Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Phong cách thơ Lê Anh Xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (653.46 KB, 96 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM



NGUYỄN THỊ NHƢ DƢƠNG




PHONG CÁCH THƠ LÊ ANH XUÂN




CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.01.21



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC





Ngƣời hƣớng dẫn khoa học PGS.TS. Vũ Văn Sỹ





Thái Nguyên – 2014
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây chính là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Thái Nguyên, tháng 04 năm 2014
NGƯỜI CAM ĐOAN



Nguyễn Thị Như Dương



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình thực hiện Luận văn tốt nghiệp với đề tài: Phong
cách thơ Lê Anh Xuân, tôi nhận được nhiều sự giúp đỡ của thầy cô giáo trong
khoa Văn, trường Đại học Sư phạn – Đại học Thái Nguyên. Đặc biệt là sự giúp
đỡ của PGS.TS. Vũ Văn Sỹ. Tôi xin bầy tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy -
Người đã trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo tận tình trong suốt quá trình nghiên

cứu để tôi hoàn thành tốt Luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Văn, Khoa sau đại
học, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè, người thân,
những người đã luôn quan tâm, động viên và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi
trong suốt thời gian qua.
Thái Nguyên, 10/04/2014
Học viên


Nguyễn Thị Nhƣ Dƣơng





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
MỞ ĐẦU 1
PHẦN NỘI DUNG 14
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT THẾ HỆ THƠ
CHỐNG MỸ VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TẠO CỦA LÊ ANH XUÂN 14
1.1. Khái quát về phong cách 14
1.1.1 Định nghĩa phong cách 14
1.1.2. Phong cách thời đại 16

1.1.3. Phong cách tác giả 17
1.2. Thế hệ thơ chống Mỹ trong nền thơ chiến đấu. 18
1.3. Lê Anh Xuân - Ca Lê Hiến, từ người chiến sỹ cầm bút đến người anh
hùng nghệ sĩ 23
1.3.1. Lược về tiểu sử và cuộc đời 23
1.3.2. Lược về sự nghiệp sáng tác 26
Chƣơng 2: CẢM HỨNG TRỮ TÌNH LÃNG MẠN TRONG TRẺO GIÀU
CHẤT LÝ TƢỞNG - NÉT ĐẶC TRƢNG PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT
THƠ LÊ ANH XUÂN 29
2.1. Chất trữ tình sử thi thuần phác, trong trẻo về quê hương và đất nước 29
2.1.1. Quê hương miền Nam trong kí ức 29
2.1.2. Quê hương miền Bắc, chiếc nôi của lý tưởng 35
2.1.3. Quê hương trong khói lửa chiến đấu 41
2.2. Cái nhìn lý tưởng hóa về các nhân vật trữ tình 47
2.2.1. Em gái miền Nam 47
2.2.2. Anh giải phóng quân 51
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

2.3. Thiên trường ca đậm chất tình ca 54
Chƣơng 3: NÉT NỔI BẬT THI PHÁP TRONG THƠ LÊ ANH XUÂN 60
3.1. Hệ thống hình ảnh, biểu tượng 60
3.1.1. Cây dừa 60
3.1.2. Dòng sông 63
3.1.3. Đất 66
3.2. Ngôn ngữ và giọng điệu 69
3.2.1. Ngôn ngữ 69
3.2.2. Giọng điệu 76
PHẦN KẾT LUẬN 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO 88
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong dàn đồng ca thế hệ trẻ của nền thơ chống Mỹ cứu nước, Lê
Anh Xuân đã để lại một di sản có số lượng không lớn: 60 bài thơ, một bản
trường ca và một tập văn xuôi. Nhiều bài thơ cả ngắn cả dài “còn có sự vội
vàng chƣa kịp gọt rũa công phu”, nhưng đó là sản phẩm của một trái tim nhiệt
huyết và có cốt cách, để lại dấu ấn đậm nét trong lịch sử văn học Việt Nam
hiện đại. Thơ Lê Anh xuân là tiếng nói của người con Bến Tre, tiếng nói của
người con miền Nam anh dũng. Giọng thơ Lê Anh Xuân chân thành, trong
sáng, hồn nhiên mà đằm thắm, chan chứa tình yêu quê hương, đất nước, khao
khát được dâng hiến tuổi trẻ cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.
1.2. Thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã góp phần không
nhỏ vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Để có một nền thơ ca đáng trân trọng và
tự hào như vậy, chúng ta không thể không nhắc đến đội ngũ những cây bút trẻ
đầy tài năng và đầy nhiệt huyết như Bằng Việt, Nguyễn Khoa Điềm, Phạm
Tiến Duật, Xuân Quỳnh, Hữu Thỉnh, Vũ Quần Phương…. . Trong đội ngũ thế
hệ trẻ của nền thơ chống Mỹ, Lê Anh Xuân được đánh giá là một nghệ sỹ ngôn
từ đã "làm tròn sứ mệnh lịch sử với dân tộc và thời đại”. Ông ngã xuống trên
chiến trường miền Nam ở tuổi đời hai mươi tám, nêu một tấm gương sáng về
lòng say mê lý tưởng, về lẽ sống cao đẹp và nghĩa cử trong sáng tạo thi ca - một
biểu tượng tinh thần dân tộc đã “tạc vào thế kỷ” chiến tranh và cách mạng.
1.3. Cho đến nay đã có nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu về
Lê Anh Xuân đăng trên các tuần báo văn nghệ, văn học, tạp chí văn học,
giáo trình, sách tham khảo về văn học Kế thừa sự gợi ý của những người đi
trước chúng tôi chọn đề tài Phong cách thơ Lê Anh Xuân để tiếp tục nghiên
cứu đồng thời cũng là nén tâm nhang tưởng niệm một nhà thơ chiến sỹ,
người anh hùng liệt sĩ đã “ngã tồn ngã huyết dĩ can nguyên” (lấy máu đào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


