Tải bản đầy đủ (.doc) (143 trang)

phương pháp quản trị rủi ro thị trường tại các nhtm việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.36 MB, 143 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC PHỤ LỤC, BẢNG BIỂU, HÌNH MINH HOẠ
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt Viết đầy đủ Viết tắt Viết đầy đủ
ADB Ngân hàng phát triển Châu Á ISDA International Swaps and
Derivatives Association -
Hiệp hội Quốc tế về Hoán
đổi và Phái sinh
ALCO Ban quản lý tài sản nợ - tài sản có ISMA International securities
market association - Hiệp
hội thị trường chứng
khoán thế giới
ALM Quản lý tài sản nợ - tài sản có KHTK Khe hở thanh toán
BĐH Ban điều hành KHLS Khe hở lãi suất
BOE Bank of England - Ngân hàng
trung ương Anh
LSCB Lãi suất cơ bản
BOJ Bank of Japan - Ngân hàng trung
ương Nhật Bản
LSCĐ Lãi suất cố định
CDO Giấy nợ đảm bảo bằng tài sản LSBĐ Lãi suất biến đổi
CDS
Hợp đồng hoán đổi tổn thất tín
dụng
LIBOR
Lãi suất thị trường liên NH
London
CĐKT
Cân đối kế toán
MBS
Chứng khoán đảm bảo


bằng tài sản thế chấp
CK Chứng khoán MCO Dòng tiền cộng dồn tối đa
CN Chi nhánh NHNN Ngân hàng Nhà nước
CSTT Chính sách tiền tệ NHTM Ngân hàng Thương mại
DTBB Dự trữ bắt buộc NPV Giá trị hiện tại ròng
ECB
European Central Bank - Ngân
hàng Trung ương Châu Âu
OTC
Thị trường phi tập trung
FDI Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
FED
Federal Reserve System - Quỹ dự
trữ liên bảng Mỹ
RRHĐ
Rủi ro hối đoái
FRA Thoả thuận giá kỳ hạn RRLS Rủi ro lãi suất
FTP Định giá điều chuyển vốn RRTK Rủi ro thanh khoản
GDP Tổng thu nhập quốc dân RRTT Rủi ro thị trường
GDV
Giao dịch viên
SPV
Special Purpose Entily -
Các thể chế mục đích đặc
biệt
HĐQT Hội đồng quản trị TCTD Tổ chức tín dụng
HSC Hôi sở chính VN Việt Nam
HTLS
Hỗ trợ lãi suất
WTO

Tổ chức thương mại thế
giới
IRS Hợp đồng hoán đổi lãi suất IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đã trở thành một xu thế của thời đại và diễn
ra ngày càng sâu về nội dung, rộng về quy mô trên nhiều lĩnh vực. Việt Nam nói
chung, ngành ngân hàng - tài chính Việt Nam nói riêng cũng đã và đang tích cực
tham gia vào xu thế đó. Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
WTO đã được 3 năm và những ảnh hưởng của quá trình hội nhập ngày càng thể
hiện rõ, đặc biệt đối với hoạt động Ngân hàng thương mại (NHTM). Các Tổ chức
tín dụng (TCTD) nước ngoài xuất hiện tại Việt Nam ngày càng nhiều với phạm vi
hoạt động ngày càng mở rộng, đe doạ đến thị phần nội địa của các NHTM Việt
Nam. Ngược lại, hoạt động của các NHTM Việt Nam cũng đang được mở ra trường
quốc tế và chịu nhiều ảnh hưởng hơn từ những biến động kinh tế thế giới. Bối cảnh
trên khiến các NHTM Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro từ thị trường hơn
bao giờ hết. Cuộc chạy đua lãi suất và tình hình căng thẳng về thanh khoản trong
năm 2008, cũng như những diễn biến trên thị trường hối đoái từ 2008 đến nay là hồi
chuông cảnh báo về những nguy cơ rủi ro thị trường ngày càng gia tăng đối với các
NHTM Việt Nam. Tuy nhiên, việc quản trị rủi ro thị trường (QTRRTT) một cách
bài bản, khoa học và hiệu quả nhằm tăng cường hiệu quả kinh doanh, đảm bảo tính
an toàn và phát triển bền vững rõ ràng đang là một nghiệp vụ rất mới và chưa được
quan tâm đúng mức đối với nhiều NHTM Việt Nam.
Với mục tiêu dự đoán được chuyển động của thị trường (tỷ giá, lãi suất…)
nhằm cắt giảm nguy cơ thua lỗ trong hoạt động kinh doanh, đồng thời phát hiện
những cơ hội đầu tư có lãi hơn cho ngân hàng; công tác QLRRTT đã được các
NHTM lớn trên thế giới triển khai hiệu quả từ rất lâu; bao gồm từ việc nghiên cứu,
đánh giá, phân tích, dự đoán thị trường và từ đó lập ra các phương án dự phòng tình
trạng đột biến xấu của thị trường.
Thực tế cho thấy nhiều NHTM lớn đã áp dụng thành công và hiệu quả công

tác QLRRTT để vượt qua những đột biến trên thị trường tài chính thế giới sau sự
kiện ngày 11 tháng 9 và đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính thế giới thời gian
1
qua. Các NHTM không làm đầy đủ và chuẩn xác công tác QLRRTT thường phải
chịu những hậu quả nghiêm tọng trong hoạt động kinh doanh của mình và thường
xuyên phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ trầm trọng hoặc phá sản, mà sự sụp đổ của
89 ngân hàng tại Mỹ đến nay là một minh chứng điển hình. Rủi ro thị trường
thường chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổn thất của NHTM.
Từ cuối năm 2002, nhằm tăng cường hơn nữa khả năng chịu đựng của từng
NHTM trước các tình huống xấu trong hoạt động kinh doanh cũng như để đảm bảo
tính an toàn của cả hệ thống, Uỷ ban giám sát hoạt động ngân hàng có trụ sở tại
Basle đã ban hành các quy định để chuẩn hoá QLRRTT. Bên cạnh đó, các công cụ
và các phương pháp để lượng hoá các giá trị chịu RRTT đã và đang được nghiên
cứu cải tiến và đầu tư liên tục.
Tuy nhiên do vẫn còn thiếu kinh nghiệm cũng như chưa có cái nhìn đầy đủ về
công tác QLRR nói chung và QLRRTT nói riêng, việc áp dụng và triển khai
phương pháp QLRRTT tiên tiến và đúng theo thông lệ quốc tế hiện hành vào hoạt
động của các NHTM Việt Nam còn nhiều khó khăn.
Với thực trạng nói trên, chúng tôi nhận thấy một đề tài nghiên cứu khoa học
mang tính ứng dụng về phương pháp QLRRTT đối với các NHTM Việt Nam là rất
cần thiết. Đó chính là lý do để chúng tôi quyết định lựa chọn nghiên cứu đề tài:
"Phương pháp quản trị rủi ro thị trường tại các NHTM Việt Nam". Đề tài
nghiên cứu các lý luận cơ bản về RRTT và phương pháp QLRRTT, đánh giá thực
trạng QLRRTT ở các NHTM Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra một số giải pháp
nâng cao hiệu quả công tác QLRRTT tại NHTM Việt Nam.
2. Mục tiêu nghiên cứu
1 Nguy cơ rủi ro thị trường trong hoạt động của các NHTM Việt Nam
2 Yêu cầu đối với công tác QLRRTT tại các NHTM Việt Nam
3 Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác QLRRTT tại các
NHTM Việt Nam

