Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

ĐỀ CƯƠNG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC (có đáp án)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.75 KB, 17 trang )

ĐỀ CƯƠNG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
Câu 1: Vấn đề cơ bản của TH là gì? Trình bày các vấn đề cơ bản của TH và vì sao
đó là vấn đề cơ bản của TH?
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới về bản
thân con người và vị trí của con người trong thế giới ấy.
Triết học cũng như những khoa học khác phải giải quyết rất nhiều vấn đề có liên
quan với nhau, trong đó vấn đề cực kỳ quan trọng là nền tảng và là điểm xuất phát để
giải quyết những vấn đề còn lại được gọi là vấn đề cơ bản của triết học. Theo Ăngghen:
"Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan
hệ giữa tư duy với tồn tại"
- Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt, mỗi mặt phải trả lời cho một câu hỏi lớn.
+ Mặt thứ nhất: bản thể luận, trả lời câu hỏi "giữa ý thức và vật chất thì cái nào có
trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?"
+ Mặt thứ hai: nhận thức luận, trả lời câu hỏi "con người có khả năng nhận thức
được thế giới hay không?"
Trả lời cho hai câu hỏi trên liên quan mật thiết đến việc hình thành các trường phái triết
học và các học thuyết về nhận thức của triết học.
+ Giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học gắn liên với việc phân
định các trường phát triết học. Có 3 cách giải quyết:
Một là, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức.
Hai là, ý thức có trước, vật chất có sau, ý thức quyết định vật chất.
Ba là, vật chất và ý thức tồn tại độc lập, chúng không có quan hệ sản sinh nhau, cũng
không có quan hệ quyết định nhau.
Cách giải quyết thứ nhất và thứ hai tuy có đối lập nhau về nội dung, nhưng giống
nhau ở chỗ, chúng đều thừa nhận một nguyên thể (hoặc là vật chất, hoặc là ý thức) là
nguồn gốc của thế giới. Hai cách giải quyết này thuộc về triết học nhất nguyên.
Trong triết học nhất nguyên, những người khẳng định tính nguồn gốc của vật chất thuộc
trường phát triết học nhất nguyên duy vật, còn gọi là chủ nghĩa duy vật. Ngược lại,
1
những người khẳng định tính nguồn gốc của ý thức thuộc trường phái triết học nhất
nguyên duy tâm, còn gọi là chủ nghĩa duy tâm.


Cách giải thứ ba, thuộc về triết học nhị nguyên. Thừa nhận vật chất và ý thức tồn
tại hoàn toàn độc lập với nhau, và thừa nhận cả hai nguyên thể là nguồn gốc của thế
giới. Triết học nhị nguyên có khuynh hướng điều hòa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm. Họ muốn dung hoà hai trường phái trên để cùng tồn tại và dẫn đến một trường
phái duy nhất.
+ Giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học. Đối với câu hỏi: "Con người
có khả năng nhận thức được thế giới hay không?", tuyệt đại đa số các nhà truyết học (cả
duy vật và duy tâm) đều khẳng định: con người có khả năng nhận thức thế giới.
- Còn các nhà triết học nhị nguyên do không khẳng định được giữa vật chất và ý thức
cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào nên họ phủ nhận khả năng
nhận thức thế giới của con người. Quan điểm của họ đa phần là hoài nghi. Khi giải
quyết mặt thứ hai vấn đề cơ bản của triết học họ đã đi từ hoài nghi luận (scepticisme)
đến thuyết không thể biết (agnosticisme) và dần dần triết học của họ chuyển sang duy
tâm.
* Sở dĩ nói đây là vấn đề cơ bản của TH vì:
- Nó là cơ sở nhận thức tất cả các vấn đề khác của TH (về tự nhiên, XH, con người)
- Đây là mqh bao trùm của mọi sự vật, hiện tượng (vật chất và ý thức)
- Đây là vấn đề nền tảng và xuất phát điểm để giải quyết những vấn đề của TH
- Đây là tiêu chuẩn để xác định và phân định các trường phái TH
- Đây là cơ sở tạo nên nét đặc thù của TH
Câu 2: Phân biệt sự khác nhau giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện
chứng?
Triết học phản ánh thế giới và giải thích thế giới bằng hai phương pháp khác
nhau. Đó là phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình.
- Phương pháp siêu hình là phương pháp nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập,
tách rời đối tượng ra khỏi chỉnh thể khác và giữa các mặt đối lập có 1 ranh giới tuyệt
đối.
2
- Phương pháp biện chứng là phương pháp nhận thức đối tượng ở trong mối liên
hệ tác động ràng buộc lẫn nhau, liên hệ và ảnh hưởng nhau.

PHƯƠNG PHÁP SIÊU HÌNH PHƯƠNG PHÁP BIỆN CHỨNG
- nghiên cứu thế giới trong sự cô lập tách
rời.
- nghiên cứu thế giới trong sự tĩnh tại, bất
biết.
- ko thừa nhận xu thế phát triển.
- tìm nguồn gốc của sự vận động và phát
triển vận động bên ngoài sự vật hiện
tượng.
- được sử dụng khi nghiên cứu trong thời
gian ngắn và phạm vi hẹp.
- nghiên cứu thế giới trong mối liên hệ tác
động qua lại lẫn nhau.
- nghiên cứu thế giới trong sự vận động và
biến đổi ko ngừng.
- thừa nhận xu thế phát triển.
- tìm nguồn gốc của sự vận động và phát
triển ngay trong bản thân sự vật hiện
tượng.
- được sử dụng khi nghiên cứu trong thời
gian dài và phạm vi rộng, thấy được mối
liên hệ của chúng.
vd: nguyên nhân của sự đói nghèo là do
suy thoái kinh tế, thiên tai, bùng nổ dân
số, bệnh tật…
Câu 3: Trình bày vấn đề triết lý nhân sinh của phật giáo? Ảnh hưởng của phật
giáo đến VN hiện nay?
Phật giáo là 1 trào lưu tôn giáo xuất hiện cuối thế kỷ VI
TCN
của miền Bắc Ấn Độ,

