khoản tiền gửi của đơn vị thụ hưởng.
* Kỷ luật thanh toán séc chuyển khoản:
Về nguyên tắc séc chuyển khoản không được phát hành quá sô dư, có nghĩa
là số tiền ghi trên tờ séc chuyển khoản không được vượt qúa số tiền trên tài khoản
tiền gửi ngân hàng.

Nếu chủ tài khoản phát hành séc quá số dư nợ trên tài khoản tiền gửi thì sẽ
bị phạt chậm trả.
Số tiền phạt
trả chậm
Số tiền ghi trên
=
Séc
Thời hạn trả
X X
chậm (ngày)
Lãi suất nợ quá hạn
30
Số tiền phạt chậm trả sẽ được chuyển cho đơn vị thụ hưởng.
Nếu trong vòng 3 tháng, chủ tài khoản để hai tờ séc phát hành quá số dư nợ
hoặc chậm bù đắp số tiền phát hành quá số dư 30 ngày, ngân hàng sẽ thu hồi số séc
trắng còn lại buộc chủ tài khoản phải chuyển sang phương thức thanh toán khác.
* Ưu, nhược điểm của phương thức thanh toán bằng séc chuyển khoản:
Thanh toán bằng séc chuyển khoản tương đối đơn giản và thuận tiện cho cả
hai bên đồng thời đảm baỏ tính linh hoạt của đơn vị mua.
Tuy vậy, khi sử dụng séc chuyển khoản để thanh toán, người bán không
khống chế được khả năng thanh toán của người mua nên có thể dẫn tới tình trạng
bị chiếm dụng vốn khi người mua phát hành séc vượt quá số dư tài khoản tiền gửi.
Ngân hàng không kiểm soát được hành vi giao séc của đơn vị mua, đơn vị
mua có đủ khả năng và thời gian làm cho số tiền trên tài khoản tiền gửi đủ để thanh
toán và không vi phạm kỷ luật thanh toán.
1.4.2. Séc bảo chi
Séc bảo chi là một tờ séc chuyển khoản đã được một ngân hàng nhất định
đảm bảo khả năng thanh toán thông qua thủ tục bảo chi séc.
Séc bảo chi được sử dụng để thanh toán giữa các đơn vị là khách hàng thuộc
hệ thống Kho bạc Nhà nước và được áp dụng trong trường hợp bên bán không tin

tưởng vào khả năng thanh toán của bên mua, yêu cầu bên mua phải có đủ tiền để
chi trả ngay.
Séc bảo chi có thể được sử dụng trong phạm vị cùng một ngân hàng, hai đơn
vị mở tài khoản khách ngân hàng nhưng cùng hệ thồng, khác ngân hàng khác hệ
thống nhưng cùng địa bàn tham gia thanh toán bù trừ.
Quy trình thanh toán séc bảo chi
Người hưởng
Séc
(Đơn vị
bán)
3
Người phát
hành
(Đơn vị
mua)
4
6 5 1 2 8
Ngân hàng
phục
vụ đơn vị
bán
7
Ngân hàng
phục
vụ đơn vị
mua
Bước 1: Theo hợp đồng đã ký, đơn vị mua phát hành séc chuyển khoản cùng
với một uỷ nhiệm chi gửi tới ngân hàng của mình yêu cầu ngân hàng bảo chi cho
tờ séc đó.
Bước 2: Sau khi hoàn thành thủ tục bảo chi séc, ngân hàng giao trả lại tờ séc

