Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

tăng cường huy động vốn tại ngân hàng công thương việt nam chi nhánh tuyên quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.57 KB, 56 trang )

MỤC LỤC
CHƯƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM.3
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 53
LỜI MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam hiện nay, vốn đang trở thành một vấn đề cấp thiết cho quá trình
tăng trưởng và phát triển nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên để huy động được khối
lượng vốn lớn từ nền kinh tế trong nước là một thách thức lớn đối với nền kinh tế
Việt Nam nói chung và đối với hệ thống Ngân hàng thương mại nói riêng. Trong
điều kiện thị trường chứng khoán phát triển chưa tương xứng với nhu cầu rất lớn
của nền kinh tế thì quá trình nhận và điều chuyển vốn trên thị trường chủ yếu được
thực hiện thông qua hệ thống Ngân hàng thương mại. Vì vậy, việc tăng cường công
tác huy động vốn, đảm bảo chất lượng và số lượng vốn luôn là vấn đề được quan
tâm hàng đầu trong quá trình hoạt động của bất kỳ một Ngân hàng thương mại nào.
Nhận thấy công tác huy động vốn luôn giữ vị trí rất quan trọng đối với hệ
thống NHTM trong việc đáp ứng vốn cho đầu tư phát triển kinh tế, góp phần thực
hiện chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước. Hơn nữa trong thời gian gần đây
việc huy động vốn của Ngân hàng đang gặp phải rất nhiều khó khăn do tình trạng
khan hiếm vốn đối với các NHTM nói chung, do vậy đây là một vấn đề đang được
các Ngân hàng rất quan tâm. Vì lý do này em đã chọn đề tài: “Tăng cường huy
động vốn tại Ngân hàng Công Thương Việt Nam chi nhánh Tuyên Quang”.
Đề tài tập trung vào nghiên cứu các nghiệp vụ huy động vốn NHTM trong
nền kinh tế thị trường, nghiên cứu thực trạng huy động tại chi nhánh Ngân hàng Công
Thương Việt Nam chi nhánh Tuyên Quang. Qua đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: hoạt động huy đông vốn tại Ngân hàng Công
Thương Việt Nam chi nhánh Tuyên Quang.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động
huy động vốn tại NHCT VN chi nhánh Tuyên Quang từ năm 2010 đến quý I năm 2013.
Phương pháp nghiên cứu: để thực hiện nghiên cứu, đề tài sử dụng phương pháp
thống kê, miêu tả, tổng hợp số liệu và so sánh số liệu giữa các năm, các chỉ tiêu để thấy
được những kết quả đạt được cũng như những hạn chế tồn đọng trong quá trình huy
động vốn.


Ngoài phần lời mở đầu và phần kết luận, kết cấu của chuyên đề gồm 3
chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về huy động vốn của NHTM.
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại chinh nhánh Ngân hàng Công
Thương Việt Nam chi nhánh Tuyên Quang
Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng Công
Thương Việt Nam chi nhánh Tuyên Quang trong thời gian tới.
1
Do thời gian và kiến thức còn hạn chế, chuyên đề không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Với ý thức cầu tiến, em rất mong nhận được sự góp ý chân thành
của thầy cô và các bạn. Em cũng xin chân thành cảm ơn chân thành đến các anh chị
trong phòng nguồn vốn kinh doanh nói riêng và toàn thể cán bộ trong chi nhánh
Ngân hàng Công Thương Việt Nam chi nhánh Tuyên Quang nói chung đã hết sức
giúp đỡ em trong quá trính thực tập tại đơn vị.
2
CHƯƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM
1.1 HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA NHTM
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm hoạt động NHTM
1.1.1.1 Khái niệm
Khi nền sản xuất hàng hoá đã phát triển đến một trình độ nhất định, lưu
thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ đã được mở rộng thì trong nền kinh tế cũng
đồng thời xuất hiện những người nắm giữ một khoản tiền tạm thời không dùng đến
và những người cần tiền trong một khoảng thời gian nhất định để kinh doanh. Trước
tình hình đó, vào nửa cuối thế kỷ 16 ở Châu Âu đã ra đời một số Ngân hàng đầu
tiên mà tiền thân là những tổ chức cho vay nặng lãi chuyển hoá thành. Lúc này hoạt
động của Ngân hàng mới chỉ là nhận giữ hộ tiền và cho vay.
Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, hoạt động của NHTM
cũng từng bước được củng cố và hoàn thiện, chuyển hoá dần theo hướng đa năng. Ở
Việt Nam, theo Luật các Tổ chức Tín dụng, nhà lập pháp định nghĩa rằng “Hoạt
động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung

thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng các
dịch vụ thanh toán”.
1.1.1.2 Đặc điểm hoạt động NHTM
Căn cứ vào khái niệm trên thì hoạt động của NHTM có thể được nhận dạng
thông qua một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, hoạt động NHTM là loại hình kinh doanh với mục đích kiếm lời
(bao gồm 2 hình thức chủ yếu là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng). Trong
đó, hoạt động kinh doanh tiền tệ được biểu hiện ở nghiệp vụ huy động vốn dưới các
hình thức khác nhau để cấp tín dụng cho khách hàng có nhu cầu về vốn với mục
tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Còn hoạt động dịch vụ Ngân hàng được biểu hiện thông
qua các nghiệp vụ sẵn có về tiền tệ, thanh toán, ngoại hối và chứng khoán để cam
kết thực hiện công việc nhất định cho khách hàng trong một thời hạn nhất định
nhằm mục đích thụ hưởng tiền công dịch vụ do khách hàng chi trả dưới dạng phí
hay hoa hồng.
Thứ hai, hoạt động NHTM là loại hình hoạt động kinh doanh có điều kiện,
nghĩa là chỉ khi nào NHTM thoả mãn đầy đủ những điều kiện khắt khe do pháp luật
quy định (vốn pháp định, phương án kinh doanh ) thì mới được phép hoạt động
trên thị trường.
Thứ ba, hoạt động NHTM là loại hình kinh doanh có độ rủi ro cao hơn nhiều
so với các loại hình kinh doanh khác và thường có ảnh hưởng sâu sắc, mang tính
3
chất dây chuyền đối với nền kinh tế. Sở dĩ nói như vậy là vì, trong hoạt động Ngân
hàng, đặc biệt là hoạt động kinh doanh tiền tệ, do các NHTM phải tiến hành huy
động vốn của người khác để cấp tín dụng cho khách hàng và trên nguyên tắc
NHTM chỉ có thể đòi tiền của người vay sau một thời hạn nhất định, nên đã tạo ra
khả năng rủi ro cao cho hoạt động Ngân hàng, kéo theo đó là sự rủi ro đối với người
gửi tiền ở NHTM, cũng như rủi ro đối với nền kinh tế. Vì vậy, hoạt động Ngân hàng
ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế gới thường được điều chỉnh và kiểm soát hết
sức chặt chẽ bằng những đạo luật riêng biệt, nhằm đảm bảo cho hoạt động này được
vận hành an toàn và hiệu quả trong nền kinh tế thị trường.

1.1.2 Các hoạt động chủ yếu của NHTM
Hoạt động và vai trò của NHTM không phải là bất biến, mà liên tục phát
triển theo điều kiện kinh tế xã hội. Ngày nay, hoạt động của NHTM rất phong phú
và đa dạng, tuỳ điều kiện kinh tế và mức độ phát triển kỹ thuật của mỗi quốc gia mà
các nghiệp vụ kinh doanh của các NHTM có thể khác nhau về phạm vi và công
nghệ.
Nếu căn cứ vào bảng tổng kết tài sản của NHTM thì hoạt động của NHTM
bao gồm: Các hoạt động trong bảng tổng kết tài sản và Các hoạt động ngoài bảng
tổng kết tài sản.
1.1.2.1 Các hoạt động trong bảng tổng kết tài sản
1.1.2.1.1 Huy động vốn
Đây là nghiệp vụ khởi đầu, tạo điều kiện cho mọi hoạt động của NHTM. Khi
một NHTM cần vốn cho hoạt động kinh doanh của mình thì có thể huy động ở một
số nguồn chính như : Nguồn vốn chủ sở hữu, Nguồn tiền gửi, Nguồn vay mượn và
một số nguồn khác.
* Huy động vốn chủ sở hữu:
Về khía cạnh kinh tế, vốn chủ sở hữu là vốn riêng có của NHTM do các chủ
sở hữu đóng góp và các quỹ của ngân hàng được hình thành trong quá trình kinh
doanh được thể hiện ở dạng lợi nhuận để lại. Nguồn vốn này có tính ổn định cao,
NHTM không phải hoàn lại. Nó có vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho các hoạt
động mở rộng quy mô của các NHTM (liên doanh, liên kết, mở rộng mạng lưới ).
Các NHTM thường huy động nguồn này thông qua nghiệp vụ phát hành cổ phiếu,
trái phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu, nhận vốn cấp phát của Ngân sách Nhà
nước Nhìn chung việc huy động dưới hình thức này là do tính chất sở hữu của
NHTM quyết định.
4
* Huy động từ tiền gửi:
Nguồn vốn chủ sở hữu thường có tỷ lệ nhỏ so với số tiền mà NHTM sử dụng
trong hoạt động kinh doanh. Vì vậy phần lớn là NHTM phải huy động từ nguồn tiền
gửi. Đặc điểm cơ bản của nguồn vốn này là NHTM chỉ được quyền sử dụng nó