người sáng lập Phật Giáo là Thích-ca-mâu-ni (8/4/563 TCN và mất năm 483 TCN). Đạo
Phật ra đời trong làn sóng phản đối của đạo Bà la môn và chế độ phân biệt đẳng cấp
khắc nghiệt, đòi tự do tư tưởng, bình đẳng XH, lý giải căn nguyên nỗi khổ và tìm cách
giải thoát con người khỏi nỗi khổ trầm luân trong XH Ấn Độ cổ đại.
Tư tưởng Phật giáo ban đầu truyền miệng sau được ghi thành văn. Tư tưởng Phật
giáo tập trung ở 2 tư tưởng lớn: triết lý về bản thể và triết lý nhân sinh.
Về triết lý nhân sinh: họ cho rằng con người là sự hợp nhất của 5 thành phần gọi
là ngũ uẩn: địa, thủy, hỏa, phong, thức vào bể khổ, chịu sự chi phối của nghiệp báo và
kiếp luân hồi.
Bốn thành phần đầu gọi là yếu tố vật chất và thành phần thứ 5 gọi là tinh thần.
3
Duyên hợp ngũ uẩn thì ta ko còn là ta, nhưng ko mất đi mà trở về ngũ uẩn, nên lầm
tưởng ta tồn tại mãi mãi, cái gì cũng của ta, do ta cho nên sinh lòng khát ái, tham dục và
hành động nhằm chiếm đoạt thỏa mãn những ham muốn dục vọng. tạo nên kq là mắc
vào bể khổ, chịu sự chi phối của nghiệp báo và kiếp luân hồi.
=> Triết lý nhân sinh của phật giáo cho rằng cuộc đời con người chỉ là bể khổ, mục đích
sống của con người phải hướng tới sự giải thoát, được thể hiện trong thuyết Tứ Diệu
Đế, thập nhị nhân duyên.
Nhân sinh quan là quan niệm về con người, đời người, cuộc sống. Toàn bộ nhân
sinh quan của Phật Giáo được thể hiện trong Tứ Diệu Đế.
1. Khổ đế: Theo quan niệm Phật Giáo: đời là bể khổ, con người có 8 thứ khổ: sinh khổ,
bệnh khổ, tử khổ, thục biệt khổ, oán khổ, sở cầu bất đắc khổ, Ngũ thủ uẩn khổ.
2. Tập đế: Phật giải thích nguyên nhân của nỗi khổ là do nguyên nhân nhận thức,
nguyên nhân tinh thần . Cụ thể nằm ở Thập nhị nhân duyên: Vô minh, Duyên hành,
Duyên thức, Duyên danh sắc, Duyên lục nhập, Duyên xúc, Duyên thụ, Duyên ái, Duyên
thủ, Duyên hữu, Duyên sinh, Duyên lão tử.
=> Sinh - Lão - Bệnh - Tử: tạo thành 1 vòng luẩn quẩn, trầm luân, không lối thoát, là 1
quá trình đồng thời là nguyên nhân của vòng luân hồi.
3. Diệt đế: PG cho rằng cái khổ có thể tiêu diệt được, điều quan trọng phải tìm ra nỗi
buồn của nỗi khổ, vứt bỏ nó đưa chúng sinh thoát khỏi vòng luân hồi.

4. Đạo đế: đưa ra con đường giải thoát diệt khổ , thực chất là nhằm tiêu diệt vô minh,
PG đưa ra 8 con đường chính: Chính kiến, Chính tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp,
Chính mệnh, Chính tinh tiến, Chính niệm, Chính định.
=> Con người có thể diệt trừ vô minh, giải thoát và đạt tới cõi niết bàn (là trạng thái
hoàn toàn yên tĩnh, sáng suốt, chấm dứt sinh tử luân hồi).
• Những ảnh hưởng của phật giáo tới quan niệm sống của người Việt.
Phật giáo xuất phát từ con người để nhìn nhận thế giới quan xung quanh. Nó
không xuất phát từ cái trừu tượng để tìm hiểu nguyên lý cấu tạo của vũ trụ mà xuất phát
từ cái trừu tượng để nhận thức sự huyền đồng của con người trong vũ trụ. Sơ dĩ đạo
phật đặt trọng tâm vào con người trước là vì đạo phật cho rằng con người biết được
mình thì sẽ biết rõ được trời đất, vận vật. Nhà phật cho rằng “lý sự vô ngại” nghĩa là cái
lý siêu hình của vũ trụ, vạn vật cùng các sự vật trên đời không phải là hai, không có sự
4
ngăn cách và việc của trời đất với việc của con người không phải là không liên hệ với
nhau. Thông hiểu được cái huyền diệu của bản thân thì cũng thông hiểu được cái lẽ
huyền diệu của trời đất, vũ trụ.
- Quan niệm vô thường, vô ngã của phật giáo đã thấm vào tư duy của người Việt
Nam. Đó là kiểu tư duy tổng quan tức là loại tư duy tổng hợp một cách quân bình. Đó là
thứ tư duy “động”, từ cái “có” qua cái “không” và từ cái “không” qua cái “có”. Nó bao
giờ cũng hàm chứa mâu thuẫn: có mà không, không mà có. Tâm hồn người Việt Nam
luôn bị cái triết lý “vô thường” của phật giáo chi phối nên mọi cảnh tượng thực mà hư,
hư mà thực. Theo phật giáo mọi việc trên đời đều luôn luôn động. Do động nên mất
quân bình nhưng mật quân bình chỉ là tạm thời để tìm lại quân bình. Luật quân bình là
luật của tạo hóa để duy trì sự sống. Quân bình là không thái quá, không bất cập. Bởi thế,
trong tư duy của người Việt Nam, trong trời đất không có gì là thái quá mà trường tồn
vĩnh vửu được. Đứng trước công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa thế giới quan và tư
duy tổng hợp của người Việt Nam đã mang lại những thuận lợi nhất định bởi nó đặc
tính rất linh hoạt. Điều này có thể coi là thích hợp cho sự thâm nhập của kinh tế thị
trường vốn có đặc điểm là năng động nhanh nhạy.
- Mối quan hệ nhân quả: Phật giáo đã nhìn thấy mối quan hệ cơ bản, phổ biến của

