Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

bài 20 viêm họng mạn tính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 40 trang )

Bài 20:
VIÊM HỌNG MÃN TÍNH
Phản ứng của niêm mạc họng đối với viêm họng mãn tính thể hiện dưới ba
hình thức chính: xuất tiết, quá phát và teo. Bệnh tích có thể lan rộng hoặc khu trú.
I. Viêm họng mãn tính tỏa lan.
1. Nguyên nhân: có nhiều nguyên nhân như:
- Viêm mũi xoang lâu ngày, viêm amydan mãn tính.
- Tắc mũi do vẹo vách ngăn, do cuốn mũi quá phát, do pôlyp.
- Do chất kích thích: hơi hóa học, bụi vôi, bụi xi măng, thuốc lá, rượu
- Do cơ đòa: tạng khớp (arthritisme), suy yếu gan thận, bệnh gút, urê máu cao.
2. Triệu chứng:
Tùy theo tuổi tác, viêm họng mãn tính được xếp loại như sau:
- Trẻ em thường bò viêm họng nang (pharyngite folliculaire) với những hạt lổn
nhổn ở thành sau họng.
- Thiếu niên và người lớn thường hay bò viêm họng long tiết vàviêm họng quá
phát. Đặc biệt người cao tuổi hay bò viêm họng teo, những người khoảng bốn mươi
tuổi cũng có thể mắc bệnh này.
a. Triệu chứng chức năng.
Triệu chứng chức năng trong các loại bệnh viêm họng mãn tính lan rộng đều
giống nhau:
- Triệu chứng đầu tiên là cảm giác khô họng, cay họng, ngứa họng, vướng
họng. Những cảm giác này thể hiện rõ vào buổi sáng lúc mới thức dậy. Bệnh nhân
cố ho, khạc, đằng hắng, để làm long đờm, đờm ở dạng dẻo đặc.
- Triệu chứng thứ hai là bệnh nhân nuốt nghẹn, tiếng nói bò khàn trong giây lát
rồi trở lại bình thường. Nếu bệnh nhân uống rượu, hút thuốc lá, nói nhiều thì những
triệu chứng kể trên tăng lên.
b. Triệu chứng thực thể:
Hình ảnh của họng khác nhau tùy theo thể bệnh.
Viêm họng long tiết: Niêm mạc họng đỏ, ướt, có nhiều hạt lổn nhổn ở thành
sau họng, không có tia mạch máu chung quanh hạt (viêm họng hạt giả). Tiết nhầy
chảy dọc theo vách họng. Thỉnh thoảng các hạt (nang lymphôø) bò viên làm cho


bệnh nhân đau họng, khó nuốt.
Viêm họng quá phát: Niêm mạc họng dày và đỏ. Các cơ quan của họng đôi
khi cũng quá phát. Bên cạnh mỗi trụ sau có một nẹp giả do niêm mạc quá phát gây
ra. Họng bệnh nhân rất nhạy cảm, bệnh nhân dễ buồn nôn gây khó khăn khi khám
họng. Khi dụng cụ đè lưỡi chạm nhẹ vào miệng, bệnh nhân cũng không chòu được,
ở thành sau của họng có những mảng quá sản dày cộp, bóng và đỏ. Màn hầu và
lưỡi gà trở nên dày. Eo họng bò hẹp.
Niêm mạc loa vòi Ơstat cũng quá sản (ù tai). Mép sau của thanh quản bò dày,
bệnh nhân ho khan và tiếng khàn.
Đồng thời với sự quá phát, sự xuất tiết cũng tăng. Ban đêm tiết nhầy đọng lại
ở sau mũi, buổi sáng bệnh nhân phải khòt mũi và khạc ra mới cảm thấy dễ chòu.
Bản chất bệnh không có gì đáng ngại, nhưng cảm giác vướng họng kèm theo
khòt mũi, đằng hắng suốt ngày khiến bệnh nhân rất bực mình và dần đâm ra lo
lắng.
Viêm họng teo: Thể viêm quá phát dần chuyển sang thể teo. Các tuyến nhầy
và tân nang xơ hóa. Hai trụ giả phía sau amydan biến mất. Các hạt ở sau họng
cũng không còn, màn hầu và lưỡi gà mỏng trở lại. Niêm mạc trở nên nhẵn, mỏng,
trắng bệch, có mạch máu nhỏ. Quá trình teo có thể xâm phạm đến lớp cơ. Họng trở
thành rỗng tuếch. Eo họng giãn ra. Tiết nhầy khô lại và biến thành vảy dính vào
niêm mạc. Bệnh nhân cố dặng hắng và ho để tống vảy ra nhưng vô hiệu.
Thể viêm họng teo còn có thể do già nua hoặc di chứng củatró mũi, của hơi
độc chiến tranh, của suy yếu niêm mạc hô hấp trên Với những nguyên nhân này,
bệnh không qua giai đoạn quá phát.
3. Thể lâm sàng:
Các biểu hiện bệnh lý ở họng thay đổi tùy theo cơ đòa.
a. Thể sung huyết.
Bệnh nhân có cảm giác họng nóng, cay kèm theo ngứa, ho cơn. Những cơn ho
như vậy thường xảy ra đầu hôm (lúc đi ngủ). Bệnh nhân nằm nghiêng bên phải thì
tắc mũi phải, nằm nghiêng bên trái thì tắc mũi trái.
Những hiện tượng nói trên thường gặp ở những người suy gan, rối loạn dạ dày

ruột, rối loạn tuần hoàn, rối loạn nội tiết.
Viêm mũi họng ở tuổi dậy thì cũng nằm trong loại này. Mặt bệnh nhân mọc
mụn trứng cá, niêm mạc họng dày, mũi lúc nào cũng ướt, chảy nhiều tiết nhầy.
Viêm mũi họng ở tuổi dậy thì sẽ tự khỏi khi bệnh nhân trưởng thành. Trong quá
trình bệnh có thể nhỏ mũi bàng naphtazoline, cho uống cao benladon, không nên
đốt mũi sâu hoặc cắt cuốn mũi.
b. Viêm họng vận mạch.
Thể này tương đương với hen hoặc viêm mũi co thắt (rhinite spasmodique) và
nó có thể xuất hiện độc lập hoặc xen kẽ với những bệnh này. Khi mắc bệnh, bệnh
nhân đột nhiên có cảm giác rằng họng mình bò sưng và khô, sau năm mười phút
cảm giác đó mất đi, bệnh nhân bắt đầu xuất tiết nhầy. Bệnh có thể khu trú ở vòm
mũi họng (ù tai, chóng mặt, nhức đầu sau gáy) hoặc ở thanh quản (ho cơn, thở rít).
Chấm adrênalin vào họng có thể làm dứt cơn bệnh được.
c. Viêm họng trong các bệnh thể trạng.
- Đáo tháo đường: họng đỏ và khô, bệnh nhân lúc nào cũng khát nước.
- Bệnh suy dinh dưỡng: niêm mạc họng đỏ, lổn nhổn như vỏ quả cam, có nhiều
dòng dòch rỉ, keo đặc chảy dọc theo thành sau.
- Tạng khớp (arthritisme): niêm mạc họng đỏ quá phát, bệnh nhân buồn nôn.
- Tró mũi (ozène): niêm mạc họng teo, nhẵn, khô và có vảy thối.
d. Viêm họng nấm.
Viêm họng do aclinomyces: Bệnh tự phát do bệnh nấm ở xương hàm trên, ở
lưỡi lan vào.
Bệnh cũng có thể nguyên phát và bắt đầu ở amydan.
Diễn biến bệnh không có triệu chứng cơ năng, không có triệu chứng toàn thân.
Amydan tự nhiên to lên và cứng. Sợi nấm thường xuất hiện ở các khe amydan.
Nếu không điều trò, bệnh sẽ lan ra chung quanh họng và lộ ra vùng dưới góc
hàm thành một khối thâm nhiễm cứng như gỗ, màu đồng vỏ cua.
Sử dụng thuốc iôdua kali có tác dụng tốt đối với bệnh nấm này.
Viêm họng leplothrix hay viêm họng sừng hóa (pharyngokérutose): Lúc
đầu bệnh không có triệu chứng chức năng cũng như triệu chứng toàn thể. Bệnh

được phát hiện một cách tình cờ. Trên hai amydan hoặc thành sau họng có nhiều
điểm trắng bằng nửa hạt gạo, đầu nhọn, bám chặt vào các khe như những cái đinh.
Dùng cặp nhổ rất khó khăn, có khi rướm máu vẫn không lấy hết được. Những tổ
chức bệnh lý này có thể kết lại thành từng chùm giống như mào gà. Lúc này bệnh
nhân có cảm giác trong họng mình vướng phải những hạt ổi. Trước kia mọi người
cho rằng bệnh này do nấm gây ra. Hiện nay đã chứng minh được rằng những “đinh
nấm” trắng ở các khe là những vùng biểu bì sừng hóa. Nguyên nhân của sừng hóa
vẫn chưa tìm ra nhưng có một điều chắc chắn là nấm leptothrix không có dính líu
vào việc này.
Bệnh có xu hướng kéo dài, nhưng sẽ khỏi và không có biến chứng. Toàn thể
trạng luôn tốt.
e. Viêm họng ở trẻ em đã cắt amyda.
Đối với trẻ em đã cắt amydan (và nạo V.A), chúng ta có thể thấy một loại
viêm họng khá đặc biệt.
Tổ chức tân nang quá phát hình thành những đảo, những khối ở thành sau của
họng và lan vào hai hố amydan. Các trụ sau bò quá sản và hình thành những sợi
thừng đứng dọc.
Amydan lưỡi cũng quá sản.
Vòm mũi họng đầy những tân nang nằm hỗn độn, có khi đè lên loa vòi Ơstat.
Bé ngạt mũi, nghe kém và ho vặt.
Đây là sự phản ứng của cơ thể khi một phần lớn của vòng Vanđâye bò bỏ đi
đột ngột.
Hiện tượng này cho chúng ta thấy rằng nạo V.A và cắt amydan cùng một
lúc ở trẻ em dưới 5 tuổi thường không có lợi.
4. Điều trò.
a. Điều trò nguyên nhân.
Giải quyết các ổ viêm ở mũi, ở xoang nhất là xoang sàng và xoang bướm, ở
amydan.
Giải quyết sự lưu thông của mũi, thông xoang bướm, nạo xoang sàng…
Phẫu thuật những hố mũi (quá rộng) bằng cách chèn gạc dưới niêm mạc hay di

