Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

hoàn thiện công tác kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại công ty cổ phần xây dựng số 1 - hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (618.61 KB, 108 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
CƠ SỞ THANH HÓA – KHOA KINH TẾ

CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI:
HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC
KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN
XÂY DỰNG SỐ 1 - HẢI DƯƠNG
GV HƯỚNG DẪN : TH.S. LÊ THỊ HỒNG HÀ
SV THỰC HIỆN : NGUYỄN HÙNG HIẾU
MSSV : 10007193
LỚP : DHKT6TH
THANH HÓA, THÁNG 05 NĂM 2014
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Lê Thị Hồng Hà
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu và viết chuyên đề tốt nghiệp, em đã nhận được sự
quan tâm hướng dẫn, giúp đỡ của nhiều tập thể, cá nhân trong và ngoài nhà trường.
Trước hết em xin chân thành cảm ơn cô giáo Lê Thị Hồng Hà, người đẫ trực tiếp
hướng dẫn và giúp đỡ tận tình cho em trong suốt thời gian thực tập và viết chuyên đề
thực tập. Đồng thời em cũng xin chân thành cảm ơn tới: Khoa Kế toán - Trường Đại
học Công Nghiệp Thành Phố Hồ Chí Minh, Công ty xây dựng Số 1- Hải Dương đã
nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho em nghiên cứu và hoàn thành khoá luận này.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn các Thầy cô giáo trong khoa đã tạo điều
kiện cho em hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp này
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hùng Hiếu – MSSV: 10007193 i
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Lê Thị Hồng Hà
NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hùng Hiếu – MSSV: 10007193 ii
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Lê Thị Hồng Hà
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

















Ngày …. tháng … năm 2014
GIẢNG VIÊN
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hùng Hiếu – MSSV: 10007193 iii
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Lê Thị Hồng Hà
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN PHẢN BIỆN


















Ngày …. tháng … năm 2014
GIẢNG VIÊN
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hùng Hiếu – MSSV: 10007193 iv
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Lê Thị Hồng Hà
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TT TỪ VIẾT TẮT DIỄN GIẢI
1
2
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hùng Hiếu – MSSV: 10007193 v
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Lê Thị Hồng Hà
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hùng Hiếu – MSSV: 10007193 vi
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Lê Thị Hồng Hà

MỤC LỤC
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hùng Hiếu – MSSV: 10007193 vii
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: Th.S. Lê Thị Hồng Hà
LỜI NÓI ĐẦU
Sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đòi hỏi nền tài chính quốc gia phải được tiếp
tục đổi mới một cách toàn diện nhằm tạo ra sự ổn định của môi trường kinh tế. Tài
chính luôn luôn là tổng hoà các mối quan hệ kinh tế, tổng thể các nội dung và giải
pháp tài chính, tiền tệ, không chỉ có nhiệm vụ khai thác các nguồn lực tài chính, tăng
thu nhập, tăng trưởng kinh tế, mà còn phải quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn
lực. Hạch toán kế toán là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản
lý kinh tế, tài chính, có vai trò tích cực trong việc quản lý, điều hành và kiểm soát các
hoạt động kinh tế. Với tư cách là công cụ quản lý kinh tế, kế toán tiền lương là một
lĩnh vực gắn liền với hoạt động kinh tế, tài chính đảm bảo hệ thống tổ chức thông tin
có ích cho các quyết định kinh tế. Vì vậy kế toán tiền lương có vai trò đặc biệt cần
thiết và quan trọng với hoạt động tài chính doanh nghiệp.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, việc sáng tạo ra của cải vật chất
gắn liền với lao động, lao động là yếu tố cơ bản trong quá trình sản xuất. Tổ chức tốt
công tác quản lý lao động tiền lương cho người lao động, chấp hành tốt kỷ luật lao
động, nâng cao hiệu quả công tác hạch toán kế toán tiền lương và các khoản trích theo
tiền lương giúp cho việc quản lý chặt chẽ, đúng chế độ từ đó khuyến khích được người
lao động nâng cao năng xuất lao động và tạo cơ sở cho việc tính toán và phân bổ vào
giá thành sản phẩm được chính xác và đúng đối tượng. Đồng thời làm căn cứ để xác
định các khoản nghĩa vụ phải nộp ngân sách cho các cơ quan phúc lợi xã hội. Để kết
hợp giữa lý luận và thực tiễn sản xuất, được sự giúp đỡ của thầy cô giáo em mạnh dạn
đi sâu nghiên cứu chuyên đề: “Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương trong
doanh nghiệp tại Công ty Xây dựng Số 1- Hải Dương”. Do điều kiện có hạn, khả năng
kiến thức thực tế còn ít cho nên khoá luận không tránh khỏi những hạn chế nhất định.
Rất mong được sự góp ý của các thầy cô giáo để đề tài này được hoàn thiện hơn
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hùng Hiếu – MSSV: 10007193 Trang 1