bảo vệ non sông), dồn sức lức lên ngọn bút, để lại những tác phẩm mẫu mực
cho thế hệ mai sau.
2. Lịch sử vấn đề
Ca Lê Hiến - Lê Anh Xuân sáng tác thơ trước khi tập kết ra Bắc (1954)
nhưng thơ ông chỉ thực sự được giới nghiên cứu phê bình chú ý kể từ khi có bài
Nhớ mƣa quê hƣơng đoạt giải nhì, giải thưởng Tạp chí Văn nghệ 1961. Kể từ
đó cho đến nay có đến hàng mấy chục công trình nghiên cứu, bài viết, giới
thiệu, phê bình về con người và thơ của Lê Anh Xuân của các tác giả: Hoài
Thanh, Trang Nghị, Minh Tuyền, Bảo Định Giang, Nguyễn Chí Bền, Hàn Anh
Trúc, Trần Hữu Tá, Nguyễn Mạnh Thường, Hoàng Như Mai, Nguyễn Đức
Quyền, Huỳnh Lý, Bích Thu Lê Lưu Oanh, Vũ Văn Sỹ, Bùi Công Hùng, Vũ
Duy Thông, Mã Giang Lân, Nguyễn Bá Long, Với hai tập thơ, một bản
trường ca, một truyện ngắn, Lê Anh Xuân đủ để lại trong lòng người đọc những
dấu ấn sâu sắc không thể phai mờ và đủ để khẳng định vị trí tỏa sáng trong nền
thơ chống Mỹ.
2.1. Các bài viết, công trình nghiên cứu và ý kiến đánh giá về cuộc đời, sự
nghiệp và thơ Lê Anh Xuân
Như đã nói ở trên, Lê Anh Xuân là một nhà thơ – một người chiến sỹ đã
sống tuổi thanh xuân vô cùng trong sáng và đầy ý nghĩa, đã chiến đấu và hy
sinh cho lý tưởng cao đẹp: Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thơ
ông đã nhận được sự quan tâm của giới nghiên cứu và phê bình văn học. Các
bài viết được đăng chủ yếu là dưới góc độ nghiên cứu văn học. Trong đó có
nhiều bài được chọn lọc in chung trong một cuốn sách, một số bài được trong
giáo trình văn học giai đoạn 1945 – 1975. Chúng tôi xin điểm lại tình hình
nghiên cứu về tác giả, tác phẩm của ông như sau:
Năm 1966, Diệp Minh Tuyền có bài viết đăng trên Tạp chí văn học .
Bài viết nói về tình yêu quê hương trong thơ Lê Anh Xuân như sau: “không
ai có cái điệu rầu rầu của ca khúc bi quan mà chỉ có âm điệu vui tƣơi của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


những bài ca lạc quan cách mạng” [46, tr.99]. Bài viết này có những nhận
xét tinh tế về thế giới nghệ thuật trong thơ Lê Anh Xuân khi ông mới có tập
Tiếng Gà gáy ra đời.
Năm 1968, Hoài Thanh - nhà phê bình văn học hàng đầu nước ta đương
thời có hai bài viết liền nhau đăng trên Tạp chí văn học số 9 và số 10/1968. từ
đó, thơ Lê Anh Xuân trở nên quen thuộc hơn với độc giả và được độc giả đón
nhận nhiều hơn.
Ở bài viết "Tiếng gà gáy” của Ca Lê Hiến hay tâm sự của một thanh
niên tập kết" đăng trên Tạp chí Văn học số 9/1968 ở đoạn mở đầu Hoài Thanh
đã tâm sự: “Đã từ lâu tôi có ý định viết về tập thơ này nhƣng cứ vƣớng lẽ này
lẽ khác không viết đƣợc. Đến nay mới viết thật là quá muộn. Nhƣng muộn cũng
cứ viết vì không thể nào không viết” [42, tr.38]. Có thể nói, ngay từ khi mới ra
đời tập thơ Tiếng gà gáy đã đem đến cho nhà phê bình Hoài Thanh một tình
cảm đặc biệt, nó khiến ông phải “muộn cũng cứ viết vì không thể nào không
viết”. Hoài Thanh khẳng khái nhận định:“Trong số những nhà thơ trẻ của
chúng ta, rõ ràng Ca Lê Hiến là một trong số những nhà thơ xuất sắc nhất”.
Theo Hoài Thanh, Tiếng gà gáy báo hiệu một tâm hồn thơ tươi sáng, một dòng
cảm xúc nhẹ nhàng, giản dị mà ngọt ngào, một tiếng nói trữ tình đằm thắm,
thiết tha mà sâu lắng: “Những kí ức trong thơ Ca Lê Hiến luôn luôn hồn nhiên
và trong sáng. Vì đó là kí ức tuổi thơ. Vì ngƣời làm thơ vẫn còn giữ nguyên
đƣợc của tuổi thơ cái nhìn hồn nhiên trong sáng” [42, tr.45].
Ở bài viết thứ hai: “Thơ Lê Anh Xuân hay tấm lòng của một ngƣời
thanh niên trên tiền tuyến lớn”. Trong bài viết này, Hoài Thanh giới thiệu
những sáng tác của Lê Anh Xuân kể từ khi nhà thơ trở về miền Nam chiến
đấu, chủ yếu tập trung ca ngợi con người miền Nam và cuộc sống mới đang
diễn ra ở miền Bắc. Hoài Thanh cho rằng: “Đây là tiếng nói của một ngƣời
thanh niên. Lê Anh Xuân đang ở lứa tuổi mà một ánh nhìn trong, một nụ
cƣời xinh, một dáng đi mềm mại, một bàn chân đẹp, một làn hƣơng đều có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


thể gây xao xuyến sâu ắc trong lòng”. Theo Hoài Thanh, tập Hoa dừa và
Trƣờng ca Nguyễn Văn Trỗi vẫn tiếp nối mạch cảm xúc trữ tình và cái nhìn
có chiều sâu lịch sử từ tập thơ Tiếng gà gáy. Nhưng khi đã trực tiếp đối mặt
với khói lửa chiến tranh cộng hưởng với vốn sống thực tế đã dày dặn lên
theo năm tháng, tâm hồn thơ của Lê Anh Xuân trở nên kiên định, trong trẻo,
và đầy nhiệt huyết. Hoài Thanh cho rằng thơ Lê Anh Xuân viết ở chiến
trường có độ say tình yêu và say lý tưởng: “lý tƣởng đó là niềm say mê lớn
nhất của đời anh”, Say mê không có nghĩa là cuồng nhiệt và ồn ào đến độ
làm cho chất thơ trở nên trống rỗng, thiếu thực tế mà ngược lại nó tạo nên
chất trữ tình đằm thắm, ngọt ngào sâu lắng [41, tr.277].
Trong bài phê bình Thơ Lê Anh Xuân với tập thơ "Hoa Dừa” và trƣờng
ca "Nguyễn Văn Trỗi” nhà văn Trang Nghị cho rằng: “Âm điệu phấn khởi,
trong sáng vang lên trong từng câu, từng chữ của Lê Anh Xuân. Tình yêu quê
hƣơng tha thiết đến đau nhói, tính dân tộc đậm đà, chất trữ tình đằm thắm nổi
lên trong suốt tập Hoa dừa” [9, tr49,50]. Đặc biệt nhà văn còn rất tinh tế khi
phát hiện ra chất giọng sở trường của Lê Anh Xuân: “Anh thích nói bằng một
giọng điệu trầm trầm, nhẹ nhàng những vấn đề to lớn, sôi sục của thực tế chiến
đấu và sản xuất của đồng bào miền Nam. Và cái ngôn ngữ ấy, cái giọng điệu
ấy có lẽ thích hợp, sở trƣờng đối với anh hơn”[9, tr.50]. Đến cuối bài viết nhà
văn đưa ra nhưng nhận xét: "Còn có sự vội vàng chƣa kịp gọt rũa công phu,
còn thiếu cái nhiều mặt của đề tài, chiều sâu của suy tƣởng, nhƣng cái dồi dào
nhất của tập thơ là tấm lòng của anh đối với quê hƣơng đang chiến đấu, tâm
hồn của anh với lý tƣởng cách mạng mà anh tin yêu, là sự say mê của anh đối
với thơ ca ngày đêm anh miệt mài sáng tạo. Những cái đó đã tạo thành chất
thơ trữ tình thắm thiết của anh” [9, tr. 52].
Trong Văn học giải phóng miền Nam, Nxb Đại học và Trung học chuyên
nghiệp Hà Nội 1976, Phạm Văn Sỹ có dành hẳn chương mười ba viết về thơ Lê
Anh Xuân và tập Hoa Dừa: “Nổi bật trƣớc tiên trong Hoa dừa là tình cảm của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