chuyển vách mũi xoang.
Trong trường hợp không có bệnh tích ở mũi xoang, phải làm xét nghiệm máu
như glucoza huyết, ure huyết, công thức máu, prôtit máu, phản ứng Gros, phản ứng
Mac-Lagan… để phát hiện các bệnh ở tạng khớp, gan, thận.
b. Điều trò cục bộ.
Trong giai đoạn long tiết:
- Súc miệng bằng dung dòch:
- Phun hơi nước:
Với bicabônat natri 14%
Hoặc bôrat natri 5%
Hoặc clôrat kali 3%
- Bôi colutoa iôdô – iôdurê 3%
Hoặc côlutoa tananh 5%
Hoặc dung dòch nitrat bạc 5%
Hoặc argirol 10%
Nên sử dụng que cong dài, loại que thanh quản bôi tận trên vòm. Khi bôi nên
để bệnh nhân nằm ngửa đầu thấp. Mỗi ngày bôi một lần. Nếu bệnh tích ở vòm và
Menthol 0,10g
Bicabônat natri
Bôrat natri
aa 1g
thành họng có tiết nhầy đặc quánh thì phải dùng vòi Murơ (Mure) và dung dòch
bôrat natri 1% rửa sau họng. Oxi gia
Trong giai đoạn quá phát:
Đốt trụ sau và các đảo lymphô sau khi bôi lidocain 10%. Đốt bằng hạt trai
nitrat bạc hoặc côte điện.
Nếu là quá sản toàn bộ niêm mạc thì nên bôi:
Cũng có thể bôi nitrat bạc 5 ngày một lần với độ đậm đặc ngày càng tăng:
5%- 10%- 15%.
c. Trong giai đoạn teo:

Dùng dung dòch bôrat l% và vòi Murơ (Moure) rửa sau họng mũi sao cho bong
hết vảy, bôi glyxerin iôdê loại nhẹ 0,50% mỗi ngày hai lần, hoặc pômat thủy ngân
1%.
Có tác giả khuyên nên hít khí dung nước biển.
c. Điều trò toàn thân.
Nếu có triệu chứng dò ứùng phải dùng thuốc chống dò ứng tổng hợp (Théralère)
coctison.
Đối với bệnh nhân suy gan, rối loạn tiêu hóa nên dùng dung dòch B (Bourget):
nước Vichy, nước suối Karlsbad, uống hoặc tiêm cao gan, uống vitamin A và
vitamin D
2
trong thời gian dài. Đồng thời đưa bệnh nhân đi điều trò các bệnh về thể
tạng: bệnh gút, bệnh tiểu tháo đường, bệnh ure máu cao
Dùng thuốc an thần: cao lạc tiên, brômua có tác dụng tốt đối với những người
hay lo sợ.
5. Phòng bệnh.
Không hút thuốc lá, không uống rượu. Ăn uống điều độ, tập thể dục đều đặn.
Tránh những nơi có nhiều bụi hóa học hoặc hơi độc, không khí quá khô và nóng.
Tránh cắt amydan cho trẻ quá nhỏ khi không cần thiết, nếu có thể nên thay bằng
phương pháp nạo V.A.
II. Viêm họng mãn tính khu trú
1. Viêm V.A.
Họng chúng ta có rất nhiều tổ chức lymphô, chúng vừa nằm rải rác ở khắp
niêm mạc vừa tập trung thành từng khối, xếp theo một vòng tròn ở mặt trước của
họng gọi là vòng Vanđâye (Waldeyer).
Gômênol 50cg
Menthol 50cg
Dầu vaselin 100g
Vòng Vanđâye gồm những bộ phận có vẻ rời rạt như V.A (amydan họng
Luschka), amydan vòi (amydan Gerlach), amydan khẩu cái và amydan lưỡi. Quan

sát bằng kính hiển vi, chúng ta thấy chúng có sự thống nhất rõ rệt, những nang
lymphô tập trung lại thành khối.
V.A (Végétations adénoides) là một tổ chức lymphô ở vòm mũi họng, bình
thường mọi đứa trẻ đều có. Lớp tân nang này dày khoảng 2mm, nằm trong niêm
mạc nóc vòm và thành sau của vòm, gồm nhiều nẹp nhỏ chạy dài từ sau ra trước
và hướng về hố Toocvan (Tornwaldt) (một chỗ lõm ở giữa nóc vòm). Khi tổ chức
này bò viêm và quá phát thì nó biến thành những khối to gọi là sùi vòm, có thể che
lấp mũi sau.
Nhìn chung sùi vòm phát triển ở trẻ từ hai đến sáu tuổi. Nhưng trong một số
trường hợp cá biệt chúng ta có thể thấy sùi vòm quá phát to ở trẻ sơ sinh hay người
lớn.
Tạng bạch huyết và giang mai bẩm sinh là những yếu tố thuận lợi cho sự quá
phát của V.A.
Có khi có vi trùng lao trong V.A nhưng chúng ta không thể kết luận đó là viêm
do lao vì vi trùng Koch thường đi qua tổ chức lymphô họng để vào cơ thể.
a. Triệu chứng.
Sùi vòm gây ra hội chứng tắc mũi sau điển hình. Các triệu chứng thường xuất
hiện vào thời kỳ một và hai của trẻ(18 tháng đến 6 tuổi rưỡi).
Triệu chứng phát hiện bệnh:
Triệu chứng chính cũng là triệu chứng đầu tiên là nghẹt mũi. Trước mũi ngạt
ít về sau ngạt nhiều. Khó thở ở cả hai mũi. Mũi thường bò viêm, tiết nhầy và mủ
chảy ra cửa mũi trước. Bệnh nhân hay ho và sốt vặt, tối ngủ không yên giấc,
thường ngáy to, giật mình. Tai nghễnh ngãng, dễ bò viêm.
Triệu chứng toàn thân:
Cơ thể bé phát triển chậm so với những bé cùng tuổi, chậm chạp, ăn uống
không biết ngon, nước da trắng bệch.
Bệnh nhân thường hay sốt vặt, năm ngày ba tật.
Triệu chứng thực thể:
- Soi mũi trước: sau khi xì mũi sạch và bôi adrênalin vào mũi, chúng ta sẽ thấy
chùm V.A đo ở cửa mũi sau.

- Soi mũi sau ( chỉ thực hiện được ở trẻ em lớn): khối sùi chiếm vòm mũi họng,
che lấp gần hết cửa mũi sau, không nhìn thấy đuôi cuốn mũi. Chung quanh khối sùi
thường có mủ và tiết nhầy.
- Sờ vòm: đối với trẻ em nhỏ, chúng ta có thể thay thế soi mũi sau bằng sờ
vòm. Sờ bằng đầu ngón tay út, chúng ta có thể đánh giá được khối lượng, mức độ
cứng của V.A.
- Soi họng: thành sau họng có nhiều khối lymphô to bằng hạt đậu xanh, mủ
nhầy chảy từ vòm xuống.
Màn hầu bò đẩy dồn về phía trước. Khi bệnh nhân nói a,a nó không dính sát
vào thành sau của họng.
Hàm ếch thường bò hẹp chiều ngang và lõm sâu. Răng hay mọc lệch.
Nhìn chung, bé có “bộ mặt sùi vòm” (faciès adénoidien): da xanh, miệng há,
môi trên bò kéo xếch lên để lộ răng cửa vầu, môi dưới dài thòng, đôi mắt mở to, trẻ
trông có vẻ ngây ngô.
Người ta quan niệm “bộ mặt sùi vòm” như là đặc hiệu của V.A. Thật ra không
đúng như vậy. Có những “bộ mặt sùi vòm” điển hình mà không có V.A to. Nhiều
tác giả cho rằng “bộ mặt sùi vòm” là do còi xương nhẹ hoặc rối loạn nội tiết gây
ra.
b. Biến chứng:
Biến chứng của sùi vòm thường đi đôi với bệnh vì vậy biến chứng giúp chúng
ta nhiều trong việc tìm ra nguyên nhân bệnh.
Biến chứng viêm nhiễm.
- Viêm thanh quản, khí quản và phế quản chiếm một tỷ lệ cao so với các loại
viêm khác, có thể là viêm cấp tính đường hô hấp trên (ARI). Những triệu chứng
như ho dai dẳng, sốt vặt khiến ta nghó đến bệnh về tai mũi họng và đưa bé đi
khám bệnh.
Viêm V.A có thể gây ra những cơn khó thở đột ngột và kòch liệt về đêm (xem
bài viêm thanh quản rít) ở những bé có cơ đòa co thắt.
Đối với bệnh nhân bò hen, viêm V.A có thể làm cho những cơn hen xuất hiện
thường xuyên hơn và nặng hơn.