Chương 1: Tổng quan đề tài nghiên cứu
GVHD:Th.S. Lê Thị Hồng Hà
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐÊ TÀI
Đối với người lao động, sức lao động mà họ bỏ ra để là để đạt được lợi ích cụ
thể, đó là tiền công ( lương ) mà người sử dụng lao động họ sẽ trả. Vì vậy việc nghiên
cứu tiền lương và các khoản trích theo lương (BHXH, BHYT, KPCĐ) rất được mọi
người quan tâm. Trước hết là họ muốn biết lương chính thức của của mình được
hưởng bao nhiêu, họ được hưởng bao nhiêu cho BHXH, BHYT, KPCĐ và họ có trách
nhiệm như thế nào với các quỹ đó. Sau đó là sự hiểu biết về lương và các khoản trích
theo lương sẽ giúp họ đối chiếu với chính sách của nhà nước quy định về các khoản
này, qua đó họ biết được người sử dụng lao động đã trích đúng, trích đủ cho họ quyền
lợi này hay chưa. Cách tính lương của doanh nghiệp cũng giúp cán bộ công nhân viên
thấy được quyền lợi của mình trong việc tăng năng suất lao động, từ đó thúc đẩy việc
nâng cao chất lượng lao động của doanh nghiệp.
Còn đối với doanh nghiệp, việc nghiên cứu và tìm hiểu sâu về quá trình hạch
toán lương tại doanh nghiệp giúp cán bộ quản lý hoàn thiện lại cho đúng, đủ, phù hợp
với chính sách của Nhà nước, đồng thời qua đó cán bộ công nhân viên của doanh
nghiệp được quan tâm đảm bảo về quyền lợi sẽ yên tâm hăng hái hơn trong lao động
sản xuất. Hoàn thiện hạch toán lương còn giúp doanh nghiệp phân bổ chính xác chi phí
nhân công vào giá thành sản phẩm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm nhờ giá thành
hợp lý. Mối quan hệ giữa chất lượng lao động (lương) và kết quả sản xuất kinh doanh
dược thể hiện chính xác trong hạch toán cũng giúp rất nhiều cho bộ máy quản lý doanh
nghiệp trong việc đưa ra các quyết định chiến lược để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh.
Là một sinh viên chuyên ngành kế toán doanh nghiệp trong những năm học tập
và rèn luyện ở trường với mong muốn “học đi đôi với hành” để củng cố thêm kiến
thức, vận dụng kiến thức đã học vào trong thực tế. Trong thời gian thực tập được sự
giúp đỡ tận tình của Cô giáo hướng dẫn, các cô, các chú phòng kế toán, ban lãnh đạo

cùng toàn thể cán bộ trong Công Ty Xây Dựng Số 1 – Hải Dương, em đã tìm hiểu và
nghiên cứu đề tài “Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Công ty xây
dựng Số 1 – Hải Dương” thuộc tỉnh Hải Dương.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hùng Hiếu – MSSV: 10007193 Trang 2
Chương 1: Tổng quan đề tài nghiên cứu
GVHD:Th.S. Lê Thị Hồng Hà
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Đánh giá thực trạng, tình hình, đặc điểm tính chất và tầm quan trọng của kế toán
tiền kương và các khoản trich nộp theo lương tại Công ty Xây Dựng Số 1 – Hải
Dương. Nhằm tổng kết và khái quát những vấn đề có tính chất tổng quan về tiền lương
và kế toán tiền lương qua đó đánh giá tình hình trả lương và hạch toán tiền lương để
tìm ra những mặt mạnh, mặt yếu để có những biện pháp khắc phục để hoàn thiện công
tác hạch toán tiền lương, đảm bảo sự công bằng tạo động lực thúc đẩy cán bộ, công
nhân viên trong Công ty, phát huy hết khả năng sức lao động, sáng tạo của mình để
phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh. Từ đó kịp thời cung cấp thông tin kế toán cho
ban giám đốc hiểu rõ hết tình hình của Công ty để đưa ra các quyết định đúng đắn, phù
hợp với thực trạng của Công ty để có thể đạt được hiệu quả cao nhất về mọi mặt.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1.3.1. Lương:
+ Lương cán bộ công nhân viên trong công ty
+ Lương tính cho công nhân thuê ngoài
1.3.2. Các khoản trích theo lương:
+ Bảo hiểm xã hội
+ Bảo hiểm y tế
+ Kinh phí công đoàn
1.4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.4.1.Phạm vi không gian
Đề tài được nghiên cứu tại Công ty Xây dựng số 1 – Hải Dương
1.4.2. Phạm vi thời gian
- Thời gian nghiên cứu đề tài : Nguồn số liệu được lấy tại năm 2012, tại Phòng

tài chính – Kế toán
1.5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
1.5.1 Phương pháp thu thập thông tin.
Khi đi vào nghiên cứu một doanh nghiệp phải tìm hiểu nghiên cứu và lựa chọn
thông tin nào là hết sứu cần thiết. Việc thu thập thông tin một cách chính xác và có
khoa học sẽ phục vụ tốt và đảm bảo yêu cầu của mục đích nghiên cứu.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hùng Hiếu – MSSV: 10007193 Trang 3
Chương 1: Tổng quan đề tài nghiên cứu
GVHD:Th.S. Lê Thị Hồng Hà
Phương pháp điều tra: Thống kê tiến hành thu thập ghi chép tài liệu ban đầu trên
toàn thể các đơn vị điều tra, không bỏ sót bất kỳ một đơn vị nào, ghi chép toàn bộ số
liệu có liên quan đến tiền lương và các khoản trích theo lương của doanh nghiệp về
tổng tiền lương và bảo hiểm, số đã chi và số còn lại chưa chi.
Phương pháp phỏng vấn: Là phỏng vấn và tham khảo ý kiến của những cán bộ
quản lý có kinh nghiệm, có trách nhiệm trong doanh nghiệp và phòng kế toán về các
sô liệu phản ánh tiền lương và các khoản trích theo lương của doanh nghiệp về tổ chức
quản lý và sử dụng quỹ lương.
Phương pháp trực quan: Là trực tiếp quan sát các biểu báo cáo và các số liệu
được lập nên tại đơn vị và cơ sở vật chất của đơn vị.
1.6. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Nội dung của bài chuyên đề gồm 4 chương:
Chương 1 : Tổng quan về đề tài nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận chung về kế toán tiền lương và các khoản trích theo
lương
Chương 3: Thực trạng kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tai công
ty Xây Dựng Số 1 – Hải Dương
Chương 4: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác tiền lương tại công ty Xây
Dựng Số 1 – Hải Dương
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hùng Hiếu – MSSV: 10007193 Trang 4
Chương 2: Cơ sở lý luận