mọi sự vật, hiện tượng, đó là mối quan hệ nhân quả. Nhấn mạnh tính nhân quả, phật
giáo muốn hướng con người vào việc hướng thiện, làm việc tốt ở đời này để đem lại
phúc đức cho gia đình và ngừơi thân. Anh hưởng của quan niệm này lớn đến mức mà
chính nó đã biến thành quan niệm thế giới quan và nhân sinh quan của đại đa số người
Việt. Người ta thường nói “gieo nhân nào thì gặt quả ấy” hay “gieo gió thì gặp bảo”
Qun điểm nhân quả của phật giáo, xét về mặt nào đó có ý nghĩa nhất định. Con người
phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước những việc làm của mình. Nó chống lại những tư
tưởng sống gấp, chết là hết,
- Tư tưởng từ bi bác ái: nói đến chùa phật, trong tâm trí người Việt Nam đã hiện
ra ý tưởng từ bi, bác ái, khoan hồng, không hờn giận, không chấp nhất. Tuy nhiên, ta
thấy ở Việt Nam đạo pháp được trường tồn, góp vào sự xây dựng nhờ có kỷ cương. Tư
tưởng nhân ái, nhân đạo trong triết học phật giáo rất gần với tuyền thống của người
Việt, của dân tộc Việt Nam. Đó là tình “thương người như thể thương thân”, là sự đồng
cảm giúp đỡ nhau trong lúc hoạn nạn, “một miến khi đói bằng một gói khi no” , là “tình
5
làng nghĩa xóm”, .v.v Chính vì vậy mà phật giáo đã làm giàu thêm tính nhân từ , mong
làm điều lành, lánh dữ của con người Việt Nam.
- Cái tâm của đạo phật: đạo phật luôn đề cao cái tâm của con người, bởi phật giáo
là một học thuyết về tâm. Cái tâm con người là vô cùng quan trọng, bởi lẻ nó chính là
tinh thần, ý thức, là cái phân biệt sự khác nhau giữa con người và động vật. Trong mọi
thời đại “thu phục nhân tâm” luôn là một thủ pháp hết sức đắc lực để giúp các vì vua,
hay người lãnh đạo nói chung điều kiển những người dưới trướng. Lịch sử cũng đã
chứng minh khi dân tộc ta đồng tâm hiệp lực thì sẽ có sức mạnh vô cùng to lớn vượt
qua bao khó khăn, thủ thách đánh thắng bao kẻ ngoãi xâm hùng mạnh hơn mình gấp
nhiều lần mang lại tự do cho nhân dân qua căn bản tư tưởng của đạo phật và qua những
khái niệm cơ bản của học thuyết, ta thấy đạo phật tràn đầy tinh thần nhân ái, nhân đạo.
Câu 4: Tư tưởng TH của thuyết Âm-Dương? Nhận định thế nào về giá trị của nó?
Âm Dương là một khái niệm căn bản của thuyết Âm Dương Ngũ hành, mang tính
so sánh đối đãi, phản ánh bản chất của mọi hiện tượng trong tự nhiên xã hội, cuộc sống
và con người, từ những hạt vật chất nhỏ nhất cho đến những thiên hà khổng lồ và mọi

sự tồn tại trong không thời gian trong lịch sử hình thành vũ trụ sau Thái Cực là trạng
thái khởi nguyên của vũ trụ theo thuyết Âm Dương ngũ hành.
• Tư tưởng triết học về Âm - Dương
"Dương" nguyên nghĩa là ánh sáng mặt trời hay những gì thuộc về ánh sáng mặt
trời và ánh sáng; "Âm" có nghĩa là thiếu ánh sáng mặt trời, tức là bóng râm hay bóng
tối.
Về sau, Âm - Dương được coi như hai khí; hai nguyên lý hay hai thế lực vũ trụ:
biểu thị cho giống đực, hoạt động, hơi nóng, ánh sáng, khôn ngoan, rắn rỏi, v.v. là
Dương. Giống cái, thụ động, khí lạnh, bóng tối, ẩm ướt, mềm mỏng, v.v. tức là Âm.
Chính do sự tác động qua lại giữa chúng mà sinh ra mọi sự vật, hiện tượng trong trời
đất. Hai thế lực Âm - Dương không tồn tại biệt lập mà thống nhất, chế ước lẫn nhau
theo các nguyên lý sau:
- Âm - Dương thống nhất thành Thái cực. Nguyên lý này nói lên tính toàn vẹn,
tính chỉnh thể, cân bằng của cái đa và cái duy nhất. Chính nó bao hàm tư tưởng về sự
thống nhất giữa cái bất biến và biến đổi.
6
- Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Nguyên lý này nói lên khả năng biến
đổi Âm - Dương đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái cực.
Hai nguyên lý này thường được các học giả phái Âm - Dương khái quát bằng
vòng tròn khép kín (tượng trưng cho Thái cực, trong đó được chia thành hai nửa (đen
trắng) và trong nửa này đã bao hàm nhân tố của nửa kia (trong phần đen có nhân tố của
phần trắng và ngược lại), biểu hiện cho nguyên lý trong Dương có Âm và trong Âm có
Dương.
- Sự khái quát đồ hình Thái cực Âm - Dương còn bao hàm nguyên lý: Dương tiến
đến đâu thì Âm lùi đến đó và ngược lại; đồng thời "Âm thịnh thì Dương khởi","Dương
cực thì Âm sinh".
Để giải thích sự biến dịch từ cái duy nhất thành cái nhiều, đa dạng, phong phú
của vạn vật, phái Âm - Dương đã đưa ra lôgíc tất định: Thái cực sinh Lưỡng nghi (Âm -
Dương); Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (Thái Dương - Thiếu Âm - Thiếu Dương - Thái
Âm) và Tứ tượng sinh Bát quái ( Càn - Khảm - Cấn - Chấn - Tốn - Ly - Khôn - Đoài);