- Viêm tai có khả năng xảy ra cao xếp thứ hai trong các loại biến chứng. Có ba
loại viêm tai: một là viêm tai giữa thành dòch nhầy (otite séro-muquese), trong đó
màng nhó không thủng, chỉ đục và dày; hai là viêm tai tiết nhầy mủ, trong đó
màng nhó bò thủng ở góc dưới và trước; ba là viêm tai mủ thông thường. Cả ba loại
này đều dẫn đến điếc nhưng loại thứ nhất thì gây điếc sớm, hai loại còn lại gây
điếc muộn hơn. Điếc không nặng lắm, phần lớn tai bò chỉ nghễnh ngãng.
- Viêm đường tiêu hóa: đau bụng, đi ngoài ra nhầy, ra nước. Một số tác giả cho
rằng viêm V.A có thể gây ra viêm ruột thừa.
- Viêm hạch: thường là viêm hạch trên nhiều vùng ở cổ, hạch nhỏ bằng hạt
đậu nành, không đau, dễ di động. Khi bệnh bộc phát, hạch có thể mưng mủ, nhất là
hạch Gilet (Gillette) gây ra apxe ở thành sau họng của trẻ sơ sinh.
- Viêm thận: tác hại của viêm V.A đối với thận nhẹ hơn trong viêm amydan
mãn tính. Sự thay đổi bệnh lý của nước tiểu là do albumin tăng.
- Viêm ở mắt: viêm màng tiếp hợp, viêm mi mắt, chảy nước mắt.
Rối loạn phát triển.
Ngoài “bộ mặt sùi vòm” và bộ mặt V.A mà chúng tôi đã nói ở đoạn trên, cơ
thể bệnh nhân còn có những biến dạng như lồng ngực bò dẹt và hẹp bề ngang, lưng
bò cong vẹo hoặc gù, bụng ỏng, đít teo.
Những bé bò V.A thường không tập trung tư tưởng, lười biếng hay buồn ngủ,
học hành kém. Sở dó có hiện tượng này vì bé nghe kém, béù không hiểu những lời
giảng của thầy giáo, không thấy hứng thú trong học tập. Muốn nghe đầy đủ một
bài giảng bé phải cố gắng gấp đôi gấp ba một bé bình thường, nhưng bộ máy hô
hấp của bé khống đủ sức cho bé làm việc này.
Sự phát triển trì trệ của một bé mắc bệnh V.A có bò hạn chế. Nhưng sự hạn
chế này không phải do ngu đần hay bệnh tích ở não gây ra mà do em bé nghe kém
và thở kém. Nếu chúng ta giải quyết được hai điểm này thì em bé có thể học hành
bình thường như mọi trẻ khác.
Tiên lượng của bệnh không đáng ngại nếu chúng ta giải quyết bệnh kòp thời
trước khi biến chứng trở thành cố đònh.
d. Chẩn đoán.

Sự có mặt của tổ chức lymphô ở vòm mũi họng là một hiện tượng bình
thường. Hiện tượng này trở thành bệnh lý (sùi vòm) khi nào khối lượng tân nang
quá to, che lấp cửa mũi sau hoặc gây ra viêm nhiễm thường xuyên ở tai, ở đường
hô hấp, ở đường tiêu hóa
Trong chẩn đoán phân loại nên nghó đến các bệnh viêm màng, viêm xoang, tòt
cửa mũi sau. Chúng ta loại các bệnh này bằng cách khám mũi, thông mũi (bằng
que thông nhựa kiểu thông vòi ơstat) và chụp X quang có bơm thuốc cản quang.
Chúng ta cũng loại các u ở vòm mũi họng trẻ như pôlyp cửa mũi sau, u xơ vòm
mũi họng, u ác tính vòm mũi họng bằng cách soi mũi sau và bằng sinh thiết.
Apxe thành sau họng cũng có phần nào giống viêm V.A. Nhưng trong apxe
thành sau họng, bệnh nhân không chỉ khó thở ra mà còn khó nuốt và khối u ở dưới
thấp ngang tầm nền lưỡi.
e. Thể lâm sàng.
-Thể trẻ nhỏ: sùi vòm có thể gặp ở trẻ sơ sinh hay ở trẻ nhỏ.
Thể này đáng ngại vì tắc mũi làm cho trẻ sơ sinh không bú được. Hơn nữa V.A
có thể gây ra viêm tai xương chũm với những hậu quả như nhiễm độc thần kinh,
suy mòn.
- Thể người lớn:
Bình thường đến tuổi dậy thì thì V.A bắt đầu teo lại. Nhưng trong một số ít
trường hợp V.A không teo và gây ra một số triệu chứng bệnh lý như: nhức đầu sau
gáy (viêm túi thanh mạc Thornwald), ù tai, nghe kém (viêm tai xơ) vướng họng
hay khạc ho (viêm họng hạt, viêm khí phế quản).
g. Điều trò.
Điều trò bằng thuốc.
Đối với trẻ em hay viêm V.A có thể điều trò bằng thuốc: kháng viêm,kháng dò
úng,giảm tiết và kháng sinh. Nhưng khi V.A quá to làm bé bú khó thì nhất đònh
phải nạo.
Trong những đợt viêm, chúng ta có thể cho bệnh nhân uống hoặc tiêm kháng
sinh phổ rộng.
Để củng cố kết quả phẫu thuật, nhất là đối với những cơ đòa bạch huyết, nên

dùng những thuốc sau đây : chất iôt (sirô iodotan), thạch tín (Liqueur de Fowler),
vitamin A và D
2
(dầu cá), chất sắt (viên sắt), kháng histamine (sirop Théralène,
sirop Phénergan), Calcigènol.
Điều trò bằng phẫu thuật.
Đến tuổi nào có thể nạo V.A? Thật ra không có giới hạn về tuổi, nếu cần thiết
thì ở tuổi nào cũng có thể nạo. Tuy nhiên đối với trẻ được vài tháng tuổi vòm mũi
họng còn rất bé nên cho thìa nạo vào khó khăn, dễ nạo sót hoặc làm rách trụ sau,
do đó có ý kiến cho rằng nạo vào lúc 18-24 tháng là tốt.
Chống chỉ đònh:
Chống chỉ đònh thứ nhất là viêm V.A ổ bộc phát phải sau khi sốt nửa tháng
mới được nạo V.A.
Chống chỉ đònh thứ hai là đối với bệnh lao đang tiến triển, dối với lao sơ nhiễm
phải đợi một năm, sau khi phản ứng Cuti chuyển hướng.
Nên thận trọng đối với các bệnh ưa chảy máu và bệnh gây chảy máu. Nếu
bệnh nhẹ có thể tiêm thuốc cầm máu và truyền máu rồi nạo. Nếu bệnh nặng
không nên nạo.
Trong những thời kỳ có dòch truyền nhiễm như bệnh bạch hầu, bệnh bại liệt
nên hoãn nạo.
Đối với những người có màn hầu ngắn cũng không nên nạo vì nạo xong bệnh
nhân sẽ nói giọng mũi hở.
Kết quả nạo V.A: V.A sau khi được nạo hết, sẽ không mọc lại, nhưng đôi khi
bé vẫn sổ mũi và ho vì bò dò ứng, tạng bạch huyết, giang mai.
Nếu sau khi nạo bé còn bò ngạt mũi, còn có mủ chảy xuống họng, chúng ta
phải kiểm tra lại xem còn sót V.A không hoặc có viêm xoang, viêm tổ chức
lymphô chung quanh không (bằng cách sờ vòm và chụp X quang xoang mặt).
Không nên chẩn đoán vội vàng rằng V.A mọc lại và bắt bé nạo lại nhiều lần gây
ra sẹo nát vòm. Nạo V.A ở những bé bò giang mai bẩm sinh dễ gây ra sẹo dính ở
vòm.

Về cách nạo xin xem phần thủ thuật nạo V.A.
Điều trò bằng quang tuyến.
Đối với những bé không nạo V.A được vì có chống chỉ đònh hay vì
vò trí của tổ chức lymphô (vòi ơstat), chúng ta có thể áp dùng Bêta liệu
pháp để điều trò sùi vòm. Bác só dùng ống thông Crowe chứa đựng
50mg radium có bao lọc bằêng hợp kim monel đặt vào sát tận V.A qua
đường mũi. Ống thông này phát ra những tia xạ thuộc loại Bêta. Thời
gian đặt là 3 đến 5 phút, nên đặt 3 lần, mỗi lần cách nhau 21 ngày.
Tác dụng của tia Bêta rất cạn (3mm) nên không nghe ai nói đến tác
hại của nó đối với cơ thể của bệnh nhân.
Có một số ít tác giả đề nghò dùng tia Renghen để điều trò V.A mỗi
kỳ 500r, làm 3 kỳ như vậy. Phương pháp này cho kết quả trước mắt tốt,
nhưng có thể gây ra biến chứng ở tuyến yên, ở tuyến mang tai về sau
nhất là đối với hài nhi. Hiện nay người ta chỉ dùng phương pháp này
trong những trường hợp đặc biệt cho trẻ em lớn mà thôi (bệnh ưa chảy
máu).
2. Nạo V.A.
a. Thủ thuật nạo V.A. bằng thìa nạo murơ.
- Chuẩn bò: Bệnh nhân phải được chuẩn bò trước: đo thời gian máu chảy, thời
gian máu đông, làm công thức máu, tìm glucoza, albumin trong nước tiểu, chiếu X
quang phổi, nghe tim, nghe phổi, khám gan, khám lách.
Đối với những em bé đang ngạt mũi nên nhỏ naphtazoline ngày 3 lần, nhỏ 5
ngày trước khi nạo. Nếu có loét mũi phải tra pômat.
Nên cho uống vitamin K 1viên 5mg/ ngày, uống trong 2 ngày trước khi nạo.
Khi phẫu thuật bệnh nhân phải nhòn đói (đối với trẻ lớn) còn đối với trẻ nhỏ
nên cho bú trước khi nạo 3 giờ.
- Dụng c.
Dụng cụ nạo V.A khá đơn giản, chỉ cần một cái khay đựng những dụng cụ đã
khử trùng sau đây:
+ 1 cái thìa nạo Murơ có rổ