trong một thời gian nhất định còn quyền sở hữu nó thuộc về những người gửi tiền.
Dựa vào tính khả dụng của vốn thì NHTM có thể huy động dưới các hình thức sau:
-Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi hoàn toàn theo mục đích khả dụng.
Mục đích của khách là muốn sử dụng các tiện ích của NHTM cung ứng. NHTM có
nhiệm vụ phải chi trả bất cứ lúc nào mà khách hàng yêu cầu.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi có sự tham thoả thuận về thời gian rút
tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Trong thời gian này ngân hàng có quyền chủ
động sử dụng tiền do khách hàng ký gửi. Nếu khách hàng muốn rút tiền trước hạn
phải được sự đồng ý của ngân hàng.
- Tiền gửi tiết kiệm: Đây là một bộ phận thu thập bằng tiền của các cá nhân
tạm thời nhàn rỗi được gửi vào NHTM dưới nhiều hình thức: Tiết kiệm không kỳ
hạn, tiết kiệm có kỳ hạn, tiết kiệm mua nhà Với mục đích chủ yếu là tiết kiệm và
sinh lời.
* Nguồn vay mượn:
Sau khi đã sử dụng hết vốn, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho vay
vốn của khách hàng hoặc phải đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi trả của khách
hàng, các NHTM có thể sử dụng nghiệp vụ đi vay ở Ngân hàng trung ương, ở các
NHTM khác, vay ở thị trường tiền tệ, vay các tổ chức nước ngoài, Vốn đi vay
thông thường chiếm tỷ trọng không lớn trong kết cấu nguồn vốn. Tuy nhiên, nó rất
cần thiết và có vị trí quan trọng để đảm bảo cho Ngân hàng hoạt động kinh doanh
một cách bình thường.
* Huy động từ các nguồn khác: Ngoài một số nguồn cơ bản trên thì NHTM
có thể huy động vốn thông qua nghiệp vụ Ngân hàng đại lý, Ngân hàng phục vụ,
uy tín của NHTM là cơ sở quan trọng để mở rộng nguồn vốn này.
1.1.2.1.2 Sử dụng vốn
Huy động được vốn nhàn rỗi, NHTM phải cân nhắc để hiệu quả hoá những
nguồn vốn huy động được. Với mục tiêu chủ yếu là an toàn và sinh lời, hoạt động
sử dụng vốn của NHTM tập trung ở ba nghiệp vụ chính: Dự trữ, Cho vay và Đầu tư.
* Dự trữ:
Dự trữ là nghiệp vụ nhằm duy trì khả năng thanh toán của ngân hàng để đáp

ứng nhu cầu chi trả cho khách hàng. NHTM phải duy trì một bộ phận vốn (bằng
tiền mặt) để thực hiện nghiệp vụ dự trữ. Mức dự trữ này cao hay thấp tuỳ thuộc vào
5
quy mô hoạt động của NHTM, mối quan hệ thanh toán và chuyển khoản, thời vụ
của các khoản chi trả tiền mặt.
Tiền dự trữ bao gồm: Dự trữ bắt buộc và dự trữ thặng dư. Chúng được
hình thành bởi các nguồn: Tiền mặt tại két của NHTM, Tiền gửi tại Ngân hàng
trung ương, Tiền gửi ở các tổ chức tín dụng, Tiền đang trong quá trình thu.
* Cho vay:
Cho vay là nghiệp vụ chủ yếu của NHTM để tạo ra lợi nhuận. Nguồn thu từ
hoạt động cho vay thường chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng thu nhập của ngân hàng.
Tuy nhiên, nó cũng là lĩnh vực có nhiều rủi ro và phức tạp nhất. Rủi ro tín dụng có
thể do ý muốn chủ quan của ngân hàng như : Xây dựng chiến lược sai, Thẩm định
hồ sơ không chính xác, Cho vay không tuân theo nguyên tắc, cũng có thể do
nguyên nhân khách quan như: Hoả hoạn, lũ lụt, Hoạt động cho vay liên quan chặt
chẽ với tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế từ tiêu dùng đến sản xuất kinh doanh.
Do vậy, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nghiệp vụ cho vay ngày càng đa
dạng nhằm thoả mãn nhu cầu về vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện tăng lợi nhuận
cho ngân hàng. Các hình thức cho vay chủ yếu như: Cho vay ngắn hạn, Cho vay
trung và dài hạn, Cho vay có đảm bảo,
* Đầu tư:
Hoạt động này bao gồm đầu tư chứng khoán và các hoạt động đầu tư khác:
- Đầu tư chứng khoán: Nghiệp vụ này mang lại cho NHTM một khoản lợi
nhuận tương đối lớn (sau cho vay). Trong trường hợp chưa tìm ra khách hàng đáng
tin cậy để cho vay thì đầu tư chứng khoán là nơi giải quyết vốn một cách hữu hiệu
nhất cho NHTM. Tuy nhiên, nó cũng chứa nhiều rủi ro. Vì vậy NHTM cần phân
tích kỹ lưỡng trước khi lựa chọn loại chứng khoán nào để đầu tư.
- Ngoài ra, NHTM có thể đầu tư nhằm mục đích sinh lợi bằng nhiều hình
thức khác như góp vốn liên doanh, đầu tư vào trang thiết bị,
1.1.2.1.3 Hoạt động môi giới trung gian

Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ Ngân hàng theo đó cũng phát triển
theo để đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của công chúng. Thực hiện các hoạt
động trung gian mang tính dịch vụ sẽ đem lại cho các NHTM những khoản thu
nhập khá quan trọng. Điều cần lưu ý là các dịch vụ Ngân hàng sẽ giúp NHTM phát
triển toàn diện. ở các nước phát triển, các NHTM cạnh tranh với nhau bằng con
đường “phi giá”, tức là luôn có những dịch vụ mới cung cấp tiện nghi cho khách
hàng. Dịch vụ Ngân hàng càng phát triển thể hiện xã hội công bằng văn minh, nền
công nghiệp càng phát triển. Lợi nhuận của NHTM không chỉ ở đầu tư, cho vay, mà
gần phần nửa ở các dịch vụ, nhưng lại là lĩnh vực ít rủi ro.
6
Nghiệp vụ trung gian của NHTM rất đa dạng và phong phú như : Dịch vụ
chuyển tiền từ địa phương này sang địa phương khác, Dịch vụ chuyển khoản, Dịch
vụ khấu trừ tự động, Thu chi hộ, Qua đó NHTM sẽ thu được một khoản phí dịch
vụ.
1.1.2.2 Các hoạt động ngoài bảng tổng kết tài sản
Ngoài các giao dịch được phản ánh trong nội bảng (huy động vốn, sử dụng
vốn, môi giới trung gian), các NHTM còn tham gia vào hoạt động chưa được thừa
nhận là tài sản nợ hoặc tài sản có. Các hoạt động này hiện đang được theo dõi ở các
tài khoản ngoại bảng. Một số hoạt động ngoại bảng chủ yếu như: Bảo lãnh công nợ,
các hợp đồng có liên quan đến lãi suất, các giao dịch về hối đoái như giao dịch
Swaps, Options, Futrues, các chứng từ có giá, Mặc dù sự biến động của các giao
dịch ngoại bảng không làm thay đổi kết cấu, cân số của bảng tổng kết tài sản, nhưng
vì nó cũng là một hiện tượng kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh nên độ rủi
ro của nó cũng tác động mạnh mẽ đến độ an toàn của NHTM.
Do đó, khi phân tích hoạt động của NHTM, bên cạnh việc nghiên cứu các
hoạt động bảng tổng kết tài sản, các nhà quản trị cần phải quan tâm đến mức độ và
diễn biến các hoạt động ngoại bảng vì độ rủi ro của các hoạt động này cũng làm ảnh
hưởng không ít đến kết quả kinh doanh chung của NHTM.
Tóm lại, hoạt động của NHTM luôn gắn liền với nền kinh tế, nền kinh tế
càng phát triển cao, hoạt động của NHTM càng đa dạng và phong phú. Hơn nữa,