4 Tham mưu cho các cơ quan chức năng trong việc xây dựng các định hướng,
quy định, hướng dẫn thực hiện phương pháp QLRRTT phù hợp với thông
lệ quốc tế.
2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm:
5 Hệ thống lý luận về rủi ro thị trường và quản lý RRTT.
6 Phương pháp thực hành quản lý RRTT tại các NHTM trên thế giới.
7 Thực trạng RRTT và phương pháp QLRRTT trong hoạt động kinh doanh
tại các NHTM Việt Nam
Trong phạm vi đề tài này, bước đầu nhóm nghiên cứu xin đưa ra những vấn đề
tổng quan về phương pháp và các công cụ QLRRTT qua tham khảo và học hỏi
những phương pháp thực hành tiên tiến từ các NHTM trên thế giới. Việc nghiên
cứu chi tiết hơn từng biện pháp QLRR cụ thể với từng loại rủi ro thị trường cụ thể
(rủi ro hối đoái, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản…), nhóm nghiên cứu đề nghị
được phát triển tiếp ở các công trình tiếp theo.
4. Phương pháp nghiên cứu
Là một đề tài thuộc lĩnh vực khoa học ứng dụng, đề tài sử dụng phối hợp các
phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống và hiện đại sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: Nghiên cứu quá trình
xây dựng và phát triển phương pháp QLRRTT tại các NHTM Việt Nam trong trạng
thái động, do tác động của các nhân tố khách quan.
- Phương pháp logic: Nghiên cứu những diễn biến trong sự tác động của các
yếu tố nội tại với nhau, trong đó có các tác nhân chủ yếu, quyết định.
- Phương pháp thống kê và tổng hợp: Đề tài sử dụng các tư liệu trong những
năm gần đây của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, của các NHTM, của các khảo sát
quốc tế… được phân bổ theo các tiêu thức khác nhau tuỳ theo mục đích nghiên cứu
của từng chủ đề.
- Các phương pháp nghiên cứu khác: so sánh, quy nạp và diễn dịch…
5. Kết cấu đề tài

Ngoài phần mở đầu và kết luận và các biểu số liệu kèm theo, đề tài được cấu
trúc thành 03 chương như sau:
1. Cơ sở lý luận về quản trị rủi ro thị trường của Ngân hàng thương mại
2. Thực trạng công tác quản trị rủi ro thị trường tại các NHTM Việt Nam
3. Đề xuất nhằm nâng cao chất lượng công tác quản trị rủi ro thị trường tại các
NHTM Việt Nam.
3
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO THỊ TRƯỜNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm rủi ro thị trường trong hoạt động của Ngân hàng thương
mại
1.1.1. Khái niệm rủi ro thị trường
Rủi ro thị trường (RRTT) được định nghĩa là rủi ro giá trị của các trạng thái
nội hoặc ngoại bảng cân đối kế toán (CĐKT) chịu ảnh hưởng bất lợi bởi những biến
động trong các thị trường chứng khoán, lãi suất, tỷ giá hối đoái hay giá cả hàng hóa.
RRTT có thể được phát hiện một cách rõ ràng tỏng các danh mục đầu tư như chứng
khoán, hàng hóa… do các loại hình đầu tư này được giao dịch một cách trực tiếp.
Tuy nhiên, rủi ro thị trường chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi một yếu tố ngầm đó là
rủi ro lãi suất, phát sinh do có sự không khớp đúng về thời hạn hay quy mô huy
động và sử dụng vốn, ảnh hưởng đến lưu chuyển tiền tệ của ngân hàng. Bên cạnh
đó RRTT còn xuất hiện bởi nhiều nguyên nhân khác mà không được thể hiện trên
bảng CĐKT.
Hiểu một cách tổng quan nhất thì RRTT là khả năng hứng chịu một kết quả
thu lỗ trong kinh doanh khi mà thị trường có những biến động và thay đổi ngược
chiều so với dự đoán của ngân hàng. Các yếu tố rủi ro chính trên thị trường được
xác định qua sự chênh lệch về lãi suất, tỷ giá, chứng khoán và giá cả hàng hóa.
1.1.2. Phân loại rủi ro thị trường, các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro thị
trường
Nhìn chung, RRTT bao gồm rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái, rủi ro chứng khoán

và rủi ro hàng hóa. Ngoài ra, nhiều NHTM cũng xem rủi ro thanh khoản như là một
phần trong danh mục RRTT đối với hoạt động NHTM.
 Rủi ro lãi suất (RRLS) là rủi ro điều kiện tài chính của ngân hàng chịu
những biến động bất lợi về lãi suất. Những thay đổi về lãi suất ảnh hưởng đến thu
nhập của ngân hàng thông qua việc làm thay đổi thu nhập lãi thuần của ngân hàng
4
và các khoản thu nhập khác liên quan đến lãi và chi phí hoạt động. Mục đích điều
chỉnh lãi suất nhằm đạt lợi nhuận tối ưu theo từng thời kỳ là một phần quan trọng
trong chiến lược kinh doanh của ngân hàng, tuy nhiên việc điều chỉnh nay không dễ
dàng chút nào bởi sự chênh lệch giữa các khoản huy động và cho vay là rất khó cân
đổi một cách chính xác, đồng thời lãi suất thị trường cũng thường xuyên biến động.
Nguyên nhân cốt lõi của việc biến động lãi suất liên quan chủ yếu đến các chính
sách điều hành kinh tế vĩ mô của mỗi quốc gia. Căn cứ theo tình hình phát triển, tốc
độ tăng trưởng nền kinh tế, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, thâm hụt cán cân
thương mại… mà chính phủ các nước sẽ điều chỉnh tăng hoặc giảm lãi suất cơ bản
(LSCB). Các NHTM căn cứ vào nhu cầu thực tế về sử dụng vốn cho các hoạt động
kinh doanh của mình trong từng thời kỳ mà có sự điều chỉnh lãi suất tương ứng, dao
động xung quanh mức LSCB nêu trên.
Thực tế lãi suất trên thị trường luôn biến động hàng ngày. Tuỳ theo từng thời
kỳ, từng loại tiền tệ; tuỳ theo nhu cầu vốn của các ngân hàng cũng như kỳ hạn của
các khoản vay và cho vay trên thị trường vốn mà biến động lãi suất tăng hay giảm
với các biên độ khác nhau. Biến động lãi suất ảnh hưởng đến bảng cân đối tài sản
của NHTM đồng thời tác động đến các hoạt động tự doanh trên thị trường vốn. Biến
động lãi suất là nguyên nhân gây rủi ro, nhưng đồng thời cũng có thể là cơ hội tìm
kiếm lợi nhuận cho NH nếu có những dự đoán chính xác.
Thay đổi tỷ lệ lãi suất là nguyên nhân trực tiếp gây nên rủi ro lãi suất, bên
cạnh đó có nhiều nguyên nhân gián tiếp ảnh hưởng đến mức độ rủi ro lãi suất. Theo
các nguyên nhân đó, có thể phân nhỏ rủi ro lãi suất thành:
- Rủi ro định giá lại: Đó là rủi ro lãi suất phát sinh từ những chênh lệch về kỳ
hạn (đối với lãi suất cố định - LSCĐ) và định giá lại (đối với lãi suất thả nổi -