+ 1 cái thìa nạo Murơ trơn.
+ 1 cái banh miệng.
+1 cái cặp Kôxe 22cm, cong.
+ Bông cầu và nước oxy, khăn chùi miệng.
- Người ph: Hộ lý dùng khăn to quấn tròn em bé lại từ vai đến chân, hộ lý
ngồi lên ghế đặt em bé vào giữa hai đùi của mình, mặt nhìn về phía trước và kẹp
chặt lại. Hai tay vừa ôm em bé vừa cầm khay quả đậu hứng trước mặt bé. Đầu em
bé ở ngang tầm vai bên phải của hộ lý.
Y tá đứng về phía bên phải của hộ lý và giữ đầu bệnh nhân như sau: bàn tay
trái áp vào xương chẩm, bàn tay phải úp lên trán. Trong khi nạo phải ngửa mặt
bệnh nhân lên và đẩy nhẹ về phía trước. Lúc nạo xong phải lập tức cúi đầu em bé
về phía trước và bên phải cho máu chảy vào khay quả đậu do hộ lý cầm.
- Kỹ thuật: Phẫu thuật viên đeo đèn Clar, tay phải cầm bàn nạo như cầm dùi
tức là để gọn cái cán vào lòng bàn tay, chuôi tì vào cùi tay, ngón tay trỏ đặt lên
lưng bàn nạo, ngón cái để bên cạnh, ba ngón còn lại (ngón nhẫn, ngón giữa và
ngón út) quặt về phía sau.
Động tác 1: đặt bàn nạo.
- Lắp dụng cụ banh miệng Đoyen về phía bên phải của bệnh nhân.
- Tay trái cầm dụng cụ đè lưỡi ấn lưỡi xuống.
- Tay phải đặt bàn nạo có rổ vào họng.
Lúc đưa bàn nạo qua eo họng phải để mặt bàn nạo nằm ngang, tránh móc phải
lưỡi gà. Sau khi chui qua eo họng rồi thì để mặt bàn nạo trở lại tư thế đứng và đẩy
nó về phía trên và sau. Trước khi nạo nên kéo bàn nạo về phía trước bệnh nhân
một chút cho đến khi có cảm giác chạm vào bờ sau của vách ngăn. Đó là dấu hiệu
nhận biết bàn nạo đã đến phần trước của vòm. Có như vậy chúng ta mới lấy hết
được V. A.
Động tác 2: nạo khối giữa.
Bàn nạo để chếch 30 độ về phía sau và trên, mặt tì vào nóc vòm và đè lên
khối V. A, phẫu thuật viên dùng cổ tay gạt nhanh bàn nạo xuống 60 độ, làm cho V
A tách rời khỏi vòm và dính vào cái rổ. Trong động tác này cánh tay không được di

động, bàn tay gập xuống 60 độ so với cẳng tay. Như vậy niêm mạc thành họng sẽ
không bò cào rách. Trong khi gạt xuống, thìa nạo sẽ gõ vào dụng cụ đè lưỡi gây ra
một tiếng chạm kim khí.
Rút bàn nạo ra khỏi miệng bệnh nhân.
Động tác 3: nạo hai bên.
Phẫu thuật viên bỏ thìa nạo có rổ, cầm thìa nạo trơn và đưa vào họng như lần
trước, nhưng lần này nạo ở hai bên vòm. Muốn nạo bên phải thì nghiêng mặt bàn
nạo chừng 30 độ về bên phải, muốn nạo bên trái thì nghiêng 30 độ về bên trái.
Dụng cụ đè lưỡi cần đặt thật sâu đến thành sau họng để hứng những mảnh V.
A rụng, không cho rơi vào thanh quản.
Mỗi lần phẫu thuật viên gạt bàn nạo xuống thì y tá giữ đầu và cúi mặt em bé
xuống về phía trước.
Động tác 4: Cầm máu.
Dùng kìm Kôxe cặp bông cầu có thấm nước oxy đặt vào vòm để cầm máu
trong 3 phút. Trong khi đó đầu em bé được để nghiêng về phía trước và bên phải
cho máu chảy vào khay quả đậu.
Nạo xong nên nhìn vào bàn nạo xem có lấy được V. A không. Nếu không lấy
được V. A, nên cho ngón tay trỏ bên trái vào kiểm tra vòm. Nếu thấy còn sót phải
nạo lại.
- Hậu phẫu: Nạo xong khoảng15 phút sau là hết chảy máu, em bé nhổ ra nước
bọt trong. Nếu chảy máu kéo dài trên nửa giờ phải sờ vòm kiểm tra lại xem có sót
V. A không. Nếu V.A đã lấy hết rồi mà vẫn chảy máu thì phải nhét cục gạc vào
vòm để cầm máu hoặc đút nút mũi sau. Chảy máu thường là do rách loa vòi ơstat,
rách niêm nạc thành sau họng hoặc vỡ bờ sau của xương lá mía. Nếu có mảnh
niêm mạc rách lòng thòng ở thành sau họng thì phải lấy kéo cắt đi.
Trong trường hợp bình thường có thể cho em bé về sau khi nạo xong 2 giờ.
Về nhà em bé phải nằm nghỉ không được ra đường chơi trước 24 giờ.
Ngày đầu ăn chất lỏng: sữa, cháo , ngày sau ăn cơm.
Đối với trẻ nhỏ, có thể cho bú hai giờ sau khi nạo.
Tiếp tục nhỏ naphtazolne vào mũi trong 7 ngày sau khi nạo.

Nếu có sốt hoặc đau tai thì cho uống sunfamít hoặc tiêm kháng sinh phổ rộng.
Nếu em bé nôn nhiều và thở ra mùi axêtôn thì cho uống dung dòch bicacbônat natri
14% (uống từng thìa một hoặc uống với nước đá).
a. Nạo V.A bằng bàn nạo La Foocxơ.
Bàn nạo La Foocxơ (L.A Foocee) là một dụng cụ vừa nạo V. A vừa cầm máu.
Trái với bàn nạo Murơ, bàn nạo La Foocxơ nạo V. A từ dưới lên trên và hứng lấy
thòt thừa không cho rơi xuống họng.
Việc chuẩn bò bệnh nhân và làm mất cảm giác cũng giống như trong phẫu
thuật bằng bàn nạo Murơ.
Đối với trẻ dưới 12 tháng thường không dùng La Foocxơ được vì vòm quá nhỏ.
Dụng cụ chỉ cần có khay vô trùng đựng bàn nạo La Foocxơ hợp với lứa tuổi,
dụng cụ đè lưỡi, khăn. Tất cả đã được hấp khử trùng.
Cách giữ em bé cũng tương tự như trong phẫu thuật trước, chỉ có điểm khác là
người bế em bé không cần phải cúi mặt em bé vào quả đậu để hứng máu.
- Kỹ thuật: Kỹ thuật viên cầm bàn nạo, tay trái cầm dụng cụ đè lưỡi. Cán bàn
nạo La Foocxơ có ba vòng tròn, trong mỗi vòng đặt một ngón tay, vòng sau để
ngón tay cái, vòng trên để ngón tay trỏ, vòng dưới để ngón tay giữa. Bắt đầu đóng
lưỡi dao lại bằng cách dồn vòng sau về phía trước.
Động tác 1: đặt bàn nạo.
Tay trái cầm dụng cụ đè lưỡi mở rộng miệng bệnh nhân và ấn lưỡi xuống. Tay
phải đặt bàn nạo vào vòm mũi họng. Khi đi qua eo họng phải xoay nghiêng mặt
bàn nạo 90
0
về bên phải, xong rồi để mặt bàn nạo đứng trở lại. Tay trái bỏ dụng cụ
đè lưỡi ra.
Khi mặt bàn nạo vào đến vòm rồi thì đuôi bàn nạo hướng về phía dưới và phía
trước của bệnh nhân 30 độ so với bình diện nằm, đồng thời màn hầu cũng bò đẩy
phồng về phía trước.
Động tác 2: nạo V.A.
- Mở lưỡi dao ra bằng cách dùng ngón tay cái kéo lùi vòng sau.