các hoạt động của NHTM có mối quan hệ rất chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau, tạo thành
một chỉnh thể thống nhất trong quá trình hoạt động kinh doanh của NHTM.
1.2 HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM
Vốn vừa mang tính chất tiền đề vừa là vấn đề xuyên suốt quá tình hình thành
và phát triển của NHTM. Mục tiêu tổng quát của NHTM là an toàn và sinh lời trong
kinh doanh. Do đó, việc tạo lập một nguồn vốn vững chắc, đảm bảo cho sự phát
triển bền vững của ngân hàng là điều rất cần thiết. Mỗi Ngân hàng hoạt động trong
một môi trường, điều kiện cụ thể sẽ có các nghiệp vụ huy động vốn khác nhau.
Song nhìn chung các NHTM thường áp dụng một số nghiệp vụ cơ bản sau:
1.2.1 Huy động vốn chủ sở hữu
Nguồn huy động vốn chủ sở hữu thông thường gồm vốn tự có và một số quỹ
mang tính chất đặc thù của mỗi quốc gia (như Quỹ đầu tư phát triển do Chính phủ
cấp cho một số NHTM quốc doanh ở Việt Nam).
Vốn tự có của NHTM cũng được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau.
Trong phạm vi bài viết này chúng ta chỉ xem xét dưới các hình thức như: Vốn pháp
định, vốn điều lệ và các quỹ.
7
Vốn pháp định: Điều kiện hàng đầu để khởi nghiệp trước khi được phép khai
trương Ngân hàng là phải có đủ vốn ban đầu theo luật định. Ở Việt Nam, để thành
lập một NHTM trước hết phải có đủ vốn pháp định theo mức quy định của NHNN.
Vốn pháp định của mỗi ngân hàng được hình thành do tính chất sở hữu của ngân
hàng quyết định. Theo quy định của Việt Nam có thể khái quát như sau: Nếu là
NHTM thuộc sở hữu nhà nước, vốn pháp định do Ngân sách Nhà nước cấp 100%
vốn ban đầu; Nếu là NHTM cổ phần, vốn pháp định do sự đóng góp của cổ đông
dưới hình thức phát hành cổ phiếu; Nếu là NHTM liên doanh, vốn pháp định là vốn
đóng góp cổ phần của ngân hàng tham gia liên doanh.
Vốn điều lệ là vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của NHTM. Vốn điều lệ
ít nhất phải bằng mức vốn pháp định do NHNN công bố vào đầu mỗi năm tài chính.
Vốn điều lệ quy định cho một ngân hàng nhiều hay ít tuỳ thuộc vào quy mô và
phạm vi hoạt động của ngân hàng đó (vốn điều lệ bao hàm cả vốn pháp định).

Ngoài ra vốn tự có của NHTM còn có các quỹ dự trữ ngân hàng (đây là các
quỹ buộc phải trích lập trong quá trình tồn tại và hoạt động của ngân hàng) như:
Quỹ bảo toàn vốn, Quỹ phúc lợi, Quỹ khấu hao tài sản cố định
Nguồn vốn tự có của NHTM thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn
vốn của một ngân hàng, nhưng lại là nguồn vốn rất quan trọng, vì nó cho thấy thực
lực, quy mô của ngân hàng, nó là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác, là vốn khởi
đầu tạo uy tín của ngân hàng đối với khách hàng. Hơn nữa nguồn vốn này có tính
ổn định cao, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tài trợ cho các tài sản cố định
của NHTM, tài trợ cho hoạt động liên doanh liên kết, mở rộng mạng lới, hay để
chống rủi ro Qua đó nhằm hướng tới mở rộng quy mô hoạt động của ngân hàng.
Theo đà phát triển, nguồn vốn này sẽ được gia tăng về số lượng tuyệt đối
thông qua các nghiệp vụ của mỗi NHTM có thể áp dụng như sau:
- Tăng cường và bổ sung thêm vốn điều lệ bằng cách huy động thêm vốn từ
các cổ đông, phát hành cổ phiếu, trái phiếu có thể chuyển thành cổ phiếu Các
nghiệp vụ huy động này thường được các NHTM cổ phần áp dụng. Tuy nhiên, việc
phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu sẽ gây áp lực
đối với các cổ đông cũ của ngân hàng, việc tăng thêm cổ phần sẽ kéo theo sự suy
giảm tương đối về cổ tức đối với các cổ đông.
- Đối với NHTM quốc doanh hay NHTM liên doanh thì có thể tăng thêm vốn
tự có thông qua sự cấp thêm vốn của Chính phủ hay đóng góp thêm vốn của các bên
liên doanh.
8
- Ngoài ra, nguồn vốn tự có của NHTM còn được bổ sung thêm từ kết quả
hoạt động kinh doanh của ngân hàng thông qua việc trích lập các quỹ dự trữ và một
số quỹ khác.
Bên cạnh nguồn vốn tự có, ở một số quốc gia mà cụ thể là ở Việt Nam, một
số NHTM như: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Công
Thương Việt Nam còn được Chính phủ cấp vốn dưới hình thức quỹ đầu tư phát
triển để cho vay lại theo kế hoạch Nhà nước chỉ định. Nguồn này có tính ổn định
tương đối cao, trong thời gian ngắn Nhà nước chưa yêu cầu Ngân hàng trả gốc và

lãi cho khoản tiền này mà Ngân hàng chỉ phải trích lập quỹ để bảo toàn nguồn vốn
theo quy định. Uy tín và hiệu quả trong kinh doanh của Ngân hàng chính là cơ sở để
thu hút nguồn vốn ổn định này.
Tóm lại, nguồn vốn chủ sở hữu là nguồn vốn đóng vai trò nền tảng, là cơ sở
để thu hút các nguồn vốn khác. Tuy nó chiếm một tỷ trọng không lớn trong cơ cấu
nguồn vốn của NHTM nhưng có ý nghĩa quyết định tới sự hình thành và phát triển
của ngân hàng; mặc dù công tác huy động không thuận lợi, phụ thuộc nhiều vào kết
quả kinh doanh của ngân hàng nhưng việc tăng cường mở rộng nguồn vốn này một
cách hợp lý là rất quan trọng đối với tất cả các NHTM.
1.2.2 Huy động tiền gửi
Ở Việt Nam, theo luật các tổ chức tín dụng thì tiền gửi nói chung được hiểu
là số tiền của khách hàng gửi tại tổ chức tín dụng dưới nhiều hình thức tiền gửi
không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Trên
phương diện chủ thể gửi tiền thì tiền gửi có thể được chia thành hai loại: Tiền gửi
của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã hội, và Tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
1.2.2.1 Tiền gửi giao dịch (tiền gửi thanh toán)
Một trong những dịch vụ lâu đời nhất mà ngân hàng cung cấp là nhận tiền
gửi để thanh toán hộ khách hàng. Tiền gửi giao dịch đòi hỏi ngân hàng phải thanh
toán ngay lập tức một lệnh rút tiền cho một cá nhân hay cho bên thứ ba, được chỉ rõ
là người thụ hưởng.
* Tiền gửi giao dịch hưởng lãi
Sự kết hợp giữa tiền gửi giao dịch không hưởng lãi và tiền gửi tiết kiệm đã
xuất hiện dưới hình thức tài khoản NOW (negoyiable order of withdrawal) tài
khoản lệnh rút tiền có thể thương lượng. NOW là tài khoản giao dịch được hưởng
lãi, do đó nó cho phép ngân hàng đòi hỏi khách hàng phải thông báo trước về việc
rút tiền. Do đòi hỏi này ít được thực hiện nên NOW được sử dụng như một tài
khoản phát séc để chi trả cho việc mua bán hàng hoá và dịch vụ. Tuy nhiên loại tài
khoản này chỉ có thể được nắm giữ bởi cá nhân và các tổ chức phi lợi nhuận. Ngân
9
hàng khi đó có nghiệp vụ là chuyển vốn tự động và khách hàng uỷ quyền trước cho

ngân hàng trong việc chuyển vốn từ tài khoản tiết kiệm sang tài khoản phát séc để
bù đắp thấu chi. Kết quả cuối cùng là khách hàng hưởng lãi trên tài khoản giao dịch
tương đương với lãi thu được từ tài khoản tiền tiết kiệm.
Hiện nay có hai loại tài khoản tiền gửi cạnh tranh nhau: Tài khoản tiền gửi
trên thị trường tiền tệ (MMDA) và tài khoản “Supper NOW”. Hai loại tài khoản này
được trả lãi theo lãi suất trên thị trường tiền tệ và khách hàng có thể thực hiện thanh
thoán cho các giao dịch mua hàng hoá và dịch vụ thông qua việc phát séc hay hối
phiếu uỷ quyền trước.
1.2.2.2 Tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội
Đây là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình sản xuất kinh
doanh, quá trình hoạt động của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã hội và
được các đơn vị này gửi vào ngân hàng nhằm mục đích sinh lời. Khoản vốn này tạm
thời được giải phóng ra khỏi quá trình luân chuyển vốn nhưng chưa có nhu cầu sử
dụng trong ngắn hạn.
Đây là nguồn chiếm tỷ trọng không lớn trong cơ cấu nguồn vốn cũng như là
trong cơ cấu vốn nói chung của NHTM. Bởi lẽ trong quá trình sản xuất kinh doanh
của mình, các doanh nghiệp ít khi có một lượng vốn nhàn rỗi trong một thời gian
dài và nếu có chỉ là một lượng nhỏ mà thôi. Các tổ chức kinh tế- xã hội có vẻ khả
quan hơn về mặt kỳ hạn nhưng lượng vốn họ có lại không đủ lớn. Tuy vậy nguồn
vốn này vẫn không thể thiếu trong cơ cấu tạo nên nguồn vốn của một ngân hàng.
Cũng như tiền gửi có kỳ hạn nói chung, các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế- xã
hội khi gửi tiền vào ngân hàng cũng phải có sự thoả thuận về kỳ hạn của khoản tiền
đó.
Như vậy về nguyên tắc, người gửi tiền chỉ có thể rút tiền ra theo thời hạn đã
thoả thuận. Tuy nhiên trên thực tế do quá trình cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động
ngân hàng ngày càng gay gắt và để thu hút nguồn này một cách tốt nhất, các NHTM
thường cho phép khách hàng được rút tiền ra trước hạn nhưng không được hưởng
lãi hoặc hưởng lãi ở mức thấp hơn. Hầu hết các NHTM ở Việt Nam, nếu khách
hàng rút tiền trước thời hạn đã thoả thuận thì chỉ được hưởng theo lãi suất loại tiền
gửi không kỳ hạn.