tác giả đối với đất mẹ quê hƣơng. Đây là thứ tình cảm nồng nhiệt, vồ vập của
đứa con đi xa lâu mới trở về. Nhà thơ đi chân đất, cho chân mình ngập trong
bùn đất, bƣớc trên những trồi non nhọn sắc mới mọc sau trận na – pan để sống
cái cảm giác trực tiếp gắn bó với đất, để nghe hơi thở ấm áp của đất, nghe
thấm vào mình sự sống của đất mẹ quê hƣơng” [33].
Với bài “Thơ Lê Anh Xuân”, in trong Giáo trình văn học Việt Nam
tháng 10/1977, Huỳnh Lý đã có những nghiên cứu khá chi tiết về nội dung
và nghệ thuật thơ Lê Anh Xuân: “Thơ Lê Anh Xuân trƣớc hết là thơ ca ngợi
không dè dặt cuộc sống chiến đấu và lao động ở hai miền Nam Bắc, thơ anh
cũng là thơ mang tình yêu quê hƣơng thắm thiết, thơ của những tình cảm
tƣơi mát, hồn nhiên, trong sáng”. Huỳnh Lý còn nói về nghệ thuật thơ của
Lê Anh Xuân như sau: “Ngôn ngữ thơ Lê Anh Xuân là một ngôn ngữ tình
cảm, hồn nhiên, thật thà, tƣơi trẻ, trong sáng”; “Phải nói rằng, các chức
năng của thơ – của văn nghệ nói chung – Lê Anh Xuân đều đạt đƣợc ở mức
khá cao, riêng có chức năng thẩm mĩ thì chƣa đƣợc nâng lên ngang hàng với
giáo dục và nhận thức”.
Trong tuyển tập Thơ Lê Anh Xuân (NXB văn học, H.1981) ở Lời giới
thiệu NXB Văn học đã viết: "Ngay từ những bài thơ đầu tiên ngƣời ta đã nhận
ra một phong cách riêng: chân thành, hồn nhiên mà trữ tình, đằm thắm, giản
dị, trong sáng nhƣng không kém phần tinh tế sâu lắng”.
Bích Thu với bài Lê Anh Xuân in trong cuốn Nhà thơ Việt Nam hiện
đại, Nxb Khoa học xã hội, 1984, đã phân tích khá cụ thể về nội dung và nghệ
thuật theo trình tự từ tập Tiếng gà gáy đến Hoa dừa và Trƣờng ca Nguyễn
Văn Trỗi. Theo Bích Thu: “Tình yêu quê hƣơng đƣợc Lê Anh Xuân thể hiện
qua cái tôi trữ tình giàu cảm xúc, tinh tế” và “Tình yêu quê hƣơng và lòng
khao khát đƣợc trở về là giai điệu nổi bật tạo nên chất trữ tình trong sáng,
trẻ trung trong thơ Lê Anh Xuân”. Đến tập Hoa Dừa: “Nguồn mạch quê
hƣơng đƣợc khơi dậy trong Tiếng gà gáy đến đây càng chảy xiết hơn, mạnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


mẽ hơn. Tình yêu quê hƣơng ấy đã hòa thấm một cách tự nhiên với lí tƣởng
cách mạng”. “Thơ Lê Anh Xuân bao giờ cũng có sự hòa quyện giữa cái tôi
và cái ta, giữa cái riêng và cái chung. Cái tôi của anh bao giờ cũng đƣợc
đặt trong mạch sống của quê hƣơng”.
Trong bài viết “Thơ Lê Anh Xuân với đất nƣớc, con ngƣời Bến Tre” của
Thạch Trung, tác giả bình luận: "Cái độc đáo, cái làm cho thơ Lê Anh Xuân
sống mãi phải chăng một phần lớn là do cái chất mộc mạc nhƣng duyên dáng
không rơi vào quê mùa, thô kệch đƣợc truyền từ con ngƣời, thổ ngơi, sông
nƣớc Bến Tre?” [48, tr.90].
Trong cuốn Văn học tình yêu của tôi, Nxb Khoa học xã hội, năm 2001,
Nguyễn Kim Hoa có bài “Nhà thơ – chiến sĩ Ca Lê Hiến – Lê Anh Xuân”, tác
giả đã đi nghiên cứu chuyên sâu về con người, sự nghiệp của nhà thơ, đồng thời
phân tích hai tập thơ Tiếng gà gáy và Hoa Dừa. Tác giả viết: “Anh đã để lại
một tấm gƣơng sáng ngời của một nhà thơ – chiến sĩ, một ngƣời nghệ sĩ chân
chính đã gắn chặt với sự nghiệp, vận mệnh của dân tộc, của Tổ Quốc”; “Giản
dị mộc mạc mà vẫn mặn mà, duyên dáng, thơ Lê Anh Xuân không nói cái gì xa
lạ cả. Nó chỉ nói lên tâm tƣ, tình cảm, nguyện vọng, ý chí và hành động của
chúng ta mà thôi”.
Trong Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, tác giả Mã Giang Lân cũng đã
có những nhận xét xác đáng, chân thực về thơ Lê Anh Xuân: "Đó là một nhà
thơ giàu kỷ niệm, có nhiều bài da diết nhớ quê hƣơng và nhiều vần thơ xúc
động về Hà Nội, về miền Bắc”.
Trong giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam, (tập 3), Nguyễn Đăng
Mạnh chủ biên cũng đã có bài viết của tác giả Lê Quang Hưng về Lê Anh
Xuân và thơ Lê Anh Xuân. Đây là một công trình nghiên cứu khá công phu về
tiểu sử, các tác phẩm đã xuất bản cũng như nội dung và nghệ thuật trong thơ
Lê Anh Xuân. Lê Quang Hưng viết: " Thơ Lê Anh Xuân là tiếng ca trong trẻo,
mê say của một tâm hồn hồ hởi tha thiết tin yêu trƣớc cuộc đời. Tiếng thơ ấy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