GVHD: Lê Thị Hồng Hà
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN TIỀN LƯƠNG VÀ
CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG.
2.1 NỘI DUNG, Ý NGHĨA, ĐẶC ĐIỂM CỦA TIỀN LƯƠNG
2.1.1 Nội dung, ý nghĩa của tiền lương
Tiền lương là một phạm trù kinh tế phức tạp, mang tính lịch sử có ý nghĩa chính
trị, kinh tế và xã hội to lớn. Ngược lại bản thân tiền lương cũng chịu tác động mạnh
mẽ của xã hội.
Cụ thể là trong xã hội Tư bản chủ nghĩa, tiền lương là sự biểu hiện bằng tiền của
sức lao động, là giá cả của sức lao động.
Trong xã hội chủ nghĩa, tiền lương không phải là giá cả của sức lao động, mà là
giá trị một phần vật chất trong tổng sản phẩm xã hội dùng để phân phối cho người lao
động theo nguyên tắc “ làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Tiền lương mang
một ý nghĩa tích cực, tạo ra sự công bằng trong phân phối thu nhập quốc dân.
Ở Việt Nam, trong thời kì bao cấp, một phần thu nhập quốc dân được tách ra làm
quỹ lương và phân phối cho người lao động theo kế hoạch tiền lương chịu tác động
của quy luật phát triển cân đối có kế hoạch, chịu sự chi phối trực tiếp của Nhà nước
thông qua các chế độ, chính sách tiền lương do Hội đồng bộ trưởng ban hành ( nay là
Chính phủ). Tiền lương cụ thể bao gồm hai phần: Phần trả bằng tiền dựa trên hệ thống
thang lương, bảng lương và phần trả bằng hiện vật thông qua chế độ tem phiếu, sổ
(phần này chiếm tỷ trọng lớn). Theo cơ chế này thì tiền lương không gắn chặt với số
lượng và chất lượng lao động, không phản ánh đúng giá trị của sức lao động đã tiêu
hao của từng người lao động, không đảm bảo một cuộc sống ổn định cho nhân dân. Vì
vậy nó không tạo ra được một động lực trong sản xuất.
Trên thực tế, cái mà người lao động yêu cầu không phải là một khối lượng tiền
lương lớn, mà họ quan tâm đến khối lượng tư liệu sinh hoạt mà họ nhận được thông
qua tiền lương. Vấn đề này liên quan đến hai khái niệm về tiền lương đó là: Tiền
lương danh nghĩa và tiền lương thực tế.
+ Tiền lương danh nghĩa: là khối lượng tiền trả cho công nhân viên dưới hình

thức tiền tệ, đó là số tiền thực tế mà người lao động nhận được. Tuy vậy cùng với một
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hùng Hiếu – MSSV: 10007193 Trang 5
Chương 2: Cơ sở lý luận
GVHD: Lê Thị Hồng Hà
số tiền như nhau người lao động sẽ mua được khối lượng hàng hoá dịch vụ khác nhau
ở các thời điểm, các vùng khác nhau do sự biến động thường xuyên của giá cả.
+ Tiền lương thực tế: Là số lượng hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ mà người lao
động mua được bằng tiền lương danh nghĩa. Tiền lương thực tế phụ thuộc vào hai yếu
tố sau:
- Tổng số tiền nhận được( Tiền lương danh nghĩa)
- Chỉ số giá cả hàng hoá tiêu dùng dịch vụ.
Như vậy, tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế có mối quan hệ khăng khít
với nhau và được thể hiên qua công thức sau:
Tiền lương thực tế =
Tiền lương danh nghĩa
Chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ
Khi chỉ số tiền lương danh nghĩa tăng nhanh hơn chỉ số giá cả điều này có nghĩa
là thu nhập thực tế của người lao động tăng lên, khi tiền lương không đảm bảo được
đời sống của cán bộ công nhân viên chức, khi đó tiền lương không hoàn thành chức
năng quan trọng đó là tái sản xuất sức lao động. Điều này đòi hỏi các nhà hoạch định
chính sách phải luôn quan tâm đến tiền lương thực tế.
Về phương diện hạch toán, tìên lương công nhân doanh nghiệp sản xuất được
chia làm hai loại đó là : Tiền lương chính và tiền lương phụ.
+ Tiền lương chính: Là tiền lương trả cho công nhân viên trong thời gian thực
hiện nhiệm vụ chính của họ bao gồm tiền lương trả theo cấp bậc và các khoản phụ cấp
kèm theo( Phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp khu vực).
+ Tiền lương phụ: Là tiền lương trả cho công nhân viên trong thời gian thực hiện
nhiệm vụ khác ngoài nhiệm vụ chính của họ và thời gian công nhân viên được nghỉ
được hưởng lương theo chế độ ( Nghỉ phép, nghỉ vì ngừng sản xuất…).
Việc phân chia tiền lương chính và tiền lương phụ có ý nghĩa quan trọng đối với