LSBĐ) đối với các tài sản có (TSC), tài sản nợ (TSN) và các trạng thái ngoại bảng
của ngân hàng.
Một ngân hàng tài trợ cho một khoản vay dài hạn với LSCĐ bằng lãi suất
bằng tiền gửi ngắn hạn có thể sẽ bị sụt giảm thu nhập trong tương lai phát sinh từ
trạng thái này và sụt giảm giá trị ngân hàng nếu lãi suất tăng. Những sụt giảm này
phát sinh vì các luồng tiền của khoản vay này là cố định trong toàn bộ kỳ hạn, trong
5
khi đó lãi suất phải trả cho nguồn tài trợ là thả nổi và tăng sau khi khoản tiến gửi
ngắn hạn này đáo hạn.
- Rủi ro đường lợi tức: Những chênh lệch về định giá lại có thể làm cho ngân
hàng chịu rủi ro với những thay đổi về độ dốc và hình dạng của đường lợi tức. Rủi
ro đường lợi tức phát sinh khi những dịch chuyển không dự báo trước của đường lợi
tức có những ảnh hưởng bất lợi đối với thu nhập hay giá trị kinh tế của ngân hàng.
- Rủi ro cơ sở: Rủi ro cơ sở phát sinh từ tương quan không hoàn hảo trong sự
điều chỉnh các lãi suất thu được và phải trả đối với các công cụ khác nhau có những
đặc điểm định giá tương tự.
Khi lãi suất thay đổi những chênh lệch này có thể tạo ra những thay đổi không
lường trước được trong luồng tiền và chênh lệch thu nhập giữa tài sản có, tài sản nợ
và công cụ ngoại bảng có kỳ hạn tương tự hay tần suất định giá lại tương tự.
- Rủi ro tính tuỳ chọn: Một nguồn rủi ro lãi suất ngày càng trở nên quan trọng
phát sinh từ các tuỳ chọn trong nhiều tài sản, tài sản nợ và danh mục đầu tư ngoại
bảng của ngân hàng.
Ví dụ về các công cụ có chứa quyền chọn bao gồm nhiều loại trái phiếu và
chứng chỉ với quyền chọn mua hoặc bán, các khoản vay cho phép bên vay có quyền
trả nợ trước hạn, các loại hình công cụ tiền gửi không có kỳ hạn khác cho người gửi
tiền quyền rút tiền tại bất kỳ thời điểm nào mà không phải chịu phạt. Nếu không
được quản lý đầy đủ, các đặc tính hoàn trả không đối xứng của công cụ có quyền
chọn có thể gây rủi ro đáng kể, đặc biệt cho những người bán quyền chọn, do những
quyền chọn độc lập hay phụ thuộc, thường được thực hiện với lợi thế thuộc về
người nắm giữ và bất lợi thuộc về người phát hành. Hơn nữa, một loạt các quyền

chọn có thể liên quan đến hệ số nợ lớn, làm tăng thêm ảnh hưởng (tích cực và tiêu
cực) của các trạng thái quyền chọn đối với tình hình tài chính của công ty).
 Rủi ro hối đoái (RRHĐ) là khả năng rủi ro hiện tại hoặc tương lai phát
sinh đối với thu nhập và vốn do những biến động bất lợi về tỷ giá hối đoái. Cụ thể,
RRHĐ chỉ sự ảnh hwongr của các biến động bất lợi về tỷ giá lên giá trị trạng thái
ngoại tệ mở của NHTM. Trạng thái ngoại tệ mở của một ngoại tệ là chênh lệch giữa
TSC và TSN (nội và ngoại bảng) của ngoại tệ đó tại một thời điểm. Song song với
6
RRHĐ, các ngân hàng đồng thời cũng đứng trước rủi ro về lãi suất, phát sinh do sự
mất cân đối về thời gian đáo hạn của các trạng thái ngoại tệ. Bên cạnh đó, trong
hoạt động kinh doanh ngoại tệ, ngoài rủi ro về biến động tỷ giá các ngân hàng cũng
phải đối mặt với rủi ro vỡ nợ của các đối tác trên thị trường, hay chính là rủi ro
thanh toán. Sự chênh lệch múi giờ, phát sinh do quá chậm trễ về thời gian trong việc
thanh toán một đồng tiền tại một trung tâm và việc thanh toán một đồng tiền khác ở
múi giờ khác cũng là nguyên nhân gây RRHĐ mà ngân hàng phải gánh chịu.
Nguyên nhân cốt lõi của RRHĐ bắt nguồn từ chính sách tiền tệ và điều hành
tỷ giá khác nhau của mỗi quốc gia, được thể hiện qua các môi trường tiền tệ sau:
Môi trường tiền tệ thả nổi hoàn toàn: Giá trị đối ngoại của đồng tiền biến
động một cách tự do không ấn định một biên độ dao động cụ thể nào, tăng lên hoặc
giảm xuống tuỳ theo tác động của yếu tố thị trường (như tăng hoặc cắt giảm LSCB,
ảnh hưởng bởi chỉ số giá tiêu dùng, tỷ lệ thất nghiệp, cung cầu ngoại tệ…)
Môi trường tiền tệ có kiểm soát: Giá trị đối ngoại của đồng tiền được ấn định
theo một loại ngoại tệ nhất định (ví dụ: VNĐ/USD) và có biên độ dao động cụ thể.
Môi trường tiền tệ bị thay đổi theo chính sách điều hành: Giá trị đối ngoại của
đồng tiền từ có kiểm soát sang thả nội hoặc ngược lại.
Mặt khác, nhân tố trực tiếp tác động đến tỷ giá hối đoái chính là sự dịch
chuyển đường cung và cầu trên thị trường ngoại hối, dưới ảnh hưởng của 4 yếu tố
sau:
- Cán cân thương mại: trong điều kiện các yếu tố khác không đổi nếu nhập
khẩu của một nước tăng thì đường cung tiền của nước ấy sẽ dịch chuyển về phía

bên phải, tỷ giá hối đoái giảm xuống, nếu xuất khẩu tăng thì đường cầu về tiền tệ
của nước ấy sẽ dịch chuyển sang trái, tỷ giá hối đoái tăng lên.
- Tỷ lệ lạm phát tương đối: Mức chênh lệch lạm phát của hai nước cũng ảnh
hưởng đến sự biến động của tỷ giá. Giả sử tỏng điều kiện cạnh tranh lành mạnh,
năng suất lao động của hai nước tương đương nhau, cơ chế quản lý ngoại hối tự do,
khi đó tỷ giá biến động phụ thuộc vào mức chênh lệch lạm phát của hai đồng tiền.
Nước nào có mức độ lạm phát lơn hơn thì đồng tiền của nước đó bị mất giá so với
đồng tiền nước còn lại.
7
- Sự vận động của vốn: Lãi suất có ảnh hưởng lớn đến quyết định đầu tư vốn
của các nhà đầu tư nước ngoài. Khi mức lãi suất của nước này tăng lên một cách
tương đối so với các nước khác thì các tài sản tài chính của nước đó tạo ra tỷ lệ lợi
tức dự tính cao hơn và các nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư vào nước đó. Điều
này làm cho đường cầu về tiền của nước đó dịch chuyển sang phải và làm tăng tỷ
giá hối đoái. Đây là một trong những ảnh hưởng quan trọng nhất tới tỷ giá ở các
nước phát triển cao.
- Dự trữ phương tiện thanh toán, đầu cơ: Các hoạt động này có thể làm dịch
chuyển đường cung và cầu tiền tệ. Đặc biệt, hoạt động đầu cơ có thể gây ra những
thay đổi khổng lồ về cung/cầu tiền, đặc biệt trong điều kiện thông tin liên lạc và
công nghệ máy tính hiện đại có thể trao đổi hàng tỷ USD giá trị tiền tệ mỗi ngày.
Ngoài ra, một số nhân tố khách quan khác cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến
tỷ giá hối đoái như: hệ số tín nhiệm đối với các đồng tiền trên thị trường tài chính
trong nước và quốc tế, các cú sốc kinh tế, các công bố thống kê kinh tế, những thay
đổi chính sách lớn…
 Rủi ro chứng khoán và rủi ro hàng hóa (Euity& Commodity risk): là
rủi ro giá cả (price risk), do sự biến động bất lợi về giá chứng khoán, giá hàng hóa
liên quan đến các danh mục đầu tư làm ảnh hưởng đến thu nhập hoặc vốn của ngân
hàng.
Rủi ro giá cả có hai dạng: rủi ro hệ thống và rủi ro không hệ thống. Rủi ro hệ
thống chỉ mức độ nhạy cảm của giá trị danh mục đầu tư đối với những thay đổi tổng