NHTM có thể sử dụng nguồn này một cách chủ động hơn trong hoạt động
kinh doanh, góp phần đáp ứng nhu cầu tín dụng của nền kinh tế.
10
1.2.2.3 Tiền gửi tiết kiệm của khách hàng
Tiền gửi tiết kiệm là hình thức huy động truyền thống của ngân hàng. Ở các
nước công nghiệp phát triển, trong số các loại tiền gửi vào ngân hàng thì tiền gửi
tiết kiệm đứng vị thứ hai cả về mặt số lượng và tầm quan trọng.
Hiện nay ở hầu hết các quốc gia trên thế giới (trong đó có Việt Nam) người
ta cho rằng vận động nhân dân gửi tiền tiết kiệm là một trong các nghiệp vụ quan
trọng của NHTM. Bởi lẽ nếu huy động được nguồn vốn nhàn rỗi tiềm tàng trong
các tầng lớp dân cư sẽ có tiền cấp phát cho phát triển công nghiệp, nông nghiệp góp
phần quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Các tầng lớp dân cư gửi tiền tiết kiệm vào NHTM với mục đích chủ yếu là
tiết kiệm và sinh lời. Do đó, nguồn vốn này có tính ổn định khá cao.
Để tạo thuận lợi cho khách hàng cũng như ngân hàng, thủ tục gửi tiền cũng
rất đơn giản: Khi khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng sẽ được nhận một quyển sổ
tiết kiệm. Sổ này được coi là giấy chứng nhận số tiền, thời hạn, lãi suất của khoản
tiền đó trong quỹ tiết kiệm. Thông thường lãi suất của tài khoản tiết kiệm cao hơn
lãi suất của tài khoản gửi thanh toán và người chủ tài khoản không được hưởng dịch
vụ thanh toán quan ngân hàng như tài khoản tiền gửi thanh toán.
Để thoả mãn nhu cầu của khách hàng trong việc gửi tiết kiệm, các NHTM đã
và đang áp dụng nhiều hình thức huy động phong phú như: Tiết kiệm nhà ở, tiết
kiệm đảm bảo giá trị theo vàng, tiết kiệm có thưởng, với nhiều kỳ hạn đa dạng và
đảm bảo nguyên tắc: Kỳ hạn càng dài thì lãi suất càn cao. Bên cạnh đó, NHTM
cũng từng bước nâng cao các tiện ích cho người gửi tiết kiệm như: Coi sổ tiết kiệm
như là một chứng từ đảm bảo tiền gửi, người có sổ có thể mang sổ tiết kiệm đến
ngân hàng để cầm cố hoặc xin chiết khấu để vay vốn khi cần thiết.
Tóm lại, nguồn vốn huy động từ tiền gửi có vai trò quan trọng trong việc tài
trợ cho các hoạt động kinh doanh của NHTM. Thông thường nguồn vốn này phụ
thuộc vào ba thông số chính: Lãi suất do các NHTM trả cao hay thấp; Lãi suất của

các loại hình đầu tư khác như: Trái phiếu, cổ phiếu ; Thu nhập của khách hàng.
Trong đó thông số đầu tiên được coi là quan trọng nhất. Vì thế việc đưa ra chiến
lược lãi suất như thế nào, hình thức huy động ra sao để thu hút được vốn nhiều và
kinh doanh có lãi là điều quan trọng hàng đầu của các NHTM.
1.2.3 Vốn đi vay
Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng khi dư vốn, đủ vốn, thiếu vốn là lẽ
tất nhiên, đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Khi một NHTM thiếu vốn để đáp ứng
nhu cầu vốn của khách hàng hay cho mục đích đầu tư phát triển mà các nguồn khác
11
chưa đủ đáp ứng thì NHTM có thể đi vay. Nghiệp vụ vay vốn của NHTM có thể
chia thành hai loại chính: Vay thông qua phát hành giấy tờ có giá và vay trực tiếp.
1.2.3.1 Vay thông qua phát hành giấy tờ có giá
Phát hành giấy tờ có giá là nghiệp vụ huy động vốn của NHTM dưới hình
thức phát hành các chứng từ như: Chứng chỉ tiền gửi (kỳ phiếu), trái phiếu
Trong nghiệp vụ này, NHTM chủ động đứng ra thu gom vốn trong xã hội
bằng việc phát hành các giấy tờ có giá nhằm bổ sung nguồn vốn kinh doanh. Thông
thường việc phát hành được thực hiện sau khi đã tiến hành nên cân đối toàn hệ
thống của NHTM giữa nguồn vốn và sử dụng vốn.
Các NHTM nhận thấy rằng, người gửi tiền rất nhạy cảm với những thay đổi
trong lãi suất huy động của ngân hàng. Vì vậy khi cần vốn, một NHTM có thể phát
hành giấy tờ có giá với một mức lãi suất hấp dẫn hơn các loại nghiệp vụ huy động
thông thường khác nhằm huy động được kịp thời lượng vốn cần thiết. Mức lãi được
trả cho các công cụ này sẽ được thoả thuận trực tiếp giữa NHTM và khách hàng
hoặc được ấn định ở một mức độ nhất định mà người gửi tiền có thể chấp nhận
được, đồng thời đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng.
Thông thường, phát hành giấy tờ có giá là nghiệp vụ huy động vốn theo sáng
kiến riêng của từng NHTM với hình thức và kỳ hạn rất đa dạng nhằm thoả mãn tối
đa nhu cầu khách hàng và huy động được vốn cho ngân hàng. Để tìm hiểu kỹ hơn
chúng ta sẽ xem xét hai công cụ cơ bản là: Kỳ phiếu và Trái phiếu ngân hàng.
* Kỳ phiếu:

- Ở các nước phát triển như ở Mĩ, chứng chỉ tiền gửi hay còn gọi là CD là
một công cụ thị trường tiền tệ do ngân hàng phát hành. Một NHTM sẽ phát hành
một CD để tài trợ cho những cam kết nợ ngắn hạn hoặc nguồn vốn của mình. CD là
một chứng nhận về một khoản tiền gửi tại NHTM theo một thời hạn và lãi suất nhất
định. Người sở hữu CD có thể bán chứng chỉ này trên thị trường thứ cấp hoặc được
trả lại chứng chỉ tại thời điểm CD đến hạn và nhận lại toàn bộ số tiền gốc chứng chỉ
với lãi.
Một CD thường phát hành dưới dạng ghi sổ với mệnh giá đa dạng. Thời hạn
của các CD cũng rất phong phú: Thường từ 7 ngày cho đến 5 hoặc 7 năm. Nhìn
chung không có quy định nào hạn chế về thời hạn của một CD đối với Ngân hàng
phát hành.
Các NHTM ở Mĩ phát hành nhiều loại CD khác nhau:
+ CD có lãi suất cố định: Lãi suất của những CD này được ấn định từ thời
điểm phát hành. Chủ sở hữu CD sẽ nhận được toàn bộ phần tiền gốc và lãi khi CD
12
đến hạn. Đối với CD có thời hạn dưới 1 năm thì lãi suất được trả vào thời điểm đến
hạn.
+ CD trả lãi kỳ hạn: Lãi của những CD này thường được trả 6 tháng một lần.
những CD loại này thường được phát hành với kỳ hạn trên 1 năm.
+ CD chuyển tiếp liên tục: Đây là một Seri những CD thời hạn 6 tháng
chuyển tiếp liên tục trong vòng 2 năm hoặc lâu hơn. Người mua CD thiết lập một
hợp đồng mua chứng chỉ tiền gửi thời hạn 6 tháng liên tục cho đến khi hợp đồng hết
hạn. CD loại này có thể áp dụng lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi.
Ngoài ra các NHTM Mĩ còn phát hành nhiều loại CD khác như: CD có lãi
điều chỉnh, chứng chỉ tiền gửi Dollar Châu Âu Thông qua nghiệp vụ phát hành
CD, các NHTM Mĩ có thể tạo dựng được điều kiện để cạnh tranh một cách có hiệu
quả đối với nguồn vốn ngắn và trung hạn.
- Ở Việt Nam, các NHTM phát hành kỳ phiếu dựa trên quyết định số 220-
NH/QĐ ngày 27/11/1991 của Thống đốc NHNN về việc cho phép NHTM quốc
doanh phát hành kỳ phiếu Ngân hàng. Như vậy chỉ có NHTM quốc doanh mới được

