Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

CHỌN MẪU TRONG KIỂM TOÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (561.7 KB, 65 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Với xu hướng phát triển như ngày nay, các công ty ngày càng mở rộng về qui mô
tài sản cũng như qui mô hoạt động tài chính, do đó, qui mô của đối tượng kiểm toán
cũng ngày càng lớn. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có được một chương trình kiểm
toán nhằm thu thập đầy đủ các bằng chứng có hiệu lực để làm căn cứ đưa ra các ý kiến
trên báo cáo kiểm toán. Để xây dựng một chương trình kiểm toán, kiểm toán viên phải
quyết định các vấn đề về nội dung, thời gian và quy mô của các thử nghiệm kiểm toán.
Theo đó, nội dung liên quan tới việc thủ tục nào sẽ được sử dụng để thu thập bằng
chứng kiểm toán. Thời gian muốn chỉ khi nào thực hiện thì sẽ thực hiện các thủ tục
trên. Còn quy mô muốn đề cập tới số nghiệp vụ, khoản mục mà thủ tục đó áp dụng…
Bên cạnh đó, một vấn đề nữa là với quy mô đã ấn định, những đơn vị nào sẽ được lựa
chọn để kiểm tra. Để hiểu rõ những điều này, chúng ta sẽ xem xét quá trình mà kiểm
toán viên sử dụng để thực hiện hai quyết định trên của các thử nghiệm kiểm toán và
phương pháp luận phải theo sau khi các quyết định đã được đề ra. Chính vì vậy, qua
quá trình thực tế ở công ty kết hợp tham khảo các tài liệu và sự hướng dẫn, giúp đỡ tận
tình của giáo viên hướng dẫn ThS. Phạm Hoài Hương và các anh chị trong công ty, em
đã mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu “Phương pháp chọn mẫu trong kiểm toán báo cáo
tài chính do công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC thực hiện”.
Đề tài gồm có 3 phần:
- Chương I: Cơ sở lý luận về phương pháp chọn mẫu trong kiểm toán báo cáo
tài chính
- Chương II: Tình hình thực tế về công tác chọn mẫu trong kiểm toán báo cáo
tài chính do công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC thực hiện
- Chương III: Biện pháp hoàn thiện phương pháp chọn mẫu áp dụng trong kiểm
toán báo cáo tài chính do công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC thực
hiện
Chương I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHƯƠNG PHÁP CHỌN MẪU TRONG
KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1. Khái niệm về chọn mẫu trong kiểm toán
Chọn mẫu trong kiểm toán là áp dụng các thủ tục kiểm toán trên số phần tử ít hơn
100% tổng số phần tử của một số dư tài khoản hay một loại nghiệp vụ, sao cho mọi


phần tử đều có cơ hội được chọn. Chọn mẫu kiểm toán sẽ giúp kiểm toán viên thu thập
và đánh giá bằng chứng kiểm toán về các đặc trưng của các phần tử được chọn, nhằm
hình thành hay củng cố kết luận về tổng thể.
Nhìn chung, các kiểm toán viên phải giới hạn các thử nghiệm kiểm toán trên các
phần tử của mẫu. Nếu tiến hành thử nghiệm kiểm toán trên từng phần tử của toàn bộ
tổng thể thì sẽ quá tốn kém và mất quá nhiều thời gian trong khi đó phí kiểm toán và
thời gian kiểm toán không cho phép. Hơn nữa, nếu kiểm toán viên tiến hành kiểm tra
trên toàn bộ tổng thể thì vẫn chưa cung cấp được sự chắc chắn tuyệt đối, bởi bên cạnh
rủi ro chọn mẫu vẫn tồn tại những rủi ro không do chọn mẫu. Ngoài ra, kiểm toán viên
chỉ có nghĩa vụ phát hiện các sai phạm trọng yếu, chứ không phải là tất cả các sai
phạm của báo cáo tài chính, đồng thời vận dụng những kỹ năng và mức độ thận trọng
hợp lý để hình thành ý kiến về các sai phạm trọng yếu trên cơ sở các bằng chứng kiểm
toán đã được thu thập.
Từ những lý do trên mà chọn mẫu trong kiểm toán đã ra đời để đáp ứng nhu cầu
của những người làm kiểm toán bởi đây là một phương thức tiếp cận rất hiệu quả về
mặt chi phí và tiết kiệm được rất nhiều thời gian trong công việc kiểm toán.