công tac kế toán và phân tích tiền lương trong giá thành sản phẩm. Tiền lương chính
của công nhân sản xuất được hạch toán trực tiếp vào chi phí sản xuất của từng loại sản
phẩm. Tiền lương phụ của công nhân do không gắn liền với quá trình sản xuất sản
phẩm nên hạch toán gián tiếp vào chi phí sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trường, tiền lương đúng và đầy đủ sẽ vừa kích thích sản
xuất phát triển, vừa là vấn đề xã hội trực tiếp tác động đến đời sống vật chất, tinh thần
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hùng Hiếu – MSSV: 10007193 Trang 6
Chương 2: Cơ sở lý luận
GVHD: Lê Thị Hồng Hà
của người lao động.
2.1.2 Đặc điểm của tiền lương
- Tiền lương là một phạm trù kinh tế gắn liền với lao động, tiền tệ và nền sản
xuất hàng hoá.
- Trong điều kiện tồn tại nền sản xuất hàng hoá và tiền tệ, tiền lương là một yếu
tố chi phí sản xuất kinh doanh cấu thành nên giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ.
- Tiền lương là một đòn bẩy kinh tế quan trọng để nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh tăng năng suất lao động, có tác dụng động viên khuyến khích
người lao động tích cực lao động, nâng cao hiệu quả công tác.
- Lao động là một trong ba yếu tố của quá trình sản xuất, nó tác động đến kết quả
sản xuất trên hai mặt là: Mặt số lương lao động và chất lượng lao động.
Số lượng lao động được phản ánh trên sổ theo dõi lao động do phòng lao động
tiền lương lập, sổ này ghi chép tập chung cho toàn doanh nghiệp và từng bộ phận để
tiện theo dõi. Chất lượng lao động được phản ánh qua bậc thợ, chất lượng lao động ,
năng suất của người lao động.
2.2 BẢN CHẤT CỦA TIỀN LƯƠNG VÀ NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC TIỀN
LƯƠNG.
2.2.1 Bản chất của tiền lương
Bản chất của tiền lương là giá cả sức lao động được hình thành trên cơ sở giá trị
sức lao động thông qua sự thỏa thuận giữa người có sức lao động và người sử dụng lao
động đồng thời chịu sự chi phối của quy luật kinh tế như quy luật cung- cầu, quy luật

giá trị…
Mặt khác, tiền lương bao gồm đầy đủ các yếu tố cấu thành để đảm bảo nguồn
thu nhập, nguồn sống chủ yếu của bản thân, gia đình người lao động là điều kiện để
người lao động hòa nhập vào thị trường xã hội
2.2.2 Các nguyên tắc tổ chức tiền lương
Nguyên tắc cơ bản của tổ chức tiền lương là cơ sở quan trọng nhất để xây dựng
được một cơ chế trả lương, quản lý tiền lương và chính sách thu nhập thích hợp.
Ở nước ta khi xây dựng một chế độ tiền lương và tổ chức trả lương phải theo các
nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1:Trả lương ngang nhau cho lao động như nhau. Nguyên tắc này
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hùng Hiếu – MSSV: 10007193 Trang 7
Chương 2: Cơ sở lý luận
GVHD: Lê Thị Hồng Hà
xuất phát từ nguyên tắc phân phối theo lao động, theo nguyên tắc này thì bất kỳ ai dù
có khác nhau về tuổi tác, giới tính, trình độ mà có đóng góp sức lao động như nhau thì
được trả lương như nhau. Đối với công việc khác nhau thì cần thiết phải có sự đánh
giá đúng mức, phân biệt công bằng, chính xác trong trả lương.
Đây là nguyên tắc rất quan trọng vì nó đảm bảo được sự công bằng trong trả
lương. Điều này sẽ có sức khuyến khích rất lớn đối với người lao động.
Nguyên tắc 2: Bảo đảm NSLĐ tăng nhanh hơn tiền lương bình quân. Tức là có
thể hiểu đơn giản như sau:
Năng suất lao động là sản phẩm, là cái được làm ra. Tiền lương là cái phải trả,
đó là chi phí.
Vì vậy, để sản xuất có lợi nhuận, đạt hiệu quả cao thì cái làm ra phải lớn hơn
tổng chi phí. Tức là tốc độ tăng NSLĐ phải lớn hơn tiền lương.
Nguyên tắc này dù xét trên phạm vi toàn doanh nghiệp hoặc toàn xã hội đều thấy
rõ tính khoa học hợp lý của nó phù hợp với tiến trình phát triển ngày càng đi lên của
xã hội.
Nguyên tắc 3:Đảm bảo mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa những người lao
động làm các nghề khác nhau trong nền kinh tế quốc dân ( Tức là phải trả lương khác

nhau cho lao động khác nhau).
Do trình độ lành nghề bình quân của người lao động ở các ngành khác nhau điều
này cho thấy, cùng một bậc thợ như nhau ở các nghành nghề khác nhau thì trình độ
lành nghề khác nhau. Sự khác nhau này cần phải được phân biệt trong trả lương thông
qua đó khuyến khích người lao động thông qua tay nghề, trình độ.
Điều kiện lao động khác nhau. Các doanh nghiệp khác nhau thì có điều kiện lao
động khác nhau do đó dẫn đến NSLĐ khác nhau có nghĩa là tiêu hao phí sức lao động
khác nhau do đó tiền lương phải khác nhau để bù đắp hao phí sức lao động khác nhau
đó.
Ý nghĩa kinh tế của mỗi ngành trong nền kinh tế quốc dân trong từng giai đoạn
của sự phát triển kinh tế thì ứng với nó mỗi ngành có một vị trí quan trọng thì tiền
lương cao để thu hút lao động, tạo điều kiện tốt để ngành đó phát triển.
Sự phân bổ theo khu vực sản xuất giữa các vùng khác nhau thì tiền lương khác
nhau, điều kiện khác nhau như khí hậu, điều kiện sinh hoạt…ảnh hưởng đến khả năng
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hùng Hiếu – MSSV: 10007193 Trang 8
Chương 2: Cơ sở lý luận
GVHD: Lê Thị Hồng Hà
làm việc, sức khỏe của con người, chi phí cho cuốc sống khác nhau, do đó để đảm bảo
tái sản xuất lao động như nhau thì tiền lương khác nhau và được thực hiện thông qua
phụ cấp như: Phụ cấp đắt đỏ, khu vực và một số ưu đãi.
2.3 CHỨC NĂNG CỦA TIỀN LƯƠNG
2 1 Chức năng thước đo giá trị:
Biểu hiện giá cả sức lao động, là cơ sở điều chỉnh giá cả cho phù hợp mỗi khi giá
cả biến động.
2.3.2 Chức năng tái sản xuất sức lao động:
Đây là yêu cầu thấp nhất của tiền lương đúng với nghĩa của nó. Tiền lương phải
đảm bảo tính tái sản xuất, tức là nuôi sống người lao động, duy trì sức lao động, năng
lực làm việc lâu dài, có hiệu quả trên cơ sở tiền lương đảm bảo bù đắp được sức lao
động đã hao phí cho người lao động. Vì vậy tiền lương được tính toán trên ba mặt:
- Mặt thứ nhất: Duy trì và phát triển sức lao động của chính bản thân người lao