phép phát hành loại chứng chỉ tiền gửi này.
Theo văn bản trên, kỳ phiếu là một loại giấy nhận nợ do NHTM quốc doanh
phát hành nhằm huy động vốn trong xã hội một cách linh hoạt. Căn cứ vào mục
đích, nhu cầu cụ thể mà ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu bằng VNĐ hay USD.
Nhu cầu phát hành kỳ phiếu thường phát sinh khi ngân hàng muốn có nguồn
vốn đủ điều kiện để tài trợ các dự án có quy mô, trọng điểm nhằm phục vụ kịp thời
cho đầu tư phát triển của đất nước hoặc vì mục đích kinh doanh của ngân hàng như:
Đầu tư chứng khoán, kinh doanh vàng bạc, ngoại tệ mà các nguồn huy động khác
chưa đáp ứng được. Khi đó ngân hàng có thể xin phép phát hành bằng tờ trình gửi
NHNN. Trong tờ trình “Xin phép phát hành kỳ phiếu” phải trình bày đầy đủ các nội
dung sau:
+ Lý do xin phát hành
+ Kế hoạch sử dụng và nhu cầu sử dụng vốn
+ Các loại kỳ phiếu xin phát hành (về kỳ hạn, phương thức trả lãi)
+ Thời gian phát hành
+ Tỷ lệ lãi cho từng loại kỳ phiếu
+ Tính toán hiệu quả kinh tế cho từng loại kỳ phiếu.
Phát hành kỳ phiếu là một nghiệp vụ huy động vốn có tính hiệu quả cao, hấp
dẫn người mua và NHTM luôn chủ động trong việc bổ sung vốn hạn khi cần thiết.
13
* TRÁI PHIẾU:
- Ở các nước phát triển, trái phiếu ngân hàng là một loại công cụ nợ do
NHTM phát hành nhằm tài trợ vốn cho hoạt động kinh doanh cuả ngân hàng. Thông
thường việc phát hành trái phiếu phải được sự cho phép của Ngân hàng trung ương.
Kỳ hạn của trái phiếu rất phong phú: 7 năm, 10 năm, 20 năm Chủng loại cũng rất
đa dạng như: Trái phiếu có lãi suất điều chỉnh, trái phiếu có lãi suất thả nổi, trái
phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu có thể chuyển đổi sang cổ phiếu Người sở hữu
có thể bán trái phiếu trên thị trường thứ cấp trước khi trái phiếu đó hết hạn.
- Ở Việt Nam, theo quyết định số 212-QĐ-NH1 ngày 22/9/1995 của Thống
đốc NHNN ban hành thể lệ phát hành trái phiếu NHTM, thì trái phiếu Ngân hàng là

một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường vốn dưới hình thức giấy nợ của các tổ
chức tín dụng phát hành để huy động vốn. Trong đó các tổ chức tín dụng cam kết
trả gốc và lãi cho người mua (hoặc người sở hữu) sau một thời gian nhất định.
Trái phiếu Ngân hàng được chuyển nhượng quyền sở hữu dưới các hình thức
mua bán, cho, tặng, thừa kế. Người sở hữu có thể dùng trái phiếu làm thế chấp tiền
vay nếu được người cho vay chấp nhận.
Trái phiếu Ngân hàng có thể phát hành dưới các hình thức: vô danh, ghi sổ,
ghi danh. Trái phiếu vô danh thuộc quyền sở hữu của người có trái phiếu và được tự
do chuyển nhượng, chủ sở hữu trái phiếu ghi danh và ghi sổ muốn chuyển nhượng
thì phải làm thủ tục ở Ngân hàng (nơi mua trái phiếu).
Trái phiếu được các NHTM phát hành với kỳ hạn trên 1 năm. Tuy nhiên,
thời hạn cụ thể sẽ do các NHTM quyết định tuỳ theo phương án sử dụng vốn. Trái
phiếu phát hành cùng một đợt được ghi cùng thời hạn và được thanh toán vào cùng
thời điểm đáo hạn. Mệnh giá của trái phiếu là số tiền ghi trên trái phiếu lúc phát
hành và có giá trị tối thiểu là 100.000 VND. Các loại mệnh giá lớn hơn được xác
định bằng bội số của mệnh giá tối thiểu.
Lãi suất của trái phiếu do NHTM ấn định trên cơ sở quan hệ cung cầu về vốn
trên thị trường sao cho có thể khuyến khích, động viên được người gửi vốn, người
vay có thể chấp nhận được và NHTM đảm bảo hiệu quả kinh doanh. Phương thức
trả lãi cũng được các NHTM áp dụng một cách linh hoạt: Trả lãi trước, Trả lãi sau,
Trả lãi định kỳ
NHTM muốn được phép phát hành trái phiếu cần phải hội đủ các điều kiện
sau:
+ Hoạt động ổn định ít nhất 2 năm và chứng minh được hoạt động kinh
doanh của đơn vị được quản lý có hiệu quả
+ Có phương án kinh doanh cụ thể
14
+ Cần phải có vốn điều lệ đủ lớn theo pháp định
+ Được phép bằng văn bản của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Sau khi đã hội đủ các điều kiện cần thiết, NHTM phải làm thủ tục xin phép

NHNN về việc phát hành trái phiếu theo quy định của pháp luật.
Nguồn vốn huy động được từ nghiệp vụ phát hành trái phiếu không chịu sự
điều chỉnh của quy định dự trữ bắt buộc. Hơn nữa, nó là nguồn có tính ổn định cao,
đáng được quan tâm nếu muốn mở rộng nguồn vốn huy động trung và dài hạn tại
một NHTM. Bằng cộng cụ này, các NHTM có thể chủ động tạo được một khối
lượng vốn như mong muốn một cách nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu vốn cấp
bách đầu tư cho các công trình lớn của quốc gia.
1.2.3.2 Vay vốn các tổ chức tín dụng
Khi cần vốn thì các NHTM có thể đi vay trực tiếp từ các tổ chức tín dụng
khác, Ngân hàng nước ngoài, từ công ty mẹ, Nhưng dù vay ở nguồn nào thì nhìn
chung chi phí cho các khoản vay trực tiếp thường cao hơn chi phí phải trả cho các
hình thức huy động vốn khác.
Ở Việt Nam, nguồn vay vốn của NHTM cũng khá phong phú. Một NHTM có
thể vay ở một số nguồn chính như: Vay từ NHNN và Bộ Tài chính (BTC), vay từ
các NHTM khác và tổ chức tín dụng, từ nước ngoài.
* Vay từ NHNN và BTC:
- Vay từ NHNN: Trong quan hệ giữa NHTM và NHNN thì NHNN có tư
cách là Ngân hàng của các Ngân hàng, là “Người cho vay cuối cùng” đối với các
NHTM. Thông thường các NHTM chỉ đươc vay NHNN để bù đắp những thiếu hụt
ngắn hạn, tạm thời dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu, tái cấp vốn. Tuy nhiên,
có những trường hợp đặc biệt, NHNN vẫn cho NHTM vay để cho vay lại nền kinh
tế theo kế hoạch của Nhà nước với một mức lãi suất ưu đãi. Nhưng khoản vay này
thường bị hạn chế số lượng, đặc biệt là khi chính sách tiền tệ quốc gia đang thắt
chặt.
- Vay từ Bộ Tài chính: Mặc dù đã có Tổng cục đầu tư phát triển nhưng Bộ
tài chính vẫn có sự hỗ trợ cho các chương trình tín dụng Ngân hàng. Hàng năm, các
địa phương được phân bổ một số vốn trung và dài hạn cho các công trình phục vụ
các mục tiêu quốc kế dân sinh. Nguồn này sẽ được Bộ Tài chính chuyển sang Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển hoặc của NHTM quốc doanh khác dưới hình thức quỹ
đầu tư phát triển để cho các đối tượng này vay với lãi suất ưu đãi. Nhưng cũng có

những dự án thuộc danh mục Chính phủ chỉ định nhưng NHTM sẽ lo vốn đầu tư
toàn bộ. Do đó NHTM có thể vay một phần từ Bộ Tài chính để tài trợ cho các dự án
này, Bộ Tài chính sẽ chuyển tiền để cấp bù phần chênh lệch giữa lãi suất cho vay
15
trung và dài hạn của NHTM là lãi suất ưu đãi để NHTM không bị lỗ trong kinh
doanh.
* Vay từ các NHTM và Tổ chức tín dụng khác
Ngoài nghiệp vụ vay từ NHNN và Bộ Tài chính thì các NHTM có thể vay
mượn lẫn nhau hoặc vay từ các Công ty Bảo biểm để đảm bảo vốn cho hoạt động
kinh doanh dựa trên nguyên tắc:
- Các NHTM phải hoạt động hợp pháp
- Thực hiện việc đi vay và cho vay theo hợp đồng tín dụng.
- Vốn vay phải được bảo đảm bằng thế chấp, cầm cố hay xin bảo lãnh của
NHNN.
Nguồn vay mượn này thường có chi phí cao, kỳ hạn trung hạn là chủ yếu,
phụ thuộc nhiều vào quan hệ cũng như uy tín của NHTM đi vay.
* VAY TỪ NƯỚC NGOÀI:
Theo tinh thần Nghị định 90/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998 thì các NHTM có
thể vay vốn ở Ngân hàng nước ngoài để cho vay lại trong nước. Các NHTM Việt
Nam hiện có quan hệ đại lý và quan hệ thanh toán rộng rãi với các Ngân hàng trong
khu vực và trên thế giới nên nghiệp vụ này tiến hành cũng khá thuận lợi. Lãi suất
vay được áp dụng theo lãi suất trên thị trường tiền tệ thế giới. Tuy nhiên, khi vay thì
các NHTM Việt Nam phải chấp hành một hạn mức tín dụng do nước ngoài quy
định. Hạn mức này phải được Chính phủ hoặc NHNN Việt Nam bảo lãnh. Theo
Nghị định 90/CP, thì mức bảo lãnh vay vốn nước ngoài cho một tổ chức tín dụng
không quá 6 lần vốn tự có của tổ chức đó. Nhưng hạn mức trên phải trừ đi số nợ
trước chưa trả đến thời điểm vay mới. Như vậy muốn tận dụng hạn mức tín dụng
của nước ngoài, các NHTM Việt Nam phải thực hiện tốt khâu hoàn trả.
Các khoản vay từ Ngân hàng nước ngoài của các NHTM Việt Nam đều do
NHNN trực tiếp kiểm soát và quản lý. Vì vậy, các hồ sơ vay vốn đều phải quan