- Đẩy mãnh bàn nạo về phía sau và phía trên của bệnh nhân làm cho mặt bàn
nạo ôm sát lấy khối V.A.
- Bóp chặt lưỡi dao lại và giật nhẹ bàn nạo xuống dưới khoảng 2cm dọc theo
thành sau họng bằng cách xoay cổ tay. Khối V.A giữa bò nghiền đứt.
- Để nguyên bàn nạo trong vòm và tiếp tục nạo hai khối hai bên.
Muốn nạo khối bên phải thì để mặt bàn nạo nghiêng 30
o
về bên phải. Muốn nạo
khối bên trái thì nghiêng mặt bàn nạo 30
o
về bên trái. Sau đó làm lại những động
tác mở lưỡi dao, đè bàn nạo vào V.A, bóp lưỡi dao và giật V.A.
Động tác 3: cầm máu.
Nạo xong V.A ở hai bên thì đưa bàn nạo về vò trí giữa, tức là về nóc vòm và tỳ
chặt vào đấy trong 3 phút để cầm máu. Với động tác này nhớ đóng lưỡi dao lại.
Cuối cùng rút bàn nạo ra khỏi miệng. Có vài giọt máu chảy ra mũi xuống
miệng, lấy khăn ướt thấm máu, em bé tiếp tục nhổ ra nước bọt lẫn máu trong
khoảng 10 phút rồi hết.
Phương pháp La Foocxơ tốt hơn nạo bằng thìa nạo Murơ, nó cho phép chúng ta
lấy được nhiều V.A và ít chảy máu, nhưng chúng ta không dùng rộng rãi vì lưỡi
dao nhanh hỏng, phải thay luôn. Việc sản xuất lưỡi dao hiện nay còn gặp khó khăn.
Hậu phẫu ở đây cũng giống như trong phẫu thuật bằng bàn nạo Murơ.
III. Viêm amydan mãn tính ở trẻ em.
Chúng ta quen gọi amydan khẩu cái một cách ngắn gọn là amydan. Amydan
viêm mãn tính thường kèm theo quá phát do đó người ta hay cho rằng Amydan to
đồng nghóa với amydan viêm. Sự thật không đúng như vậy, chính những amydan
nhỏ xơ cứng mới là những ổ viêm quan trọng hơn so với những amydan to và mềm.
Amydan là những khối tổ chức lymphô, có bọc hình hạnh nhân, trung bình to
bằng đầu ngón tay út, nằm ở giữa trụ trước và trụ sau của màn hầu. Trên mặt của
amydan có nhiều cái khe ăn sâu vào nhu mô, có khi xuyên từ mặt trong đến sát

bọc ngoài.
Tiêu chuẩn của một amydan bình thường về mặt khối lượng là: amydan tràn
qua phía trong của trụ trước đó vài milimet, nhưng còn cách bờ tự do của trụ sau
cũng khoảng vài milimet.
Tùy theo hình dáng của amydan người ta phân ra nhiều loại.
Amydan có cuống là những amydan phát triển nhiều về phía trong, làm cho eo
họng hẹp lại. Khi bệnh nhân nôn ọe thì hai amydan đến gần nhau và chạm vào
nhau. Loại này thường làm cho chúng ta tưởng rằng amydan phì đại, nhưng thực ra
nó không lớn vì ổ amydan rất nhỏ.
Amydan che kín là những amydan bò các trụ trước, trụ sau, và nẹp His bao bọc
làm cho tiết nhầy và mủ trong các khe khó thoát ra được. Loại này thường bé
nhưng hay gây ra biến chứng.
Amydan trong màn hầu là loại amydan phát triển về phía màn hầu và được
các trụ che phủ. Khi bệnh nhân nôn ọe thì hai amydan đội màn hầu phồng lên
thành hai cục cân đối ở hai bên lưỡi gà. Loại này cũng thường gây ra biến chứng.
Amydan chìm là những amydan phát triển nhiều về phía rãnh lưỡi aman.
Cực dưới của amydan lớn hơn cực trên. Đôi khi chúng ta thấy tổ chức lymphô quá
sản nối liền amydan khẩu cái với amydan lưỡi. Loại này dễ mọc lại sau khi cắt,
nếu chúng ta để lại mỏm cụt lớn.
Vi trùng trong viêm amydan mãn tính thường là liêân cầu trùng viridans hay
liên cầu trùng tan huyết bêla nhóm A.
Ở trẻ em viêm amydan mãn tính thường thấy ở dạng quá phát mềm phối hợp
với viêm V.A. Thể quá phát cũng có thể gặp ở trẻ em lớn.
1. Triệu chứng.
a. Triệu chứng chức năng.
Triệu chứng chức năng không được rõ rệt lắm. Khó nuốt chỉ thấy trong trường
hợp viêm cấp, viêm mãn tính không gây ra khó nuốt. Triệu chứng khó thở chỉ thấy
khi amydan thật to và lúc nằm ngủ.
Đôi khi bệnh nhân ho khan từng cơn về đêm.
b. Triệu chứng toàn thể.

Em bé thường có những đợt viêm cấp, sốt cao 40
o
kèm theo đau họng, khó
nuốt, sưng amydan.
Những đợt viêm họng cấp xuất hiện mỗi khi em bé bò lạnh hoặc mỗi khi thời
tiết thay đổi. Bệnh kéo dài vài ngày làm em bé không ăn uống được. Sau cơn sốt
bệnh nhân có vẻ mệt nhọc, ăn uống giảm sút, chơi đùa kém. Những cơn bộc phát
tái diễn nhiều lần sẽ ảnh hưởng xấu đến sự phát triển và sự học hành của em bé.
c. Triệu chứng thực th.
Hai amydan thường to. Trong amydan có cuống, hai amydan nhô ra eo họng và
gần như che hết lối vào họng. Mặt amydan khá nhẵn, màu hồng như là niêm mạc
họng. Các khe thường không nhiều nhưng chứa một ít bã đậu. Amydan có thể cứng
hoặc mềm, amydan mềm thường là viêm nhẹ, amydan cứng là có bệnh.
Ở trẻ em, amydan quá phát hay đi đôi với sùi vòm (V.A.) vì vậy phải luôn
luôn soi vòm hoặc sờ vòm để đánh giá khối lượng của tổ chức này.
Chúng ta cũng tìm xem có hạch hay không. Hạch thường khu trú ở dưới góc
hàm. Trong thể quá phát mềm, hạch to và mềm, trái lại trong thể viêm khe của trẻ
em lớn hạch thường cứng, nhỏ, có thể lăn dưới ngón tay.
Nên lưu ý đến thể trạng của em bé. Chúng ta nghó đến dò ứng khi thấy niêm
mạc mũi phù nề, tái nhạt.
Tiểu sử gia đình sẽ cho chúng ta biết rằng bố mẹ hoặc ông bà có bò hen, bò
eczêma, bò viêm mũi dò ứng Tạng bạch huyết cũng có ảnh hưởng lớn trong vấn
đề quá phát của amydan và V. A.
2. Các thể lâm sàng.
Amydan to nhưng không có mủ ở trong.
Đây là những loại aman to, mềm, có cuống, ít khe, không có mủ, thường
kèm theo sùi vòm nhiều. Em bé bò chảy mũi, ngạt mũi, viêm tai xuất tiết nhưng
không hề viêm họng cấp. Đối với những bệnh nhân này, chỉ cần nạo V.A thì những
rối loạn về tai, về mũi sẽ hết. Còn amydan dần dần tự nó sẽ bé lại khi em bé đến
tuổi dậy thì.

Viêm amydan có kèm theo lò viêm (focal-infection).
Thể này rất phổ biến ở người lớn nhưng đối với trẻ em chúng ta cũng có thể
gặp ở trẻ em lớn.
Sau mỗi đợt viêm họng em bé thường bò viêm khớp, viêm thận.
Cắt amydan trong thể này là cần thiết và nên làm dưới sự bảo vệ của kháng
sinh.
3. Diễn tiến.
Nếu amydan to nhưng không có mủ, không gây ra viêm họng, chúng ta chỉ
nên nạo V.A. Trong trường hợp em bé hay bò viêm họng nên cắt amydan, nếu
không nó có thể gây ra những biến chứng có ảnh hưởng xấu đối với sự phát triển
của em bé.
Mặt khác chúng ta cũng không nên cắt amydan và nạo V. A khi không có lý
do chính đáng. Ở những em bé được cắt như vậy, chúng ta thấy sau đó độ 6 tháng
hay một năm các tổ chức lymphô ở họng phát triển lung tung ở amydan lưỡi, ở trụ
sau, ở thành sau họng, ở chung quanh vòi ơstasi (Eustachi), để bù trừ cho những bộ
phận đã bò bỏ đi một cách vô cớ. Hiện tượng này thường thấy ở cơ đòa dò ứng sau
khi cắt amydan và nạo V.A cùng một lúc. Nạo V.A đơn thuần không gây ra biến
chứng này. Những tổ chức lymphô thứ phát nói trên có tính chất xơ, khó nạo và dễ
tái phát. Nếu có khu trú ở chung quanh vòi ơstasi thì nó sẽ có tác hại đến thính lực.
Viêm amydan mãn tính ở trẻ em thường gây ra một số biến chứng như: viêm
khí quản, viêm phế quản. Đôi khi có thấp khớp cấp (sưng khớp, đau khớp) hoặc
viêm thận (phù nề, nước tiểu có anbumin, hồng cầu, trụ niệu ).
Ở trẻ em biến chứng viêm tấy chung quanh amydan ít thấy như ở người lớn.
Những biến chứng trên đây là những chỉ đònh phẫu thuật.
4. Chẩn đoán.
Chẩn đoán viêm amydan mãn tính ở trẻ em không nên dựa vào khối lượng của
nó, mà phải căn cứ vào những rối loạn toàn thân và chức năng để làm cơ sở cho
chẩn đoán xác đònh.
Chúng ta phải chẩn đoán phân loại với một số bệnh khác mà trong đó amydan
cũng to ra:

- Đầu tiên nên loại giang mai họng thể quá phát hoặc thể tiềm tàng. Bệnh này
là nguyên nhân của sẹo co dúm làm cho bệnh nhân nuốt vướng và nói ngọng sau
khi cắt amydan.
- Trong bệnh lao amydan, thể u lymphô, chúng ta thấy amydan to và hạch
cũng to nhưng có một số đặc điểm là amydan to một bên, bé một bên; bệnh nhân
gầy xanh, hơi sốt nhẹ về chiều. Trước bệnh cảnh đó chúng ta phải chụp X quang
phổi, thử tốc độ lắng máu, làm B.C.G test, tìm B.K, làm sinh thiết amydan.
- Các bệnh lymphôcytôm, lymphôsaccôm aman, bệnh bạch cầu lymphô
(léucémie lymphoide) cũng có thể làm cho chúng ta nhầm với amỵdan quá phát,
nhất là khi bệnh mới bắt đầu, chưa loét. Nhưng tốc độ quá phát rất nhanh chóng,
làm cho chúng ta nghi ngờ. Sinh thiết và công thức máu sẽ cho chúng ta thấy rõ
bản chất của bệnh.
5. Điều trò.
Điều trò chủ yếu của viêm amydan mãn tính là cắt toàn bộ amydan. Ở trẻ em,
người ta dùng phương pháp Sle (Sluder). Đối với bệnh nhân nhỏ (hai ba tuổi)
người ta nạo V.A trước, vài năm sau nếu amydan còn gây ra biến chứng thì cắt.
Đối với trẻ em sáu bảy tuổi trở lên, chúng ta vừa nạo V.A vừa cắt amydan
cùng một lúc.
IV. Phương pháp cắt amydan bằng sle (sler).
1. Chuẩn bò.
Để loại ra những chống chỉ đònh của phẫu thuật chúng ta phải làm một số xét
nghiệm như là: thời gian máu chảy, máu đông, đếm hồng cầu, công thức bạch cầu,
tìm anbumin và glucoza trong nước tiểu. Bệnh nhân được khám toàn bộ: nghe phổi,
nghe tim, sờ gan, sờ lách, thăm dò các hạch. Nếu có ngờ lao phổi phải chụp X
quang phổi, làm B.C.G test, tốc độ lắng máu.
Thời gian máu chảy là 3, 4 phút và thời gian máu đông là 8 đến 10 phút là
bình thường. Những con số này không có gía trò tuyệt đối và có một số ít trường
hợp thời gian máu chảy, máu đông bình thường nhưng vẫn chảy máu sau khi cắt
amydan. Vì vậy người ta còn làm thêm thời gian Quick cho những trường hợp cục
máu đông mềm (caillot mou). Nếu thời gian Quick trên 85% thì có thể cắt amydan

được.
Thường chúng ta cho bệnh nhân uống vitamin K 1viên 5 mg/ ngày, trong ba
ngày trước khi cắt, nhỏ naphtazoline vào mũi trong 5 ngày trước khi cắt.
Đo nhiệt độ ở hậu môn sáng và chiều, 2 ngày trước khi cắt.
Em bé phải nhòn đói sáng hôm cắt amydan.
2. Chỉ đònh và chống chỉ đònh.
Chúng ta cắt amydan trong những trường hợp sau đây:
- Viêm nhiêm tại chỗ: viêm amydan tái đi tái lại (viêm họng), viêm tấy mủ
chung quanh amydan.
- Viêm có tác hại đến các bộ phận lân cận: viêm thanh quản, viêm phế quản,
viêm tai, viêm hạch mãn tính ở cổ.
- Viêm ở các bộ phận xa: amydan nhiễm trùng là những “lò viêm” nơi tích tụ
liên cầu trùng và từ đây gây tác hại vào thận, vào khớp, vào ruột gây ra viêm thận,
viêm khớp, viêm ruột.
- Toàn thể trạng bé phát triển chậm vì những biến chứng kể trên. Trong trường
hợp này em bé sẽ lớn rất nhanh sau khi cắt amydan.
- Đối với amydan to đơn thuần, không viêm, không gây ra biến chứng thì
không nên cắt, trừ trường hợp khối lượng của amydan quá to gây ra vướng, khó
nuốt, trường hợp hiếm có.
Chống chỉ đònh cắt amydan ở trẻ em:
- Bệnh chậm đông máu, bệnh ưa chảy máu.
- Bệnh lao đang tiến triển hay phản ứng nội bì đang chuyển sang dương tính.
- Viêm nhiễm đang tiến triển: viêm V.A, viêm amydan, mụn nhọt. Riêng trong
trường hợp viêm tấy chung quanh amydan chúng ta có thể cắt amydan dưới sự hỗ
trợ của kháng sinh.
- Bệnh dòch: trong thời gian có bệnh dòch (sởi, cúm, bạch hầu, bại liệt trẻ
em ) phải ngưng việc cắt amydan.
Đối với em bé vừa bò sởi xong, còn đang trong tình trạng vô dò ứng (anergie),
chúng ta nên hoãn việc cắt amydan lại sau 6 tháng.
- Toàn thể trạng suy yếu.

3. Dụng c.
Dung cụ tối thiểu phải có là: 1 mặt nạ Camus, 1 banh miệng Đôyen, 1 sle
Balănge (Sluder Ballenger), 1 đè lưỡi khuỷu, 1 thìa nạo Murơ có ro, 1 thìa nạo
Murơ trơn, 2 cặp Kôxe 22cm cong, 1 chén đựng nước oxy.
4. Gây mê.
Dùng khăn vải to quấn chung quanh người em bé từ vai đến chân. Đặt dụng cụ
banh miệng Đôyen.
Gây mê bằng Clorua êtyl với mặt nạ Camus. Nếu không có mặt nạ Camus có
thể xì Clorua êtyl vào miếng gạc gấp tám, to bằng hai bàn tay để gây mê cũng
được.
Chỉ cần gây mê vừa vừa, không sâu lắm, khi em bé bắt đầu ngáy đều, cổ
mềm, mất phản xạ giác mạc thì bỏ thuốc mê ra. Em bé sẽ tiếp tục ngủ thêm trong
90 giây nữa. Khoảng thời gian này đủ để cắt aman và nạo V.A.
Trong một số trường hợp đặc biệt như đối với trẻ em dưới 5 tuổi có thể không
gây mê mà chỉ cho uống gacdênal và tiêm atrôpin rồi cắt amydan.
Đối với trẻ trên 10 tuổi, chúng ta có thể gây tê bằng lidocain 10% 5ml, tiêm
vào chung quanh (giữa bọc amydan và hố amydan) như đối với người lớn.
5. Kỹ thuật.
Có bốn động tác chính, mỗi động tác gồm vài động tác nhỏ.
Chúng ta phải sử dụng cả hai tay: tay phải cắt amydan phải, tay trái cắt
amydan trái. Nên bắt đầu bằng tay kém trước. Nếu là người quen dùng tay phải thì
nên cắt amydan bằng tay trái trước, để dành aman phải cho tay thuận làm sau vì
khi đến amydan thứ hai họng sẽ đầy máu, khó nhìn, phải làm nhanh, em bé sắp
tỉnh.
Chuẩn bò: lấy hai kìm Kôxe cặp hai bông cầu có thấm nước oxy đề sẵn, xếp
dụng cụ theo trật tự sau đây: cắt aman, nạo V.A và cầm máu.
6. Cắt amydan trái.
a. Đặt sler – Balănge (Sluder - Ballenger).
- Tay trái cầm Sle-Balănge ấn lưỡi và để cái lỗ của Sle ở dưới cực dưới
amydan trong tư thế muốn bê amydan lên.

- Quay cái Sle hai hướng cùng một lúc: đưa cán về bên trái của bác só và
quay mặt trên của lưỡi dao 90
o
theo trục của nó làm cho nó nằm nghiêng, mặt dụng
cụ hướng về phía bác só. Gọng của Slude tì vào mép môi bên phải của bệnh nhân,
vòng cung của Sle đè vào trụ sau. Trong tư thế này cái Sle nậy amydan về
phía trước làm cho nó đẩy phồng trụ trước.
b. Ấn amydan vào lỗ Slude.
- Dùng ngón trỏ tay phải vừa xoa vừa ấn vào trụ trước cho amydan chui vào lỗ
của Sle. Phải ấn toàn bộ amyaan từ cực dưới đến cực trên. Khi amydan đã chui
qua lỗ rồi thì ngón tay trỏ sẽ sờ thấy vòng cung của Sle qua trụ trước. Không nên
nhét trụ trước vào lỗ của Sle, như vậy lưỡi dao sẽ cắt đứt trụ trước.
Cần chú ý đến cực trên vì ở đấy có một thùy amydan nằm trong màn hầu, nếu
ấn không kỹ sẽ bò sót. Gặp trường hợp này nên để Sle hơi ngửa mặt lên trên và
ấn phần trên của trụ trước cho đến khi toàn bộ amydan chui gọn qua lỗ Sle.
- Tay trái bóp cán Sle cho lưỡi dao cắt đúng vào bờ tự do của trụ trước.
Trong khi đó ngón tay trỏ vẫn phải đè nhẹ lên trụ trước cho đến khi lưỡi dao vào
đến sát vòng cung.
Bây giờ toàn bộ amydan đã trở về mặt bên kia của Sle. Giữa lưỡi dao và
vòng cung chỉ có trụ trước và trụ sau.
c. Giải phóng amydan.
- Dùng bờ ngoài của ngón trỏ tay phải tách cùng một lúc trụ trước và trụ sau
(hai trụ đều bò kẹp vào vòng cung của Sle) dọc theo bờ ngoài của vòng cung
ngón tay đi từ lưỡi gà xuống đến rãnh lưỡi amydan.
- Tay trái đưa cán Sle về phía trước mặt bệnh nhân, lưỡi dao vẫn để
nghiêng.
Amydan rời khỏi hai trụ và rụng, tuy nhiên nhiều khi amydan còn dính ở phần
dưới và phải làm thêm động tác sau.
d. Giật nhổ amydan.
- Dùng ngón trỏ tay phải để vào rãnh lưỡi aman và phần dưới của trụ trước.