2. Các khái niệm liên quan đến chọn mẫu kiểm toán
2.1. Tổng thể chọn mẫu
Là toàn bộ dữ liệu mà từ đó kiểm toán viên lấy mẫu để có thể đi đến một kết luận.
Ví dụ, tất cả các phần tử trong một số dư tài khoản hay một loại nghiệp vụ cấu thành
một tổng thể.
2.2. Đơn vị lấy mẫu
Là các phần tử riêng biệt cấu thành tổng thể. Ví dụ: các séc trong bảng kê nộp tiền,
các nghiệp vụ ghi Có trên sổ phụ ngân hàng, hóa đơn bán hàng hay số dư Nợ các
khoản phải thu khách hàng. Đơn vị lấy mẫu có thể là một đơn vị tiền tệ hoặc một đơn
vị hiện vật.
2.3. Cỡ mẫu
Tập hợp các phần tử được chọn ra làm đại diện trong quá trình khảo sát một đặc
điểm hay một dấu hiệu nào đó của tổng thể thường gọi là một mẫu.
Số phần tử có trong mẫu thường được gọi là kích thước mẫu hay cỡ mẫu, thông

thường là khá nhỏ so với tổng thể chọn mẫu.
2.4. Rủi ro chọn mẫu
Là khả năng kết luận của kiểm toán viên dựa trên kiểm tra mẫu có thể khác với kết
luận mà kiểm toán viên đạt được nếu kiểm tra trên toàn bộ tổng thể với cùng một thủ
tục. Nói cách khác, rủi ro chọn mẫu là sự sai khác giữa kết quả mẫu chọn với kết quả
thực tế. Có hai loại rủi ro chọn mẫu:
* Rủi ro khi kiểm toán viên kết luận rủi ro kiểm soát thấp hơn mức rủi ro thực tế
(đối với thử nghiệm kiểm soát) hoặc không có sai sót trọng yếu trong khi thực tế là có
(đối với thử nghiệm cơ bản). Loại rủi ro này ảnh hưởng đến tính hữu hiệu của cuộc
kiểm toán, và có thể dẫn đến ý kiến kiểm toán viên không xác đáng.
* Rủi ro khi kiểm toán viên kết luận rủi ro kiểm soát cao hơn mức rủi ro thực tế
(đối với thử nghiệm kiểm soát) hoặc có sai sót trọng yếu trong khi thực tế không có
(đối với thử nghiệm cơ bản). Loại rủi ro này ảnh hưởng đến tính hiệu quả của cuộc
kiểm toán vì nó thường dẫn đến các công việc bổ sung để chứng minh rằng các kết
luận ban đầu là không đúng.
Rủi ro chọn mẫu là một phần vốn có của qui trình chọn mẫu do khảo sát ít hơn toàn
bộ tổng thể. Ngay cả khi sai số không chọn mẫu là 0 thì vẫn luôn luôn có cơ hội mẫu
không có tính đại diện.
Có hai cách để làm giảm rủi ro chọn mẫu: tăng qui mô chọn mẫu và sử dụng một
phương pháp thích hợp cho quá trình chọn lựa các phần tử mẫu từ tổng thể. Ví dụ về
một phương pháp thích hợp cho qui trình chọn mẫu là qui trình chọn mẫu ngẫu nhiên.
Tuy nhiên khi kích cỡ mẫu tăng lên điều đó đồng nghĩa với phí kiểm toán cũng tăng
lên. Vậy nên yếu tố chủ chốt trong việc chọn mẫu kiểm toán một cách hiệu quả là cần
phải cân đối giữa rủi ro chọn mẫu với chi phí do chọn mẫu có kích cỡ lớn.
2.5. Rủi ro không do chọn mẫu
Là rủi ro khi kiểm toán viên đi đến kết luận sai vì các nguyên nhân không liên quan
đến cỡ mẫu. Ví dụ, kiểm toán viên có thể sử dụng thủ tục kiểm toán không thích hợp
hay kiểm toán viên hiểu sai bằng chứng và không nhận diện được sai sót.
Các trường hợp dẫn tới rủi ro không do chọn mẫu thường bao gồm:
Thứ nhất, đánh giá rủi ro tiềm tàng không đúng. Kiểm toán viên có thể đánh giá sai

lầm rủi ro tiềm tàng trong đối tượng kiểm toán. Có thể kiểm toán viên cho rằng có ít
sai phạm trọng yếu tồn tại trong đối tượng kiểm toán nên họ có xu hướng giảm qui mô
công việc cần thực hiện, do đó không phát hiện được các sai phạm.