động.
- Mặt thứ hai: Sản xuất ra sức lao động mới ( Nuôi dưỡng thế hệ sau)
- Mặt thứ ba: Tích luỹ kinh nghiệm, hoàn thành kĩ năng lao động, nâng cao trình
độ tay nghề ( Tăng cường chất lượng lao động).
2.3.3 Chức năng kích thích sức lao động:
Tiền lương là động lực chủ yếu kích thích người lao động làm việc tích cực hơn,
thúc đẩy người lao động cải cách một cách có hệ thống các phương pháp tổ chức lao
động, sử dụng tốt và hiệu quả ngày công lao động, máy móc thiết bị, tiết kiệm nguyên
vật liệu, phát huy sáng kiến, nâng cao trình độ văn hoá nghiệp vụ của công nhân viên.
Từ đó giúp họ làm việc có hiệu quả nhất, với mức tiền lương xứng đáng nhất.
Phần lương cơ bản là cơ sở để xác định phần phụ cấp ngoài lương cho công nhân
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ sản xuất, hoặc có sáng kiến phát minh khoa học, tăng
năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Tiền thưởng là một trong những công cụ
quản lý có hiệu quả nhất, khắc phục những thiếu sót của lương cơ bản, nhằm tăng
cường hơn nữa sự quan tâm vật chất của công nhân viên trong việc nâng cao hiệu quả
sản xuất xã hội.
2.3.4 Chức năng công cụ quản lý của Nhà nước:
Tiền lương với chế độ của nó là những đảm bảo có tính chất pháp lý của Nhà
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hùng Hiếu – MSSV: 10007193 Trang 9
Chương 2: Cơ sở lý luận
GVHD: Lê Thị Hồng Hà
nước buộc người sử lao động phải trả theo công việc đã hoàn thành của người lao
động, đảm bảo quyền lợi tối thiểu người mà họ được hưởng. Từ đó mới phát huy được
chức năng kích thích người lao động, căn cứ vào yêu cầu cơ bản này thông qua thực
hiện tình hình kinh tế xã hội mà Nhà nước đặt ra chế độ tiền lương phù hợp, như một
văn bản bắt buộc đối với người sử dụng lao động. Các cơ sở sản xuất kinh doanh lấy
một phần thu nhập của mình để trả lương. Người lao động được giới hạn giữa mức tối
thiểu do Nhà nước quy định và kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính
vì điều này buộc người sử dụng lao động phải biết tiết kiệm sức lao động cũng như
những chi phí khác.

2.3.5 Chức năng điều tiết lao động:
Thông qua hệ thống thang lương, bảng lương và các chế độ phụ cấp được xác
định cho từng ngành, từng vùng với mức tiền lương đúng đắn và thoả mãn thì người
lao động sẽ tự nguyện nhận công việc được giao. Tiền lương tạo ra động lực và là
công cụ điều tiết giữa các ngành, các vùng trên toàn lãnh thổ, góp phần tạo ra một cơ
cấu lao động hợp lý, đó là điều kiện cơ bản để Nhà nước thực hiện kế hoạch cân đối
vùng - ngành – lãnh thổ.
2.4 QUỸ LƯƠNG, BHXH, BHYT, KPCĐ, BHTN
2.4.1 Quỹ lương
Quỹ tiền lương của doanh nghiệp là toàn bộ tiền lương mà doanh nghiệp trả cho
tất cả lao động thuộc doanh nghiệp quản lý. Thành phần quỹ tiền lương bao gồm nhiều
khoản như lương thời gian (tháng, ngày, giờ), lương sản phẩm, phụ cấp (chức vụ, đắt
đỏ, khu vực. . .), tiền thưởng trong sản xuất.Quỹ tiền lương(hay tiền công) bao gồm
nhiều loại, tuy nhiên về hạch toán có thể chia thành tiền lương lao động trực tiếp và
tiền lương lao động gián tiếp, trong đó chi tiết theo tiền lương chính và tiền lương phụ.
Các khoản trích theo lương: Hiện nay các khoản trích theo lương bao gồm có:
Bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), kinh phí công đoàn (KPCĐ), Bảo
hiểm thất nghiệp ( BHTN ).
2.4.2 Quỹ bảo hiểm xã hội ( BHXH )
Trong thực tế, không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ
thu nhập và mọi điều kiện để sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp
khó khăn, bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm mất thu nhập
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hùng Hiếu – MSSV: 10007193 Trang 10
Chương 2: Cơ sở lý luận
GVHD: Lê Thị Hồng Hà
hoặc các điều kiện sinh sống khác như ốm đau, tai nạn, tuổi già mất sức lao động
nhưng những nhu cầu cần thiết của cuộc sống không những mất đi hay giảm đi mà
thậm chí còn tăng lên, xuất hiện thêm những nhu cầu mới (khi ốm đau cần chữa
bệnh ). Vì vậy, con người và xã hội loài người muốn tồn tại, vượt qua được những
lúc khó khăn ấy thì phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau.