thể của các mức giá chứng khoán, hàng hóa. Rủi ro không hệ thống liên quan đến
biến động giá được xác định bởi các đặc trưng cụ thể của doanh nghiệp.
Rủi ro chứng khoán phát sinh do biến động tăng hoặc giảm giá chứng khoán
theo chiều hướng bất lợi. Biến động giá chứng khoán chịu ảnh hưởng của 3 nhóm
yếu tố. Thứ nhất, chính sách của nhà nước, biến động lãi suất, tỷ lệ lạm phát… có
thể gây rủi ro chung cho toàn thị trường chứng khoán, ảnh hưởng đến mọi công ty
khi niêm yết cổ phiếu trên sàn giao dịch, đây chính là rủi ro hệ thống. Thứ hai, các
yếu tố gây tác động xấu đến một lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh riêng biệt
hay một ngành nghề cụ thể nào đó cũng sẽ là nhân tố gây nên rủi ro giá chứng
8
khoán của các công ty hoạt động trong ngành. Thứ ba, kết quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá chứng khoán của chính
doanh nghiệp đó.
Đối với rủi ro hàng hóa, sự biến động về giá cả hàng hóa theo chiều hướng bất
lợi là nguyên nhân gây rủi ro cho nhà đầu tư, cho các ngân hàng có hoạt động kinh
doanh trong lĩnh vực này. Cung và cầu hàng hóa sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến biến
động giá cả hàng hóa. Bên cạnh đó, các yếu tố như nhu cầu tiêu dùng của con
người, yếu tố thời vụ các mặt hàng, mức độ khan hiếm, các chính sách về xuất nhập
khẩu, biến động tỷ giá, lãi suất hay các hoạt động có tính chất đầu cơ trên thị trường
hàng hóa đều có ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa. Như vậy, các nhân tố gây biến
động giá hàng hóa là rất phong phú, đa dạng và khả năng tạo rủi ro đồng thời tạo cả
cơ hội kiếm lời cũng rất cao.
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, mảng hoạt động tự doanh, đầu cơ
mua bán hàng hóa chịu ảnh hưởng chính từ rủi ro hàng hóa. Bên cạnh đó, các sản
phẩm liên quan đến thị trường hàng hóa như các hợp đồng mua bán hàng hóa kỳ
hạn, hợp đồng quyền hạn… cũng khiến cho ngân hàng vừa có cơ hội kiếm lời, vừa
có khả năng phải chịu tổn thất khi thị trường hàng hóa biến động không như dự
đoán của ngân hàng.
Cả bốn loại rủi ro trên đều có ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh ngân hàng
với bản chất là sử dụng vốn tự có và vốn huy động từ các nguồn khác nhau để cho

vay, đầu tư kinh doanh hay phát triển các dịch vụ ngân hàng phục vụ nhu cầu thanh
toán, tiêu dùng, kinh doanh… Tuy nhiên, đối với các NHTM Việt Nam, rủi ro lãi
suất và rủi ro hối đoái có ảnh hưởng bởi lẽ đa phần các NHTM Việt Nam chưa phát
triển hoạt động tự doanh chứng khoán và hàng hóa. Rủi ro lãi suất và rủi ro hối đoái
không chỉ đơn thuần ảnh hưởng đến các khoản mục đầu tư, kinh doanh của ngân
hàng mà còn có tầm ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ bảng cân đối tài sản của ngân
hàng. Các loại rủi ro chứng khoán và rủi ro hàng hóa chỉ ảnh hưởng đến hoạt động
kinh doanh của một bộ phận trong ngân hàng. Hơn nữa, nếu phân tích sâu xa
nguyên nhân của biến động giá chứng khoán và hàng hóa thì lãi suất và tỷ giá hối
đoái là hai tác nhân rất quan trọng.
9
 Rủi ro thanh khoản là khả năng ngân hàng không đáp ứng được các yêu
cầu về vốn khả dụng của mình khi phát sinh các khoản phải trả được yêu cầu thanh
toán, dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán. Rủi ro thanh khoản có ảnh hưởng
rất lớn, có thể làm ngân hàng phá sản nếu như việc cân đối các luồng tiền vào và
luồng tiền ra của ngân hàng không hợp lý hoặc thiếu chính xác.
Phần tiếp theo sẽ tập trung vào phân ích quá trình phát sinh, quy mô và mức
độ ảnh hưởng của rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái và rủi ro thanh khoản đối với hoạt
động ngân hàng.
1.2. Các loại rủi ro thị trường chủ yếu trong hoạt động của Ngân hàng
thương mại
1.2.1. Rủi ro hối đoái
a. Nguyên nhân phát sinh RRHĐ
Trong hoạt động ngân hàng, yếu tố trực tiếp gây nên rủi ro hối đoái là các hoạt
động mua bán ngoại tệ và hoạt động trên TSC và TSN bằng ngoại tệ của ngân hàng,
tạo nên trạng thái ngoại tệ mở. Chẳng hạn, ngân hàng mua và bán ngoại tệ cho
khách hàng nhằm mục đích thanh toán hợp đồng ngoại thương, nhằm điều chỉnh
trạng thái ngoại hối của đồng tiền hoặc mua và bán ngoại tệ nhằm mục đích đầu cơ
khi có những dự tính về biến động tỷ giá… Khi tỷ giá trên thị trường thay đổi cũng
đồng nghĩa với việc các tài sản bằng ngoại tệ, trạng thái ngoại tệ mở sẽ bị ảnh

hưởng và rủi ro xảy ra nếu như biến động tỷ giá không theo như nhận định của ngân
hàng. Ngoài ra sự không cân xứng về ky hạn giữa TSC (TSC) và TSN (TSN) đối
với từng loại ngoại tệ cũng gây nên rủi ro hối đoái. Hai ví dụ sau sẽ mô tả rõ hơn về
rủi ro tỷ giá hối đoái.
Ví dụ 1: Một ngân hàng duy trì trạng thái ngoại hối tại thời điểm x/x/20…
Loại
ngoại
tệ
Trạng thái
NT đầu
ngày
Mua
trong
ngày
Bán trong
ngày
Trạng thái
NT cuối
ngày
Ý nghĩa kinh tế
USD 2.000.000 500.000 250.000 2.250.000
Trạng thái ngoại tệ trường
- Lãi khi giá USD tăng
- Lỗ khi giá USD giảm
EUR 1.000.000 500.000 2.000.000 -500.000 Trạng thái ngoại tệ đoản
10
- Lãi khi giá EUR giảm
- Lỗ khi giá EUR tăng
JPY 15.000.000 15.000.000
Trạng thái ngoại tệ trường

- Lãi khi giá JPY tăng
- Lỗ khi giá JPY giảm
Qua bảng trên ta thấy được rủi ro tỷ giá hối đoái chỉ phát sinh khi ngân hàng
duy trì trạng thái ngoại tệ mở.
Ví dụ 2:
- Tại thời điểm đầu năm ngân hàng A mua USD bằng số tiền 1.000 tỷ VNĐ
theo tỷ giá giao ngay S0 (VNĐ/USD) 15.900, tương đương 62,893 triệu USD.
- Ngân hàng cho một công ty vay 62,893 triệu USD kỳ hạn 1 năm với lãi suất
12%/năm.
- Đến thời điểm hoàn trả sau 1 năm, số tiền thu được cả gốc và lãi là:
62,893 x (1+12%) = 70,440,250 USD
- Cuối năm ngân hàng bán số USD vừa thu được theo tỷ giá S
1
(VNĐ/USD)
Như vậy RRHĐ xảy ra trong trường hợp nếu S
1
<S
0
, ngân hàng sẽ bị lỗ từ việc
đầu tư mua ngoại tệ để cho vay. Qua đó có thể thấy rằng các TSC và TSN bằng
ngoại tệ sẽ phải chịu rủi ro khi tỷ giá biến động.
b. Cơ chế phát sinh rủi ro hối đoái được miêu tả rõ nhất thông qua ba
phương pháp cơ bản để thu lãi trong hoạt động kinh doanh ngoại hối của ngân
hàng.