bảo chi cho đơn vị mua.
Bước 3: Đơn vị bán tiến hàng nghĩa vụ giao hàng hoặc cung cấp dịch vụ cho
đơn vị mua theo quy định của hợp đồng.
Bước 4: Sau khi nhận được hàng hoá hoặc dịch vụ cung ứng, đơn vị mua
giao trực tiếp tờ séc bảo chi cho đơn vị bán.
Bước 5: Trong thời hạn hiệu lực của tờ séc, đơn vị bán nộp séc, bảng kê nộp
séc vào ngân hàng phục vụ mình yêu cầu thanh toán.
Bước 6: Sau khi kiêm tra các chứng từ, nếu thấy hợp lệ ngân hàng phục vụ
đơn vị bán ghi có tài khoản tiền gửi của đơn vị bán và gửi giấy báo có cho đơn vị
bán.
Bước 7: Ngân hàng phục vụ đơn vị bán thông báo sang ngân hàng phục vụ
đơn vị mua trả tiền cho đơn vị bán.
Bước 8: Ngân hàng phục vụ đơn vị mua tiến hành ghi nợ tài khoản séc bảo
chi đồng thời gửi giấy báo nợ cho đơn vị mua.
Với séc bảo chi, ngân hàng thanh toán theo nguyên tắc ghi "có" trước, "nợ"
sau. Ghi "có" tài khoản tiền gửi của đơn vị thụ hưởng trước khi ghi "nợ" tài khoản
tiền gửi của đơn vị phải trả.
Séc bảo chi có ưu điểm là quan hệ thanh toán diễn ra chặt chẽ, đảm bảo
quyền lợi cho đơn vị bán. Song thủ tục thanh toán của phương thức này lại tương
đối phức tạp làm cho đơn vị mua không có được sự chủ động cao trong kinh doanh
vì số tiền trên séc bảo chi bị phong toả nên không sử dụng được cho các mục đích
thanh toán khác và số tiền đó không được hưởng lãi tiền gửi.
2. Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi
Uỷ nhiệm chi là lệnh chi tiền của chủ tài khoản được lập trên mẫu in sẵn của
ngân hàng, Kho bạc Nhà nước, yêu cầu ngân hàng, Kho bạc Nhà nước phục vụ
mình (nơi mở tài khoản gửi) trích tài khoản của mình đẻ trao trả cho người thụ
hưởng.
Phạm vi thanh toán uỷ nhiệm chi rất rộng, có thể để dùng thanh toán giứa
hai khách hàng cùng một ngân hàng, khác ngân hàng, khác hệ thống cùng địa bàn
có tham gia thanh toán bù trừ và còn được áp dụng trong trường hợp hai bên thanh

toán thực sự tín nhiệm lẫn nhau.
Quy trình thanh toán bằng uỷ nhiệm chi
Đơn vị mua Đơn vị
bán
1
2 4
Ngân
hàng
phục vụ
đơn
vị
mua
Ngân
hàng
3
phục vụ
đơn
vị
bán
Bước 1: Theo hợp đồng hoặc đơn đặt hàng đã ký, đơn vị bán tiến hành cung
cấp hàng hoá, dịch vụ cho đơn vị mua.
Bước 2: Định kỳ hoặc theo thời gian quy định trong hợp đồng, đơn vị mua
lập uỷ nhiệm chi gửi tới ngân hàng của mình, yêu cầu ngân hàng trích trả tiền cho
đơn vị bán.
Bước 3: Căn cứ vào uỷ nhiệm chi, ngân hàng phục vụ đơn vị mua ghi nợ tài
khoản tiền gửi của đơn vị mua và thông báo sang ngân hàng phục vụ đơn vị bán
trích tiển của đơn vị mua, đồng thời gửi giấy báo nợ cho đơn vị mua.
Bước 4: Ngân hàng phục vụ đơn vị bán ghi có tài khoản tiền gửi của đơn vị
bán, đồng thời gửi giấy báo có cho đơn vị bán.
Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi có ưu điểm là quá trình thanh toán đơn giản,

thời gian thanh toán nhanh tạo điều kiện cho đơn vị mua có sự chủ động trong kinh
doanh song cũng lại chính do quá trình thanh toán không chặt chẽ nên không đảm
bảo được quyền lợi cho đơn vị bán khi đơn vị mua gặp khó khăn về tài chính hoặc
không giữ chữ tín trong kinh doanh. Do vậy, uỷ nhiệm chi thường chỉ áp dụng đối
với các đơn vị có sự tín nhiệm lẫn nhau về phương diện thanh toán.
3. Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu
Uỷ nhiệm thu là một tờ lệnh thu tiền của đơn vị bán, uỷ nhiệm cho ngân
hàng phục vụ mình thu hộ dtiền ở người mua về trị giá hàng hoá đã giao hoặc dịch
vụ đã cung ứng.
Uỷ nhiệm thu được áp dụng trong quan hệ dthanh toán giữa các đơn vị cùng
mở tài khoản ở ngân hàng hoặc khác ngân hàng trong cùng một địa phương hoặc
khác địa phương thanh toán và được áp dụng trong trường hợp hai bên mua bán có
tín nhiệm lẫn nhau.
Quy trình thanh toán bằng uỷ nhiệm thu
1
Đơn vị mua Đơn vị
bán
4
2 6
Ngân
hàng
phục vụ
đơn
vị
mua
5
Ngân
hàng
phục vụ
đơn