NHNN xét duyệt. Các NHTM được quyền chủ động tìm kiếm các nguồn vay từ
nước ngoài, qua đó góp phần quan trọng trong việc tài trợ các hoạt động kinh doanh
ngân hàng.
1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM
1.3.1 Những nhân tố chủ quan
1.3.1.1 Chiến lược kinh doanh của Ngân hàng
Mỗi Ngân hàng phải tự hoạch định cho mình một chiến lược kinh doanh
riêng biệt, phù hợp với các điều kiện bên trong và bên ngoài Ngân hàng. Chiến lược
kinh doanh có tính quyết định tới hiệu quả hoạt động của Ngân hàng. Ngân hàng
cần phải xác định vị trí hiện tại của mình trong hệ thống, thấy được điểm mạnh,
16
điểm yếu, thấy được những cơ hội và thách thức. Trên cơ sở đó dự đoán sự thay đổi
của môi trường để xây dựng được chiến lược kinh doanh phù hợp mà trong đó chiến
lược phát triển qui mô và chất lượng nguồn vốn là một bộ phận quan trọng trong
chiến lược tổng thể của Ngân hàng. Trong từng thời kỳ, dựa trên chỉ tiêu được giao
về hoạt động huy động vốn, sử dụng vốn và các hoạt động khác của NHTW cùng
với tình hình thực tế của từng Ngân hàng, Ngân hàng phải lập kế hoạch và lên cân
đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn. Nếu nhận thấy trong năm có những dự án
tốt cần vay vốn với khối lượng lớn, thời hạn dài thì Ngân hàng sẽ có kế hoạch huy
động vốn để tìm kiếm được nguồn vốn tương ứng bằng cách đưa ra các loại hình
huy động với lãi suất hấp dẫn, kỳ hạn đa dạng. Còn nếu nhận thấy trong năm tới
Ngân hàng cần phải thu hẹp khối lượng tín dụng thì Ngân hàng sẽ có kế hoạch huy
động một lượng vốn vừa đủ để tối đa hoá hiệu quả sử dụng vốn. Mặt khác, trong
chiến lược kinh doanh của mình Ngân hàng cần phải đặc biệt chú trọng vào chi phí
vốn mà Ngân hàng phải chịu trong khâu huy động. Phải tìm kiếm nguồn vốn rẻ,
thời hạn dài thông qua việc lựa chọn các hình thức huy động khác nhau, có như vậy
Ngân hàng mới chủ động trong việc tìm kiếm và sử dụng vốn.
1.3.1.2 Các hình thức huy động vốn, chất lượng các dịch vụ do Ngân hàng
cung ứng và hệ thống các màng lưới
Một yếu tố ảnh hưởng đến quy mô và chất lượng nguồn vốn huy động là

hình thức, kỳ hạn và các dịch vụ cung cấp có liên quan như giao dịch tại nhà, rút
tiền tự động, tư vấn kinh doanh, dịch vụ thu tiền hộ Ngoài ra còn có một số yếu tố
khác như thời gian và thủ tục giao dịch.
Do nhu cầu của khách hàng khi đến Ngân hàng là khác nhau nên việc thoả
mãn được những nhu cầu đa dạng của khách hàng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
hoạt động huy động vốn. Trong nền kinh tế thị trường thì hiện tượng cạnh tranh là
tất yếu, việc đáp ứng nhu cầu khách hàng là điều kiện tiên quyết để đạt được thắng
lợi trong kinh doanh. Một Ngân hàng có các hình thức huy động và kỳ hạn huy
động vốn phong phú, linh hoạt, thuận tiện hơn sẽ có sức thu hút khách hàng mới và
duy trì những khách hàng hiện có hơn những Ngân hàng khác. Các Ngân hàng hiện
nay không chỉ huy động tiền gửi tiết kiệm mà còn khuyến khích người dân gửi tiền
dưới nhiều hình thức khác nhau như mở tài khoản tiền gửi, huy động qua kỳ phiếu,
trái phiếu phong phú cả về mệnh giă, kỳ hạn và chủng loại….
Khi hình thức huy động vốn đa dạng và hấp dẫn thì sẽ làm cho số lượng
người gửi tiền tăng lên và khi đó chi phí huy động sẽ giảm xuống. Hơn nữa, hình
thức huy động vốn phong phú cũng là điều kiện để thu hút những khoản vốn đa
dạng từ nhiều nguồn khác nhau với những tính chất khác nhau về số lượng, chất
17
lượng và kỳ hạn Từ đó sẽ giúp Ngân hàng sử dụng vốn linh hoạt, an toàn và hiệu
quả hơn.
Dịch vụ Ngân hàng chỉ là sản phẩm phụ trong hoạt động của Ngân hàng
nhưng trong chiến lược cạnh tranh đã cho thấy Ngân hàng nào có dịch vụ đa dạng,
chất lượng dịch vụ cao, đáp ứng được những nhu cầu của khách hàng thì sẽ thu hút
được khách hàng đến với mình. Hiện nay với sự tham gia của nhiều loại hình Ngân
hàng và các tổ chức phi Ngân hàng cùng cạnh tranh với nhau, điều đó có nghĩa là
khách hàng càng có điều kiện thuận lợi để lựa chọn Ngân hàng tốt nhất đáp ứng
được nhu cầu của mình. Vì vậy dịch vụ Ngân hàng ngày càng đóng vai trò quan
trọng và chính là một yếu tố góp phần thu hút khách hàng có hiệu quả nhất.
1.3.1.3 Chính sách lãi suất
Điều đầu tiên mà bất kỳ một cá nhân hay tổ chức kinh tế nào cũng muốn

tham khảo khi gửi tiền vào Ngân hàng chính là lãi suất. Vì vậy chính sách lãi suất là
một trong những chính sách quan trọng nhất trong số các chính sách bổ trợ cho
công tác huy động vốn của Ngân hàng.
Ngân hàng sử dụng hệ thống lãi suất như là một công cụ quan trọng trong
việc huy động và thay đổi quy mô nguồn vốn thu hút vào Ngân hàng, đặc biệt là
quy mô tiền gửi. Để duy trì và thu hút thêm nguồn vốn, Ngân hàng cần phải ấn định
mức lãi suất cạnh tranh, thực hiện ưu đãi về lãi suất cho khách hàng lớn, gửi tiền
thường xuyên.
Tuy nhiên không phải Ngân hàng cứ đưa ra mức lãi suất cao là thu hút
được nhiều nguồn vốn nhàn rỗi của dân cư mà vấn đề là ở chỗ với mức lãi suất cụ
thể mà Ngân hàng đưa ra sẽ đem lại cho người gửi tiền mức lợi tức thực tế là bao
nhiêu. Điều đó có nghĩa là mức lãi suất mà Ngân hàng đưa ra phải luôn đảm bảo lớn
hơn tỷ lệ lạm phát, do đó Ngân hàng phải dự đoán chính xác tỷ lệ lạm phát trong
từng thời kỳ để đưa ra mức lãi suất hợp lý. Ngoài ra khi quyết định đưa ra mức lãi
suất nào đó còn phụ thuộc vào một số yếu tố khác như thời gian đáo hạn của khoản
tiền gửi, khả năng chuyển hoán giữa các kỳ hạn, mức độ rủi ro và lợi nhuận mang
lại từ các khoản đầu tư khác, các quy định của nhà nước, quy định của NHTW, mức
lãi suất đầu ra mà Ngân hàng có thể áp dụng đối với các khách hàng vay vốn.
Lãi suất càng cao thì càng hấp dẫn người gửi tiền nhưng lãi suất huy động
cao cũng có nghĩa là lãi suất cho vay cũng phải cao tương ứng thì Ngân hàng kinh
doanh mới có lãi. Mức lãi suất đủ cao để thu hút khách hàng nhưng cũng không
được cao quá để vẫn có thể thu hút được khách đi vay mà không làm giảm lợi
nhuận của Ngân hàng. Hơn nữa Ngân hàng phải tính đến chi phí huy động vốn của
18
mình và mặt bằng lãi suất huy động của Ngân hàng mình so với các Ngân hàng
khác.
1.3.1.4 Đổi mới công nghệ Ngân hàng nhất là khâu thanh toán
Cùng với việc đổi mới hoạt động Ngân hàng, các NHTM ngày càng chú
trọng tới việc áp dụng khoa học công nghệ hiện đại vào hoạt động Ngân hàng, đặc
biệt là khâu thanh toán. Nhờ đó làm cho vốn luân chuyển nhanh, thuận tiện, đảm

