Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Tạp phẩm và bảo hộ lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.77 KB, 115 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Dù là một doamh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nào thì huy động vốn
và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là mục tiêu phấn đấu hàng đầu và lâu
dài của doanh nghiệp. Vốn kinh doanh và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đóng
vai trò quan trọng để mở rộng kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng
doanh lợi của doanh nghiệp.
Chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước là một quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý
kinh tế trước hết. Nhà nước cắt giảm nguồn vốn ngân sách cấp cho các doanh
nghiệp, mở rộng quyền tự chủ kinh doanh và tài chính cho các doanh nghiệp.
Với cơ chế quản lý mới này đã đem lại cho một số doanh nghiệp những lợi thế
trong việc huy động và sử dụng vốn, đồng thời cũng đem lại một số khó khăn
cho các doanh nghiệp trong việc huy động vốn, phát triển nguồn vốn và nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn. Và trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế,
Đảng ta đã chỉ rõ " Chính sách tài chính quốc gia hướng vào việc tạo vốn và sử
dụng vốn có hiệu quả trong toàn xã hôị, tăng nhanh sản phẩm xã hội, thu nhập
quốc dân…". Vì vậy, nghiên cứu đồng bộ các biện pháp để phát triển nguồn vốn
và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh mang tính cấp thiết của mọi
doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh, đời sống cán bộ công
nhân viên trong doanh nghiệp nói riêng và phát triển nền kinh tế đất nước nói
chung.
Xuất phát từ tình hình thực tế của các doanh nghiệp ở Việt Nam và quá
trình thực tập tại Công ty Tạp phẩm và bảo hộ lao động dưới sự hướng dẫn tận
tình của Tiến sĩ Phan Tố Uyên và các cán bộ Công ty, tôi đã lựa chọn đề tài:
"Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Tạp
phẩm và bảo hộ lao động" làm nội dung nghiên cứu của mình.
Với phương pháp nghiên cứu kết hợp lý luận thực tiễn, trên cơ sở phân
tích các hoạt động tài chính của Công ty, đề tài nhằm nêu rõ bản chất và vai trò
của vốn kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, nguyên tắc và nội dung công
1
tác sử dụng vốn kinh doanh của các doanh nghiệp, đồng thời đưa ra các giải


pháp cơ bản nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Tạp phẩm
và bảo hộ lao động.
Với hướng nghiên cứu như vậy, đề tài được xây dựng thành 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong
kinh doanh
Chương II: Thực trạng sử dụng vốn và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
tại Công ty Tạp phẩm và bảo hộ lao động
Chương III: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
tại Công ty Tạp phẩm và bảo hộ lao động
Do trình độ lý luận cũng như khả năng thực tế còn hạn chế nên vấn đề
nghiên cứu của tôi chắc chắn không thể tránh khỏi thiếu sót. Tôi mong nhận
được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cô cùng với bạn đọc để đề tài
nghiên cứu của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn cùng cán bộ các phòng ban liên quan của
Công ty Tạp phẩm và bảo hộ lao động đã hướng dẫn tận tình, tạo điều kiện và
giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
2
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VỐN VÀ HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG VỐN TRONG KINH DOANH
I. KHÁI NIỆM VỀ VỐN VÀ PHÂN LOẠI VỐN TRONG KINH DOANH:
1. Khái niệm về vốn kinh doanh.
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm thực
hiện các hoạt động kinh doanh với mục tiêu chung và quan trọng nhất đối với
doanh nghiệp đó là lợi nhuận. Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp phải luôn
gắn liền với sự hoạt động của đồng vốn. Chủ thể kinh doanh không chỉ có vốn
mà còn phải biết vận động không ngừng phát triển đồng vốn đó. Nếu gạt bỏ
nguồn gốc bóc lột của CNTB trong công thức T-H-SX...H

-T


của K.Marx thì có
thể xem đây là một công thức kinh doanh: Chủ thể kinh doanh dùng vốn của
mình dưới hình thức tiền tệ mua những tư liệu sản xuất để tiến hành quá trình
sản xuất ra sản phẩm, hàng hoá theo nhu cầu của thị trường rồi đem những thành
phẩm hàng hoá này bán ra cho khách hàng trên thị trường để thu được một
lượng tiền tề lớn hơn số ban đầu bỏ ra.
Như vậy, theo quan điểm của K.Marx, vốn (tư bản) là giá trị đem lại giá
trị thặng dư, là một đầu vào của quá trình sản xuất. Định nghĩa này mang một
tầm khái quát lớn, nhưng do bị hạn chế bởi những điều kiện khách quan lúc bấy
giờ nên Marx đã quan niệm chỉ có khu vực sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị
thặng dư cho nền kinh tế. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các nhà khoa
học đại diện cho các trường phái khác nhau đã bổ sung các yếu tố mới cũng
được coi là vốn. Nổi bật nhất là Paul.A.Samuelson_ Nhà kinh tế học theo trường
phái “tân cổ điển” đã kế thừa các quan niệm của trường phái “cổ điển” về yếu tố
sản xuất để phân chia các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất thành 3 bộ phận
là đất đai, lao động và vốn . Theo ông, vốn là hàng hoá được sản xuất ra để phục
vụ cho quá trình sản xuất mới.
Sau đó, David Begg đã bổ sung thêm cho định nghĩa vốn của Samuelson,
theo ông vốn bao gồm có vốn hiện vật (các hàng hoá dự trữ, để sản xuất ra hàng
3
hoá khác) và vốn tài chính (tiền, các giấy tờ có giá trị của doanh nghiệp). Nhìn
chung, cả Samuelson và Begg đều có một quan điểm chung thống nhất cơ bản là
các vốn là một đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, quan điểm
này cho thấy vốn vẫn bị đồng nhất với tài sản của doanh nghiệp.
Thực chất, vốn kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản của
doanh nghiệp huy động vào quá trình sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh
lời.
Như vậy, muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp
nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất định. Trong nền kinh tế thị trường,

vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới mọi khâu trong quá trình
sản xuất kinh doanh.Vốn kinh doanh là điều kiện để duy trì sản xuất, đổi mới
thiết bị công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm,
tăng việc làm và thu nhập cho người lao động. Từ đó, tạo điều kiện cho doanh
nghiệp tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường, mở rộng xuất khẩu, nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vai trò của vốn đối với hoạt động sản xuất
kinh doanh được khái quát theo sơ đồ sau:
4
Tiếp tục sản
xuất
-Thay máy cũ
-Mua máy mới
-Giải quyết
khủng hoảng
Vốn kinh doanh của
doanh nghiệp
Dùng cho đầu tư trung
và dài hạn
Dùng cho các hoạt động và
khai thác
Sản xuất nhiều
hơn
Các năng lực
về sản xuất
Sản xuất tối
hơn
Các đầu tư về
tư liệu sản xuất
Bảo đảm
các hoạt