Lãi phát sinh khi ngân hàng tạo trạng thái ngoại hối (Exchange Position):
Ngân hàng tạo trạng thái ngoại hối bằng cách mua bán một đồng tiền nào đó, chờ
cho tỷ giá biến động, sau đó cân bằng trạng thái ngoại hối và thu lãi.
Ví dụ: Ngân hàng A dự đoán USD sẽ giảm giá mạnh so với VND trong nay
mai, ngay lập tức ngân hàng này tiến hành bán USD vào ngày hôm nay với tỷ giá

1USD = 16.000 VNĐ, sau một thời gian, tỷ giá giảm xuống còn 1USD=15.500
VNĐ, ngân hàng lại tiến hành mua USD để cân bằng trạng thái, lãi kinh doanh
ngoại hối thu được là 500VNĐ/USD (ở đây ta chỉ tập trung vào yếu tố tỷ giá, mà bỏ
qua chênh lệch lãi suất phát sinh giữa hai đồng tiền). Bằng bảng luồng tiền, ta biểu
11
diễn quy trình kinh doanh như sau:
Thời điểm Giao dịch USD VND Tỷ giá áp dụng
t
0
Bán USD lấy VND -1 +16.000 1USD=16.000VND
t
1
Dùng VND mua lại USD +1 -15.500 1USD=15.500VND
Kết quả kinh doanh 0 +500
Chúng ta thấy ngay rằng, nếu tỷ giá trên thị trường thực sự không giảm, mà lại
tăng thì đương nhiên là ngân hàng A phải chịu khoản lỗ ngoại hối.

Lãi thu được từ kinh doanh chênh lệch tỷ giá: là việc tại cùng một thời
điểm mua một đồng tiền ở nơi có giá thấp và bán lại đồng tiền này ở nơi có giá cao
hơn để hưởng chênh lệch tỷ giá. Hành vi mua bán diễn ra tại cùgn một thời điểm
với số lượng bằng nhau, nên kinh doanh chênh lệch tỷ giá không chịu RRHĐ (vì
không tạo trạng thái ngoại hối) và không phải bỏ vốn.
Ví dụ, có hai ngân hàng niêm yết tỷ giá kinh doanh VND/USD như sau:
Ngân hàng Mua vào Bán ra
Ngân hàng A 15.667 15.674
Ngân hàng B 15.676 15.679
Ngân hàng sẽ kinh doanh chênh lệch tỷ giá như sau:
Giao dịch USD VND
Mua USD tại ngân hàng A +1 -15.674
Bán USD cho ngân hàng B -1 +15.676

Lãi Arbitrage 0 +2
Tuy nhiên biến động tỷ giá trên thị trường ngoại hối quốc tế là rất lớn với
nhiều thiết bị công nghệ tiên tiến hỗ trợ, cho nên chênh lệch tỷ giá giữa các ngân
hàng là rất nhỏ và rất khó có thể kiểm lời từ hoạt động kinh doanh này.

Lãi thu được từ chênh lệch tỷ giá mua vào và bán ra: Do tỷ giá mua vào
bao giờ cũng thấp hơn tỷ giá bán ra, nên chênh lệch tỷ giá mua bán chính là thu
nhập của ngân hàng. Về thực chất, trong giao dịch này, ngân hàng đóng vai trò là
nhà cung cấp dịch vụ mua hộ, bán hộ cho khách hàng, nên không chịu RRHĐ và
không cần bỏ vốn.
Qua phân tích cho thấy, nhà kinh doanh ngoại hối chỉ chịu RRHĐ khi duy trì
trạng thái ngoại hối mở (open position). Tất cả các giao dịch làm phát sinh sự
12
chuyển giao quyền sở hữu về ngoại tệ (hiện tại và tương lai) đều tạo ra trạng thái
ngoại tệ, trong đó thông qua giao dịch mua bán là chủ yếu. Đối với mỗi ngoại tệ, tại
một thời điểm, nếu tổng TSC lớn hơn tổng TSN (nội và ngoại bảng) thì ngoại tệ đó
ở trạng thái trường. Khi đồng tiền này lên giá làm phát sinh lãi ngoại hối; và ngược
lại, khi đồng tiền này giảm giá sẽ phát sinh lỗ ngoại hối. Nếu tổng TSC nhỏ hơn
tổng TSN, thì ngoại tệ đó ở trạng thái đoản. Khi đồng tiền này lên giá làm phát sinh
lỗ ngoại hối; và ngược lại, khi đồng tiền này giảm giá sẽ phát sinh lãi ngoại hối.
Ngoài ra, nếu ngân hàng đầu cơ kinh doanh ngoại hối trên thị trường ngoại hối
quốc tế thì phải tạo trạng thái và lợi dụng sự biến động liên tục của tỷ giá các loại
đồng tiền để kiếm lời. Như vậy nguồn phát sinh RRHĐ cũng bắt nguồn từ việc mở
rộng trạng thái giao dịch ngoại tệ.
1.2.2. Rủi ro lãi suất
a. Tác động của rủi ro lãi suất đối với hoạt động NHTM:
Cần được xem xét theo ba khía cạnh sau:
- Khía cạnh thu nhập: Bộ phận thu nhập trước đây được quan tâm nhiều nhất
là thu nhập lãi thuần (chênh lệch giữa tổng thu nhập lãi và tổng chi phí lãi). Sự tập
trung này phản ánh tầm quan tọng của thu nhập lãi thuần trong tổng thu nhập của

ngân hàng và mối liên hệ trực tiếp và dễ hiểu của nó với những thay đổi về lãi suất.
Tuy nhiên do các ngân hàng chuyển sang thực hiện các hoạt động tạo ra thu nhập
dựa trên phí và cá thu nhập ngoài lãi khác, người ta ngày càng tập trung vào tổng
thu nhập lãi thuật bao gồm cả thu nhập và chi phí ngoài lãi. Ví dụ một số ngân hàng
cung cấp chức năng thanh toán nghĩa vụ nợ và quản lý khoản vay đối với các khoản
vay cầm cố để lấy phí dựa trên doanh số tài sản được quản lý. Khi lãi suất giảm,
ngân hàng làm dịch vụ có thể bị giảm thu nhập phí do các khoản cầm cố trước được
trả trước. Ngoài ra, thậm chí những nguồn thu nhập ngoài lãi truyền thống khác như
phí thực hiện giao dịch ngày càng trở nên nhạy cảm với lãi suất.
- Khía cạnh giá trị kinh tế: Thay đổi lãi suất thị trường có thể ảnh hưởng tới
giá trị kinh tế của các tài sản có, tài sản nợ và các trạng thái ngoại bảng của ngân
hàng. Nói đến giá trị của một công cụ hàm ý giá trị hiện tại của các luồng tiền thuần
dự kiến thu được từ công cụ đó, được chiết khấu để phản ánh lãi suất thị trường.
13
Nói rộng hơn, giá trị kinh tế của một NH được hiểu là giá trị hiện tại của luồng tiền
mà NH sẽ thu được trong tương lai. Theo đó, giá trị kinh tế chịu tác động của hai
yếu tố: sự thay đổi về luồng tiền tương lai, và mức lãi suất chiết khấu được sử dụng
để tính toán giá trị hiện tại của luồng tiền đó. Do vậy, xét theo khía cạnh giá trị kinh
tế thì RRLS tiềm ẩn những ảnh hưởng dài hạn đối với ngân hàng.
- Các tổn thất ngầm: Các khía cạnh về thu nhập và giá trị kinh tế tập trung vào
những thay đổi trong tương lai ảnh hưởng như thế nào đến tình hình tài chính của
ngân hàng. Khi đánh giá mức độ rủi ro lãi suất ngân hàng sẵn sàng và có khả năng
chấp nhận, ngân hàng cần cân nhắc cả ảnh hưởng của lãi suất trong quá khứ đối với
tình hình tài chính trong tương lai. Ví dụ một khoản vay dài hạn có lãi suất cố định
được ký kết khi lãi suất thấp và sau đó được tài trợ bằng các tài sản nợ có lãi suất
cao hơn trong thời hạn còn lại có thể làm giảm các nguồn lực của ngân hàng.
b. Nguồn phát sinh rủi ro lãi suất đối với các NHTM
Như đã nêu ở phần trên, RRLS xuất hiện khi có sự thay đổi lãi suất thị trường
hoặc những yếu có liên quan đến lãi suất, dẫn đến tổn thất về tài sản hoặc làm giảm
thu nhập của ngân hàng. RRLS xuất hiện khi có sự không cân xứng về kỳ hạn giữa