Trong xã hội công xã nguyên thuỷ, khó khăn bất lợi của mỗi người được cả cộng
đồng san sẻ gánh chịu. Còn ở xã hội phong kiến quan lại, những lúc gặp khó khăn thì
cậy nhờ ở Vua, dân cư gặp khó khăn thì trông cậy vào sự đùm bọc, hảo tâm của họ
hàng làng xã. Như vậy là tất cả đều ở thế bị động, thụ động trông chờ vào sự hảo tâm
của phía giúp đỡ mà hoàn toàn không được chắc chắn.
Tiến bộ hơn, khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá phát triển xuất hiện mối
quan hệ chủ - thợ. Khi hai bên cam kết về lao động, điều kiện về sự đảm bảo một phần
thu nhập để trang trải những nhu cầu sinh sống thiết yếu khi ốm đau, tai nạn cho
người lao động đã được người lao động quan tâm đến. Tuy nhiên, mới đầu do việc
đảm bảo này chỉ liên quan giữa hai bên chủ- thợ mà chủ thì rõ ràng không muốn chi
ra, thợ thì luôn đòi hỏi, vì vậy, tranh chấp giữa họ luôn xảy ra.Điều kiện khách quan
đó làm xuất hiện một bên thứ ba, là nhân vật đóng vai trò trung gian để giúp thực hiện
những cam kết giữa chủ- thợ bằng những hoạt động thích hợp của nó. Nhân vật thứ ba
có đủ khả năng và sự tín nhiệm để làm bên trung gian, đó là Nhà nước.
Nhà nước quy định hàng tháng giới chủ phải trích ra một khoản tiền nho nhỏ
được tính toán chặt chẽ trên cơ sở xác xuất những biến cố của tập hợp những người lao
động làm thuê để giao cho bên thứ ba, khi có biến cố thì bên thứ ba chi trả, không phụ
thuộc vào giới chủ, số tiền không phải dùng đến (chưa phải chi trả) sẽ tồn tích lâu ngày
thành quỹ.
Việc Nhà nước can thiệp vào với vai trò là bên thứ ba, một mặt làm tăng vai trò
của Nhà nước trong nền kinh tế trong các mối quan hệ xã hội, mặt khác làm tăng chi
cho ngân sách Nhà nước.
Nhà nước bằng những cơ sở lý luận khoa học đã buộc giới chủ đóng góp vào quỹ
BHXH với một khoản tiền phù hợp đủ cho người lao động, đồng thời cũng yêu cầu
giới thợ đóng góp một phần tiền lương của mình vào quỹ để đảm bảo cho cuộc sống
của chính mình.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hùng Hiếu – MSSV: 10007193 Trang 11
Chương 2: Cơ sở lý luận
GVHD: Lê Thị Hồng Hà
Nhờ các hoạt động của Nhà nước này mà mâu thuẫn giữa chủ- thợ được giải

quyết, cả hai bên đều hài lòng, cảm thấy mình có lợi và được bảo vệ.
Như vậy, ta có được khái niệm về BHXH như sau:
“BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao
động khi họ gặp phải biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm
bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập trung do sự đóng góp của
người sử dụng lao động và người lao động, nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho người
lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội”.
Ở Việt Nam hiện nay, mọi người lao động có tham gia đóng BHXH đều có
quyền hưởng BHXH. Đóng BHXH là tự nguyện hay bắt buộc tuỳ thuộc vào loại đối
tượng và từng loại doanh nghiệp để đảm bảo cho người lao động được hưởng các chế
độ BHXH thích hợp. Phương thức đóng BHXH dựa trên cơ sở mức tiền lương quy
định để đóng BHXH đối với mỗi người lao động.
• Quỹ BHXH
Theo chế độ hiện hành, quỹ BHXH được tính theo tỷ lệ 24% trên tổng quỹ lương
cấp bậc và các khoản phụ cấp thường xuyên của người lao động thực tế trong kỳ hạch
toán.
Trong đó, 17% người sử dụng lao động phải nộp và khoản này tính vào chi phí
kinh doanh, còn 7% do người lao động trực tiếp đóng góp (trừ trực tiếp vào lương).
Chi của quỹ BHXH cho người lao động theo chế độ căn cứ vào:
+Mức lương ngày của người lao động
+Thời gian nghỉ (có chứng từ hợp lệ)
+Tỷ lệ trợ cấp BHXH.
2.4.3 Quỹ bảo hiểm y tế ( BHYT )
Gần giống như ý nghĩa của BHXH, BHYT là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp
một phần chi phí khám chữa bệnh cho người lao động khi họ gặp rủi ro ốm đau, tai
nạn bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập trung do sự đóng góp của
người sử dụng lao động, nhằm đảm bảo sức khoẻ cho người lao động.
• Quỹ BHYT
Quỹ BHYT được hình thành bằng cách trích 4,5% trên số thu nhập tạm tính của
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hùng Hiếu – MSSV: 10007193 Trang 12

Chương 2: Cơ sở lý luận
GVHD: Lê Thị Hồng Hà
người lao động; trong đó người sử dụng lao động phải chịu 3%, khoản này được tính
vào chi phí kinh doanh, người lao động trực tiếp nộp 1,5% (trừ vào thu nhập).
Quỹ BHYT do Nhà nước tổ chức, giao cho một cơ quan là cơ quan BHYT thống
nhất quản lý và trợ cấp cho người lao động thông qua mạng lưới y tế nhằm huy động
sự đóng góp của cá nhân, tập thể và cộng đồng xã hội để tăng cường chất lượng trong
việc khám chữa bệnh. Vì vậy, khi tính được mức trích BHYT, các nhà doanh nghiệp
phải nộp toàn bộ cho cơ quan BHYT.
2.4.4 Kinh phí công đoàn (KPCĐ )
Người lao động để bảo vệ quyền lợi của mình trước giới chủ, họ lập ra tổ chức
công đoàn. Tổ chức này chuyên trách việc đại diện cho người lao động để thương
thuyết với giới chủ đòi quyền lợi cho công nhân và giải quyết các tranh chấp bất công
giữa chủ- thợ.
Nguôn kinh phí cho các hoạt động của tổ chức này lấy từ quỹ “Kinh phí công
đoàn”
• Quỹ KPCĐ
Ở mỗi doanh nghiệp đều phải có tổ chức công đoàn để đại diện bảo vệ quyền lợi
của người lao động và tập thể lao động. Người sử dụng lao động có trách nhiệm bảo
đảm các phương tiện làm việc cần thiết để công đoàn hoạt động. Người làm công tác
công đoàn chuyên trách do quỹ công đoàn trả lương và được hưởng các quyền lợi và
phúc lợi tập thể như mọi người lao động trong doanh nghiệp, tuỳ theo quy chế doanh
nghiệp hoặc thoả ước tập thể.
Như vậy, KPCĐ là quỹ tài trợ cho hoạt động công đoàn các cấp. Theo chế độ
hiện hành thì kinh phí công đoàn được tính theo tỷ lệ 2% trên tổng quỹ tiền lương phải
trả cho người lao động và người sử dụng lao động phải chịu khoản chi phí này (khoản
này cũng tính vào chi phí kinh doanh). Thông thường khi xác định được mức tính kinh
phí công đoàn trong kỳ thì một nửa doanh nghiệp phải nộp cấp trên, một nửa thì được
sử dụng để chi tiêu cho công đoàn tại các đơn vị.
2.4.5 Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN)