Bát quái sinh vạn vật (vô cùng vô tận).
Tư tưởng triết học về Âm - Dương đạt tới mức là một hệ thống hoàn chỉnh trong
tác phẩm Kinh Dịch, trong đó gồm 64 quẻ kép. Mỗi quẻ kép là một động thái, một thời
của vạn vật và nhân sinh, xã hội như: Kiền, Khôn, Bĩ, Thái, Truân ; Sự chú giải Kinh
Dịch là của nhiều bậc trí thức ở nhiều thời đại khác nhau với những xu hướng khác
nhau. Điều đó tạo ra một "tập đại thành" của sự chú giải, bao hàm những tư tưởng triết
học hết sức phong phú và sâu sắc.
*Nhận định thế nào về giá trị của nó
Thuyết âm dương của dân tộc Trung Hoa xuất hiện rất sớm khi họ chưa có chữ
viết, các sử liệu cũng không xác định ai là người sáng tạo ra nó. Các nhà dịch học cổ đại
người Trung Quốc đã tìm ra được các quy luật vận hành của âm dương và họ đã sáng
tạo ra cách bói - đó là phép xin âm dương rất đơn giản, dễ thực hiện và thực hiện ở bất
cứ đâu cũng được. Họ dùng một đồng tiền xu bằng kim loại có 2 mặt ký hiệu khác nhau
và quy định mặt ngửa là dương, mặt sấp là âm, tung đồng tiền lên xem được mặt ngửa
hay sấp, nếu được mặt ngửa (Dương) là điềm tốt lành, nếu được mặt sấp (Âm) là điềm
không tốt.Việc bói toán trở nên phổ biến rộng rãi không những cho dân tộc Trung Hoa
mà cả các dân tộc ở Đông Nam Á cũng sử dụng.
7
Âm dương trong thực tế hiện đại đã được khái quát hóa để chỉ ra hai mặt đối lập
nhau trong một sự vật, một hiện tượng. Từ đó chúng được dùng để điều phối, trấn áp
hay hỗ trợ nhau. Như trong Đông Y chúng được dùng để xem xét sự mất cân bằng giữa
các cơ quan để biết tả hay bổ chúng. Trong Nhân tướng học chúng được dùng để xem
xét một cá nhân thiên về cá tính nóng hay lạnh, để sử dụng nhân lực phù hợp với công
việc. Ví dụ
- Trong tính cách, nếu Dương tính quá nhiều dễ sinh ra manh động, liều lĩnh, nóng vội
và thường khó thành công trong mọi việc. Nếu Âm tính quá nhiều sẽ uỷ mị, không
quyết đoán làm lỡ mất thời cơ. Cần rèn luyện để đạt đến trạng thái cân bằng, bình tĩnh,
khoan hoà để giải quyết mọi việc, khi thời cơ đến cần quyết đoán để không bỏ lỡ thời
cơ.
- Trong sức khoẻ nhất là vấn đề ăn uống cần giữ cân bằng Âm Dương, tránh ăn quá

nhiều thức ăn Âm tính sẽ làm yếu mềm cá tính, hại cho nội quan. Tránh ăn quá nhiều
thức ăn Dương tính sẽ làm hại tỳ vị, sinh ra nhiều bệnh tật. Cần ăn cân bằng cả chất rau,
hoa quả và các chất đạm, chất béo.
- Trong việc dùng người, những việc cần nhanh nhạy, quả quyết, tận dụng thời cơ cần
sức mạnh nên dùng nam giới. Những việc cần bền bỉ, khéo léo, cẩn thận, nhỏ nhặt thì
nên dùng phụ nữ. Trong một tổ chức nên có số nam nữ cân bằng nhau.
Tóm lại: Bất kể một việc gì cũng đều có tốt có xấu, thể hiện nguyên lý trong Âm
có Dương và trong Dương có Âm. Một việc khi đã thành công tuyệt đối tức đã đạt đến
trạng thái khí Nguyên Dương hoặc Nguyên Âm tuyệt đối thì tất sẽ trong tương lai sẽ
suy bại và phá vỡ. Vì vậy, khi thành công một việc gì, nhất là khi đã đạt đến đỉnh vinh
quang cần lường trước sự suy thoái. Ngược lại, khi sự việc đã đến mức cùng cực tồi tệ
tất sẽ xuất hiện điều sáng sủa ở tương lai. Đó là nguyên lý "cùng tắc biến, biến tắc
thông" trong thuyết Âm Dương, hoặc như chúng ta vẫn thường nói "hết cơn bĩ cực đến
hồi thái lai".
Câu 5: Làm rõ đặc điểm TH Hy Lạp cổ đại? Nêu 1 số đại diện tiêu biểu thời kỳ
này?
Triết học Hy Lạp cổ đại là nền triết học được hình thành vào khoảng thế kỷ VI
trước công nguyên đến thế kỷ VI tại Hy Lạp. Triết học Hy Lạp cổ đại được xem là
8
thành tựu rực rỡ của văn minh phương tây, tạo nên cơ sở xuất phát của triết học châu
Âu sau này.
Triết học Hy Lạp có đặc điểm chủ yếu sau:
- Tính tổng hợp của triết học Hy Lạp, do xã hội chiếm hữu nô lệ có sự phân công lao
động trí óc và lao động chân tay, bộ phận trí thức chuyên nghiệp đã hình thành. Khoa
học chưa có chuyên ngành nên nhà khoa học cũng có thể vừa là nhà triết học, toán học,
thiên văn học và vật lý học
- Hình thành nên những trường phái triết học rõ nét là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm
- Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học phản ánh
cuộc đấu tranh giữa những lực lượng tiến bộ và các thế lực bảo thủ. Lenin gọi hai