TSC và TSN. NHTM áp dụng các loại lãi suất khác nhau trong quá trình huy động
vốn và cho vay. Trường hợp ngân hàng huy động vốn với LSCĐ nhưng cho vay,
đầu tư với LSBĐ: khi lãi suất giảm, RRLS sẽ xuất hiện vì chi phí lãi phải trả lớn
hơn lãi thu được, làm giảm lợi nhuận. Ngược lại, khi ngân hàng huy động vốn với
LSBĐ nhưng cho vay, đầu tư với LSCĐ: khi lãi suất tăng, RRLS sẽ xuất hiện vì chi
phí lãi phải trả lớn hơn lãi thu được.
Mặt khác, RRLS cũng phát sinh do có sự không phù hợp về khối lượng, thời
hạn giữa nguồn vốn huy động với việc sử dụng nguồn vốn đó để cho vay. Bên cạnh
đó, tỷ lệ lạm phát dự kiến không phù hợp với tỷ lệ lạm phát thực tế làm cho vốn của
ngân hàng không được bảo toàn sau khi cho vay cũng là một nguồn phát sinh
RRLS. Ngoài ra, khi lãi suất thị trường thay đổi, ngân hàng còn có thể gặp rủi ro
giảm giá trị tài sản. Khi RRLS xuất hiện sẽ làm tăng chi phí nguồn vốn của ngân
hàng; giảm thu nhập từ tài sản của ngân hàng, làm giảm giá thị trường của TSC và
vốn chủ sở hữu của ngân hàng.
14
Như vậy, RRLS đối với NHTM phát sinh từ 2 nguồn chính:
- Thứ nhất là sự không phù hợp về kỳ hạn của nguồn vốn và tài sản được đo
bằng khe hở lãi suất:
"Khe hở lãi suất" = "Tài sản nhạy cảm lãi suất" - "Nguồn vốn nhạy cảm lãi suất"
Các tài sản và nguồn nhạy cảm thường là các loại mà số dư nhanh chóng được
chuyển sang áp dụng lãi suất mới khi lãi suất thị trường thay đổi có lợi; ví dụ như
các khoản tiền gửi ngắn hạn, các khoản cho vay và đi vay trên thị trường liên ngân
hàng, chứng khoán ngắn hạn của chính phủ, các khoản cho vay ngắn hạn… Các loại
ít nhạy cảm như tài sản và nguồn vốn trung và dài hạn với lãi suất cố định. Ví dụ,
một khoản tiền gửi tiết kiệm 3 tháng (100 tỷ VND) với lãi suất 10%/năm. Khi lãi
suất thị trường thay đổi tăng hoặc giảm, thì khoản tiền này (100 tỷ VNĐ) sẽ nhanh
chóng chuyển sang áp dụng lãi suất mới. Ngược lại với khoản tiết kiệm 3 năm, khi
lãi suất thị trường thay đổi, chỉ một phần nhỏ sắp đến hạn, hoặc mới gửi có khả
năng chuyển sang áp dụng lãi suất mới. Ngân hàng có khe hở lãi suất dương nếu tài
sản nhạy cảm lơn hơn nguồn nhạy cảm (kỳ hạn huy động vốn dài hơn sử dụng) và

ngược lại.
- Thứ hai là sự thay đổi của lãi suất thị trường khác với dự kiến của ngân
hàng và việc ngân hàng sử dụng LSCĐ trong các hợp đồng.
Lãi suất thị trường thường xuyên thay đổi, ngân hàng luôn nghiên cứu và dự
báo lãi suất. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp ngân hàng không thể dự báo chính
xác mức độ thay đổi của lãi suất. Khi đó tuỳ theo tình trạng khe hở lãi suất của ngân
hàng và biến động lãi suất trên thị trường mà ngân hàng phải chịu tổn thất hoặc có
lời. Cụ thể, nếu ngân hàng duy trì khe hở lãi suất dương, khi lãi suất trên thị trường
tăng, chênh lệch lãi suất tăng; khi lãi suất trên thị trường giảm, chênh lệch lãi suất
giảm. Ngược lại, nếu ngân hàng duy trì khe hở lãi suất âm, khi lãi suất trên thị
trường tăng, chênh lệch lãi suất giảm; khi lãi suất trên thị trường giảm, chênh lệch
lãi suất tăng.
c. Các nhân tố phản ánh quy mô rủi ro lãi suất:
- Khe hở lãi suất (interest rate gap): Các nhà quản lý ngân hàng đã dùng khe
hở lãi suất như là tiêu chí đo khả năng thu nhập giảm khi lãi suất thay đổi. Khe hở
15
lãi suất hình thành do chênh lệch tài sản và nguồn nhạy cảm. Có nhiều nhân tố ảnh
hưởng tới quy mô của nguồn và tài sản nhạy cảm, qua đó ảnh hưởng đến khe hở lãi
suất:
+ Nhu cầu về kỳ hạn của người sử dụng;
+ Khả năng về kỳ hạn của người gửi và cho vay;
+ Chuyển hoán kỳ hạn của nguồn.
Sự khác biệt về kỳ hạn của nguồn và tài sản là tất yếu. Kỳ hạn để phân loại tài
sản và nguồn nhạy cảm không phải là kỳ hạn danh nghĩa mà là thời hạn tài sản và
nguồn được xác định lại lãi suất. Ví dụ, một nguồn tiền huy động 2 năm với lãi suất
10%/năm và đã duy trì được 1 năm 10 tháng, vậy vào thời điểm tính toán, nguồn
này chỉ còn 2 tháng là đến hạn. Nếu lãi suất thị trường thay đổi, nguồn này sẽ được
định lại giá (xác định lại lãi suất).
Ngân hàng khó có thể và cũng không cần thiết duy trì sự phù hợp tuyệt đối về
kỳ hạn giữa các nguồn và các loại tài sản khác nhau trong mọi thời kỳ. Trước hết,