Có nhiều biện pháp đã được thực hiện nhằm trợ giúp kịp thời cho những người
thất nghiệp trong thời gian chưa tìm được việc làm và tạo cơ hội cho họ học nghề, tìm
công việc mới. Một trong số các biện pháp đó là xây dựng và thực hiện chế độ bảo
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hùng Hiếu – MSSV: 10007193 Trang 13
Chương 2: Cơ sở lý luận
GVHD: Lê Thị Hồng Hà
hiểm thất nghiệp.
• Quỹ BHTN
Theo khoản 2, Điều 41 Nghị định 127/2008/NĐ-CP ngày 12/12/2008 của chính
phủ về BHTN, các đối tượng được hưởng BHTN là những đối tương đã đóng BHTN
đủ 12 tháng trở lên,trong vòng 24 tháng trước khi bị mất việc làm hoặc bị chấm dứt
việc làm theo quy định của pháp luật.
Cụ thể trong thời gian làm việc hàng tháng, người lao động, người sử dụng lao
động nhà nước và cùng đóng góp vào quỹ BHTN. Trong đó, người lao động đóng
bằng 1% tiền lương, tiền công tháng. Người sử dụng lao động đóng bằng 1% quỹ tiền
lương, tiền công tháng đóng BHTN của những người lao động tham gia BHTN.
Cùng với tiền lương và các khoản nộp theo lương: BHXH, BHYT, KPCĐ,
BHTN hợp thành một khoản chi phí về lao động sống trong tổng chi phí của doanh
nghiệp. Việc xác định chi phí về lao động sống phải dựa trên cơ sở quản lý sử dụng lao
động trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tính đúng thù lao lao động, thanh
toán kịp thời đầy đủ tiền lương và các khoản phải nộp theo lương. Một mặt kích thích
người lao động quan tâm đến thời gian, kết quả và chất lượng của lao động; mặt khác
góp phần tính đùng, tính đủ chi phí, giá thành sản phẩm hay chi phí của doanh nghiệp.
2.5. YÊU CẦU VÀ NHIỆM VỤ CỦA KẾ TOÁN TIỀN LƯƠNG VÀ BHXH
2.5.1. Yêu cầu của kế toán tiền lương.
Xuất phát từ vai trò, đặc điểm của kế toán tiền lương và BHXH trong quá trính
sản xuất kinh doanh, yêu cầu của kế toán tiền lương và BHXH là phải dựa trên văn
bản quy định của Nhà nước, các thông tư của bộ lao động, thương binh xã hội hướng
dẫn để giải quyết các chế độ của người lao động như: Chế độ tiền lương, chế độ thanh
toán BHXH khi người lao động nghỉ việc, ốm đau, tai nạn, thai sản…

- Dựa theo trình tự kế toán để thực hiện các khoản chi.
- Phải đảm bảo tính đúng, tính đủ theo các quy định của chế độ Nhà nước.
- Chứng từ kế toán tiền lương và BHXH phải rõ ràng, cụ thể để đảm bảo
cho việc lưu chữ hồ sơ và thanh toán cho người lao động.
2.5.2. Nhiệm vụ của kế toán tiền lương.
- Tổ chức ghi chép, phản ánh tổng hợp số liệu về số lượng lao động, thời gian lao
động, kết quả lao động, tính lương, các khoản phải trả, phải nộp, phụ cấp, trợ cấp cho
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hùng Hiếu – MSSV: 10007193 Trang 14
Chương 2: Cơ sở lý luận
GVHD: Lê Thị Hồng Hà
người lao động, phân bổ tiền lương cho các đối tượng sử dụng
- Hướng dẫn kiểm tra các nhân viên hạch toán phân xưởng, tổ đội các phòng ban
thực hiện đầy đủ các chứng từ hạch toán ban đầu về lao động tiền lương, mở sổ sách
cần thiết và hạch toán các nhiệm vụ về lao động tiền lương đúng chế độ, đúng phương
pháp.
- Lập báo cáo về lao động.
- Phân tích tình hình sử dụng quỹ lương, tình hình quản lý, sử dụng thời gian lao
động, cung cấp các thông tin cần thiết cho các bộ phận có liên quan.
2.6. CÁC HÌNH THỨC TRẢ LƯƠNG TRONG DOANH NGHIỆP.
Trong các doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế khác nhau của nền kinh tế thị
trường có rất nhiều loại lao động khác nhau: Tính chất, vai trò của từng loại lao động
đối với mỗi quá trình sản xuất kinh doanh lại khác nhau. Vì vậy mỗi doanh nghiệp
phải lựa chọn hình thức trả lương cho người lao động sao cho hợp lý, phù hợp với đặc
điểm công nghệ, phù hợp với trình độ năng lực quản lý.
Hiện nay, việc trả lương trong các doanh nghiệp phải thực hiện theo luật lao
động và theo nghị định số 03/2003/NĐ-CP ngày 15/01/2003 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành tại điều 58 Bộ luật lao động của nước ta. Các doanh
nghiệp có thể áp dụng 2 hình thức trả lương như sau:
- Hình thức trả lương theo thời gian.
- Hình thức trả lương theo sản phẩm.