trường phái này là những đảng phái triết học. Phái dân chủ chủ nô với quan điểm duy
vật tiến bộ và phái chủ nô quý tộc với lập trường duy tâm phản động.
- Phép biện chứng của triết học Hy Lạp là phép biện chứng sơ khai và chủ nghĩa duy vật
chất phác. Người Hy Lạp nghiên cứu phép biện chứng để nâng cao nghệ thuật tranh
luận và hùng biện nhằm bảo vệ quan điểm của mình và tìm ra chân lý.
Một số đại diện tiêu biểu của thời kỳ này
a. Hêraclít (520-460 TCN) là nhà biện chứng nổi tiếng ở Hy Lạp cổ đại. Chính ông là
người sáng lập ra phép biện chứng.
Ông sớm trở thành một nhà triết học duy vật thể hiện rõ các tư tưởng biện chứng
chất phát từ thời cổ Hy Lạp. Ông giải quyết đúng đắn vấn để cơ bản của triết học (vật
chất, ý thức). Ông cho rằng lửa là dạng vật chất đầu tiên. Vũ trụ là một thể thống nhất
của vạn vật, không phải do người sáng tạo ra. Trong quá khứ, trong hiện tại cũng như
trong tương lai, nó là do ngọn lửa là vĩnh viễn, linh hoạt nhen nhóm lên theo quy luật,
đồng thời cũng theo quy luật mà tiêu vong, tàn lụi và bùng cháy theo cái logic "Quy luật
trật tự" nội tại của chính mình. Ông xem thế giới "vừa tồn tại, vừa không tồn tại",
"Không ai tắm hai lần trên một dòng sông". Thế giới vật chất "vừa đa dạng, vừa thống
nhất, vừa mang tính hài hòa, vừa xung đột".
Như vậy Héraclite là nhà triết học đã nêu lên các phán đoán thiên tài về quy luật thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập mà sau này Marx đã đề cập và đi sâu. Phép biện
9
chứng duy vật chất phác là đóng góp của triết học Héraclite vào kho tàng tư tưởng của
nhân loại "Thế giới chỉ là ngọn lửa đang bập bùng cháy suốt ngày đêm"
b. Đêmôcrít (460-370 TCN) là đại biểu xuất sắc nhất của chủ nghĩa duy vật cổ đại.
Là học trò của Leucippe đã kế thừa và phát triển thuyết nguyên tử luận trên một
phương diện mới. Theo ông vũ trụ được cấu tạo thành bởi hai thực thể đầu tiên là
nguyên tử và chân không. Hai thực thể này là căn nguyên của các sự vật hiện tượng.
Ông cho rằng mọi biến động trong thế giới vật chất đều là những hiện tượng phản ánh
của hai được cuộc tranh luận giữa hai trường phái đối lập nhau ở cổ Hy Lạp. Ông đã
từng mở những cuộc tranh luận công khai và kịch liệt với các nhà triết học của phái duy
tâm như Socrate và Platon. Do đó mà bị học phái này rất căm ghét cuộc tranh luận giữa

hai trường phái triết học đối lập nhau ở cổ Hy Lạp.
c. Platôn (427-347 TCN) là nhà triết học duy tâm khách quan.
Platôn là người dầu tiên xây dựng hệ thống hoàn chỉnh đầu tiên của chủ nghĩa
duy tâm khách quan, đối lập với thế giới quan duy vật. Ông đã tiến hành đấu tranh gay
gắt chống lại chủ nghĩa duy vật đặc biệt là chống lại những đại biểu của chủ nghĩa duy
vật thời bấy giờ như Hêraclit. Theo Platôn, giới tự nhiên-thế giới của những vật cảm
tính-bắt nguồn từ những thực thể tinh thần tức là từ những ý niệm; vật thể cảm tính chỉ
là cái bóng của ý niệm. Ông cho rằng, để nhận thức được chân lý người ta phải từ bỏ
mọi cái hữu hình cảm tính; phải “hồi tưởng” lại những gì mà linh hồn bất tử quan sát
được trong thế giới ý niệm. Thuyết hồi tưởng thần bí này được xây dựng trên cơ sở học
thuyết về linh hồn bất tử, tính độc lập của linh hồn với thể xác. Nếu ở Đêmocrit, phép
biện chứng được sử dụng để phục vụ khoa học thì ở Platôn phép biện chứng lệ thuộc
vào triết học duy tâm. Đường lối Platôn chống lại đường lối Đêmôcrit trong triết học Hi
Lạp cổ đại, chống lại thuyết nguyên tử của Đêmôcrit. Các hiện tượng tự nhiên bị ông
quy về các quan hệ toán học. Đạo đức học của ông được xây dựng trên học thuyết về
linh hồn bất tử là một hình thức của lý luận tôn giáo, là bộ phạn quan trọng nhất của ý
thức tư tưởng của tầng lớp chủ nô quý tộc.
d. Arixtốt(384-322 TCN) ông là nhà triết học cổ đại trung hòa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm.
10
Câu 6: Phân tích những giá trị tư tưởng TH biện chứng của Hêraclit ?
Hêraclit (khoảng 520 - 460TCN): Ông được xem là trung tâm trong lịch sử của
phép biện chứng Hi Lạp cổ đại. Lênin coi ông là một trong những người sáng lập ra
phép biện chứng. Tư tưởng của ông có ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển của phép
biện chứng sau này.là nhà biện chứng nổi tiếng ở Hy Lạp cổ đại. Khác với các nhà triết
học phái Milê, Hêraclit cho rằng không phải là nước, apeirôn, không khí, mà chính lửa
là nguồn gốc sinh ra tất thảy mọi sự vật. "Mọi cái biến đổi thành lửa và lửa thành mọi
cái tựa như trao đổi vàng thành hàng hóa và hàng hóa thành vàng". Lửa không chỉ là cơ
sở của mọi vật mà còn là khởi nguyên sinh ra chúng "Cái chết của lửa - là sự ra đời của
không khí, và cái chết của không khí là sự ra đời của nước, từ cái chết của nước sinh ra