nhƣ cơn mƣa đầu hạ, dạt dào, tƣơi mát, nhƣ dòng sông mải miết băng băng
về phía trƣớc”. Nói về giọng thơ của Lê Anh Xuân, tác giả nhận xét thơ Lê
Anh Xuân là một giọng điệu trữ tình riêng rất khó lẫn: “Cái giọng ấy phản
ánh rất tự nhiên, rất chân thật một tâm hồn, một lối cảm nghĩ, một cách sống.
Đó là điều đáng quý bởi không ít ngƣời làm thơ từng uốn giọng, từng giả
giọng ngƣời này ngƣời nọ”.
Đến Từ điển văn học bộ mới, Nxb Thế giới, 2004, Đỗ Đức Hiểu chủ biên
cũng đã dành hai trang viết về thơ Lê Anh Xuân do Trần Hữu Tá biên soạn.
Tác giả bài viết đã có những nhận định khái quát về nội dung thơ văn và đưa ra
những kết luận về sự đóng góp của nhà thơ Lê Anh Xuân: “Thơ Lê Anh Xuân
mang sắc thái riêng, vừa bằng giọng nhỏ nhẹ tâm tình, vừa bằng cảm hứng lịch
sử mang ý nghĩa triết luận khá sâu sắc… Tính hàm súc của thơ ông chƣa cao,
những bài có tứ thơ hoàn chỉnh độc đáo chƣa nhiều”.
Trong Giáo trình văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945,
Nxb Đại học sư phạm, 2009, Nguyễn Văn Long (chủ biên), có viết: “Trong thơ
Lê Anh Xuân, một vùng quê Nam bộ thân yêu với những rặng trâm bầu, một
hàng bình bát, một bóng dừa xanh, một bông súng nở xòe cánh quạt trên mặt
ao, một dòng sông tuổi thơ cùng với những con ngƣời kiên trung, anh dũng
hiện lên trong tâm trí xao xuyến, bồi hồi, đầy xúc động của nhà thơ”.
Năm 2011, Nxb Văn hóa Văn nghệ đã giới thiệu cuốn Nhật kí Lê Anh
Xuân, trong cuốn sách này PGS. TS Đoàn Đức Phương – TS. Diêu Lan Phương
đã viết rằng: “Thơ anh và chính cuộc đời anh đều thể hiện sự gắn bó máu thịt
với quê hƣơng đất nƣớc, với nhân dân, với đồng đội. Có thể nói anh là ngƣời
ghi lịch sử bằng thơ”. Còn PGS.TS Phạm Thành Hưng cho rằng: “Đọc một số
bài thơ anh, tôi cảm thấy thơ anh nhƣ dấu nối của hai thời thơ: thời thơ ca đấu
tranh thống nhất đất nƣớc với nguồn cảm xúc “hƣớng về Nam” và thời thơ
chống Mỹ. Chính việc anh từ giã giảng đƣờng đại học, lên đƣờng vƣợt Trƣờng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Sơn trở về quê hƣơng cũng là một dấu nối – dấu nối vật chất, làm tiền đề cho

dấu nối của hai thời thơ Việt Nam”.
Trong cuốn Nhà văn trong nhà trƣờng Lê Anh Xuân, Nxb Giáo dục năm
1999. Hải Hà khẳng định: “Trong thơ Lê Anh Xuân ngoài nhạy cảm của con
ngƣời thi sĩ, anh còn là nhà sử học…Tri thức sử học ấy đã cho anh thêm khả
năng tổng hợp và khái quát những vấn đề rộng lớn mà bài thơ cần vƣơn tới”
2.2. Những ý kiến phân tích, thẩm bình về một bài thơ, đoạn thơ cụ thể của
Lê Anh Xuân
Lê Anh Xuân thuộc lớp nhà thơ trẻ đầu tiên của nền thơ chống Mỹ. Quá
trình sáng tác của ông gắn liền với những năm tháng kháng chiến chống Mỹ ác
liệt nhưng đầy oai hùng của dân tộc. Những sáng tác của Lê Anh Xuân để lại
không nhiều, chỉ gồm 60 bài thơ và một bản trường ca nhưng bằng nhiệt huyết
tuổi trẻ, bằng khát khao cống hiến, khát khao khám phá hiện thực và sáng tạo
nghệ thuật nên ngay từ những tác phẩm đầu tay người thầy giáo ấy đã gây được
tình cảm đặc biệt từ độc giả yêu thơ và của nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên
cứu, phê bình. Ra đi ở tuổi đời còn rất trẻ trong một chuyến công tác, Lê Anh
Xuân đã để lại nhiều nuối tiếc cho những người yêu mến thơ ông. Những câu
chuyện, những kỷ niệm sống về lịch sử hào hùng trong thơ Lê Anh Xuân gây
nhiều xúc động cho nhiều tác giả. Nhiều nhà nghiên cứu đánh giá thơ ông có
mặt mạnh trong cảm xúc, trong cách xây dựng hình tượng, trong tạo hình và
biểu hiện. Chúng tôi xin điểm lại một số bài viết của các tác giả như Hoàng
Như Mai, Hải Hà, Lê Quang Trang, Nguyễn Đức Quyền và một số tác giả của
các chuyên luận có đề cập đến thơ Lê Anh Xuân như Hữu Đạt, Hà Minh Đức,
Vũ Duy Thông, Mã Giang Lân như sau:
Khi nói về bài thơ Trở về quê nội, nhà giáo – nhà nghiên cứu Hoàng Như
Mai nhận xét đó là “một bài thơ có cấu trúc giản dị” nhưng đó là tấm lòng yêu
thương trân trọng của một người con đối với quê hương sau bao nhiêu năm trời
xa cách. Theo Hoàng Như Mai, bài thơ Trở về quê nội có sự rung động bặc biệt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