- Tay trái cầm Sle vừa xoay chuỗi lên trời vừa giật nhanh và mạnh về phía
bác só. Amydan bò nhổ khỏi hố của nó và dính vào Sle.
- Rút toàn bộ Sle và aman ra khỏi miệng.
Cắt xong amydan trái, lập tức chuyển dụng cụ sang tay phải và cắt amydan
phải. Ngón tay bóc tách sẽ là ngón tay trỏ trái. Phẫu thuật viên làm lại bốn động
tác nói trên: đặt Sle, ấn amydan, giải phóng amydan và giật nhổ amydan. Khi
cắt amydan phải xong, y tá lập tức cúi mặt em bé xuống khay quả đậu cho máu
chảy vào đấy. Trong khi đó phẫu thuật viên bỏ Sle cầm lấy thìa nạo V.A và
dụng cụ đè lưỡi để nạo V.A.
e. Nạo V.A.
Y tá ngửa đầu em bé lên.
Phẫu thuật viên nạo V.A (xem thủ thuật nạo V.A.).
g. Cầm máu.
Dùng kìm Kôxe cặp bông cầu thấm nước oxy đặt vào hai hố amydan. Tay phải
cầm máu cho hố trái, tay trái cầm máu cho hố phải. Nói cách khác hai kìm Kôxe
phải đặt chéo nhau. Đầu em bé cúi xuống quả đậu do hộ lý cầm.
Vài ba phút sau bỏ bông cầu ra. Nếu V.A chảy nhiều máu thì đặt lại một bông
cầu vào vòm mũi họng khoảng vài phút nữa.
Kiểm tra lại hố mổ, nếu còn sót phải dùng Sle cắt lại.
Ở trẻ em để tự nhiên máu sẽ tự cầm, trừ khi làm rách trụ sau hay vỡ động
mạch. Nếu gặp trường hợp chảy máu do động mạch phải buộc mạch máu lại.
7. Hậu phẫu.
Khi bệnh nhân về phòng, nên để bệnh nhân nằm, đầu nghiêng một bên, dưới
miệng đặt khay quả đậu hay cái đóa để hứng nước bọt và máu.
Căn dặn bệnh nhân không được nuốt hoặc khạc mà nên hé miệng để cho nước
bọt chảy tự do ra ngoài. Trong tư thế này chúng ta có thể theo dõi máu chảy dễ
dàng.
Trong 3 giờ đầu, mỗi giờ kiểm tra mạch một lần. Nếu mạch bình thường là tốt.
Nhưng nếu mạch tăng sau mỗi giờ nghóa là có chảy máu, phải đưa vào phòng mổ
kiểm tra lại. Trẻ em thường hay nuốt máu vào dạ dày, sau đó sẽ nôn ra. Không nên

đợi bé nôn ra rồi mới phát hiện chảy máu, phải phát hiện trước khi nôn.
Sáu giờ sau khi cắt cho bệnh nhân uống sữa lạnh hoặc nước đường lạnh (có
đá)
Ba ngày đầu bệnh nhân dùng thức ăn lỏng: sữa, nước cháo, nước xúp Từ
ngày thứ ba đến ngày thứ bảy ăn chất mềm: khoai tán, mỳ nấu nát, miến.
Ngày thứ tám: ăn cơm nát.
Ngày thứ mười: ăn cơm thường.
Nên cho bệnh nhân uống mỗi ngày một viên vitamin K 5mg để phòng chảy
máu thứ phát, nhất là khi rụng vảy.
Vài ngày sau khi cắt sẽ có giả mạc trắng nơi hố mổ, hơi thở có mùi hôi, lưỡi gà
phù nề Những triệu chứng này không có gì đáng ngại, để tự nhiên sẽ khỏi.
Đến ngày thứ sáu, thứ bảy giả mạc sẽ rụng và có chảy máu chút ít.
Khoảng 15 ngày thì hố mổ sẽ lành và nuốt hết đau.
8. Biến chứng.
Cắt amydan ở trẻ em ít khi gặp biến chứng. Tuy vậy có ba vấn đề lớn cần phải
biết để tránh: ngất, chảy máu và nhiễm trùng.
a. Ngất do gây mê.
Phương pháp gây mê bằng clorua êtyl yêu cầu phải đặt dụng cụ banh miệng
để tránh khít hàm. Sự có mặt củadụng cụ banh miệng dễ làm cho lưỡi tuột ra sau,
đó là một nguyên nhân của ngạt thở. Nguyên nhân thứ hai là co thắt thanh quản
(Iaryngo-spasme) gây ra bởi dorua êtyl.
Khi thấy triệu chứng em bé ngưng thở, mặt tím bầm, mắt đỏ và nhìn trừng
trừng, đồng tử giãn thì lập tức phải bỏ mặt nạï ra, để em bé nằm đầu thấp, kéo lưỡi,
làm hô hấp nhân tạo hoặc thổi ngạt.
Nếu không phát hiện kòp, ngạt thở kéo dài sẽ đưa đến tim ngừng đập và bệnh
nhân tử vong.
Ngất trắng, tức là ngất do ngừng tim nguyên phát, rất ít gặp và thường không
cứu chữa được, mặc dù có tiêm adrênalin vào tim. Tai nạn xảy ra ngay từ lúc đầu
khi em bé bắt đầu hít thuốc mê.
b. Chảy máu.

Cắt amydan bằng Slude Balăng ở trẻ em ít gây ra chảy máu. Những trường
hợp chảy máu thường do làm không đúng quy cách: cắt sót, rách màn hầu, đứt lưỡi
gà Chảy máu cũng có thể do nạo V.A gây ra. Nói chung chảy máu không nặng
lắm và có thể cầm máu bằng cách chấm nước oxy, hay dùng quả nén (compresseur
de Boisviei), buộc chỉ, sử dụng dòng điện. Nếu mất nhiều máu, nên truyền máu.
c. Nhiễm trùng.
Nguyên nhân của nhiễm trùng thường là vì phẫu thuật khi viêm amydan chưa
khỏi hẳn.
Biến chứng mà chúng tôi có gặp là sưng hạch cổ hoặc viêm tai, đau khớp.
Pênixilin có thể giải quyết nhanh chóng các hiện tượng viêm này.
Chúng tôi không gặp những biến chứng được tả trong các sách kinh điển như
nhiễm trùng huyết, viêm màng phổi mủ, apxe phổi
V. Viêm amydan mãn tính ở người lớn.
Bệnh cảnh ở người lớn đơn thuần hơn ở trẻ em vì chỉ có amydan khẩu cái là
nguyên nhân chính.
1. Triệu chứng.
Thể điển hình là viêm amydan khe mãn tính.
a. Triệu chứng chức năng: thường kín đáo như hơi thở hôi, nuốt vướng, sưng
hạch cổ , họng bò viêm nhẹ và hay tái diễn (rát họng : khàn tiếng ).
Đôi khi có triệu chứng viêm nặng như viêm aman mủ, viêm tấy chung
quanh amydan kèm theo sưng cổ, đau, khó nuốt
Có những trường hợp viêm amydan mãn tính nhưng không có triệu chứng chức
năng. Bệnh được phát hiện một cách tình cờ hoặc nhờ những triệu chứng toàn thân.
b. Triệu chứmg toàn thân: ít.
Bệnh nhân có những đợt sốt vô cớ hoặc những đợt đau mình, đau khớp. Xét
nghiệm nước tiểu sau mỗi lần viêm họng thường thấy có albumin hoặc hồng cầu.
Một số bệnh nhân rất dễ bò viêm mũi, ngạt mũi về mùa lạnh.
c. Triệu chứng thực thể: rất quan trọng.
Cần phải khám amydan thật kỹ mới chẩn đoán ra bệnh. Nên dùng móc để vén
trụ hoặc thăm dò các khe của amydan.

Bệnh tích rõ rệt, mắt thường cũng có thể thấy được: trên mặt của amydan có
những chấm trắng, đó là những lỗ thoát của các khe. Khi chúng ta ấn nhẹ vào
amydan thì chất bã đậu thối sẽ phún ra ở những lỗ đó. Ngoài chất bã đậu ra còn có
thể có chất dòch đục như mủ. Các trụ trước đỏ hơn niêm mạc chung quanh.
Đôi khi bệnh tích không rõ rệt lắm, vì bò trụ trước che đậy. Cần phải vén trụ
trước và đè vào amydan bằng cái móc đầu tù mới thấy chất bã đậu phún ra. Chất
này thường khu trú trong khe lớn (crypta magna), ở cực trên của amydan.
Trong một số trường hợp, miệng khe amydan bò bòt kín bằng một lớp niêm mạc
nhẵn, chất bả đậu không thoát ra ngoài được và hình thành những kén nhỏ (kyste)
bằng hạt gạo nếp màu vàng hoặc màu trắng tùy theo bề đầy của niêm mạc che
phủ.
Cũng nên sờ aman: ở người lớn những amydan gây bệnh thường là những
amydan nhỏ và cứng. Đây là những amydan đã từng bò viêm đi viêm lại nhiều lần,
có cái đã từng gây ra viêm tấy chung quanh amydan rồi. Những amydan này
thường khó bóc tách vì có sẹo xơ bám chặt vào tổ chức chung quanh amydan.
Sau cùng nên khám cả V.A và aman lưỡi. Nhìn chung sùi vòm không còn
thấy ở người lớn, nhưng ở một số ít bệnh nhân tổ chức này còn tồn tại và cũng cần
được nạo như ở trẻ em. Amydan lưỡi có thể to nhưng ít khi có triệu chứng nếu nó
không bò viêm.
Thường có hạch ở góc hàm nhưng không lớn bằng hạch ở trẻ em.
2. Các thể lâm sàng.
a. Viêm amydan bã đậu không triệu chứng.
Trên amydan có những hạt trắng bằng hạt gạo.
Thỉnh thoảng bệnh nhân khạc ra những cục bã đậu giống như hạt cơm có mùi
thối. Amydan không đỏ, các trụ trước bình thường, bệnh nhân không hề bò viêm
họng hay đau họng. Hơi thở thường nặng mùi.
b. Viêm amydan mãn tính không bã đậu.
Amydan to, chắc, mặt nhẵn ít khe, nặn không ra mủ. Hai trụ trước bò sung
huyết. Hạch dưới góc hàm thường bò sưng.
Các triệu chứng chức năng và triệu chứng toàn thể giống như thể trên.