không khí, từ cái chết của không khí - lửa, và ngược lại".
Về nhận thức luận và bản thể luận
- Về mặt nhận thức luận: Theo ông, nhận thức khởi đầu từ cảm tính thông qua các
giác quan để con người nhận thức các sự vật cụ thể. Ông cũng nhận thấy vai trò không
giống nhau giữa các giác quan trong nhận thức “mắt và tai là người thầy tốt nhất nhưng
mắt tốt hơn tai”.
Ông chia nhận thức thành hai cấp độ là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Nhận
thức cảm tính chỉ là sự tiếp cận với logos nhưng không chắc chắn. Nhận thức lý tính là
con đường đạt tới chân lý nên ông đề cao.
- Về bản thể luận. Con người là sự thống nhất cả hai mặt đối lập ẩm ướt và lửa.
Linh hồn của con người là biểu hiện của lửa. Lửa đưa con người đến điều thiện, làm cho
con người trở nên hoàn hảo, lửa là thôi thúc ở trong tim để ngăn ngừa những cám dỗ vì
chống lại khoái cảm còn khó hơn chống lại sự giận dữ.
Theo ông, hạnh phúc không phải là sự hưởng lạc về mặt thể xác thoả mãn dục vọng mà
ở chỗ phải biết vượt lên trên mình biết nói, biết suy nghĩ, hành động theo logos.
Dưới con mắt của Hêraclit, mọi sự vật trong thế giới của chúng ta đều thay đổi,
vận động, phát triển không ngừng. Theo ông không có sự vật, hiện tượng nào đứng im
tuyệt đối cả. Luận điểm bất hủ của Hêraclit: "Chúng ta không thể tắm hai lần trên cùng
một dòng sông". Hêraclit thừa nhận sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập nhưng
trong các mối quan hệ khác nhau. Trong các mâu thuẫn của sự vật, các mặt đối lập luôn
11
ràng buộc nhau,quy định nhau. Chẳng hạn, "một con khỉ dù đẹp đến đâu nhưng vẫn là
xấu nếu đem so nó với con người". Vũ trụ là một thể thống nhất, nhưng trong lòng nó
luôn luôn diễn ra các cuộc đấu tranh giữa các sự vật, lực lượng đối lập nhau. Nhờ các
cuộc đấu tranh đó mà mới có hiện tượng sự vật này chết đi, sự vật khác ra đời. Điều đó
làm cho vũ trụ thường xuyên phát triển và trẻ mãi không ngừng. Vì thế đấu tranh là
vương quốc của mọi cái, là quy luật phát triển của vũ trụ. Bản thân cuộc đấu tranh giữa
các mặt đối lập luôn diễn ra trong sự hài hoà nhất định.
Tóm lại, Heraclit được xem là 1 trong những người sáng lập ra phép biện chứng.
Giá trị mà ông để lại chính là những vấn đề mà ông đã đặt ra.

Câu 7: Đánh giá những gía trị tư tưởng duy vật của Đêmôcrít?
Đêmôcrít (460-370TCN): Là một trong những nhà triết học duy vật lớn nhất thời
cổ đại. Ông cho rằng, tất cả mọi vật đều hình thành từ nguyên tử, đó là phần tử vật chất
bé nhỏ, cơ sở của mọi vật và không phân chia được nữa. Học thuyết nguyên tử của
Đêmôcrít là thành quả vĩ đại của tư tưởng duy vật trong thế giới cổ đại. Những tư tưởng
vũ trụ học của ông xây dựng trong lý luận nguyên tử về cấu tạo vật chất và thấm nhuần
tinh thần biện chứng tự phát có một ý nghĩa sâu sắc đối với lịch sử triết học.
Thừa nhận vũ trụ là vô tận và vĩnh cửu, Đêmôcrít cho rằng có vô số thế giới vĩnh viễn
phát sinh, phát triển và tiêu diệt.
Ông phỏng đoán rằng, vận động không tách rời vật chất, đó là một phỏng đoán
thiên tài. Theo ông, vận động của những nguyên tử là vĩnh viễn, không có điểm kết
thúc.
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học Đêmôcrít nêu ra khái niệm không gian. Theo
ông, không gian là khoảng chân không rộng lớn, trong đó những nguyên tử vận động
vĩnh viễn. Không gian là những khoảng trống giữa các vật thể, nhờ đó các vật thể có thể
tụ lại hoặc giãn ra. Xuất phát từ học thuyết nguyên tử, Đêmôcrít cho rằng không gian là
gián đoạn và có thể phân chia vô tận.
Đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa duy vật Đêmôcrít là quyết định luận (thừa nhận
sự ràng buộc theo luật nhân quả và tính quy luật của các hiện tượng tự nhiên) nhằm
chống lại mục đích luận (là quan điểm duy tâm cho rằng cái thống trị trong tự nhiên
không phải là tính nhân quả mà có tính mục đích). Sự thừa nhận tính nhân quả, tính tất
12
yếu và tính quy luật trong giới tự nhiên là một trong những thành quả có giá trị nhất của
triết học duy vật Hi Lạp cổ đại.
Đêmôcrít có nhiều công lao trong việc xây dựng lý luận về nhận thức. Ông đặt ra
và giải quyết một cách duy vật vấn đề đối tượng của nhận thức, vai trò của cảm giác với
tính cách là điểm bắt đầu của nhận thức và vai trò của tư duy trong việc nhận thức tự
nhiên.
Nét đặc sắc trong triết học duy vật của Đêmôcrít là chủ nghĩa vô thần. Ông cho
rằng sở dĩ con người tin vào thần thánh là vì con người bất lực trước những hiện tượng