tạo nên một sức hấp dẫn riêng bởi trước hết là ở cảm hứng ngợi ca nồng nhiệt

và mạch cảm xúc chân thật tuôn trào: “Những môtíp, những hình ảnh đã cũ vào
thơ Lê Anh Xuân vẫn rung động lòng ngƣời đọc. Ấy là vì anh đƣa vào đó tất cả
sự chân thành của tuổi trẻ, tất cả sự xúc cảm thật sự của nhà thơ” [21, tr.23]
và “Bài thơ Trở về quê nội cũng nhƣ các sáng tác của Lê Anh Xuân nói chung
có những đoạn thật sáng tạo”[21, tr.24]. Có thể nói thơ Lê Anh Xuân dành
được nhiều tình cảm từ người đọc và có đời sống phong phú chính là nhờ
những sáng tạo như thế. Nhà nghiên cứu Hoàng Như Mai cho rằng bài thơ Trở
về quê nội là một trong những bài thơ “đỉnh” của Lê Anh Xuân.
Trong cuốn Nét đẹp trong thơ, Nxb Giáo dục (2001), Nguyễn Đức
Quyền lại tỏ ra mặn mà với bài thơ Nhớ mƣa quê hƣơng khi xem bài thơ như
“sóng tỏa vào tâm hồn tôi, nhƣ cơn mƣa mùa hạ làm mát da thịt tuổi thơ,
làm sống dậy những kỷ niệm tuổi thơ của tôi ở quê Nam”[32, tr.151]. Tác
giả Nguyễn Đức Quyền đánh giá cao cảm xúc mãnh liệt, chân thành, giàu
cảm xúc của Lê Anh Xuân và coi đó là sức hấp dẫn, lôi cuốn người đọc:
“Tôi yêu nguồn xúc cảm bài thơ, nguồn xúc cảm dạt dào quá, anh cứ trải
hồn chân thật của mình ra nhƣ là nguồn của một con sông lớn… Nguồn cảm
xúc lại tƣơi mát trong trẻo, nồng nàn, cái nồng nàn làm cho ta ngây ngất
nhƣ cái thuở ban đầu”[32, tr.152]. Nguồn cảm xúc trinh nguyên, tươi mát và
trong trẻo ấy chính là sức mạnh để những tác phẩm của Lê Anh Xuân sống
mãi với thời gian.
Khi đọc “bài thơ xuân nho nhỏ” của nhà thơ Lê Anh Xuân, bài thơ với
tựa đề “Rừng xuân” đã tạo cho tác giả Hải Hà những xúc cảm rất riêng. Vẫn là
chất thơ trong sáng, hồn nhiên, chân thật nhưng ở bài thơ này có thêm chất đằm
thắm, dịu dàng của hương sắc núi rừng. Theo Hải Hà, bài thơ không chỉ là bức
tranh thiên nhiên tươi sáng mà phía sau bức tranh ấy đã xuất hiện chất giọng
của ý chí, của lòng quyết tâm: “Đó là cái quyết tâm bắt nguồn từ sâu xa của
trái tim nhớ thƣơng đằm thắm, của thái độ sống đầy trách nhiệm đối với quê
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

hƣơng, với Tổ quốc của nhà thơ trẻ Lê Anh Xuân”[9, tr.9]. Xuân trong Rừng

xuân không có cành đào thắm, không có chậu quất vàng, không có bánh trưng
xanh, lại càng không có sự xum họp ấm cúng trong ngày Tết như nó vẫn diễn
ra trong không khí xuân của bao gia đình Việt Nam bởi vì nhà thơ của chúng ta
đang ở trên đường ra tiền tuyến nhưng vẻ đẹp trong bài thơ đã tôn lên vẻ đẹp
trong tâm hồn nhà thơ – chiến sĩ Lê Anh Xuân: “Bài thơ lục bát với 12 câu
trong sáng, giản dị đã giúp cho chúng ta – những ngƣời ở hậu phƣơng lớn hiểu
thêm phẩm chất tâm hồn trong sáng, cao đẹp của ngƣời chiến sĩ giải phóng
quân, đồng thời góp phần khẳng định niềm tin tất thắng vào cuộc chiến đấu
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nƣớc của toàn dân ta”[9, tr.9]. Điều đó
chứng tỏ cảm hứng trữ tình trong thơ Lê Anh Xuân ngày càng thêm cứng cỏi
và chuyển dịch về hướng sử thi.
Cũng trong cuốn Nhà văn trong nhà trƣờng, Lê Quang Trang đã có
những lời bình sắc sảo về đoạn thơ gồm 12 câu trích trong Trƣờng ca Nguyễn
Văn Trỗi với tựa đề Việt Nam (do người biên soạn đặt). Lê Quang Trang đã
làm nổi bật khả năng khái quát, tổng hợp của Lê Anh Xuân khi viết về đề tài
đất nước. Để đạt được điều này, Lê Anh Xuân đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa cảm hứng nghệ thuật với tư duy lịch sử: “trong Lê Anh Xuân ngoài nhạy
cảm của con ngƣời thi sĩ, anh còn là nhà sử học bởi vì trƣớc khi từ miền Bắc xã
hội chủ nghĩa trở về quê hƣơng tham gia kháng chiến chống Mĩ, anh từng
nghiên cứu và giảng dạy lịch sử ở trƣờng Đại học tổng hợp hà Nội” [9, tr.11].
Trong các chuyên luận của mình, các tác giả như Hà Minh Đức, Hữu
Đạt, Mã Giang Lân, Vũ Duy Thông, Vũ Văn sỹ đều có phân tích thơ Lê Anh
Xuân. Cả Hữa Đạt và Hà Minh Đức đều đánh giá cao nghệ thuật tạo hình và
biểu hiện của bài thơ Dáng đứng Việt Nam: “Trong bài thơ Dáng đứng Việt
Nam của Lê Anh Xuân có những câu về mặt tạo hình thì rất đẹp, nhƣng về mặt
biểu hiện của nó cũng có giá trị rất cao”[6, tr.46].
Tác giả Vũ Văn Sỹ lại phân tích chất trữ tình từ một điểm nhìn nghệ
thuật trong Trường ca Nguyễn Văn Trỗi. Theo ông, Lê Anh Xuân phải có:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


“con mắt tinh đời” mới cảm nhận được. So sánh với ký Sống nhƣ anh của Trần
Đình Vân, tác giả chuyên luận khẳng định: “Ở đây cái diện mạo văn xuôi của
nhân vật Nguyễn Văn Trỗi đã bị chi phối trực tiếp bởi tình cảm chủ quan của
nhà thơ một cách công khai khi biểu đạt” [35, tr.185].
Bài thơ Cấy đêm của Lê Anh Xuân, một bài thơ được sáng tác trên quê
hương trong thời kì ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã gây được
cảm tình đặc biệt với Mã Giang Lân. Theo ông: “bài thơ Cấy đêm của Lê Anh
Xuân thật cảm động, chi tiết ít, gọn nhƣng sâu đậm, giàu liên tƣởng” [14,
tr.299]. Ông đưa ra những nhận xét tinh tế về cảm hứng chủ đạo trong bài thơ,
theo ông cảm hứng chủ đạo trong bài thơ không chỉ ngợi ca con người trên quê
hương anh dũng mà rộng hơn còn là: “hình ảnh tƣợng trƣng cho niềm tin của
nhân dân miền Nam” [14, tr.299].
Trong bài thơ Trở về quê nội, đoạn thơ mà Lê Anh Xuân viết về hình ảnh
người mẹ lại gây cho Vũ Duy Thông nhiều xúc động. Đó là hình ảnh người mẹ
nuôi giấu chiến sĩ vốn đã rất quen thuộc trong thơ kháng chiến. Mẹ chở che và
thương yêu người chiến sĩ như chính con đẻ của mình. Theo Vũ Duy Thông,
tình cảm này: “Chỉ có đƣợc trong chiến tranh chính nghĩa” [45, tr.110].
Từ các bài viết trên, một điều khá dễ dàng nhận ra là thơ Lê Anh Xuân
chủ yếu được nghiên cứu riêng lẻ từng tập thơ, hoặc các tác phẩm cụ thể. Trong
Luận Văn này, chúng tôi kế thừa những kết quả nghiên cứu của những người đi
trước để đi sâu tìm hiểu Phong cách nghệ thuật thơ Lê Anh Xuân. Trân trọng
biết ơn các nhà nghiên cứu phê bình đã có những bài viết sâu sắc giúp chúng
tôi có đủ nguồn tư liệu, đồng thời trực tiếp gợi ý cho chúng tôi lựa chọn đề tài
Luận văn này.
3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn này chúng tôi tập chung vào nghiên cứu các tác phẩm thơ của
Lê Anh Xuân, cụ thể là 60 bài thơ của 2 tập thơ và 1 tập trường ca:
+ Tiếng gà gáy (1965)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