c. Viêm mỏm cụt của amydan.
Thủ thuật đốt amydan hay phẫu thuật cắt sót amydan luôn luôn để lại một cái
mỏm cụt xơ, dính vào ổ amydan.
Mỏm cụt này có thể bò viêm và gây ra những biến chứng như ø viêm amydan
thực sự: lò viêm hoặc viêm tấy chung quanh amydan.
Cắt mỏm cụt này thường dễ chảy máu thứ phát vì thành động mạch bò xơ hóa.
3. Biến chứng.
a. Biến chứng cục bộ:
Loét khe aman: Nếu miệng khe bò bòt lại, vi trùng trong khe sẽ gây ra một
cái apxe nhỏ. Vài ngày sau apxe vỡ và biến thành một vết loét sâu, bờ đứng thẳng,
đỏ bầm, đáy gồ ghề, đầy mủ sẫm.
Bệnh nhân sốt nhẹ 38
o
, hạch dưới hàm sưng, nuốt hơi đau.
Sỏi amydan: Chất bã đậu trong khe amydan có thể bò chất vôi thâm nhiễm và
biến thành những cục sỏi trong amydan.
Cục sỏi có thể nằm trong sâu dưới một lớp niêm mạc có vẻ khỏe mạnh hoặc ở
dưới đáy một cái khe hay một vết loét. Khi sờ amydan, ngón tay có cảm giác gặp
một cái nhân cứng. Dùng que trâm thăm dò sẽ có hiện tượng chạm kim khí.
Gắp sỏi amydan không khó lắm: chỉ cần rạch rộng miệng khe vài milimet và
dùng cặp hình thìa (loại cặp lấy dò vật tai) lấy nó ra.
Viêm tấy chung quanh amydan: Tổ chức liên kết lỏng lẻo ở ngoài bọc
amydan bò viêm và mưng mủ. Biến chứng này thường thấy ở thiếu niên và những
người trẻ. Đây là một trong những chỉ đònh chính khi cắt amydan (xem phần viêm
tấy chung quanh amydan).
Viêm tấy bên họng: có hai loại.
- Viêm tấy hạch bên họng: các hạch ở tầng trên dãy cảnh bò mưng mủ, ở
khoảng dưới tuyến mang tai sau (espace sous parotidien postérieur de Sébileau).
Có ba triệu chứng:
1. Cổ vẹo và đầu nghiêng về bên bệnh.

2. Sưng vùng sau góc xương hàm dưới làm bệnh nhân đau khi há miệng.
3. Soi họng thấy thành bên bò sưng, trụ sau nở phình và đẩy dồn amydan về
trước. Khoảng bảy tám ngày sau túi mủ sẽ vỡ ra hoặc ở ngoài da (trước hoặc sau cơ
ức đòn chũm) hoặc ở trong họng - sau amydan.
Người ta lấy mủ bằng cách rạch da trước cơ ức đòn chũm và bocù tách sâu vào
phía động mạch cảnh ngoài và động mạch cảnh trong.
- Viêm tấy mô lỏng lẻo bên họng: mủ phát triển trong ngăn dưới amydan vòi
(loge sous amydalo-tubaire) giữa thành họng và lá liên kết bọc mạch máu lớn.
Thành bên của họng bò phù nề, hố amydan bò đẩy dồn về trong, trụ sau và trụ trước
sưng to, màn hầu lệch về một bên, eo họng bò hẹp. Các triệu chứng bên ngoài như
vẹo cổ, sưng cổ không thể hiện rõ rệt như trong thể viêm tấy hạch bên họng.
Mủ có thể đổ xuống ngăn dưới hàm hay trung thất.
Người ta lấy mủ bằng cách rạch trụ trước, đến lớp cân chung quanh họng.
b. Biến chứng gần.
- Viêm mũi mãn tính: viêm amydan mãn tính thường hay làm rõ nét thêm
bệnh dò ứng mũi tiềm tàng. Triệu chứng: bệnh nhân buồn trong mũi, hắt hơi, ngạt
mũi, chảy nước mũi nhất là về mùa rét.
- Viêm phế quản thường hay gặp ở những người viêm amydan khe mãn tính.
Triệu chứng ho khạc ra đờm sau mỗi lần viêm họng.
- Huyết nhiễm trùng (do liên cầu trùng hay trực trùng fundifornlis) ít gặp
nhưng có thể gây ra viêm màng phổi mủ, hoại tử phổi, viêm tắc tónh mạch, viêm
nội tâm mạc
c. Biến chứng xa.
Trong viêm amydan mãn tính người ta hay nói đến lò viêm (Local infection).
Lò viêm là những ổ vi trùng, thường là liên cầu trứng tan huyyết bêta nhóm A.
Nhìn bên ngoài những amydan đó không to và không có mủ. Mỗi lần thời tiết thay
đổi, mỗi lần sức đề kháng giảm sút thì vi trùng của các lò viêm lại gây tác hại cho
các bộ phận khác trong cơ thể như là khớp, thận, tim. Vì có sự giống nhau về cấu
trúc phần tư của kháng nguyên Streptoccocus tan huyết bêta nhóm A với cấu trúc
phân tử của màn khớp, của cầu thận, của tim, nên kháng thể tạo ra bởi vi trùng

này chống lại các tổ chức đó gây ra viêm khớp, viêm cầu thận, viêm nội tâm mạc.
Viêm khớp: Người ta cho rằng viêm amydan là nguồn gốc của viêm khớp, nói
như vậy chỉ đúng một phần. Thực ra chúng ta chỉ nên nghó đến nguyên nhân viêm
amydan khi nào viêm khớp xuất hiện đồng thời hoặc theo sát những đợt viêm họng
cấp.
Cắt amydan sẽ có ảnh hưởng tốt đối với viêm khớp nhiễm trùng nhưng nó
không giúp bệnh nhân tránh được thấp khớp cấp (rhumatisme articulaire aigué).
Khi thấp khớp cấp tái diễn nhiều lần, cắt amydan có tác dụng tránh được những
biến chứng ở phủ tạng.
Còn trong thấp khớp mãn tính, viêm đa khớp mãn tính thủ thuật cắt amydan ít
có tác dung.
Viêm thận: Nhìn chung mỗi lần bò viêm họng cấp người ta đều thấy có
anbumin trong nước tiểu. Hiện tượng này chỉ xuất hiện tạm thời và sẽ mất đi khi
hết bệnh. Bệnh tích ở thận không đáng kể. Nếu ổ viêm ở amydan gây tác hại một
cách trường diễn vào thận. Cơ quan này sẽ bò viêm và phản ứng bằng nhiều cách.
Cách thứ nhất: tiểu ra anhumin, có khi khá nhiều, 7 hay 8 gam trong một lít.
Ngoài hiện tượng đó ra không có triệu chứng gì khác.
Cách thứ hai: tiểu ra máu. Mỗi lần bò viêm họng thì bệnh nhân tiểu ra máu
không phù nề, không tăng huyết áp.
Cách thứ ba: viêm thận cấp. Sau khi bò viêm họng, bệnh nhân tiểu ít, nước tiểu
có anbumin, hồng cầu và trụ niệu. Bệnh nhân nặng mặt hoặc phù nề ở chân.
Nếu không được điều trò và bệnh tái diễn nhiều lần nó có thể biến thành mãn
tính với triệu chứng anhumin niệu và urê máu cao.
Phẫu thuật amydan chỉ có tác dụng đối với viêm thận khi bệnh tích thận còn có
thể phục hồi được. Nên phẫu thuật ngoài những đợt viêm và dưới sự bảo vệ của
kháng sinh. Trong khi phẫu thuật nên tiêm lidocain 10% chung quanh amydan, dù
là gây mê để hãm những phản xạ xuất phát từ họng và có hại cho thận. Những
phản xạ này được tạo ra bởi chấn thương niêm mạc hay do độc tố trong khe
amydan thoát ra khi cặp kéo amydan (Reilly).
Viêm đường tiêu hóa: Chất bã đậu và mủ của amydan rơi vào đường tiêu hóa

gây ra một số rối loạn như đầy hơi, chậm tiêu, đau thượng vò…. Mủ cũng có thể gây
ra viêm ruột, viêm đại tràng với những triệu chứng: đau, đại tiện ra mủ, ra máu
Ngoài ra người ta còn thấy viêm ruột thừa xuất hiện ngay sau viêm amydan.
Hiện tượng này không làm cho chúng ta ngạc nhiên vì chúng ta biết rằng ruột
thừa chứa đựng rất nhiều tổ chức lymphô đường tiêu hóa.
Sốt vặt: Viêm amydan mãn tính có thể gây ra những đợt sốt không nguyên do
còn gọi là sốt bí ẩn (fièvre cryptogénétique). Nhiệt độ thường không cao lắm và
kéo dài nhiều ngày. Nguyên nhân của sốt là do nhiễm trùng hay dò ứng bởi vi trùng
và độc tố của nó. Uống thuốc kháng histamin tổng hợp có thể hạ sốt và cắt amydan
sẽ hết hẳn sốt.
4. Chẩn đoán.
a. Chẩn đoán xác đònh viêm amydan mãn tính ở người lớn dựa vào triệu
chứng chức năng và triệu chứng toàn thân, dựa vào mủ hay bã đậu ở trong khe,
vào màu sắc của trụ trước, vào hạch

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×