động hàng
ngày của
doanh
nghiệp
Trả tiền
cho người
cung ứng
Thanh
toán tiền
lương.
Nộp thuế,
phí, lệ phí.
Đóng góp
cho xã hội
Vốn là một trong những yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất
kinh doanh, đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế nói chung
và đối với doanh nghiệp nói riêng, thể hiện trên các mặt sau:
- Vốn kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại có vai trò quyết
định trong việc thành lập, hoạt động, phát triển của từng loại hình doanh nghiệp
theo luật định.
- Vốn đóng vai trò quyết định mở rộng đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh, đổi mới quy trình công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất kinh doanh, góp phần tăng năng suất lao động và giảm giá thành
chi phí của doanh nghiệp.
- Vốn là một nguồn lực quan trọng để phát huy tài năng của ban lãnh
đạo doanh nghiệp, nó là một điều kiện thực hiện các chiến lược, sách lược kinh
doanh, nó cũng là “dầu nhớt” bôi trên cho cỗ máy kinh tế vận động.
- Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là yếu tố về giá trị. Như vậy,
doanh nghiệp đáp ứng đầy đủ nhu vầu về vốn kinh doanh sẽ giúp cho doanh
nghiệp chủ động về tài chính, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo sức cạnh tranh.

Còn ngược lại, nếu vốn không được bảo tồn và tăng lên trong mỗi chu kỳ kinh
doanh thì vốn đã bị thiệt hại, đó là hiện tượng mất vốn. Sự thiệt hại lớn dẫn đến
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, sẽ làm cho doanh nghiệp bị phá sản, tức
là vốn kinh doanh đã bị sử dụng một cách lãng phí, không có hiệu quả.
Tóm lại, vai trò của vốn kinh doanh đã được K.Marx khẳng định: “ Tư
Đồng thời, K.Marx còn nhấn mạnh:” không một hệ thống nào có thể tồn tại nếu
không vượt qua sự suy giảm về hiệu qủa tư bản”. bản đứng vị trí hàng đầu vì tư
bản là tương lai”.
Căn cứ vào khái niệm và vai trò của vốn ở trên, ta có thể thấy vốn có
những đặc trưng cơ bản sau:
5
+ Vốn là đại diện cho một lượng giá trị tài sản: Điều này có nghĩa vốn là
sự biểu hiện bằng giá trị của các tài sản hữu hình và vô hình như: Nhà xưởng,
máy móc, thiết bị, đất đai, bằng phát minh, sáng chế... Với tư cách này các tài
sản tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh nhưng nó không bị mất đi mà
thu hồi được giá trị.
+ Vốn luôn vận động để sinh lời: Vốn được biểu hiện bằng tiền, nhưng
tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn, để trở thành vốn thì đồng tiền phải được đưa
vào hoạt động kinh doanh để sinh lời. Trong quá trình vận động, vốn có thể thay
đổi hình thái biểu hiện nhưng điểm xuất phát và điểm cuối cùng của vòng tuần
hoàn phải là giá trị- là tiền. Đồng vốn đến điểm xuất phát mới với giá trị lớn
hơn. Đó cũng là nguyên tắc đầu tư, sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn. Nói một
cách khác, vốn kinh doanh trong quá trình tuần hoàn luôn có ở giai đoạn của quá
trình tái sản xuất và thường xuyên chuyển từ dạng này sang dạng khác. Các giai
đoạn này được lặp đi lặp lại theo một chu kỳ, mà sau mỗi chu kỳ vốn kinh doanh
được đầu tư nhiều hơn. Chính yếu tố này đã tạo ra sự phát triển của các doanh
nghiệp theo quy luật tái sản xuất mở rộng.
+ Trong quá trình vận động vốn không tách rời chủ sở hữu: Mỗi đồng
vốn đều có chủ sở hữu nhất đinh, nghĩa là không có những đồng vốn vô chủ, ở
đâu có đồng vốn vô chủ thì ở đó sẽ có sự chi tiêu, lãng phí, kém hiêu quả. ở đây

vần có sự phân biệt quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn, đó là hai quyền năng
khác nhau. Tuỳ theo hình thức đầu tư mà người sở hữu và người sử dụng vốn có
thể đồng nhất hay tách rời. Song, dù trường hợp nào đi chăng nữa, người sở hữu
vốn vẫn được ưu tiên đảm bảo quyền lợi và phải được tôn trọng quyền sở hữu
vốn của mình. Có thể nói đây là một nguyên tắc cực kỳ quan trọng trong việc
huy động, quản lý và sử dụng vốn. Nó cho phép huy động được vốn nhàn rỗi
trong dân cư vào sản xuất kinh doanh, đồng thời quản lý và sử dụng vốn có hiệu
quả. Nhận thức được đặc trưng này sẽ giúp doanh nghiệp tìm mọi biện pháp để
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
6
+ Vốn phải được tập trung tích tụ đến một lượng nhất định mới có thể
phát huy tác dụng: Muốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh, vốn phải được tập
trung thành một lượng đủ lớn để mua sắm máy móc thiết bị, nguyên vật liệu cho
sản xuất và chủ động trong các phương án sản xuất kinh doanh. Muốn làm được
điều đó, các doanh nghiệp không chỉ khai thác các tiềm năng về vốn của mình,
mà phải tìm cách thu hút vốn từ nhiều nguồn khác như phát cổ phiếu, góp vốn
liên doanh liên kết...
+ Vốn có giá trị về mặt thời gian: Một đồng hôm nay có giá trị hơn giá
trị đồng tiền ngày hôm sau, do giá trị của đồng tiền chịu ảnh hưởng của nhiều
yếu tố như: đầu tư, rủi ro, lạm phát, chính trị... Trong cơ chế kế hoạch hoá tập
trung, vấn đề này không được xem xét kỹ lưỡng vì nhà nước đã tạo ra sự ổn định
của đồng tiền một cách giả tạo trong nền kinh tế. Trong điều kiện kinh tế thị
trường cần phải xem xét về yếu tố thời gian của đồng vốn, bởi do ảnh hưởng sự
biến động của giá cả thị trường, lạm phát... nên sức mua của đồng tiền ở các
thời điểm là khác nhau.
+ Vốn là loai hàng hoá đặc biệt: Những người sẵn có vốn có thể đưa vốn
vào thị trường, còn những người cần vốn thì vay. Nghĩa là những người đi vay
được quyền sử dụng vốn của ngườ cho vay. Người đi vay phải mất một khoản
tiền trả cho người vay. Đây là một khoản chi phí sử dụng vốn mà người đi vay
phải trả cho người cho vay, hay nói cách khác chính là giá của quyền sử dụng