+ Hoa dừa (1968)
+ Trƣờng ca Nguyễn Văn Trỗi (1969)
In trong tuyển tập Thơ Lê Anh Xuân (Nxb Văn học, H.1981)
Ngoài ra là cuốn Nhật ký Lê Anh Xuân - đó là những ghi chép chân thực,
sống động của một người chiến sỹ sống và viết.
3.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong luận văn này là những yếu tố tương đối bền
vững trong cảm hứng nghệ thuật, trong hệ thống hình tượng trữ tình và các
phương tiện biểu cảm ngôn từ trong các sáng tác thơ của Lê Anh Xuân. Đó là
những yếu tố thể hiện phong cách của tác giả.
4. Nhiệm vụ của Luận văn
Về mặt lý luận, nhận thức được sự thống nhất và sự cụ thể hóa phong
cách tác giả và phong cách thời đại.
Cụ thể hóa những nét đặc trưng phong cách thơ Lê Anh Xuân ở hệ thống
cảm xúc, hệ thống hình tượng trữ tình và hệ thống ngôn ngữ chuyển nghĩa tu từ.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này chúng tôi sử dụng chủ yếu các phương pháp sau:
5.1. Phƣơng pháp thống kê - phân loại
Chúng tôi sử dụng phương pháp này khi khảo sát thống kê – phân loại
nguồn tài liệu theo từng vấn đề cụ thể qua những dữ kiện lặp lại, ổn định nhằm
làm nổi bật phong cách nghệ thuật thơ Lê Anh Xuân.
5.2. Phƣơng pháp phân tích - tổng hợp
Phương pháp phân tích – tổng hợp sẽ giúp cho các kết luận mà chúng tôi
rút ra không bị phiến diện, không bị tách khỏi những thực thể trữ tình toàn vẹn
và sống động của nó.
Ngoài các phương pháp cơ bản nêu trên, Luận văn còn sử dụng một số
phương pháp khác bổ trợ như: Phương pháp hệ thống, phương pháp lịch sử,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


6. Đóng góp của Luận văn
Từ những ý kiến tản mạn của người đi trước gợi ý, Luận văn phát triển
và xây dựng một hệ thống luận điểm khái quát phong cách nghệ thuật thơ Lê
Anh Xuân. Đây là cái mới và cũng là những đóng góp của Luận văn.
7. Kết cấu Luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo, cấu trúc Luận văn
gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Khái quát về phong cách nghệ thuật thế hệ thơ chống Mỹ và
quá trình sáng tạo của Lê Anh Xuân.
Chương 2: Cảm hứng trữ tình lãng mạn giàu chất lý tưởng - nét đặc
trưng phong cách nghệ thuật Lê Anh Xuân.
Chương 3: Nét nổi bật thi pháp trong thơ Lê Anh Xuân.










Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT THẾ HỆ THƠ
CHỐNG MỸ VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TẠO CỦA LÊ ANH XUÂN

1.1. Khái quát về phong cách

1.1.1 Định nghĩa phong cách
Trong đời sống, cụm từ phong cách được hiểu là những nét riêng biệt,
cách nhìn nhận riêng, đánh giá riêng biệt độc đáo, khác lạ của một người nào
đó trong hành vi ứng xử, trong công việc ví dụ như phong cách sống, phong
cách làm việc, phong cách thời trang…
Khi nghiên cứu khả năng biểu hiện của ngôn ngữ trong những nhu cầu
giao tiếp khác nhau, các nhà ngôn ngữ học phân biệt các phong cách chức năng
ngôn ngữ như phong cách ngôn ngữ hành chính, phong cách ngôn ngữ nghệ
thuật, phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, phong cách ngôn ngữ báo chí,…
Trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, khái niệm phong cách được “dùng
để nhận diện một tác giả, một tác phẩm, một trào lƣu hay một khuynh hƣớng
nhất định” [24, tr.190]. Có nhiều khuynh hướng nghiên cứu phong cách:
nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản, nghiên cứu phong cách tác giả - tác
phẩm…phổ biến nhất ngiên cứu phong cách nhà văn (phong cách tác
giả).Với mỗi tác giả lại có thể vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác
nhau: nghiên cứu trực tiếp qua thế giới hình tượng nghệ thuật của tác phẩm,
nghiên cứu gián tiếp qua tiểu sử, hoàn cảnh sáng tác…Bên cạnh đó còn có
thể kể đến khuynh hướng nghiên cứu phong cách của một trào lưu, trường
phái hay phong cách của thời đại…
Theo Từ điển tiếng Việt, “Phong cách là những đặc điểm có tính
chất hệ thống về tƣ tƣởng nghệ thuật, biểu hiện trong các sáng tác nói
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

chung hay cùng một thể loại (nói tổng quát). Phong cách của một nhà văn,
phong cách nghệ thuật”.
Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học có định nghĩa: Phong cách trong văn
học là “những nét chung, tƣơng đối bền vững của hệ thống hình tƣợng, của các
phƣơng thức biểu hiện nghệ thuật, tiêu biểu cho bản sắc sáng tạo của một nhà
văn, một tác phẩm, một khuynh hƣớng văn học, một nền văn học dân tộc nào đó”.
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hãn, Trần Đình Sử,