vị
bán
Bước 1: Theo hợp đồng hoặc đơn đặt hàng đã ký, đơn vị bán tiến
hành cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ cho đơn vị mua.
Bước 2: Sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung cấp dịch vụ, đơn
vị bán lập uỷ nhiệm thu gửi tới ngân hàng của mình cùng với các chứng từ, hoá
đơn liên quan chứng minh rằng hàng hoá đã được chuyển giao, dịch vụ đã được
cung ứng và uỷ nhiệm cho ngân hàng thu hộ số tiền trên.
2
3
Bước 3: Ngân hàng phục vụ đơn vị bán chuyển toàn bộ chứng từ sang ngân
hàng phục vụ đơn vị mua sau khi đã kiểm tra các chứng từ hợp lệ.
Bước 4: Sau khi kiểm tra các chứng từ, nếu thấy hợp lệ, ngân hàng phục vụ
đơn vị mua tiến hành ghi nợ tài khoản tiền gửi của đơn vị mua, đồng thời gửi giấy
báo nợ cho đơn vị mua.
Bước 5: Ngân hàng phục vụ đơn vị mua thông báo sang ngân hàng phục vụ
đơn vị bán đã trích tiền của đơn vị mua.
Bước 6: Ngân hàng phục vụ đơn vị bán ghi có tài khoản tiền gửi của đơn vị
bán đồng thời gửi giấy báo có cho đơn vị bán.
Khi nhận uỷ nhiệm thu, trong vòng một ngày, ngân hàng, Kho bạc Nhà nước
phục vụ bên trả tiền trích tài khoản của bên trả tiền ngay cho bên thụ hưởng để
hoàn tất việc thanh toán. Nếu tài khoản bên trả tiền không đủ tiền để trả thì bên trả
tiền bị phạt chậm trả.
Số tiền
phạt =
chậm trả
Số tiền ghi
trên séc
Thời hạn chậm
X

trả (ngày)
Lãi suất nợ
X qu

á

h

ạn
30
Ưu điểm của phương thức thanh toán bằng uỷ nhiệm thu là quá trình thanh
toán diễn ra chặt chẽ hơn so với uỷ nhiệm chi. Do vậy, quyền lợi của đơn vị bán
được đảm bảo hơn mà đơn vị mua vẫn đảm bảo được chủ động cao trong kinh
doanh.
Tuy vậy, vẫn có thể xảy ra tình trạng đơn vị mua chiếm dụng vốn và vì vậy
đơn vị bán vẫn không hoàn toàn được đảm bảo quyền lợi. Dù sao, đơn vị bán vẫn
muốn nhận được tiền càng sớm càng tốt chứ không phải là nhận tiền phạt chậm trả.
4. Thanh toán bằng ngân phiếu thanh toán
Ngân phiếu thanh toán do ngân hàng Nhà nước phát hành có mệnh giá và
thời hạn thanh toán in sẵn trên từng tờ không ghi tên, được chuyển nhượng.
Mệnh giá cụ thể của ngân phiếu thanh toán do Thống đốc ngân hàng Nhà
nước quy định trong từng thời kỳ. Ngân phiếu thanh toán được áp dụng cho khách
hàng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ trả nợ ngân hàng, nộp ngân sách, gửi vào
tài khoản tiền gửi tại ngân hàng và gửi tiết kiệm.
Để sử dụng ngân phiếu thanh toán, khách hàng có thể nộp tiền mặt vào ngân
hàng. Khách hàng có thể có nhu cầu trích tài khoản tiền gửi, thanh toán tại ngân
hàng, vay ngân hàng ứng với giá trị ngân phiếu thanh toán cần thiết.
Khi khách hàng không sử dụng ngân phiếu thanh toán nữa hoặc kết thúc thời
hạn lưu hành, người sử dụng ngân phiếu thanh toán nộp vào ngân hàng, Kho bạc
Nhà nước để đổ lấy tiền mặt hay ngân phiếu thanh toán đang còn giá trị lưu hành.