vốn. Khác với các loại hàng hoá thông thường khác, “ hàng hoá vốn “ khi bán đi
sẽ không mất quyền sử hữu mà chỉ mất quyền sử dụng trong một thời gian nhất
đinh. Việc mua bán này diễn ra trên thị trường tài chính, giá mua bán tuân theo
quan hệ cung- cầu về vốn trên thị trường.
+ Trong nền kinh tế thị trường, vốn không chỉ được biểu hiện bằng tiền
của những tài sản hữu hình mà nó còn biểu hiện giá trị của những tài sản vô hình
như: Vị trí địa lý kinh doanh, nhãn hiệu thương mại, bản quyền, phát minh sáng
chế, bí quyết công nghệ... Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường thì khoa
học kỹ thuật, công nghệ cũng phát triển mạnh mẽ. Điều này làm cho tài sản vô
7
hình ngày càng đa dạng phong phú, đóng góp một phần không nhỏ trong việc
tạo ra khả nằng sinh lời của doanh nghiệp.
Từ những đặc trưng trên cho phép ta phân biệt giữa tiền và vốn : giữa một
số quỹ tiền tệ khác trong doanh nghiệp và vốn. Vốn kinh doanh được sử dụng
cho hoạt động sản xuất kinh doanh tức là cho mục đích tích luỹ chứ không phải
mục đích tiêu dùng như một số quỹ khác trong doanh nghiệp. Vốn kinh doanh
được ứng ra cho một chu kỳ sản xuất kinh doanh và phải được th về khi chu kỳ
kinh doanh kết thúc. Và lại được ứng cho chu kỳ tiếp theo. Vì vậy, kinh doanh
không thể “ tiêu dùng” như một số quỹ khác trong doanh nghiệp. Mất vốn kinh
doanh đồng nghĩa với nguy cơ phá sản doanh nghiệp. Ngoài ra, muốn có vốn thì
phải có tiền song có tiền chưa hẳn là đã có vốn.
Tiền được coi là vốn phải thoả mãn những điều kiện sau:
 Tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định, tức là phải được
đảm bảo bằng một lượng hàng hoá nhất định có thực.
 Tiền phải được tập trụng, tích tụ thành một khoản nhất định đủ sức đầu
tư cho một dự án kinh doanh nào đó. Nếu tiền rải rác, không gom thành khoản
thì không làm được gì.
 Khi đã đủ về lượng, tiền phải vận động nhằm mục đích sinh lời. Cách
thức, hình thái vận động của tiền phụ thuộc vào phương thức kinh doanh.
Ngoài những đặc trưng cơ bản trên, tiền còn có một số đặc trưng nữa

mang tính riêng biệt như:
+ Là nguồn duy nhất sáng tạo ra giá trị mới.
+ Vừa là chủ thể quản lý vừa là đối tượng quản lý.
+ Tiền ẩn trong mọi người, phụ thuộc vào tư tưởng, tình cảm, môi
trường... chỉ biểu hiện khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh.
2. Phân loại vốn kinh doanh.
Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ ... hay
hoạt động bất cứ ngành nghề gì, các doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn
nhất định. Số vốn kinh doanh đó được biểu hiện dưới dạng tài sản. Trong hoạt
8
động tài chính của doanh nghiệp quản lý vốn kinh doanh và sử dụng vốn kinh
doanh có hiêu quả là nội dung quan trọng nhất, có tính chất quyết định đến mức
độ tăng trưởng hay suy thoái của doanh nghiệp. Do vậy, để nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn kinh doanh ta vần phải nắm được vốn có những loại nào, đặc biệt vận
động của nó ra sao... Có nhiều cách phân loại vốn kinh doanh, tuỳ theo mục tiêu
nghiên cứu mà có thể có nhiều tiêu thức phân loại vốn kinh doanh khác nhau.
2.1. Phân loại vốn trên góc độ pháp luật, vốn bao gồm :
- Vốn pháp định: là mức vốn tối thiểu phải có đẻ thành lập doanh nghiệp
do pháp luật quy định, đảm bảo năng lực kinh doanh đối với từng ngành nghề và
từng loại hình sở hữu của doanh nghiệp. Dưới mức vốn pháp định thì không đủ
điều kiện để thành lập doanh nghiệp.
- Vốn điều lệ: là vốn do các thành viên đóng góp và được ghi vào điều lệ
của Công ty (doanh nghiệp). Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp, theo từng
ngành nghề , vốn điều lệ không được thấp hơn vốn pháp định.
2.2. Phân loại vốn theo nguồn hình thành:
Theo cách phân loại này, vốn được chia thành các loại sau:
- Vốn đầu tư ban đầu: là số vốn phải có khi hình thành doanh nghiệp, tức
là số vốn cần thiết để đăng ký kinh doanh, hoặc vốn góp của công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân hoặc vốn của nhà nước giao.
- Vốn liên doanh: là vốn đóng góp do các bên cùng cam kết kiên doanh

với nhau để hoạt động thương mại hoặc dịch vụ...
- Vốn bổ sung: là số vốn tăng thêm do bổ sung từ lợi nhuận, do nhà nước
bổ sung bằng phân phối hoặc phân phối lại nguồn vốn do sự đóng góp của các
thành viên hoặc, do bán trái phiếu...
- Vốn đi vay: là các khoản nợ phát sinh trong quá trình kinh doanh mà
doanh nghiệp có nhiệm vụ phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế khác như
ngân hàng, các tổ chức kinh tế, phải trả nhà nước, phải trả cho người bán...
Ngoài ra, còn có khoản vốn chiếm dụng lẫn nhau của các đơn vị nguồn hàng,
khách hàng và bạn hàng.
9
2.3. Phân loại vốn theo thời gian huy động vốn.
Theo cách phân loại này, vốn được chia thành hai loại là vốn thường
xuyên và vốn tạm thời.
- Vốn thường xuyên: bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản nợ dài hạn
của doanh nghiệp. Đây là nguồn vốn được dùng để tài trợ cho các hoạt động đầu
tư mang tính dài hạn của doanh nghiệp.
- Vốn tạm thời: Là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới một năm) mà
doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu có tính chất tạm thời, bất
thường phát sinh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
2.4. Phân loại vốn theo phương thức chu chuyển:
Trong quá trình sản xuất và tái sản xuất, vốn vận động một cách liên tục.
Nó biểu hiện bằng những hình thái vật chất khác nhau, từ tiền mặt đến tư liệu
lao động, hàng hoá dự trữ... Sự khác nhau về mặt vật chất này tạo ra đặc điểm
chu chuyển vốn, theo đó người ta phân chia vốn thành hai loại là vốn cố định và
vốn lưu động.
- Vốn cố định: Là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định, hay nói cách
khác: Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn sản xuất biểu hiện
dưới giá trị ban đầu để đầu tư vào các tài sản cố định nhằm phục vụ cho hoạt
động được kinh doanh, mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần
vào giá trị của sản phẩm qua nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần

hoàn khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng. Bộ phận vốn cố định trở về tay
người sở hữu (chủ doanh nghiệp) dưới hình thái tiền tệ sau khi tiêu thụ sản phẩm
hay dịch vụ hàng hoá của mình.
- Vốn lưu động: là một bộ phận của vốn sản xuất được biểu hiện bằng số
tiền ứng trước về tài sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của
doanh nghiệp được tiến hành một cách thường xuyên liên tục, nó được chuyển
toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm cà được thu hồi sau khi thu được tiền bán
sản phẩm.
10
Việc nghiên cứu các phương pháp phân loại vốn cho thay moõi phương
pháp có ưu điểm và nhược điểm khác nhau, từ đó doanh nghiệp có các giải
pháp huy động và sử dụng vốn phù hợp, có hiệu quả.
3. Các bộ phận cấu thành, đặc điểm vốn và nguồn vốn kinh doanh
của doanh nghiệp.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được cấu thành bởi hai bộ phận là vốn
cố định và vốn lưu động. Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp, ngành nghề
kinh doanh, công nghệ sản xuất áp trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật mà các
doanh nghiệp xác định được tỷ lệ vốn hợp lý. Việc xác định cơ cấu vốn là yếu
tố quan trọng, nó thể hiện trình độ quản lý và sử dụng vốn ở mỗi doanh nghiệp.
3.1. Vốn cố định của doanh nghiệp.
3.1.1. Khái niệm và đặc điểm vốn cố định.
Vốn cố định: là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định. Hay nói cách
khác: số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các tài sản cố
định vô hình và hữu hình nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh được gọi là vốn cố
định của doanh nghiệp. Đây là số vốn đầu tư ứng trước, số vốn này nếu được sử
dụng có hiệu quẩ sẽ không mất đi mà doanh nghiệp sẽ thu hồi lại sau khi tiêu thụ
các sản phẩm, hàng hoá hay dịch vụ của mình. Do đó, để biểu hiện rõ hơn về
vốn cố định của doanh nghiệp, chúng ta xem xét hình thái biểu hiện của nó, tức
là dựa trên cơ sở nghiên cứu về tài sản cố định.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần có tư liệu sản

xuất. Căn cứ vào tính chất, tác dụng, tư liệu sản xuất được chia thành hai bộ
phận là tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tư liệu lao động được sử dụng
để tác động vào đối tượng lao động, tạo ra sản phẩm cho doanh nghiệp. Đặc
điểm cơ bản của tư liệu lao động là chúng có thể tham gia trực tiếp hoặc gián
tiếp vào một hay nhiều chu kỳ sản xuất. Trong qua trình đó, giá trị của chúng bị
giảm đi mặc dù giá trị sử dụng vẫn như ban đầu. Phần giá trị giảm đi được
chuyển vào giá trị của sản phẩm. Do đó qua các chu kỳ, giá trị của tư liệu lao
động được chuyển dần vào giá trị của sản phẩm.
11
Tài sản cố định là bộ phận tư liệu lao động chủ yếu quan trọng nhất của
doanh nghiệp. Đó là những tư liệu lao động như máy móc thiết bị, nhà xưởng,
phương tiện vận chuyển... Khi tham gia vào sản xuất, chúng không bị thay đổi
về hình thái ban đầu, giá trị của chúng được chuyển dần vào giá trị của sản
phẩm. Sau một hay nhiều chu kỳ sản xuất giá trị của tài sản cố định sẽ được
chuyển hết vào giá trị của sản phẩm, khi đó tài sản cố định đã hết thời hạn sử
dụng. Quyết định số 1062/TC/QĐ/CSTC ngày 14/11/1996 của Bộ tài chính quy
định, mọi tư liệu lao động được coi là tài sản cố đinh thoả mãn đủ hai điều kiện
sau:
- Thời gian sử dụng tối thiểu là một năm
- Giá trị phải đạt đến một độ lớn nhất định. Hiện nay áp dụng mức tối
thiểu là 5 triệu đồng.
Như phân tích ở trên, khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, sự
vận động tài sản cố định có những đặc điểm sau:
- Về mặt hiện vật: Tài sản cố định tham gia hoàn toàn và nhiều lần vào
quá trình sản xuất kinh doanh và nó bị loại ra khỏi quá trình sản xuất kinh
doanh.
- Về mặt giá trị: Giá trị của tài sản số định sẽ được chuyển dịch dần từng
phần vào giá trị hàng hoá, sản phẩm mà nó tạo ra trong quá trình sản xuất.
Do đặc điểm về mặt hiện vật và giá trị của tài sản cố định đã quyết định
đến hình thái biểu hiện của vốn cố định trên hai góc độ đó là: Vốn dưới hình thái

hiện vật và vốn tiền tệ.
- Phần giá trị hao mòn của tài sản cố định được dịch chuyển dần vào giá
trị của sản phẩm gọi là khấu hao tài sản cố định. Bộ phận giá trị này là yếu tố chi
phí sản xuất và cấu thành nên giá thành sản phẩm, biểu hiện dưới hình thức tiền
tệ gọi là khấu hao tài sản cố định. Số tiền khấu hao này được trích lại và tích luỹ
thành quỹ gọi là quỹ khấu hao tài sản cố định, hay là vốn tiền tệ của doanh
nghiệp, nhằm mục đích để tái sản xuất tài sản cố định, duy trì năng lực sản xuất
12
của doanh nghiệp. Qua các chy kỳ sản xuất kinh doanh, phần vốn tiền tệ này
tăng dần.
- Phần giá trị còn lại của vốn cố định được cố định “trong hình thái hiện
vật của tài sản cố định mà doanh nghiệp đang sử dụng. Phần giá trị này giảm
dần qua các chy kỳ cùng với sự tăng lên của phần vốn tiền tệ. Khi tài sản cố
định hết thời hạn sử dụng cũng là lúc phần vốn hiện vật bằng không và phần vốn
tiền tệ đạt đến giá trị ứng ra ban đầu về tài sản cố định. Về mặt lý thuyết, doanh
nghiệp đã có thể đầu tư tài sản cố định mới với giá trị tương đương để thay thế
tài sản cũ. Vốn cố định đã hoàn thành một vòng luân chuyển.
Tài sản cố định là cơ sở vật chất kỹ thuật của sản xuất, là điều kiện quan
trọng để nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, tăng tích luỹ và
phát triển doanh nghiệp. Với vai trò quan trọng như vậy, nên việc nâng cao năng
suất, hiệu quả sử dụng tài sản cố định tức là việc tăng cường nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn cố định không những có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp,
mà còn góp phần cơ khí hoá, tự động hoá sản xuất kinh doanh, phát triển sản
xuất xã hội và phát triển nền kinh tế quốc dân.
3.1.2. Phân loại vốn cố định.
Để quản lý và sử dụng vốn cố định có hiệu quả, ta phải nghiên cứu các
phương pháp phân loại và kết cấu của tài sản cố định. Song, tuỳ theo từng căn
cứ khác nhau mà có thể phân chia tài sản cố định thành những loại khác nhau.
* Căn cứ váo hình thái biểu hiện: Tài sản cố định được chia thành:
- Tài sản cố định hữu hình: là những tư liệu lao động chủ yếu có hình