Thứ hai, đánh giá không đúng về rủi ro kiểm soát. Kiểm toán viên có thể quá lạc
quan tin tưởng vào khả năng của hệ thống kiểm soát nội bộ trong việc ngăn chặn, phát
hiện và sửa chữa kịp thời các sai phạm nên họ có xu hướng giảm khối lượng công việc
cần thiết, vì vậy kết quả cũng như trường hợp đánh giá sai về rủi ro tiềm tàng là không
phát hiện được tất cả các sai phạm trọng yếu.
Thứ ba, lựa chọn các thủ tục kiểm toán không thích hợp và thực hiện công việc
kiểm toán không hợp lý, ví dụ gửi thư xác nhận các khoản phải thu theo sổ sách trong
khi đó mục tiêu là tìm ra các khoản phải thu chưa ghi sổ, hoặc cũng có thể chọn được
các thủ tục thích hợp nhưng việc triển khai các thủ tục đó lại để xảy ra sai sót.
Kiểm toán viên có thể kiểm soát được rủi ro không do chọn mẫu và có khả năng
làm giảm rủi ro không do chọn mẫu tới mức có thể chấp nhận được thông qua lập kế
hoạch và giám sát việc thực hiện kế hoạch một cách chu đáo, đồng thời phải thực hiện
các thủ tục kiểm soát chất lượng chặt chẽ và thích hợp đối với công việc kiểm toán.
3. Yêu cầu đối với chọn mẫu kiểm toán
Mục đích chọn mẫu là để rút ra kết luận về tổng thể nên kiểm toán viên cần chọn
mẫu đại diện gồm các phần tử mang đặc điểm tiêu biểu của tổng thể, tránh thiên lệch,
chủ quan.
Như vậy, vấn đề cơ bản của chọn mẫu là phải chọn được mẫu đại diện. Mẫu đại
diện là mẫu mang những đặc trưng của tổng thể mà mẫu được chọn ra.
Trên thực tế, kiểm toán viên không biết mẫu có tính đại diện hay không, dù sau đó
tất cả các thử nghiệm đều được thực hiện. Tuy vậy, kiểm toán viên có thể tăng khả
năng đại diện mẫu bằng cách thận trọng khi thiết kế, lựa chọn và đánh giá mẫu.
4. Chọn mẫu thống kê và chọn mẫu phi thống kê
4.1. Chọn mẫu thống kê
Là phương pháp chọn mẫu có hai đặc điểm sau:
- Các phần tử được chọn ngẫu nhiên vào mẫu
- Sử dụng lý thuyết xác suất thống kê để đánh giá kết quả mẫu bao gồm cả

việc định lượng rủi ro chọn mẫu.
Chọn mẫu thống kê là việc sử dụng kỹ thuật tính toán toán học để tính các kết quả
thống kê có hệ thống. Ưu điểm đầu tiên của phương pháp thống kê là quá trình định
lượng của rủi ro chọn mẫu, từ đó xác định cỡ mẫu cần thiết ở mức rủi ro đã dự kiến
trước.
4.2. Chọn mẫu phi thống kê
Là phương pháp chọn mẫu không có một hoặc hai đặc điểm của phương pháp chọn
mẫu thống kê.
Trong các phương pháp chọn mẫu phi thống kê, kiểm toán viên không định lượng
được rủi ro chọn mẫu. Thay vào đó, các kết luận được tiếp cận với các tổng thể trên
như một căn cứ phán đoán nhiều hơn.
Trong từng trường hợp cụ thể, việc lựa chọn lấy mẫu thống kê hay phi thống kê là
tùy thuộc vào sự xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên về tính hiệu quả của từng
phương pháp trong việc thu thập bằng chứng kiểm toán. Thí dụ, trong thử nghiệm
kiểm soát, sự phân tích của kiểm toán viên về bản chất và nguyên nhân của sai sót sẽ
quan trọng hơn việc phân tích thống kê về tần suất xảy ra của sai sót. Trong trường
hợp này chọn mẫu phi thống kê là thích hợp hơn.