kỳ hạn trên thị trường là do khách hàng đi vày và gửi tiền quyết định. Thứ hai, sự
thay đổi của các lãi suất rất khác nhau và mức độ nhạy cảm của nguồn và tài sản đối
với lãi suất cũng khác nhau. Thứ ba, sự khác biệt về nguồn và tài sản nhạy cảm có
thể tạo thu nhập cao hơn cho ngân hàng, bởi lẽ khi ngân hàng duy trì khe hở nhạy
cảm khác 0, nếu lãi suất thay đổi theo hướng phù hợp thì thu nhập của ngân hàng sẽ
tăng. Giả sử lãi suất thay đổi với mức độ nào đó không có lợi cho ngân hàng, mức
độ giảm thu nhập từ lãi của ngân hàng sẽ tỷ lệ thuận với quy mô khe hở lãi suất.
- Mức độ thay đổi của lãi suất thị trường cũng ảnh hưởng đến quy mô RRLS.
Trong trường hợp ngân hàng duy trì khe hở lãi suất dương, tức la ngân hàng dự
đoán sẽ lãi suất tăng; nếu lãi suất tài sản và nguồn nhạy cảm cùng tăng như nhau,
ngân hàng sẽ có lợi. Ngược lại, nếu chúng giảm xuống cùng mức độ, chênh lệch lãi
suất của ngân hàng sẽ giảm làm giảm thu nhập từ lãi suất. Trong trường hợp ngân
hàng đang duy trì khe hở lãi suất âm tức là ngân hàng dự đoán lãi suất sẽ giảm.
Nếu lãi suất tài sản và nguồn nhạy cảm lại tăng với cùng mức độ, chênh lệch lãi
suất của ngân hàng sẽ giảm, làm giảm thu nhập từ lãi suất.
Như vậy trạng thái tài sản và nguồn (tạo nên khe hở lãi suất) không phải là yếu
16
tố duy nhất gây nên RRLS. Trạng thái trên kết hợp với sự thay đổi lãi suất ngoài
mong muốn của nhà quản lý ngân hàng sẽ gây nên RRLS. Do khả năng dự đoán
biến động lãi suất là có hạn trước những thay đổi của môi trường kinh doanh, khe
hở lãi suất trở thành yếu tố đo RRLS tiềm năng. Nếu khe hở lãi suất càng lớn thì rủi
ro cũng càng lớn.
Ví dụ: Một ngân hàng đang có trạng thái nhạy cảm với lãi suất như sau (số dư
bình quân trong kỳ, đơn vị tỷ động, lãi suất bình quân % kỳ):
Tài sản Số dư Lãi suất Nguồn Số dư Lãi suất
Tài sản nhạy cảm 80 5 Nguồn nhạy cảm 120 4
Tài sản kém nhạy cảm 120 7 Nguồn kém nhạy cảm 80 6
Chênh lệch lãi suất của ngân hàng trong kỳ:
(80x5% + 120x7% - 120x4% - 80x6%) x100
=1,4%

200
Nếu lãi suất của thị trường tăng thêm 1%, chênh lệch lãi suất của ngân hàng:
(80x6% + 120x7% - 120x5% - 80x6%) x100
=1,2 (giảm 0,2%)
200
Khe hở nhạy cảm 80 - 120 = -40
Vậy từ khe hở nhạy cảm ta có thể dự đoán tổn thất khi lãi suất thay đổi:
Thu nhập từ lãi giảm (-)
hoặc tăng (+)
=
Khe hở
nhạy cảm
x
Mức gia tăng
của lãi suất
Từ ví dụ trên ta có: Thu nhập từ lãi giảm (-) = -40x1% = -0,4 (đơn vị)
Chênh lệch từ lãi suất
giảm (-) hoặc tăng (+)
Khe hở nhạy cảm x Mức gia tăng của lãi suất
Tổng tài sản sinh lời
-0,4 x 100
=0,2%
200
d. Các diễn biến của RRLS:
Lãi suất thay đổi không cùng mức độ: Để thấy ảnh hưởng của trạng thái tài sản
và nguồn nhạy cảm đối với RRLS, chúng ta giả định lãi suất nguồn và tài sản nhạy
cảm thay đổi với cùng mức độ. Song trên thực tế, các mức lãi suất thay đổi theo các
mức độ khác nhau cũng gây ra RRLS dù độ lớn và dấu của khe hở lãi suất như thế
17
nào.

Ví dụ: Một ngân hàng với số dư bình quân kỳ, lãi suất bình quân như sau:
Tài sản Số dư Lãi suất Nguồn Số dư Lãi suất
Tài sản nhạy cảm 80 Nguồn nhạy cảm 120 4
Trong đó: Trong đó:
- CK ngắn hạn 20 4 - Tiền gửi thanh toán 30 3
- Tiền gửi tại các NH 10 2 - Tiền gửi có kỳ hạn 30 4
- Cho vay ngắn hạn 50 6 - Tiết kiệm ngắn hạn 60 5
Tài sản kém nhạy cảm 120 7 Nguồn kém nhạy cảm 80 6
Hiện tại, chênh lệch thu chi từ lãi của ngân hàng là:
20x4%+10x2%+50x6%+120x7T-30x3%-30x4%-60x5%-80x6% = 2,5
Chênh lệch lãi suất của ngân hàng là: (2,5x100)/200 = 1,25%
Khi lãi suất tăng cùng mức độ, do khe hở lãi suất âm, thu nhập từ lãi sẽ giảm.
Song nếu mức lãi suất thay đổi không giống nhau thì tổn thất có thể rất lớn, hoặc
ngược lại ngân hàng có thể được lợi.
Giả sử lãi suất thị trường dự tính thay đổi như sau: chứng khoán ngắn hạn tăng
thêm 0,3%; tiền gửi tại các ngân hàng tăng thêm 0,2%; cho vay ngắn hạn tăng thêm
0,8%; tiền thanh toán tăng thêm 0,3%; tiền gửi có kỳ hạn ngắn tăng thêm 0,6%; tiền
gửi tiết kiệm ngắn tăng thêm 0,9%. Vậy chênh lệch thu chi từ lãi suất dự tính trong
kỳ tới của ngân hàng là:
20x4,3%+10x2,2%+50x6,8%+120x7%-30x3,3%-30x4,6%-60x5,9%-80x6% = 2,17
Chênh lệch lãi suất dự tính của ngân hàng là: (2,17 x 100)/200 = 1,085%.
Mức độ nhạy cảm lãi suất: Kỳ hạn nguồn và tài sản quyết định độ lớn của khe
hở lãi suất. Để đơn giản, ta giả định các tài sản và nguồn ngắn hạn (từ 12 tháng trở
xuống) là nhạy cảm lãi suất (mức độ nhạy cảm như nhau). Tuy nhiên, trên thực tế
các kỳ hạn khác nhau sẽ có mức nhạy cảm khác nhau. Tiền gửi tại NHNN, tiền gửi
thanh toán là tài sản và nguồn có mức độ nhạy cảm lớn nhất. Tiền gửi tiết kiệm 9
tháng (sau 9 tháng mới định giá lại) có mức độ nhạy cảm thấp hơn tiền tiết kiệm
loại 12 tháng. Nguồn 12 có thể chuyển thành tài sản kỳ hạn 2 tháng và 24 tháng để
tạo ra khe hở lãi suất bằng 0. Khi lãi suất thay đổi trong một khoảng thời gian dự
tính, tỷ lệ các tài sản và nguồn nhạy cảm được định giá lại cũng khác nhau. Ví dụ