khủng khiếp của tự nhiên. Theo ông, thần thánh chỉ là sự nhân cách hoá những hiện
tượng tự nhiên hay là những thuộc tính của con người. Thí dụ, mặt trời mà tôn giáo Hi
Lạp đã thần thánh hoá thì ông cho đó chỉ là một khối lửa.
Công lao có ý nghĩa lịch sử của Đêmôcrít là ông đã bền bỉ đấu tranh cho quan
niệm duy vật về tự nhiên. Nó đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển tiếp theo của
triết học duy vật.
Câu 8: Phân tích giá trị và hạn chế trong TH duy tâm khách quan của Hêghen ?
HÊGHEN: Là nhà biện chứng, đồng thời là nhà triết học duy tâm khách quan. Triết học
của ông đầy mâu thuẫn. Nếu phương pháp biện chứng của ông là hạt nhân hợp lý, chứa
đựng tư tưởng thiên tài về sự phát triển, thì hệ thống triết học duy tâm của ông phủ nhận
tính chất khách quan của những nguyên nhân bên trong vốn có của sự phát triển của tự
nhên và xã hội.
Ông cho rằng, khởi nguyên của thế giới không phải là vật chất mà là “ý niệm
tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới”. Tính phong phú, đa dạng của thế giới hiện thực là
kết quả của sự vận động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối tồn tại vĩnh
viễn. “Ý niệm tuyệt đối” theo nhận xét của Lênin chỉ là một cách nói theo đường vòng,
một cách khác nói về Thượng đế mà thối. Cho nên triết học của Hêghen là sự biện hộ
cho tôn giáo.
Hêghen dã có công trong việc phê phán tư duy siêu hình và ông là người đầu tiên
trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình, nghĩa là trong
sự vận động và biến đổi không ngừng. Đồng thời trong khuôn khổ của hệ thống triết
học duy tâm của mình, Hêghen không chỉ trình bày các phạm trù như chất, lượng, phủ
định, mâu thuẫn,… mà còn nói đến các quy luật “lượng đổi dẫn đến chất đổỉ và ngược
13
lại”, “phủ dịnh của phủ định” và “quy luật mâu thuẫn”. Nhưng tất cả cái đó chỉ là quy
luật vận động và phát triển của bản thân tư duy, của ý niệm tuyệt đối. Trong hệ thống
triết học của Hêgen, không phải ý thức, tư tưởng phát triển trong sự phụ thuộc vào sự
phát triển của tự nhiên và xã hội, mà ngược lại, tự nhiên phụ thuộc vào sự phát triển của
ý niệm tuyệt đối.
Tóm lại, Hêghen là nhà triết học biện chưng duy tâm khách quan. Là nhà triết học

duy tâm khách quan, Hêghen cho rằng “ý niệm tuyệt đối” là cái có trước vật chất, tồn
tại vĩnh viễn không phụ thuộc vào con người, tạo ra hiện thực khách quan. Giới tự nhiên
chỉ là sự tồn tại khác của “ý niệm tuyệt đối” Tính đa dạng của thực tiễn được ông xem
như là kết quả tác động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Là nhà biện chứng, ông đã có
công nêu ra những phạm trù, quy luật cơ bản của phép biện chứng. Nhưng phép biện
chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm, vì vậy Mác gọi đó là phép biện chứng
lộn ngược đầu xuống đất, vì đó cũng chỉ là quy luật của sự phát triển của “ý niệm tuyệt
đối” mà thôi. Mặc dù vậy, ông vẫn là người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên và
lịch sử dưới dạng một quá trình không ngừng vận động và biến đổi, phát triển và cố
gắng vạch ra mối liên hệ bên trong của sự vận động và phát triển ấy.
Câu 9: Làm rõ những điều kiện lịch sử và tiền đề ra đời TH Mác?
* Những điều kiện ra đời của triết học Mác:
Triết học Mác, cũng như các hệ thống triết học trước đó, đều ra đời dựa trên những điều
kiện kinh tế-xã hội nhất định:
a. Điều kiện về kinh tế - xã hội
- Chủ nghĩa tư bản đã bước sang giai đoạn mới :
Triết học Mác ra đời trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản đã bước sang giai đoạn mới
nhờ tác động của cách mạng công nghiệp, đã tạo ra một lực lượng sản xuất vô cùng to
lớn so với các thời kỳ trước đó.
- Mâu thuẩn xã hội vốn có của nó bộc lộ ngày càng gay gắt:
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho những mâu thuẩn xã hội vốn có
của nó bộc lộ ngày càng gay gắt, nhiều cuộc đấu tranh giai cấp đã nổ ra, đi từ thấp đến
cao, từ tự phát đến tự giác, từ dân sinh đến dân chủ; giai cấp tư sản không còn là giai
cấp cách mạng, giai cấp vô sản trở thành một lực lượng chính trị lớn mạnh, là giai cấp
tiên tiến nhất, cách mạng nhất.
14
- Triết học Mác ra đời là tất yếu khách quan:
Từ thực tiển xã hội, nhất là từ thực tiển cách mạng của giai cấp vô sản đã nảy
sinh một yêu cầu mang tính khách quan là phải được soi sáng bằng một lý luận khoa
học. Sự ra đời của Triết học Mác, là một tất yếu khách quan, là sự giải đáp về mặt lý