Các phương pháp thống kê và phi thống kê đều có hai phần: qui trình chọn mẫu và
qui trình đánh giá kết quả. Qui trình chọn mẫu gồm quyết định cách chọn lựa các phần
tử mẫu từ tổng thể, trong khi qui trình đánh giá kết quả gồm đưa ra những kết luận dựa
trên các cuộc thử nghiệm kiểm toán. Để minh họa, giả sử một kiểm toán viên chọn một
mẫu gồm 100 bản sao hóa đơn bán hàng từ một tổng thể, khảo sát từng hóa đơn để xác
định xem có đính kèm chứng từ vận chuyển hay không, và xác định là có ba trường
hợp có sai sót. Việc quyết định 100 phần tử nào được chọn từ tổng thể là một vấn đề
của qui trình chọn mẫu. Việc đi đến kết luận tỉ lệ sai sót xảy ra trong tổng thể khi có
một tỉ lệ sai sót mẫu là 3% là một vấn đề của quá trình đánh giá.
5. Các phương pháp lựa chọn các phần tử của mẫu
5.1. Các phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên
Chọn mẫu ngẫu nhiên, nói đơn giản, chỉ là một phương pháp lựa chọn các phần tử
vào mẫu mà nguyên tắc của chọn mẫu ngẫu nhiên là mỗi phần tử trong tổng thể đều có

cơ hội như nhau để được chọn vào mẫu.
Trong việc lựa chọn mẫu ngẫu nhiên, có một sự khác biệt giữa chọn mẫu lặp lại và
chọn mẫu không lặp lại. Trong qui trình chọn mẫu lặp lại, một phần tử trong tổng thể
có được đưa vào mẫu nhiều hơn một lần phần tử đó được chọn từ bảng nhiều hơn một
lần; trong khi qui trình chọn mẫu không lặp lại, mỗi phần tử trong tổng thể chỉ được
đưa vào mẫu một lần. Mặc dù cả hai cách lựa chọn này đều phù hợp với lý thuyết
thống kê, kiểm toán viên cũng hiếm khi sử dụng chọn mẫu lặp lại, bởi số lượng phần
tử mẫu thực tế khảo sát sẽ giảm đi và lúc đó độ tin cậy của mẫu chọn cũng giảm theo.
Cách duy nhất mà kiểm toán viên tin rằng có một mẫu ngẫu nhiên đã thành lập là
chấp nhận một phương pháp có tính hệ thống được thiết kế để thực hiện điều này. Ba
phương pháp chọn mẫu được đề cập là: Bảng số ngẫu nhiên, chương trình chọn số
ngẫu nhiên và chọn mẫu hệ thống. Cả ba phương pháp đều được sử dụng.
5.1.1. Bảng số ngẫu nhiên
Một trong những cách chọn mẫu ngẫu nhiên dễ dàng nhất là việc sử dụng bảng số
ngẫu nhiên.
Bảng số ngẫu nhiên là một bảng liệt kê ngẫu nhiên các chữ số độc lập, được sắp
xếp dạng bảng biểu để làm dễ dàng cho việc lựa chọn các số ngẫu nhiên nhiều chữ số.
Thí dụ về loại bảng này được trình bày trong phụ lục 1. Bảng này được đánh số theo
các hàng và cột, với năm chữ số mỗi cột.
Công dụng đích thực của bảng ngẫu nhiên rất quan trọng – nhằm đảm bảo cho qui
trình chọn lựa một mẫu ngẫu nhiên. Có bốn bước khi sử dụng bảng này:
Bước 1: Xây dựng một hệ thống đánh số cho tổng thể
Trước khi một tập hợp các số ngẫu nhiên có thể được chọn từ bảng, mỗi phần tử
trong tổng thể phải được nhận diện qua một con số riêng.
Bước 2: Xây dựng quan hệ giữa bảng số ngẫu nhiên và tổng thể
Do đối tượng kiểm toán đã được định lượng bằng các con số cụ thể nên vấn đề đặt
ra là cần phải xây dựng được mối quan hệ giữa các con số cụ thể đã xác định với các
số ngẫu nhiên trong Bảng số ngẫu nhiên. Thí dụ, giả sử kiểm toán viên đang chọn một
mẫu gồm 100 bản sao hóa đơn bán hàng từ một hồ sơ gồm các hóa đơn bán hàng được
đánh số trước bắt đầu từ chứng từ số 3.272 và kết thúc với chứng từ số 8.825. Vì các

hóa đơn có 4 chữ số nên cần sử dụng 4 chữ số trên bảng số ngẫu nhiên.
Bước 3: Xây dựng một hướng sử dụng bảng
Hướng sử dụng bảng xác định những chữ số nào kiểm toán viên sẽ sử dụng trong
một cột và phương pháp đọc bảng. Thí dụ, đối với một số có ba chữ số thì có thể chọn
3 chữ số đầu tiên, 3 chữ số giữa hoặc 3 chữ số cuối cùng. Đồng thời chọn các con số
theo cột dọc hoặc theo hàng ngang cũng đều được chấp nhận. Hướng sử dụng bảng là
một quyết định tùy ý nhưng nó phải được xây dựng trước và phải được tuân theo một
cách nhất quán.