bảo an toàn cho khách hàng trong việc gửi tiền, rút tiền và vay vốn. Nếu thực hiện
tốt khâu này thì sẽ hạn chế được việc lưu thông bằng tiền mặt vừa không hiệu quả
vừa không an toàn. Ngoài ra nếu tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt tăng lên thì
Ngân hàng sẽ thu hút được càng nhiều các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế vào
hệ thông Ngân hàng và góp phần làm giảm chi phí in ấn, bảo quản, kiểm đếm
Hiện nay các Ngân hàng đang vận động dân cư mở tài khoản tiền gửi thanh
toán, thực hiện quá trình thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ qua tài khoản tiền gửi
trong đó Ngân hàng đóng vai trò là người làm trung gian thanh toán, ngoài ra Ngân
hàng còn đưa ra các hình thức huy động vốn thông qua các hình thức hấp dẫn như
tiền gửi tiết kiệm ở một nơi có thể rút ở nhiều nơi, thực hiện thanh toán qua thẻ tín
dụng, thẻ tiền gửi
Để thực hiện tốt vấn đề này, ngành Ngân hàng phải tiếp tục trang bị những
công nghệ hiện đại, nhất là khâu thanh toán. Mặt khác Ngân hàng cần nghiên cứu
để đưa ra các hình thức huy động vốn phù hợp. Từ đó tạo cho khâu thanh toán luân
chuyển vốn nhanh và thuận tiện cho công tác kiểm soát.
1.3.1.5 Hoạt động Marketing Ngân hàng
Đây là vấn đề hết sức quan trọng nhằm giúp cho Ngân hàng nắm bắt được
yêu cầu, nguyện vọng của khách hàng. Từ đó Ngân hàng đưa ra được các hình thức
huy động vốn, chính sách lãi suất, chính sách tín dụng cho phù hợp. Đồng thời các
NHTM phải tiến hành thu thập thông tin đầy đủ, kịp thời để nắm bắt được nhu cầu
của thị trường từ đó để có các biện pháp tốt hơn đối thủ cạnh tranh nhằm giành ưu
thế về mình.
1.3.1.6 Mức độ thâm niên và uy tín của Ngân hàng
Trên cơ sở thực tế sẵn có, mỗi Ngân hàng đã, đang và sẽ tạo được hình ảnh
riêng của mình trong lòng thị trường. Một Ngân hàng lớn, có uy tín sẽ có lợi thế
hơn trong các hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng.
Sự tin tưởng của khách hàng sẽ giúp cho Ngân hàng có khả năng ổn định khối
lượng vốn huy động và tiết kiệm chi phí huy động từ đó giúp Ngân hàng chủ động
hơn trong kinh doanh. Một Ngân hàng có một bề dày lịch sử với danh tiếng, cơ sở
19

vật chất, trình độ nhân viên… sẽ tạo ra hình ảnh tốt về Ngân hàng, gây được sự chú
ý của khách hàng từ đó lôi kéo được khách hàng đến quan hệ giao dịch với mình.
1.3.2 Những nhân tố khách quan
1.3.2.1 Chu kỳ phát trỉển kinh tế
Tình trạng phát triển của nền kinh tế là một nhân tố vĩ mô có tác động trực
tiếp đến hoạt động của NHTM nói chung và đến hoạt động huy động vốn nói riêng.
Trong điều kiện nền kinh tế phát triển tăng trưởng và ổn định, thu nhập của người
dân được đảm bảo và ổn định thì nhu cầu tích luỹ của dân cư cao hơn từ đó lượng
tiền gửi vào Ngân hàng tăng lên hay khả năng huy động vốn tăng lên. Mặt khác khi
nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định thì nhu cầu sử dụng vốn tăng lên, Ngân hàng
có thể mở rộng khối lượng tín dụng bằng cách tăng lãi suất huy động nhằm kích
thích người dân gửi tiền vào Ngân hàng để tạo nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu cầu
tiền tín dụng của nền kinh tế. Ngược lại, khi nền kinh tế lâm vào tình trạng suy
thoái, thu nhập thực tế của người lao động giảm và ngày càng biến động, điều này
sẽ làm giảm lòng tin của khách hàng vào sự ổn định của đồng tiền hơn nữa khi thu
nhập thấp thì lượng tiền nhàn rỗi trong toàn nền kinh tế sẽ giảm xuống mà lượng
tiền dân cư đã ký thác vào hệ thống Ngân hàng còn có nguy sơ bị rút ra. Khi đó
Ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong công tác huy động vốn, quản ký dự trữ và củng cố
lòng tin của khách hàng vào hệ thống Ngân hàng.
1.3.2.2 Môi trường pháp lý
Mọi hoạt động kinh doanh, trong đó hoạt động của Ngân hàng đều phải chịu
sự điều chỉnh của pháp luật. Các hoạt động của các NHTM chịu sự điều chỉnh của
luật các tổ chức tín dụng và hệ thống các văn bản pháp luật khác của nhà nước. Mặt
khác, ở Việt nam hiện nay các NHTM được tổ chức theo mô hình tổng công ty do
vậy các chi nhánh Ngân hàng trong hoạt động của mình ngoài việc phải tuân thủ
theo pháp luật và các văn bản dưới luật của nhà nước ban hành còn phải tuân thủ
theo các quy định mà NHTW ban hành cụ thể trong từng thời kỳ về lãi suất, dự trữ,
hạn mức cho vay… trong sự ràng buộc của pháp luật, các yếu tố của nghiệp vụ huy
động vốn thay đổi làm thay đổi quy mô và chất lượng hoạt động huy động vốn. Mặt
khác, các NHTM là các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ, là lĩnh vực

chứa đựng rủi ro rất lớn do vậy mà Ngân hàng phải tuân thủ chặt chẽ các quy định
của pháp luật.
1.3.2.3 Môi trường cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh là hiện tượng phổ biến và khách
quan. Ngành Ngân hàng là một trong những ngành có mức độ cạnh tranh cao và
ngày càng phức tạp. Trong những năm qua, thị trường tài chính ngày càng trở nên
20
sôi động hơn do sự tham gia của nhiều loại hình Ngân hàng và các tổ chức tài chính
phi Ngân hàng. Hiện nay số lượng Ngân hàng được phép hoạt động ngày càng tăng
cùng với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của nhiều tổ chức phi Ngân hàng, trong
khi đó nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế là có hạn . Từ đó làm
mất tính độc quyền của hệ thống Ngân hàng và ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động
của Ngân hàng.
Ngoài ra, hình thức cạnh tranh không đa dạng như các ngành khác làm cho
tính cạnh tranh của Ngân hàng ngày càng cao. Các Ngân hàng cạnh tranh chủ yếu
bằng hình thức lãi suất và dịch vụ. Hiện nay ở nước ta các Ngân hàng chủ yếu cạnh
tranh bằng hình thức lãi suất, chưa phổ biến hình thức cạnh tranh bằng dịch vụ. Do
đó Ngân hàng phải xây dựng được mức lãi suất như thế nào là hợp lý nhất, hấp dẫn
nhất kết hợp với danh tiếng và uy tín của mình để tăng được thị phần huy động.
Điều này là rất khó khăn vì nếu lãi suất cao hơn đối thủ cạnh tranh thì lãi suất cho
vay cũng phải tăng lên để đảm bảo Ngân hàng vẫn có lãi, nếu lãi suất thấp hơn thì
không hấp dẫn được khách hàng. Do cạnh tranh tăng lên, lãi suất huy động hiện nay
có xu hướng tăng lên trong khi các dịch vụ liên quan dến tiền gửi không tăng lên
một cách tương ứng.
1.3.2.4 Yếu tố tiết kiệm của dân cư
Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng chủ yếu được hình thành từ việc
huy động các nguồn tiền tệ nhàn rỗi trong dân cư. Đây là lượng tiền nhàn rỗi chủ
yếu có được do việc người dân tiết kiệm tiêu dùng ở hiện tại để kỳ vọng sẽ được chi
tiêu nhiều hơn trong tương lai. Do đó công tác huy động vốn của Ngân hàng chịu
ảnh hưởng rất lớn của yếu tố này. Nếu không có tiết kiệm thì sẽ không có vốn để