Đối với ngân hàng, khi nhận được giấy nộp ngân phiếu thanh toán kèm theo
bảng kê và các tờ ngân phiếu thanh toán do khách hàng nộp vào, ngân hàng kiểm
tra thủ tục lập giấy nộp ngâp phiếu thanh toán, các tờ ngân phiếu thanh toán, đối
chiếu giữa bảng thống kê với các tờ ngân phiếu, bảo đảm số liệu khớp nhau. Thủ
tục nhận ngân phiếu thanh toán được thực hiện như đối với tiền mặt.
5. Thanh toán bằng thư tín dụng
Thư tín dụng tờ lệnh của ngân hàng bên mua đối với ngân hàng bên bán ra
lệnh cho ngân hàng này trả tiền cho bên bán khi đơn vị bán xuất trình được một bộ
chứng từ thanh toán phù hợp với nội dung và yêu cầu của thư tín dụng.
Thư tín dụng là một công cụ tài chính do một ngân hàng thay mặt cho một
trong các khách hàng của họ phát hành, trong đó, cho phép một cá nhân hay doanh
nghiệp có quyền ký phát hối phiếu đối với ngân hàng nơi mở tài khoản, theo một
số điều kiện nhất định nêu trong thư tín dụng.
Thư tín dụng được áp dụng trong các trường hợp sau:
- Trường hợp hai bên mua bán không tín nhiệm lẫn nhau, bên bán đòi hỏi bên
mua phải có đủ tiền để thanh toán ngay phù hợp với số hàng hoá đã giao hoặc dịch
vụ đã cung ứng.
- Trường hợp theo quyết định xử phạt của ngân hàng đối với chủ tài khoản
vi phạm kỷ luật thanh toán.
- áp dụng với các đơn vị mở tài khoản cùng một ngân hàng, ở hai ngân hàng
khách địa phương cùng kệ thống hoặc hai ngân hàng nhưng khác hệ thống trong
điều kiện có ngân hàng cùng hệ thống hoạt động có tham gia thanh toán bù trừ với
ngân hàng phục vụ người hưởng.
Quy trình thanh toán bằng thư tín dụng
Đơn vị bán
4
Đơn vị bán
6 5 3 1 8
Ngân hàng phục
2

vụ đơn vị
bán
( NH trả
tiền)
7
Ngân hàng
phục
vụ đơn vị
mua
( NH mở
L/C)
Bước 1: Theo hợp đồng đã ký, đơn vị mua làm đơn xin mở thư tín dụng
cùng với hai uỷ nhiệm chi gửi tới ngân hàng của mình yêu cầu ngân hàng mở một
thư tín dụng cho đơn vị bán hưởng.
Bước 2: Sau khi hoàn thành thủ tục mở thư tín dụng, ngân hàng phục vụ bên
mua thông báo sang ngân hàng phục vụ đơn vị bán, đồng thời gửi bản chính thư
tín dụng sang ngân hàng phục vụ đơn vị bán.
Bước 3: Ngân hàng phục vụ đơn vị bán thông báo cho đơn vị bán biết thư tín
dụng đã được mở, đồng thời gửi bản chính thư tín dụng cho đơn vị bán (thông
thường được lập thành 4 bản).
Bước 4: Sau khi xem xét nội dung của thư tín dụng, nếu thấy hoàn toàn phù
hợp so với nguyên tắc, đơn vị bán tiến hành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung cấp dịch
vụ cho đơn vị mua. Nếu nội dung thư tín dụng không đúng yêu cầu, đơn vị bán có
thể từ chối giao hàng.
Bước 5: Sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung cấp dịch vụ, đơn
vị bán lập bộ chứng từ thanh toán theo đúng yêu cầu của thư tín dụng và gửi tới
ngân hàng cuả mìnhin thời gian hiệu lực của thư tín dụng yêu cầu thanh toán.
Bước 6: Sau khi kiểm tra bộ chứng từ thanh toán, đối chiếu với nội dung của
thư tín dụng, nếu thấy hoàn toàn phù hợp, ngân hàng phục vụ đơn vị bán ghi có tài
khoản tiền gửi đơn vị bán, đồng thời gửi giấy báo có cho đơn vị bán.