thái vật chất, có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu, tham gia vào nhiều chu kỳ
kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái ban đầu như: Nhà cửa, vật kiến trúc,
máy móc thiết bị, phương tiện vận tải...
- Tài sản cố định vô hình: là những tài sản cố định không có hình thái vật
chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều
chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như: chi phí bằng phát minh sáng chế,
nhãn hiệu sản phẩm...
13
* Căn cứ vào công dụng kinh tế : Tài sản cố định được chia thành:
- Nhà cửa, vật kiến trúc: là những tài sản cố định của doanh nghiệp được
hình thành sau quá trình thi công, xây dựng và được sử dụng trong quá trình sản
xuất kinh doanh như: Nhà xưởng, trụ sở làm việc...
- Máy móc thiết bị: là toàn bộ các loại máy móc thiết bị dùng trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: Máy thiết bị động lực, thiết bị
chuyên dùng, máy móc công tác...
- Phương tiện vận tải, truyền dẫn: là các phương tiện vận tải dùng cho
hoạt động vận chuyển sản phẩm, hàng hoá do quá trình kinh doanh tạo ra.
- Thiết bị và dụng cụ quản lý: là những thiết bị, dụng cụ dùng trong công
tác quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như máy vi tính, thiết bị
điện tử...
- Các loại tài sản cố định khác: là những loại tài sản cố định chưa được
liệt kê vào các loại trên.
* Căn cứ vào mục đích sử dụng: Tài sản cố định được chia thành:
- Tài sản cố định dùng cho mục đích sản xuất kinh doanh: là những tài
sản cố định dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh cơ bản và hoạt động sản
xuất kinh doanh phụ của công nghiệp như: nhà xưởng, máy móc thiết bị,
phương tiện vận tải...
- Tài sản cố định dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp an ninh quốc
phòng: là những tài sản cố định do doanh nghiệp quản lý và sử dụng vào các
hoạt động phúc lợi, sự nghiệp, đảm bảo an ninh quốc phòng của doanh nghiệp.

- Tài sản cố định của doanh nghiệp bảo quản, giữ hộ cho đơn vị khác
hoặc nhà nước theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
* Căn cứ vào hình thức sử dụng: Tài sản cố định được chia thành
- Tài sản cố định đang sử dụng: là những tài sản cố định của doanh
nghiệp đang sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động phúc lợi, sự
nghiệp an ninh quốc phòng của doanh nghiệp.
14
- Tài sản cố định chưa cần sử dụng: là những tài sản cố định cần thiết cho
hoạt động sản xuất kinh doanh hay các hoạt động khác của doanh nghiệp song
hiện tại chưa cần sử dụng, đang được dự trữ để sử dụng sau này.
- Tài sản cố định không cần sử dụng: là những loại tài sản không cần
thiết hay không phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
cần được thanh lý, nhượng bàn để thu hồi vốn đầu tư đã bỏ ra ban đầu.
Mỗi cách phân loại có các ý nghĩa khác nhau, cho phép nhà quản trị đánh
giá được tình hình tài sản cố đinh, xem xét kết cấu tài sản cố định của doanh
nghiệp. Từ đó có biện pháp tác động để sử dụng vốn cố định có hiệu quả hơn.
3.1.3. Cơ cấu vốn cố định:
Cơ cấu vốn cố định là tỷ lệ phần trăm của từng nhóm vốn cố định trong
tổng số vốn cố định. Nghiên cứu cơ cấu vốn cố định cho phép đánh giá việc đầu
tư có đúng đắn hay không và nó cho phép xác định hướng đầu tư vốn cố định
trong tương lai.
Cơ cấu vốn cố định và sự thay đổi của nó là những chỉ tiêu quan trọng nói
lên trình độ kỹ thuật, khả năng phát triển hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp giúp cho việc phát triển phương hướng tái sản xuất tài sản cố định.
3.1.4. Nguồn vốn cố định .
Vốn cố định được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như: nguồn vốn
pháp định, nguồn vốn tự bổ sung, nguồn vốn liên doanh liên kết.
- Nguồn vốn pháp định: gồm vốn cố định do ngân sách nhà nước cấp, do
cấp trên cấp phát cho doanh nghiệp, vốn cổ phần do xã viên hợp tác xã và các cổ
đông đóng góp bằng tài sản cố định, vốn pháp định do chủ sở hữu bỏ ra ban đầu

khi thành lập doanh nghiệp.
- Nguồn vốn tự bổ sung: gồm vốn cố định của những tài sản cố định đã
được đầu tư và mua sắm bằng quý của doanh nghiệp.
- Nguồn vốn liên doanh, liên kết: gồm các nguồn vốn do các đơn vị tham
gia liên doanh, liên kết đóng góp bằng tài sản cố định và bằng vốn đầu tư xây
dựng cơ bản đã hoàn thành.
15
3.2. Vốn lưu động.
Bên cạnh vốn cố định, một bộ phận khác không thể thiếu trong hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp đó là vốn lưu động.
3.2.1. Khái niệm và đặc điểm.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, bên cạnh tài sản cố định, doanh
nghiệp luôn có một khối lượng tài sản nhất định nằm rải rác trong các khâu của
quá trình sản xuất và tái sản xuất như: dự trữ chuẩn bị sản xuất, phục vụ sản
xuất, phân phối, tiêu thụ sản phẩm.
Đó chính là tài sản lưu động của doanh nghiệp. Tài sản lưu động chủ yếu
nằm trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp là các đối tượng lao động. Đối
tượng lao động kho tham gia vào quá trình sản xuất không giữ nguyên hình thái
vật chất ban đầu, bộ phận chủ yếu của đối tượng lao động sẽ thông qua quá
trình sản xuất tạo nên thực thể của sản phẩm, bộ phận khác sẽ hao phí mất đi
trong quá trình sản xuất. Đối tượng lao động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản
xuất, do đó toàn bộ giá trị của chúng được dịch chuyển 1 lần vào giá trị sản
phẩm và được thực hiện khi sản phẩm trở thành hàng hoá.
Bên cạnh một số tài sản lưu động nằm trong quá trình lưu thông, thanh
toán, sản xuất... thì doanh nghiệp còn có một số đối tượng lao động khác như vật
tư phụ tùng quá trình tiêu thụ, các khoản hàng gửi bán, các khoản phải thu...
Như vậy, dưới góc độ tài sản thì vốn lưu động được sử dụng để chỉ các tài
khoản lưu động. Vốn lưu động chịu sự chi phối bởi tính luân chuyển của tài sản
lưu động. Phù hợp với đặc điểm của tài sản lưu động, vốn lưu động của doanh
nghiệp cũng không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ sản xuất kinh