18
khi lãi suất tăng, 100% tiền gửi thanh toán được chuyển sang lãi suất mới chỉ trong
vòng 1 vòng, trong khi đó chỉ một phần tiền gửi 3 tháng được chuyển sang lãi suất
mới trong vòng 1 tháng. Do vậy, nhà quản lý cần kết hợp quy mô và kỳ hạn cá biệt
của từng loại tài sản và nguồn để tính kỳ hạn trung bình của tài sản và nguồn,
nghiên cứu mức độ nhạy cảm của chúng đối với lãi suất.
Nguồn và TSC kỳ hạn trên 1 năm với lãi suất cố định được coi là kém nhạy
cảm với lãi suất. Song mức độ nhạy cảm của mỗi loại cũng khác nhau và đều có tác
động tới khe hở lãi suất. Một nguồn huy động 3 năm để cho vay 3 năm với lãi suất
cố định thì không có RRLS. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều khách hàng vay là doanh
nghiệp lớn có thể thay lãi suất khi lãi suất trên thị trường giảm. Các doanh nghiệp
này có thể trả trước hạn, vay ngân hàng khác để trả, thoả thuận với ngân hàng để
giảm lãi suất ghi trong hợp đồng… Khi tình hình cho vay trở nên khó khăn các
ngân hàng buộc phải chấp nhận yêu cầu của khách hàng, thực tế này tạo ra tổn thất
cho ngân hàng.
1.2.3. Rủi ro thanh khoản
a. Bản chất cốt lõi của rủi ro thanh khoản là sự mất cân xứng giữa cung thanh
khoản và cầu thanh khoản do cân đối không chính xác luồng tiền ra và luồng tiền
vào hoặc do tác động từ bên ngoài mà không lường trước được nên dẫn đến rủi ro
thanh khoản. Rủi ro thanh khoản là rủi ro đặc thù của các NHTM được phản ánh rõ
nét thông qua nguồn vốn có độ thanh khoản cao (bản chất tiền gửi), tài sản có độ
thanh khoản thấp (bản chất cho vay, hay tài sản có tính lỏng thấp) và dựa trên uy
tín, độ tín nhiệm của ngân hàng.
b. Nguyên nhân gây ra rủi ro thanh khoản: Có 2 nguyên nhân chính sau:

Nguyên nhân chủ quan: liên quan đến chính việc xác định nhu cầu thanh
khoản của ngân hàng, thể hiện ở các điểm chính sau:
- Ngân hàng không dự tính trước được nhu cầu tài trợ khoản cho vay.
- Ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu rút tiền ngay.
- Ngân hàng thiếu đa dạng hoá các loại hình tài trợ, các loại tiền.

- Ngân hàng mất cân đối về thời gian đáo hạn các khoản vay, cho vay
- Rủi ro thanh khoản cục bộ trong từng loại tiền tệ, do mất cân đối giữa luồng
19
tiền ra và luồng tiền vào.
- Ngân hàng giảm sút uy tín đối với công chúng.

Nguyên nhân khách quan: Liên quan đến các tác nhân xấu ngoài dự kiến
gây rủi ro như khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực, các tin đồn thất thiệt gây ảnh
hưởng đến uy tín ngân hàng và các khoản cho vay đến hạn nhưng không nhận được
thanh toán từ phía khách hàng do làm ăn thua ỗ, phá sản hoặc gặp thiên tai.
c. Các nhân tố phản ánh rủi ro thanh khoản

Các chỉ tiêu thanh khoản: là các giá trị được xác định để phản ánh khả
năng thanh khoản của ngân hàng theo từng tiêu chí như tài sản có tính thanh khoản
cao, các khoản đầu tư vào tài sản có tính thanh khoản kém… Trong hoạt động ngân
hàng các chỉ tiêu thanh khoản gồm có 6 loại sau:
- Chỉ tiêu trạng thái ngân quỹ: Dùng để đánh giá tỷ trọng tài sản có tính thanh
khoản cao nhất trong tổng tài sản của ngân hàng.
- Chỉ tiêu hệ số về năng lực: Đánh giá phần tài sản được phân bổ vào những
tài sản có tính thanh khoản kém nhất;
- Chỉ tiêu cho vay cho thuê ròng với tổng tiền gửi: Đánh giá phần tiền gửi
được đầu tư vào những tài sản kém tính thanh khoản nhất;
- Chỉ tiêu đầu tư ngắn hạn so với tài sản tính sinh lời cao dài hạn: Đánh giá các
tài sản có tính thanh khoản cao, được sử dụng ngay để bù đắp cho những tài sản
sinh lời dài hạn;
- Chỉ tiêu hệ số tiền nóng: so sánh TSC trên thị trường tiền tệ (giấy tờ có giá
ngắn hạn) với TSN trên thị trường tiền tệ (tiền gửi vốn vay ngắn hạn), nếu hệ số này
càng cao thì khả năng thanh khoản của ngân hàng càng dồi dào;
- Chỉ tiêu chứng khoán ngắn hạn (1 năm): tỷ lệ chứng khoán sẽ đáo hạn trong
vòng 1 năm so với tổng tài sản của ngân hàng.


Nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn theo kỳ đáo hạn thực tế: so sánh nguồn
vốn thực tế và sử dụng vốn thực tế theo các kỳ đáo hạn để xác định khả năng thanh
khoản của ngân hàng.
Ví dụ, một ngân hàng có kỳ hạn các nguồn vốn huy động và sử dụng như sau:
ĐV: tỷ đồng
20
Kỳ hạn
Vốn
Không
kỳ hạn
1 tuần 1 tháng 6 tháng
12
tháng
Trên 1
năm
Tổng
Sử dụng vốn (A) 1700 1000 1500 1500 1000 5300 12000
Nguồn vốn (B) 5300 0 2900 2500 600 1000 12000
Chênh lệch (B-A) 3300 -1000 1400 1000 -400 -4300 0
Cộng dồn 0 -3300 -2300 -3700 -4700 -4300
Nguồn vốn và sử dụng vốn là không tương xứng nhau được biểu diễn ở bảng
trên cho ta thấy sự khác biệt giữa luồng tiền vào và luồng tiền ra ở các kỳ hạn khác
nhau của ngân hàng. Như vậy ngân hàng sẽ phải cân đối luồng tiền một cách hợp lý
đồng thời lên kế hoạch phân loại và đánh giá các khoản sử dụng và huy động vốn
để trích lập dự phòng rủi ro thanh khoản khi phát sinh các trường hợp rút/trả trước
hạn của khách hàng.

Khe hở thanh toán: khe hở thanh khoản cho ngân hàng thấy sự chênh lệch
giữa cung và cầu thanh khoản của ngân hàng, phản ánh sự thiếu hụt hay thặng dư

hoặc đủ để bù đắp cho nhu cầu về vốn khả dụng của ngân hàng khi các khoản bắt
buộc phải trả đến hạn, hay trong trường hợp khách hàng bất ngờ rút tiền gửi.
Khe hở thanh khoản (KHTK) = Cung thanh khoản - Cầu thanh khoản.
- Nếu KHTK = 0, đồng nghĩa với việc ngân hàng có đủ vốn khả dụng để đáp
ứng nhu cầu thanh khoản;
- Nếu KHTK<0, đồng nghĩa với việc ngân hàng không đáp ứng đủ nhu cầu về
thanh khoản, nói cách khác là thiếu hụt thanh khoản. Như vậy ngân hàng phải tăng
cung thanh khoản hoặc giảm cầu thanh khoản.
- Nếu KHTK>0, ngân hàng thặng dư thanh khoản. Như vậy ngân hàng cần
phải mở rộng kinh doanh đầu tư vào các tài sản sinh lời trong tương lai.
1.3. Công ước Basel II và các phương pháp quản trị rủi ro thị trường theo
chuẩn mực Basel
Uỷ ban giám sát ngân hàng hay chính là Uỷ ban Basel được các ngân hàng
trung ương của 10 nước kinh tế phát triển thành lập năm 1974, với mục đích hoạt
động chính là xây dựng những khuôn khổ chung để kiểm soát các rủi ro và giám sát
an toàn đối với những NH hoạt động quốc tế. Ngày 26 tháng 6 năm 2004, Uỷ ban
21

×