Nguyễn Khắc Phi định nghĩa: “Phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm
mĩ, chỉ sự thống nhất tƣơng đối ổn định của hệ thống hình tƣợng, của các
phƣơng tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của
một nhà văn, trong một tác phẩm riêng lẻ, trào lƣu văn học hay văn học dân
tộc…Trong nghĩa rộng, phong cách là nguyên tắc xuyên suốt trong việc xây
dựng hình thức nghệ thuật, đem lại cho tác phẩm một tính chỉnh thể có thể cảm
nhận đƣợc, một giọng điệu và một sắc thái thống nhất” [10].
Trong Từ điển tiếng Việt (bộ mới), phong cách được hiểu là “khái niệm
chỉ những nét chung, tƣơng đối bền vững của hệ thống hình tƣợng, của các
phƣơng thức biểu hiện nghệ thuật, tiêu biểu cho bản sắc sáng tạo của một nhà
văn, một tác phẩm, một khuynh hƣớng văn học dân tộc nào đó”. Với đề tài
nghiên cứu Phong cách thơ Lê Anh Xuân, ở đây, chúng tôi đề cập đến hai
khuynh hướng chủ yếu: phong cách tác giả và phong cách thời đại.
Tóm lại, có thể coi phong cách tác giả văn học là những nét riêng biệt,
những yếu tố cơ bản độc đáo và cần thiết để tạo nên diện mạo của văn học
một tác giả. Những nét, những yếu tố riêng biệt độc đáo được lặp đi lặp lại với
những màu sắc mới trong suốt chặng đường sáng tác lâu dài bền bỉ của tác
giả, gắn liền với tư duy nghệ thuật của tác giả trong cách cảm nhận về cuộc
sống, về cái đẹp nghệ thuật trên con đường sáng tác. Thế nên, không nên coi
phong cách là một thực thể bất biến mà phải xem nó như là một thực thể sống
động. Một thực thể có thể được hình thành ngay khi nhà văn bước vào con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

đường sáng tác và sẽ biến chuyển theo nhận thức của tác giả trong mối quan
hệ mật thiết với môi trường sống của cá nhân và thời đại, chịu sự ảnh hưởng
của môi trường văn hóa, sự ảnh hưởng của các nhà văn mà họ thần tượng.
Không phải bất cứ nhà văn nào cũng có phong cách riêng mà chỉ có những
nhà văn, nhà thơ có tài năng, có bản lĩnh trong quá trình sáng tạo mới tạo cho
mình phong cách độc đáo.
Riêng với thể loại trữ tình, đặc biệt là thơ rất cần đến “Năng khiếu thẩm

mĩ” và “tài nghệ”, cần đến “Cá tính và phong cách độc đáo”của nhà thơ.
Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, mỗi nhà thơ phải tự ý thức và phát huy sở
trường riêng của mình để tạo nên một phong cách độc đáo. Bởi vì thơ dùng để
bộc lộ thế giới cảm xúc, tâm trạng và những suy nghĩ của cái tôi trữ tình được
nghệ thuật hóa. Nhà văn Gamzatốp cho rằng: “Tác phẩm văn học mà không
thấy tác giả thì chẳng khác gì con ngựa chạy trên đƣờng không có ngƣời cƣỡi”.
1.1.2. Phong cách thời đại
Phong cách thời đại là một khái niệm dùng để chỉ một phong cách chung
bao trùm lên mọi thể loại, mọi hình thức nghệ thuật của một thời đại.
Phong cách thời đại là sự biểu hiện của trình độ kỹ thuật biểu hiện, của
trạng thái văn hoá, xã hội, tập quán tâm lý thời đại đã hình thành nên phong
cách. Phong cách thể hiện tập trung ở cách thể hiện thế giới và con người, cảm
thụ bản thân nghệ thuật. Chẳng hạn nghệ thuật Ai Cập cổ đại có nền tảng là tôn
giáo Ai Cập, tôn giáo về cái chết; trái lại, nền tảng của nghệ thuật Hi Lạp cổ đại
là thế giới quan yêu đời. Khi nào nội dung và hình thức cuộc sống thay đổi thì
nghệ thuật, vốn là biểu hiện của cuộc sống đó cũng là thay đổi, và sự đổi thay
đó “chính là đổi thay phong cách”.
Phong cách thời đại do ý thức về cái đẹp, ý thức nghệ thuật của thời đại
quy định. Phong cách thời đại có thể bao trùm lên nhiều quốc gia, nhiều lãnh
thổ và có ảnh hưởng sâu rộng lên nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau. Ví dụ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

phong cách nghệ thuật thời Phục Hưng được thể hiện trên nhiều lĩnh vực: Điêu
khắc, âm nhạc, hội họa…
Phong cách thời đại có những nét truyền thống nhưng không đồng nhất,
nghĩa là bên trong nó vẫn có sự phân hóa theo các yếu tố khác nhau như
phương pháp sáng tác, cá tính sáng tạo, khuynh hướng tư tưởng xã hội, thẩm
mỹ. Nhưng phong cách thời đại đó xây dựng trên nền tảng trạng thái văn hóa
xã hội rộng lớn nên có tính thống nhất không thể bác bỏ.
Muốn xác định được phong cách chung của một thời đại cần căn cứ vào

quan niệm nghệ thuật về xã hội và con người…, qua sự lặp lại về cảm hứng
sáng tạo của một thời kỳ lịch sử.
1.1. 3. Phong cách tác giả
Trong các cấp độ của phong cách, phong cách tác giả là phạm trù được
thừa nhận phổ biến và cũng được vận dụng rộng rãi nhất. Các quan điểm văn
học xưa nay (văn là người, phong cách là con người…) đều lấy phong cách tác
giả làm yếu tố trung tâm để xem xét.
Trong những năm đầu thế kỉ XX, một số nhà lý luận văn học còn đồng
nhất hai khái niệm phong cách cá nhân và cá tính sáng tạo do đó phủ nhận sự
tồn tại của phong cách tác giả. Vonflin, Handenstein, ngay cả A.N.Xôcôlôp và
G.N.Pôxpêlôp cũng cho rằng phong cách cá nhân chỉ là những yếu tố cá biệt, ít
có ý nghĩa xã hội. Nếu một tác giả có thể có nhiều phong cách thì không thể coi
phong cách cá nhân là một cấp độ quan trọng của phong cách văn học. Tuy
nhiên, nếu như không thể không tính đến phong cách tác phẩm với ý nghĩa là
yếu tố trung tâm của phong cách học thì cũng không thể bỏ qua phong cách cá
nhân với ý nghĩa là biểu hiện cụ thể của phong cách trào lưu, phong cách thời
đại…Thật khó có thể nói đến một thời đại văn chương nếu như thời đại đó
không sản sinh ra những cá nhân xuất sắc.
Không nên đồng nhất hai khái niệm phong cách và cá tính sáng tạo. Mỗi
nhà văn khi sáng tác ít nhiều đều có cá tính sáng tạo, tức có đặc điểm riêng về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

sáng tác nhưng không phải cá tính nào cũng trở thành phong cách. Người ta chỉ
đề cập đến phong cách sáng tác của những nhà văn ưu tú, trong tác phẩm có
những điểm độc đáo, riêng biệt, có giá trị thẩm mĩ cao và nhất quán trong cả
quá trình sáng tạo của nhà văn.
Phong cách tác giả được thể hiện chủ yếu thông qua tác phẩm. Biểu hiện
của phong cách tác giả trong tác phẩm không chỉ là những nội dung đặc sắc,
độc đáo, giàu tính thẩm mĩ mà còn là cách thức nhà văn thực hiện nhằm mang
đến một hiệu quả biểu đạt cao nhất. Đó cũng không chỉ là những yếu tố hình