doanh: dự trữ, sản xuất và lưu thông. Vốn lưu động luôn được chuyển hoá qua
nhiều hình thái vật chất khác nhau và chuyển hoá phần lớn vào giá trị của sản
phẩm, phần còn lại chuyển hoá trong quá trình lưu thông. Quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách thường xuyên, liên tục nên vốn
lưu động cũng tuần hoàn không ngừng và mang tính chu kỳ. Vốn lưu động hoàn
thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh.
16
Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái
sản xuất. Muốn cho quá trình tái sản xuất được liên tục thì yêu cầu đặt ra đối với
doanh nghiệp là phải có đủ vốn lưu động để đầu tư vào các tư liệu lao động tồn
tại một cách hợp lý, đồng bộ với nhau trong một cơ cấu. Do đặc điểm của vốn
lưu động là trong quá trình sản xuất kinh doanh luân chuyển toàn bộ giá trị ngay
trong một lần, tuần hoàn liên tục đã quyết định sự vận động của vốn lưu động-
tức hình thái giá trị của tài sản lưu động là:
+ Khởi đầu vòng tuần hoàn : Vốn lưu động được dùng để mua sắm các
đối tượng lao động trong khâu dự trữ sản xuất. ở giai đoạn này vốn đã thay đổi
hình thái từ vốn tiền tệ sang vốn vật tư (T-H).
+ Tiếp theo là giai đoạn sản xuất: Các vật tư được chế tạo thành bán thành
phẩm và thành phẩm. ở giai đoạn này vốn vật tư chuyển hoá thành thành phẩm
và bán thành phẩm nhờ sức lao động và công cụ lao động (H-SX...-H

).
+ Kết thúc vòng tuần hoàn: Sau khi sản xuất được tiêu thụ, vốn lưu động
lại chuyển hoá sang hình thái vốn tiền tệ như điểm xuất phát ban đầu (H’-T’) (T’
> T).
Trong thực tế, sự vận động của vốn lưu động không diễn ra một cách tuần
tự như mô hình lý thuyết trên mà các giai đoạn vận động của vốn được đan xen
vào nhau, các chu kỳ sản xuất được tiếp tục lặp lại, vốn lưu động được liên tục
tuần hoàn và chu chuyển.
Trong doanh nghiệp, việc quản lý tốt vốn lưu động có vai trò rất quan

trọng. Muốn quản lý vốn lưu động, các doanh nghiệp phải phân biệt được các bộ
phận cấu thành vốn lưu động để trên cơ sở đó đề ra các biện pháp quản lý phù
hợp. Trên thực tế, vốn lưu động của doanh nghiệp bao gồm những bộ phận sau:
- Vốn bằng tiền: bao gồm tiền hiện có trong két và tiền gửi ngân hàng
của doanh nghiệp.
- Các khoản đầu tư ngắn hạn: bao gồm các tín phiếu kho bạc, thương
phiếu ngắn hạn...
17
- Các khoản phải thu: là một khoản mục tồn tại tất yếu trong nền kinh tế
thị trường. Bằng chứng của nó là các hoá đơn bán hàng, các tờ phiếu chấp nhận
trả tiền của người mua nhưng còn nhiều lý do mà người bán chưa thu được tiền
ngay.
- Khoản dự trữ: Việc tồn tại vật tư, hàng hoá dự trữ, tồn kho là bước đệm
cần thiết cho quá trình hoạt động thường xuyên của doanh nghiệp. Sự tồn tại này
trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là hoàn toàn khách quan.
Vốn lưu động có vai trò to lớn trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh
doanh. Vì vậy, để tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động, tất nhiên, chúng ta
phải quản lý trên tất cả các mặt, các khâu và từng thành phần vốn lưu động.
3.2.2. Cơ cấu vốn lưu động.
Cơ cấu vốn lưu động là tỷ lệ giữa các bộ phận cấu thành vốn lưu động và
mối quan hệ giữa các loại và của từng loại so với tổng số vốn kinh doanh. Xác
định cơ cấu vốn lưu động hợp lý có ý nghĩa quan trọng trong công tác sử dụng
hiệu quả vốn lưu động. Nó đáp ứng yêu cầu về vốn trong từng khâu, tưng bộ
phận, trên cơ sở đó đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn.
3.2.3. Phân loại vốn lưu động.
Để quản lý và sử dụng vốn lưu động có hiệu quả thì việc phân loại vốn
lưu động là rất cần thiết. Có nhiều phân loại vốn lưu động khác nhau, tuỳ thuộc
vào các tiêu thức phân loại.
 Căn cứ vào quá trình tuần hoàn và lưu chuyển vốn lưu động:

vốn lưu động được chia thành:
- Vốn dự trữ: là bộ phận dùng để mua nguyên vật liệu, nhiên liệu phụ
tùng thay thế dự trữ và chuẩn bị đưa vào sản xuất.
- Vốn trong sản xuất: là bộ phận dùng cho giai đoạn sản xuất như sản
phẩm dở dang, bán thành phẩm...
- Vốn trong lưu động: là bộ phận trực tiếp dùng cho giai đoạn lưu thông:
thành phẩm, vốn bằng tiền mặt.
18
 Căn cứ vào kế hoạch hoá, phương pháp xác định: vốn lưu đông
chia thành:
- Vốn định mức: là số vốn tối thiểu dùng để hoàn thành kế hoạch lưu
chuyển hàng hoá và kế hoạch sản xuất dịch vụ phụ thuộc. Vốn lưu động định
mức gồm có: vốn dự trữ hàng hoá và vốn phi hàng hoá.
+ Vốn dự trữ hàng hoá là số tiền ở các kho, cửa hàng, trạm, trị giá hàng
hoá trên đường vân chuyển và trị giá hàng hoá bằng chứng từ.
+ Vốn phi hàng hoá lầ số tiền định mức của vốn bằng tiền. Vốn phi hàng
hoá gồm vốn bằng tiền và các atài sản khác.
- Vốn không định mức: là số vốn lưu động có thể phat sinh trong quá
trình sản xuất kinh doanh và sản xuất dịch vụ phụ thuộc nhưng không có đủ căn
cứ để tính toán được.
Tuỳ theo mỗi cách phân loại vốn lưu động mà nhà quản trị sẽ đưa ra
những quyết định cụ thể trong việc quản lý và sử dụng vốn lưu động một cách
có hiệu quả nhất.
3.2.4. Nguồn vốn lưu động.
Nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp gồm có: vốn tự có, vốn coi như tự
có và vốn đi vay.
- Vốn tự có: Bao gồm:
+ Nguồn vốn pháp định: gồm vốn lưu động do ngân sách cấp hoặc cấp
trên cấp phát cho đơn vị ( cấp lần đầu hoặc bổ sung), nguồn vốn cổ phần nghĩa
vụ do các xã viên hợp tác xã hoặc các cổ đông đóng góp, hoặc vốn pháp định do