2.6.1. Hình thức trả lương theo thời gian.
Theo hình thức này, cơ sở để tính trả lương là thời gian làm việc và trình độ
nghiệp vụ của người lao động.
Tuỳ theo tính chất lao động khác nhau, mỗi ngành nghề cụ thể có một thang
lương riêng, trong mỗi một thang lương lại tuỳ theo trình độ thành thạo nghiệp vụ, kỷ
luật, chuyên môn mà chia làm nhiều bậc lương, mỗi bậc lương có một mức tiền lương
nhất định.
Tiền lương theo thời gian có thể tính theo các đơn vị thời gian như: tháng, tuần,
ngày, giờ.
Lương tháng được quy định sẵn đối với từng bậc lương trong các thang lương, nó
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hùng Hiếu – MSSV: 10007193 Trang 15
Chương 2: Cơ sở lý luận
GVHD: Lê Thị Hồng Hà
có nhiều nhược điểm bởi không tính được người làm việc nhiều hay ít ngày trong
tháng, do đó không có tác dụng khuyến khích tận dụng đủ số ngày làm việc quy lý
hành chính, quản lý kinh tế và các nhân viên thuộc các ngành hoạt động không có tính
chất sản xuất.
Lương tuần được trả cho người lao động căn cứ vào mức lương tháng và số tuần
thực tế trong tháng. Lương tuần áp dụng trả cho các đối tượng lao động có thời gian
lao động không ổn định mang tính chất thời vụ.
Lương ngày trả cho người lao động căn cứ vào mức lương ngày và số ngày làm
việc thực tế trong tháng. Lương ngày thường áp dụng để trả lương cho lao động trực
tiếp hưởng lương thời gian, tính lương cho người lao động trong những ngày hội họp,
học tập hoặc làm nghĩa vụ khác và làm căn cứ để tính trợ cấp bảo hiểm xã hội
(BHXH). Hình thức này có ưu điểm đơn giản, dễ tính toán, phản ánh được trình độ kỹ
thuật và điều kiện làm việc của người lao động. Song, nó chưa gắn tiền lương với kết
quả lao động của từng người nên không kích thích việc tận dụng thời gian lao động,
nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
Mức lương giờ tính dựa trên cơ sở mức lương ngày, nó thường được áp dụng để
trả lương cho lao động trực tiếp trong thời gian làm việc không hưởng theo sản phẩm.

Ưu điểm của hình thức này là đã tận dụng được thời gian lao động của công nhân
nhưng nhược điểm là vẫn chưa gắn tiền lương với kết quả lao động với từng người,
theo dõi phức tạp
Thực tế cho thấy đơn vị thời gian để trả lương càng ngắn thì việc trả lương càng
gần với mức độ hao phí lao động thực tế của người lao động.
Tiền lương tháng :
Tiền lương
tháng
=
Tiền lương cấp bậc,
chức vụ 1 ngày
×
Số ngày làm việc
trong tháng
Tiền lương tuần :
Tiền lương tuần =
Tiền lương tháng x 12 tháng
Số tuần làm việc theo chế độ (52 )
Tiền lương ngày :
Tiền lương ngày =
Lương cơ bản x Hệ số cấp bậc
26 (ngày)
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hùng Hiếu – MSSV: 10007193 Trang 16
Chương 2: Cơ sở lý luận
GVHD: Lê Thị Hồng Hà
Tiền lương giờ :
Tiền lương giờ =
Tiền lương ngày
Số giờ làm việc theo chế độ
Hình thức trả lương này có nhược điểm là không phát huy đầy đủ nguyên tắc

phân phối theo lao động vì nó không xét đến thái độ lao động, đến cách sử dụng thời
gian lao động, sử dụng nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, chưa chú ý đến kết quả và
chất lượng công tác thực tế của người lao động
Lương thời gian có thưởng
Là hình thức trả lương theo thời gian kết hợp với chế độ tiền thưởng trong sản
xuất. Hình thức này có tác dụng thúc đẩy công nhân viên tăng năng suất lao động, tiết
kiệm nguyên vật liệu và đảm bảo chất lựơng sản phẩm. Hình thức trả lương theo thời
gian có thưởng thường áp dụng cho công nhân phụ, làm công việc phụ hoặc công nhân
chính làm việc ở nơi có độ cơ khí hóa tự động cao.
2.6.2. Hình thức trả lương theo sản phẩm.
Theo hình thức này, cơ sở để tính trả lương là số lượng và chất lượng sản phẩm
hoàn thành.
Đây là hình thức trả lương phù hợp với nguyên tắc phân phối theo lao động, gắn
bó chặt chẽ thù lao lao động với kết quả sản xuất, kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ,
phát huy năng lực, khuyến khích tài năng, sử dụng và phát huy được khả năng của
máy móc trang thiết bị để tăng năng suất lao động.
Tuy nhiên bên cạnh đó còn có những hạn chế có thể khắc phục được như năng
suất cao nhưng chất lượng kém do làm ẩu, vi phạm quy trình, sử dụng quá năng lực
của máy móc đó là do quá coi trọng số lướng sản phẩm hoàn thành và một phần
cũng do các định mức kinh tế kỹ thuật xây dựng quá lỏng lẻo, không phù hợp với điều
kiện và khả năng sản xuất của doanh nghiệp.
Bởi vậy, trong việc trả lương theo sản phẩm, vấn đề quan trọng là phải xây dựng
các định mức kinh tế kỹ thuật để làm cơ sở cho việc xây dựng đơn giá tiền lương đối
với từng loại sản phẩm, từng công việc một cách hợp lý .
Chế độ trả lương theo sản phẩm gồm các hình thức sau:
+ Trả lương theo sản phẩm trực tiếp.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hùng Hiếu – MSSV: 10007193 Trang 17

×