đầu tư cho sản xuất và ngược lại.
Yếu tố tiết kiệm của dân cư lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như thu nhập
của dân cư, thói quen chi tiêu bằng tiền mặt và đặc biệt là sự ổn định của nền kinh
tế. Nếu nền kinh tế mất ổn định, giá trị đồng tiền luôn biến động thì xu hướng
chung của dân cư sẽ đổi các đồng tiền bản tệ ra các đồng tiền mạnh (Ngoại tệ) hay
cất trữ vàng bạc, mua bất động sản là những tài sản có tính ổn định cao hơn.
Ngoài ra việc phân bố dân cư ở các vùng lãnh thổ khác nhau thì yếu tố tâm
lý, văn hoá và lối sống cũng khác nhau. Do đó. Ngân hàng phải nắm bắt được yếu
tố tâm lý của dân từ đó để đưa ra các hình thức huy động vốn phù hợp.
21
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHCT VN CHI
NHÁNH TUYÊN QUANG
2.1 TỔNG QUAN VỀ NHCT VN CHI NHÁNH TUYÊN QUANG
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Nằm trong chiến lược mở rộng mạng lưới trong nước và quốc tế, khẳng định
vị thế của Ngân hàng hàng đầu Việt Nam, ngày 08/12/2009 NHCT VN chi nhánh
Tuyên Quang đã chính thức được thành lập. Từ khi thành lập đến nay chi nhánh
luôn cố gắng thực hiện đầy đủ các quyết định, công văn mà Hội sở chính đã đưa ra,
đóng góp đáng kể vào công cuộc xây dựng tỉnh nhà ngày càng ổn định và phát triển.
Thời kỳ mới thành lập chi nhánh VietinBank Tuyên Quang đã vượt qua bao
khó khăn, thử thách không ngừng củng cố và phát triển để từng bước khẳng định vị
trí của mình trong hệ thống VietinBank Việt Nam. Trong quá trình hoạt động Chi
nhánh đã bám sát và phục vụ tốt các công trình trọng điểm, mục tiêu phát triển kinh
tế của địa phương.
Chi nhánh NHCT VN có trụ sở đặt tại 182 đường Nguyễn Văn Cừ, TP
Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Mô hình tổ chức của chi nhánh gồm : 6 điểm giao
dịch (Tân Quang, Sơn Dương, Phan Thiết, Hàm Yên, Yên Sơn, An Tường).
Tổng số cán bộ công nhân viên toàn chi nhánh hiện nay là 150 người. Trong
hoạt động kinh doanh chi nhánh luôn coi cán bộ là nhân tố quyết định mọi thành
công, vì vậy không ngừng nâng cao trình độ, chăm lo cải thiện đời sống, vật chất,

tinh thần cho người lao động.
2.1.2 Các hoạt động chính
2.1.2.1 Huy động vốn
Với tầm quan trọng của nguồn vốn huy động trong hoạt động kinh doanh của
ngân hàng, NHCT VN chi nhánh Tuyên Quang đã rất chú trọng đến công tác huy
động vốn.
Nguồn vốn huy động trong năm qua đã tăng trưởng một cách nhanh chóng
và vững chắc theo từng năm, năm sau cao hơn năm trước. Năm 2011 tổng nguồn
vốn huy động đạt 2261.1 triệu đồng tăng 41.16 % so với năm 2010 (số tuyệt đối là
1601.8 triệu đồng). Quý I năm 2013 đạt 2557.5 triệu đồng tăng 13.1% so với năm
2011. Tốc độ tăng huy động vốn quý I năm 2013 giảm so với năm 2011 do nguồn
vốn của các khách hàng tổ chức kinh tế tại chi nhánh chủ yếu mang tính thời vụ tập
trung vào cuối năm do được thanh toán công trình sau đó sẽ giảm khi các doanh
nghiệp này thực hiện công trình vào năm tiếp theo. Mặt khác trong điều kiện lãi suất
22
cho vay tăng cao và giới hạn cho vay bị hạn chế, khách hàng doanh nghiệp có xu
hướng tận dụng vốn tự có vào hoạt động kinh doanh.
Mặc dù chi nhánh đặt ở vị trí xa trung tâm thương mại và dân cư. Vị trí trụ
sở không thuận lợi cho công tác giao dịch. Nhưng chi nhánh đã có những chủ
trương huy động vốn phù hợp, sử dụng các biện pháp tuyên truyền vận động kết
hợp với các biện pháp nghiệp vụ để tăng huy động vốn theo chiều hướng tích cực.
Chi nhánh đã đẩy mạnh và đổi mới phương thức huy động vốn bằng các chính sách
như ưu đãi tiền gửi, ưu đãi cho vay…ngân hàng huy động vốn từ các nguồn vốn chủ
yếu: tài khoản tiền gửi của dân cư, tiền gửi của các cơ quan, tổ chức kinh tế và tư
nhân, phát hành trái phiếu kì phiếu. Với những chính sách đó, NHCT VN chi nhánh
Tuyên Quang đã thu hút được nhiều khách hàng, tạo lập được uy tín trên thị trường.
Số lượng khách hàng đến giao dịch, thanh toán, quan hệ với ngân hàng ngày càng
tăng. Cụ thể tính đến cuối tháng quý I năm 2013 đã có khoảng 32.154 đơn vị và tổ
chức kinh tế mở tài khoản giao dịch tại chi nhánh, tăng 14% so với năm 2011
Tóm lại, công tác huy động vốn trong những năm qua đã đạt được một số kết

quả bước đầu, hoàn thành kế hoạch đề ra, từng bước chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn
theo hướng tích cực, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, an toàn, đảm bảo đủ vốn cho
hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
2.1.2.2 Hoạt động tín dụng
Trong những năm gần đây, NHCT VN chi nhánh Tuyên Quang luôn khẳng
đinh được vị trí của mình trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế nói chung và cho
hoạt động đầu tư phát triển nói riêng với doanh số cho vay tăng đều đặn trong đó
tập trung chủ yếu cho đầu tư phát triển các ngành công nghiệp và xây dựng Bảng
số liệu dưới đây là một minh chứng cho sự thành công này
Bảng 1. Tình hình sử dụng vốn từ năm 2010 – quý I năm 2013
Đơn vị : tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm Tỷ trọng
2010 2011
quý I
năm
2013
2011/2010
quý I năm
2013/2011
Tổng dư nợ cho vay 1330 1810 2266 33.48% 41.92%
Dư nợ ngắn hạn 988 1117 1246 33.33% 37.18%
Dư nợ trung và dài hạn 342 693 1020 33.72% 49.63%
Tỷ lệ nợ xấu 3.6 1.22 0.83
(Nguồn : Phòng Nguồn vốn kinh doanh – chi nhánh Tuyên Quang)
23
Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy :
+ Tổng dư nợ cho vay năm 2011 là 1810 tỷ đồng tăng 36,09% so với năm 2010;
quý I năm 2013 là 2266 tỷ đồng tăng 25,19% so với năm 2011.
+ Dư nợ tín dụng ngắn hạn quý I năm 2013 đạt 1246 tỷ đồng tăng 11,55% so với

đầu năm 2012. Dư nợ tín dụng trung và dài hạn đạt 1020 tỷ đồng tăng 47,18%.
+ Nợ xấu đến quý I năm 2013: 17 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 0,83 % trên tổng dư nợ trong
đó nợ nhóm 3: 9 tỷ đồng, nợ nhóm 5: 8 tỷ đồng.
Để có được kết quả như trên trước tiên phải kể đến sự lãnh đạo, chỉ đạo sít
sao của ban lãnh đạo chi nhánh đồng thời chi nhánh có một đội ngũ cán bộ tín dụng
tận tuỵ, năng động, sáng tạo trong hoạt động kinh doanh, luôn bám sát các doanh
nghiệp đảm bảo cho vay và thu nợ đúng hạn, sử dụng vốn đúng mục đích. Với sự
lãnh đạo đúng đắn, kịp thời của ban lãnh đạo, sự cố gắng của cán bộ tín dụng chắc
chắn rằng công tác tín dụng của NHCT VN chi nhánh Tuyên Quang sẽ đạt được những
kết quả tốt trong những năm tới.
2.1.2.3 Hoạt động đầu tư
Cùng với sự tăng trưởng không ngừng của hoạt động tín dụng, hoạt động đầu
tư cũng ngày càng được chi nhánh chú trọng. Các chứng khoán đầu tư hiện nay của
chi nhánh là chứng khoán của Chính phủ (Tín phiếu Kho bạc, Trái phiếu Kho bạc).
Đây là các chứng khoán có độ an toàn cao và mang lại lợi nhuận cho NHCT VN chi
nhánh Tuyên Quang. Đồng thời nó còn là dự trữ thứ cấp của chi nhánh.
Ngoài đầu tư vào chứng khoán của Chính phủ, chi nhánh Tuyên Quang còn
mở rộng các hoạt động góp vốn như: Góp vốn liên doanh VID, Góp vốn liên doanh
Qbe, Góp vốn Quỹ TDND Nhằm mục tiêu an toàn và sinh lời. Trong giai đoạn từ
năm 2010 - quý I năm 2013, hoạt động đầu tư của chi nhánh Tuyên Quang đã có
những bước tiến quan trọng, góp phần nâng cao thu nhập. Kết quả cụ thể được thể
hiện ở bảng sau:
Bảng 2. Tình hình hoạt động đầu tư giai đoạn 2010 – quý I năm 2013
Đơn vị : tỷ đồng
Đầu tư 2010 2011 quý I năm 2013
Chứng khoán 177 815 797
Góp vốn liên doanh 122 223 230
Tổng cộng 299 1038 1027
(Nguồn : Báo cáo thường niên hàng năm)
24

×