chủ doanh nghiệp tư nhân bỏ ra ban đầu khi thành lập doanh nghiệp.
+ Nguồn vốn tự bổ sung: hình thành từ kết quả sản xuất kinh doanh của
đơn vị thông qua quỹ khuyến khích phát triển sản xuất các khoản chênh lệch giá
hàng hoá tồn kho (theo cơ chế bảo toàn giá trị vốn)
+ Nguồn vốn liên doanh, liên kết: Gồm có các khoản vốn của các đơn vị
tham gia liên doanh, liên kết góp bằng tiền, hàng hoá, sản phẩm, nguyên vật
liệu...
19
- Vốn coi như tự có: do phương pháp kế toán hiện hành, có một số
khoản tiền tuy không phải của doanh nghiệp nhưng có thể sử dụng trong khoảng
thời gian rỗi để bổ sung vốn lưu động, người ta coi dố như khoản vốn tự có như:
tiền thuế, tiền lương, bảo hiểm xã hội, phí trích trước chưa đến hạn phải chi có
thể sử dụng và các khoản nợ khác.
- Nguồn vốn đi vay để đảm bảo thanh toán cho ngân hàng, nhà cung
ứng...trong khi hang chưa bán đã mua hoặc sự không khớp trong thanh toán,
doanh nghiệp phải có sự liên kết với các tổ chức cho vay để vay tiền. Nguồn vốn
đi vay là một nguồn quan trọng. Tuy nhiên, vay dưới hình thức khác nhau thì
chịu lãi suất khác nhau và phải trả kịp thời cả vốn lẫn lãi vay khi đến thời hạn
II. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VỐN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH CỦA DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI.
Kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh là sản
phẩm.Sản phẩm của doanh nghiệp có thể là hàng hoá, dịch vụ, có thể tồn tại ở
hình thức vật chất hay phi vật chất, nhưng chúng đều là kết quả của quá trình
dùng sức lao động và tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động để làm
biến đổi nó. Tư liệu lao động và đối tượng lao động là điều kiện vật chất không
thể thiếu được của quá trình sản xuất và tái sản xuất. Vì vậy, có thể nói vốn
(biểu hiện băng tư liệu lao động và đối tượng lao động) có vai trò quan trọng
cho sự ra đời, sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Song, trước đây trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, các xí
nghiệp quốc doanh đều được ngân sách nhà nước tài trợ vốn, nếu thiếu vốn sẽ

được ngân hàng cho vay với lãi suất ưu đãi. Đối với cơ chế bao cấp nặng nề như
vậy nên vai trò khai thác , thu hút vốn của doanh nghiệp không được đặt ra như
một nhu cầu cấp bách, có tính sồng còn đối với doanh nghiệp. Chế độ cấp phát,
giao nộp một mặt đã thủ tiêu tính cơ động của doanh nghiệp, mặt khác lại tạo ra
sự cân đối giả tạo về quan hệ cung- cầu vốn trong nền kinh tế. Đây là lý do chủ
yếu tại sao trong thời kỳ bao cấp lại vắng mặt, không vần thiết có thị trường
vốn.
20
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, vốn kinh doanh có tầm quan
trọng đặc biệt trong các doanh nghiệp. Và nền kinh tế thị trường thực sự là môi
trường để cho vốn bộc lộ đầy đủ bản chất, vai trò và tầm quan trọng của nó.
Thứ nhất, Vốn kinh doanh của sn có vai trò quyết định cho việc
thành lập, hoạt động và phát triển của doanh nghiệp. Vì vốn là một yếu tố đầu
vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh, là điều kiện vật chất không thể thiếu
được trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong phạm vi một doanh nghiệp có thể thấy rằng, điểm xuất phát
để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh là có một số vốn đầu tư ban đầu nhất
định. Vốn kinh doanh là điều kiện tiền đề cho doanh nghiệp có thể thực hiện các
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nếu không có vốn sẽ không có bất kỳ
một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cả, vốn kinh doanh là cơ sở để doanh
nghiệp tính toán, hoạch định các chiến lược và kế hoạch kinh doanh. Về mặt
pháp lý, tất cả các doanh nghiệp dù ở thành phần kinh tế nào, để được thành lập
và đi vào hoạt động thì nhất thiết cần phải có lượng vốn cần thiết tối thiểu theo
quy định của nhà nước hay còn gọi là vốn pháp định. Lượng vốn này nhiều hay
ít phụ thuộc vào loại hình doanh nghiệp của doanh nghiệp đó.
Thứ hai, Vốn kinh doanh giúp các doanh nghiệp tiến hành các hoạt
động sản xuất kinh doanh mọt cách liên tục có hiệu quả. Trong quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh, vốn kinh doanh của một doanh nghiệp không ngừng
được tăng lên tương ứng với sự tăng trưởng quy mô sản xuất, đảm bảo cho quá
trình tái sản xuất được tiến hành một cách liên tục. Nếu doanh nghiệp thiếu vốn

kinh doanh sẽ gây ra những tổn thất như : sản xuất đình trệ, không đảm bảo thực
hiện các hợp đồng đã ký kết với khách hàng, không đủ tiền để thanh toán với
nhà cung ứng kịp thời dẫn tới mất tín nhiệm trong quan hệ mua bán, và do đó sẽ
không giữ được khách hàng...Những khó khăn đó kéo dàn nhất định sẽ dẫn đến
thua lỗ, phá sải doanh nghiệp. Điều đó, đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn bảo đảm
đầy đủ, kịp thời vốn kinh doanh cho quá trinhd sản xuất, đáp ứng nhu cầu mở
rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
21
Thứ ba, Vốn kinh doanh là một trong những tiêu thức để phân loại
quy mô của doanh nghiệp xếp loại doanh nghiệp vào loại lớn, nhỏ hay trung
bình và là một trong những tiềm năng quan trọng để doanh nghiệp sử dụng hiệu
quả nguồn lực hiện có và tương lai về sức lao động, nguồn cung ứng, phát triển
mở rộng thị trường.
Thứ tư, Vốn kinh doanh không những là điều kiện tiên quyết để
các doanh nghiệp khẳng định được chỗ đứng của mình mà còn là điều kiện
thuận lợi tạo nên sự cạnh tranh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
Trong cơ chế thị trường, dưới tác động của quy luật canh tranh,
cùng với khát vọng lợi nhuận, các doanh nghiệp phải không ngừng phát triển
vốn kinh doanh của mình, cho nên nhu cầu về vốn kinh doanh của doanh nghiệp
là rất lớn. Để đảm bảo chiến thắng trong cạnh tranh, đảm bảo sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp, tât yếu các doanh nghiệp phải năng động nắm bắt nhu
cầu thị trường, đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, cải tiến quy trình công nghệ, đa
dạng hoá sản phẩm, hạ giá thành. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phai có
nhiều vốn. Vốn đã trở thành động lực và là yêu cầu cấp bách đối với tất cả các
doanh nghiệp. Chỉ có vốn trong tay mới có thể giúp doanh nghiệp đầu tư hiện
đại hoá sản xuất, tồn tại trong môi trường cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận.
Nhu cầu về vốnđể đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh, cho sự phát triển
ngành nghề mới đã trở thành một đòi hỏi cấp thiết với tất cả các doanh nghiệp
nói chung cũng như doanh nghiệp thương mại nói riêng. Như vậy, vốn kinh
doanh đóng vai trò quan trọng, là điều kiện tiên quyết trong quá trình đầu tư,