luận những vấn đề thời đại đang đặt ra trên lập trường của giai cấp vô sản.
b. Điều kiện về mặt lý luận và những tiền đề khoa học tự nhiên
- Sự kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết học:
Sự ra đời của Triết học Mác phù hợp với quy luật của lịch sử tư tưởng nhân loại; là sự
kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy triết học nhân loại, nó
được Mác và Anghen sáng tạo ra và được Lênin phát triển một cách xuất sắc.
- Xây dựng học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ:
Các ông vừa phê phán chủ nghĩa duy tâm, vừa đánh giá cao tư tưởng biện chứng
của triết học Heghen, của Phơbach, cải tạo chúng và xây dựng nên học thuyết triết học
mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu
cơ; đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét giới tự nhiên, xã hội và tư
duy con người.
- Triết học Mác ra đời trong sự tác động qua lại với quá trình các ông kế thừa và
cải tạo học thuyết kinh tế chính trị Anh và lý luận về Chủ nghĩa xã hội.
- Vai trò quan trọng của những thành tựu khoa học tự nhiên:
Những thành tựu khoa học tự nhiên có vai trò rất quan trọng trong sự ra đời của
triết học Mác; những phát minh lớn của khoa học tự nhiên, như: định luật bảo toàn năng
lượng, thuyết tế bào và thuyết tiến hóa của Đacuyn làm bộc lộ rõ tính hạn chế và bất lực
của phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhận thức thế giới, đồng thời cung cấp cơ
sở khoa học để phát triển tư duy biện chứng, hình thành phép biện chứng duy vật.
Tóm lại, Triết học Mác cũng như toàn bộ Chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu
lịch sử, không những vì nó là sự phản ảnh thực tiển xã hội, nhất là thực tiển cách mạng
của giai cấp vô sản mà còn là sự phát triển hợp quy luật của lịch sử tư tưởng nhân loại.
15
Câu 10: Thực chất và ý nghĩa của bước ngoặt cách mạng trong TH do Mác và
Ănghen thực hiện?
Sự ra đời của TH Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử
phát triển TH của nhân loại: Mác và Angghen đã kế thừa một cách có phê phán những
thành tựu tư duy nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triết học triệt để không điều

hoà với CNDT và phép siêu hình
a. Thực chất của cuộc cách mạng:
- TH Mác - Lênin đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện chứng
trong lịch sử phát triển TH
+ CNDV trước Mác đã thể hiện tính biện chứng song do sự hạn chế của điều kiện xã hội
và của trình độ phất triển khoa học nên tính siêu hình vẫn là một ngược điểm chung
+ Mác và Anghen đã cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ và cả phép biện chứng duy tâm của
Heghen. Giải thoát CN duy vật khỏi tính siêu hình, mở rộng học thuyết ấy từ nhận thức
giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội.
- CN duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học
Đó là một cuộc cách mạng thật sự trong học thuyết về xã hội, một trong những yếu tố
chủ yếu của bước ngoặt cách mạng mà Mác và Angghen đã thực hiện trong TH
Mở rộng: Các hệ thống TH duy vật trước Mác thường duy vật về tự nhiên, duy tâm về
xã hội; còn tôn giáo duy tâm cả tự nhiên và xã hội nhưng đến TH Mác đã khắc phục vấn
đề này. Từ đó khẳng định Mác với 2 phát kiến vĩ đại là sáng tạo thuyết giá trị thặng dư
và sáng tạo CNDV lịch sử
- Sự ra đời của TH Mác, vai trò xã hội của TH cũng như vị trí của TH trong hệ thống tri
thức khoa học cũng biến đổi, thể hiện:
- Các nhà TH trước chỉ giải thích thế giới nhưng đến TH Mác không những giải thích
thế giới mà còn cải tạo thế giới. Từ đó cho thấy sự khác nhau về chất giữa TH Mác và
các học thuyết TH trước Mác
b. Ý nghĩa của cuộc cách mạng trong TH Mác:
- Sự kết hợp lý luận của CN Mác với phong trào công nhân đã tạo nên bước chuyển
biến về chất của pt, từ trình độ tự phát lên tự giác
+ TH Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp cn- một giai cấp cách mạng nhất, tiến
bộ nhất
16
+ TH Mác đã chấm dứt tham vọng của nhiều nhà THDT coi TH là khoa học của các
khoa học
Từ TH cổ đại đến TH cổ điển Đức tới hệ thống TH Heghen: TH là khoc học của các

loại khoa học, TH đẻ ra các khoa học.
+ TH là TG quan khoa học và pp luận chung cần thiết cho sự phát triển của các khoa
học
- Đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện chứng trong lịch sử phát
triển của triết học. Giải thoát chủ nghĩa duy vật khỏi tính hạn chế siêu hình, Mác đã làm
cho chủ nghĩa duy vật trở lên hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự
nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người: "Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành
tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học". Đó là một cuộc cách mạng thật sự trong học
thuyết về xã hội, một trong những yếu tố chủ yếu của bước ngoặt cách mạng mà Mác và
Ăngghen đã thực hiện trong triết học.
- Với sự ra đời của triết học Mác, vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí của triết
học trong hệ thống tri thức khoa học cũng biến đổi.
- Triết học Mác đã khắc đã khắc phục, vượt qua và đi tới chủ nghĩa duy vật lịch sử làm
cho chủ nghĩa duy vật trở thành triệt để.
- Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, một giai cấp tiến bộ
và cách mạng nhất. Sức mạnh "cải tạo thế giới" của triết học Mác chính là sự gắn bó
mật thiết cuộc đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân đông đảo, nhờ đoa lý luận
"sẽ trở thành lực lượng vật chất".
- Triết học Mác đã chấm dứt tham vọng của nhiều nhà triết học duy tâm coi triết học là
khoa học của mọi khoa học.)
17

×