thức riêng lẻ (cho dù chúng có mới lạ đến đâu) mà còn là sự phối hợp, thống
nhất giữa các yếu tố này theo những quy luật thẩm mĩ nhất định.
1.2. Thế hệ thơ chống Mỹ trong nền thơ chiến đấu
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc đã sản sinh ra
một nền thơ lớn mà tính chiến đấu là một đặc điểm bao trùm, nổi bật. Những
giai đoạn đau thương mà anh dũng nhất trong lịch sử đấu tranh của dân tộc đã
tạo ra một nền thơ giàu vẻ đẹp với nội dung mang sức chiến đấu cao. Nền thơ
chiến đấu chống Mỹ hai mươi năm qua là tiếng nói của dân tộc ta, một dân tộc
đứng vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong chống chủ nghĩa đế quốc của thời
đại ngày nay. Nền thơ chiến đấu ấy mang những nét rất riêng biệt, không lẫn
với bất cứ một dân tộc nào. Nó có một truyền thống riêng, có quá trình phát
triển riêng. Nó phản ánh những nét đặc thù thẩm mĩ của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, những nét đặc thù của tâm hồn con người Việt Nam chiến đấu và có
những đóng góp đáng kể vào tiếng nói chống xâm lược, chống đế quốc trong
lịch sử thơ ca hiện đại. Trong Luận văn này, chúng tôi nhận thức đó chính là
phong cách thời đại.
Từ năm 1964, cuộc chiến tranh chống Mĩ, cứu nước của dân tộc ta bước
sang một giai đoạn gay go căng thẳng và vô cùng ác liệt. Tình hình đó đã buộc
dân tộc ta phải phát huy cao độ không chỉ sức mạnh đề kháng mà còn khơi dạy
sức mạnh truyền thống tinh thần hàng ngàn đời của dân tộc để tiếp sức chiến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

đấu. Nền thơ mới ra đời. Thơ trẻ thời kì chống Mĩ là một hiện tượng rất đáng
chú ý của văn học hiện đại Việt Nam, đánh dấu sự xuất hiện, trưởng thành của
một thế hệ nhà thơ và bước phát triển mới của nền thơ chống Mĩ. Nền thơ ấy
được hình thành từ nhiều thế hệ nhà thơ: thế hệ nhà thơ xuất hiện từ trước cách
mạng tiêu biểu như Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh…,
thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Pháp tiểu biểu như Chính Hữu,
Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông…và thế hệ nhà thơ xuất hiện trong thời
kì chống Mỹ. Mỗi thế hệ nhà thơ nói trên đều có thế mạnh riêng và có những

đóng góp đáng ghi nhận đối với nền thơ chống Mỹ. Mỗi nhà thơ, bằng cá tính
của mình đã đem đến cho thơ một cách nhìn, cách cảm nhận riêng về cuộc
chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc, nói lên được hiện thực hào hùng của cả
dân tộc.
Nhìn một cách tổng quát, thơ trẻ thời kì chống Mỹ có thể chia thành ba
chặng đường. Mỗi chặng đường có những nét riêng gắn liền với sự xuất hiện
của những nhà thơ tiêu biểu. Tuy nhiên, sự phân chí này chỉ mang tính chất
tương đối. Về thực chất, thơ trẻ thời kì chống Mỹ là một dòng thơ liên tục.
Năm 1975, trong một bài viết Thơ với cuộc kháng chiến chống Mỹ vĩ đại của
dân tộc, Vũ Tuấn Anh đã khẳng định sự đóng góp to lớn của thế hệ những nhà
thơ trẻ trong đó có Lê Anh Xuân: “Lớp trẻ đã đem đến sự đông vui ồ ạt cho cả
nền thơ bằng tiếng nói sôi nổi, mới mẻ, duyên dáng của riêng lứa tuổi họ… lứa
tuổi tha thiết tin yêu cách mạng và có mặt trên khắp các mặt trận sản xuất,
chiến đấu”[3].
Ở chặng đường đầu tiên là sự xuất hiện của đội ngũ những nhà thơ trẻ
với những cây bút tiêu biểu như Bằng Việt, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Lê
Anh Xuân, Thái Giang, Nguyễn Mỹ… Đó là một tiếng thơ trẻ trung, sôi nổi,
đậm chất lý tưởng. Những tác phẩm thơ trẻ ở chặng đường này rưng rưng cảm
xúc, đậm đà chất trữ tình, chan chứa chất men say nồng của tuổi trẻ. Lê Anh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Xuân nói tới khát khao của thế hệ mình được cầm súng trực tiếp chiến đấu
bằng một cảm xúc chân thành, trong sáng:
Ôi ta thèm đƣợc cầm khẩu súng
Đi giữa đoàn quân cùng với bạn bè
Nằm chờ giặc trên quê hƣơng anh dũng
Ta say nồng mái lá rụng bờ tre
(Gửi Bến Tre)
Đến chặng thơ thứ hai, đội ngũ những nhà thơ trẻ được bổ xung thêm
nhiều cây bút mới, tài năng như: Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm,

Nguyễn Đức Mậu, Phan Thị Thanh Nhàn, Hoàng Nhuận Cầm, Lâm Thị Mỹ
Dạ…. Ở giai đoạn này, thơ trẻ kháng chiến chống Mỹ đã phát triển lên một
đỉnh cao mới. Nhiều tác giả đã thực sự khẳng định được tiếng nói của thế hệ
mình qua những vần thơ : “giàu chi tiết chân thực, sinh động nhƣ còn vƣơng
bụi đất của chiến trƣờng và mùi khét lẹt của đạn bom, mang khí thế hừng hực
của cuộc chiến đấu”[19, tr.129].
Ở chặng đường cuối, thơ trẻ chống Mỹ được bổ sung thêm nững nhà thơ
đồng thời là những chiến sĩ trực tiếp cầm súng chiến đấu ở chiến trường. Sự
xuất hiện của những cây bút như: Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy, Trần
Mạnh hảo, Văn Lê, Anh Ngọc… đã làm cho đội ngũ thơ trẻ thời kì chống Mỹ
thêm đông đảo, thực sự bề thế. Thơ trẻ thời kỳ này có cái nhìn bao quát, toàn
cảnh về cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc.
Đây là thời kỳ mà thơ trẻ nói nhiều, nói sâu sắc, nói thấm thía về người
mẹ, về nhân dân, về những con người vô danh, những con người bình thường
mà kiên cường bất khuất, về tổ quốc và về thế hệ mình. Ý thức về cái tôi- thế
hệ của các nhà thơ trẻ đạt tới độ sâu sắc nhất. Chân dung tinh thần của thế hệ
trẻ cầm súng thời kì chống Mỹ hiện lên cụ thể chân thực phong phú và sâu sắc.
Thế hệ chúng con ồn ào, dày dạn
Sống thì đi mà chết thì nằm
(Trần Mạnh Hảo)

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×