phát triển của doanh nghiệp, tạo lợi thế cạnh tranh và đứng vững trong nền kinh
tế thị trường.
Thứ năm, Vốn kinh doanh còn là công cụ phản ánh và đánh giá quá
trình vận động của tài sản, nghĩa là phản ánh và kiểm tra quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Thông qua sự vận động của vốn kinh doanh, các chỉ
tiêu tài chính như: hiệu quả sự dụng vốn, hệ thống thanh toán, hệ số sinh lời, cơ
cấu các nguồn vốn và cơ cấu phân phối sử dụng vốn… mà quản lý có thể nhận
22
biết được trạng thái vốn trong các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Với
khả năng đó, nhà quản lý có thể phát hiện ra các khuyết tật và nguyên nhân của
nó để điều chỉnh quá trình kinh doanh nhằm mục tiêu đã định.
Việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh trong điều kiện tiến
bộ của khoa học- kỹ thuật, công nghệ phát triển cao. Nhu cầu vốn đầu tư cho
hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng tăng nên việc tổ chức huy động vốn
ngày càng trở nên quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Huy động vốn đầy đủ
và kịp thời có thể giúp doanh nghiệp chớp thời cơ kinh doanh, tạo được lợi thế
trong cạnh tranh. Thêm vào đó việc lựa chọn các hình thức và phương pháp huy
động vốn thích hợp sẽ giảm bớt chi phí sử dụng vốn, điều đó tác động rất lớn
đến việc tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Từ những lý do trên, cho thấy việc tổ
chức đảm bảo đầy đủ, kịp thời vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh có tác động
rất mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh, nó quyết định sự tồn tại và phát triển
trong tương lai của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong sự cạnh tranh gay gắt của thị trường, việc huy
động được vốn mới chỉ là bước đi đầu, quan trọng hơn và quyết đinh hơn là
nghiệ thuật phân bố, sử dụng vốn có hiệu quả cao nhất ảnh hưởng đến vị thế của
doanh nghiệp trên thương trường.Vì vậy, phải có những biện pháp sử dụng, bảo
toàn và mở rộng vốn kinh doanh hiệu quả, từ đó mới giúp doanh nghiệp tồn tại
và ngày càng phát triển trong cơ chế thị trường.
Qua những sự phân tích ở trên ta thấy, vốn kinh doanh có tầm quan
trọng to lơn. Do đó, vấn đề sử dụng vốn trong kinh doanh có ảnh hưởng rất lớn

đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mục đích của sử dụng vốn trong
kinh doanh là nhằm đảm bảo nhu cầu tối đa về vốn cho việc phát triển kinh
doanh hàng hoá trên cơ sở nguồn vốn có hạn được sử dụng một cách hợp lý, tiết
kiệm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Để đạt được mục đích trên, yêu cầu cơ bản của sử dụng vốn là:
- Bảo đảm sử dụng vốn đúng phương hướng, đúng mục đích và đúng kế
hoạch kinh doanh của doanh nghiệp.
23
- Chấp hành đúng các quy định và chế độ quản lý lưu thông tiền tệ của
nhà nước.
- Hạch toán đầy đủ, chính xác, kịp thời số vốn hiện có và tình hình sử
dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Những biện pháp cần phải áp dụng để sử dụng vốn có hiệu quả kinh tế là:
Một là: Tăng nhanh vòng quay của vốn lưu động hay rút ngắn số ngày
lưu chuyển của hàng hoá.
Đẩy mạnh bán ra, thu hút nhiều khách hàng trên cơ sở chất lượng
hàng hoá tốt và số lượng đảm bảo.
Mở rộng lưu chuyển hàng hoá trên cơ sở ăng năng suất lao động,
tăng cường mạng lưới bán hàng để phục vụ thuận tiện cho khách hàng.
Tổ chức hợp lý, tránh ứ đọng, tồn kho thừa, hàng chậm kưu
chuyển.
Hai là: Tiết kiệm chi phí sử dụng hợp lý tài sản, giảm thiệt hại:
+ Tiết kiệm chi phí lưu thông
+ Mua hàng tận người sản xuất, tận nơi bán hàng
+ Sử dụng các máy móc, thiết bị phương tiện, cả về thời gian và công
suất, đổi mới kỹ thuật, áp dụng kinh nghiệm tiên tiến tring việc xuất nhập, dự trữ
bảo quản.
+ Cho thuê các cơ sở và phương tiện thừa hoặc trong thời gian chưa sử
dụng; hoặc liên doanh liên kết để sử dụng hết năng lực của tài sản cố đinh.
Ba là: Tăng cường công tác quản lý tài chính:

- Hạch toán, theo dõi đầy đủ, chính xác, kịp thời tình hình thu chi của
doanh nghiệp.
- Chấp hành việc thanh toán để giảm chi phí lãi vay ngân hàng
- Quản lý chặt chẽ vốn, chống tham ô, lãng phí và giảm những thiệt hại do
vi phạm hợp đồng, vay, trả của doanh nghiệp.
24
III. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Để đánh giá trình độ quản lý, điều hành hoạt động của mỗi doanh
nghiệp, người ta thường sử dụng thước đo là hiệu quả kinh tế hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp đó. Đây là một phạm trù phản ánh trình độ sử
dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất với chi phí
hợp lý nhất. Do vậy, các nguồn lực kinh tế đặc biệt là nguồn vốn kinh doanh của
doanh nghiệp có tác động rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu câu mang tính thường xuyên
và bắt buộc đối với bất cứ doanh nghiệp nào trong nền kinh tế thị trường. Đánh
giá hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp ta thấy được hiệu quả của hoạt động sản xuất
kinh doanh nói chung và trình độ quản lý sử dụng vốn nói riêng
Thật vậy, sử dụng vốn trong kinh doanh thương mại là một khâu có
tầm quan trọng, quyết định đến hiệu quả của kinh doanh. Trong điều kiện nền
kinh tế thị trường, một doanh nghiệp quản lý tài chính yếu kém, không bảo toàn
được vốn, để mất vốn, sử dụng vốn không tiết kiệm, sai mục đích, doanh thu
không đủ bù đắp chi phí, tình trạng thua lỗ kéo dài thì ta có thể nói doanh nghiệp
đó sử dụng vốn kém hiệu quả. Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải
luôn luôn tìm cách bảo toàn, sử dụng vốn có hiệu quả và phải có biện pháp
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đây là một vấn đề không đơn giản và
không phải doanh nghiệp nào cũng làm được, nhất là trong điều kiện nền kinh tế
còn chưa ổn định.
Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế

phản ánh trình độ khai thác, sử dụng và quản lý nguồn vốn, làm cho đồng vốn
sinh lời tối đa, nhằn mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở
hữu. Hiệu quả sử dụng vốn được lượng hoá thông qua các chỉ tiêu về hiệu suất,
hiệu quả sử dụng vốn cố định, vốn lưu động, mức sinh lời và tốc độ chu chuyển
của vốn lưu động... Nó phản ánh mối quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá
25

×