Bước 7: Ngân hàng phục vụ đơn vị bán thông báo sàng ngân hàng phục vụ
đơn vị mua đã trả tiền cho đơn vị bán.
Bước 8: Ngân hàng phục vụ đơn vị mua tất toán tài khoản thư tín dụng và
gửi giấy báo nợ cho đơn vị mua.
Phương thức thanh toán theo thư tín dụng được thực hiện theo nguyên tắc
ghi "có" trước "nợ" sau. Ngân hàng ghi "có" tài khoản tiền gửi đơn vị thụ hưởng
trước khi ghi " nợ" tài khoản tiền gửi của đơn vị phải trả.
Một số quy định đối với việc thanh toán bằng thư tín dụng:
- Mỗi thư tín dụng chỉ thanh toán một lângân hàng đối với một đơn vị khách hàng,
trường hợp muốn thanh toán với nhiều khách hàng khác nhau thì phải mở nhiều
thư tín dụng khác nhau.
- Mức tối thiểu để mở một thư tín dụng là 5 triệu VNĐ.
- Số tiền lưu ký trên tài khoản thư tín dụng không được hưởng lãi tièn gửi.
Quá trình thanh toán qua thư tín dụng diẽn ra chặt chẽ nên đảm bảo quyền
lợi cho cả hai bên mua và bán. Đối với bên bán nếu hoàn thành nghĩa vụ giao hàng
sẽ được nhận tiền nhanh và chắc chắn. Đối với bên mua, họ chắc chắn sẽ nhận
được hàng theo đúng hợp đồng. Nếu bên bán không giao hàng cho bên mua theo
đúng hợp dồng, bộ chứng từ sẽ sai lệch, bên bán sẽ không được ngân hàng trả tiền.
Tuy nhiên, sử dụng phương thức thanh toán bằng thư tín dụng cũng có một
số nhược điểm: đó là quá trình thanh toán tương đối phức tạp nên đơn vị mua bị ứ
đọng vốn và không chủ động trong kinh doanh.
6. Thanh toán bằng thẻ thanh toán
Thẻ thanh toán là phương tiện chi trả hiện đại mà người sở hữu nó có thể sử
dụng để thanh toán tiền hàng, dịch vụ, đồng thời cũng có thể sử dụng để rút tiền
mặt tại các máy, quầy tự động của ngân hàng.
Người mua hàng hay thuê dịch vụ dùng thẻ để thanh toán dịch vụ hàng hoá
với các tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ hàng hoá có mở tài khoản tại ngân hàng.
Ngân hàng phát hành thẻ thanh toán ngoài việc thu phí do thực hiện thanh
toán bằng thẻ cho khách hàng còn được sử dụng nguồn vốn trên tài khoản khách
hàng khi họ chưa có nhu cầu thanh toán để mở rộng hoạt động kinh doanh, tăng

thu nhập ngân hàng.
Đối với người mua hàng, dùng phương thức thanh toán bằng thẻ thanh toán
sẽ được hưởng lãi tiền gửi không kỳ hạn đối với số tiền chưa sử dụng, khi mua
hàng hay thuê dịch vụ không phải vận chuyển bằng tiền mặt, tránh mất mát tiền
của khách hàng,
Đối với người bán hàng, dùng phương thức thanh toán bằng thẻ thanh toán,
tiền bán hàng được ngân hàng bảo quản, thanh toán chính xác, nhanh chóng thuận
tiện.
Thẻ thanh toán là một phương tiện chi trả hiện đại, xuất hiện với từ cách là
phương tiện thanh toán, lần đầu tiên xuất hiện ở Hoa Kỳ năm 1914, tuy nhiên nó
chỉ bắt đầu được sử dụng tương đối rộng rãi vào những năm 1950. Vào khoảng
những năm 1960, thẻ thanh toán đã dần dần thâm nhập cuộc sống của dân cúng tại
các quốc gia Châu Âu và ngày nay, nó trở thành một trong những phương tiện
thanh toán thông dụng trên thế giới. ở Việt Nam, do điều kiện hệ thống thông tin
giao dịch trong ngân hàng và giữa các ngân hàng với các doanh nghiệp chưa được
nối mạng nên việc thanh toán còn nhiều hạn chế đặc biệt là thủ tục thanh toán phức
tạp hơn rất nhiều so với nước khác trên Thế giới.
Xét về thẻ thanh toán, ở Việt Nam hiện nay đang có 3 loại:
- Thẻ ghi nợ: là loại thẻ được dùng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hay rút tiền
mặt nhưng khi chủ thẻ sử dụng thẻ này thì ngay lập tức ngân hàng sẽ thu tiền của
chủ thẻ bằng cách ghi nợ tài khoản tiền gửi thanh toán của chủ thẻ. Thẻ ghi nợ
thường được áp dụng đối với những khách hàng có mở tài khoản tiền gửi thanh
toán tại ngân hàng phát hành thẻ và mỗi thẻ cũng chỉ được ấn định một mức nhất
định.
- Thẻ ký quỹ: là loại thẻ mà chủ thẻ phải ký quỹ tiền gửi vào ngân hàng phát hành
thẻ với số tiền bằng số ktiền ghi trên thẻ. Loại thẻ này thường được áp dụng phổ
biến với khách du lịch.
2

×