Bước 4: Chọn điểm bắt đầu
Để chọn điểm xuất phát, kiểm toán viên ngẫu nhiên chọn ra một số trong Bảng số
ngẫu nhiên để làm điểm xuất phát. Việc chọn ngẫu nhiên này nhằm để loại trừ khả
năng có thể đoán trước mẫu.
5.1.2. Chương trình chọn số ngẫu nhiên
Hiện nay, phần lớn các hãng kiểm toán đã thuê hay tự xây dựng các chương trình
chọn mẫu ngẫu nhiên qua máy vi tính nhằm tiết kiệm thời gian và giảm các sai sót
trong việc chọn mẫu.
Các chương trình chuyên dụng này rất đa dạng, tuy nhiên nói chung vẫn tôn trọng
hai bước đầu tiên của chọn mẫu ngẫu nhiên theo Bảng số ngẫu nhiên là lượng hóa các
đối tượng kiểm toán bằng hệ thống con số duy nhất và xác lập mối quan hệ giữa đối
tượng kiểm toán đã định lượng với các số ngẫu nhiên. Tuy nhiên, số ngẫu nhiên lại do
máy tính tạo ra.
Đối với một chương trình tính điển hình, cần phải đưa vào máy các con số lớn nhất
và nhỏ nhất trong chuỗi tổng thể, số lượng các con số ngẫu nhiên mong muốn, và
trong một số trường hợp cần đưa vào một con số ngẫu nhiên để bắt đầu chương trình.
Ngoài ra, kiểm toán viên thường có quyền lựa chọn hoặc lấy một danh sách các số
ngẫu nhiên trong một lệnh lựa chọn, hoặc trong một chuỗi các con số tăng dần, hoặc
cả hai.
5.1.3. Chọn mẫu hệ thống
Chọn mẫu hệ thống là cách chọn để sao cho chọn được các phần tử trong tổng thể
có khoảng cách đều nhau (khoảng cách mẫu). Khoảng cách này được xác định bằng

cách chia tổng số phần tử của tổng thể cho số lượng mong muốn của mẫu.
Ưu điểm của việc chọn mẫu có hệ thống là nó dễ làm. Trong hầu hết các tổng thể,
mẫu được chọn một cách có hệ thống có thể được thực hiện nhanh chóng và cách làm
này tự động chọn các con số theo một thứ tự liên tục.
Vấn đề chính của việc áp dụng qui trình chọn mẫu hệ thống là khả năng của sự
thiên lệch. Vì cách mà mẫu được chọn, nên một khi phần tử đầu tiên của mẫu được
chọn thì tất cả các phần tử khác sẽ được chọn một cách tự động. Điều này sẽ không
thành vấn đề nếu đặc điểm quan tâm được phân phối ngẫu nhiên trong toàn bộ tổng
thể; tuy nhiên trong rất nhiều trường hợp thì điều này không có. Nếu cuộc thử nghiệm
kiểm soát khác với quá trình kiểm soát xảy ra ở một thời điểm nhất định nào đó trong
tháng hoặc với một loại chứng từ nhất định nào thì chọn mẫu có hệ thống có khả năng
không phải là mẫu có tính đại diện cao hơn so với mẫu được chọn theo hai phương
pháp được đề cập ở trên.
5.2. Các phương pháp chọn mẫu phi ngẫu nhiên
Trong chọn mẫu phi ngẫu nhiên, các phần tử không có cơ hội như nhau để được
lựa chọn vào mẫu mà kiểm toán viên dựa vào xét đoàn nghề nghiệp để phán xét và
quyết định chọn phần tử nào vào mẫu.
Ba phương pháp chọn mẫu phi ngẫu nhiên phổ biến là phương pháp chọn mẫu theo
khối, chọn mẫu tình cờ và chọn mẫu theo xét đoán.
5.2.1. Chọn mẫu theo khối
Chọn mẫu theo khối là việc chọn một tập hợp các đơn vị kế tiếp nhau trong một
tổng thể. Trong trường hợp này, phần tử đầu tiên trong khối được chọn thì các phần tử
còn lại cũng được chọn tất yếu. Mẫu được chọn có thể là một khối liền hay nhiều khối
rời gộp lại.
Việc chọn mẫu theo khối đối với các cuộc thử nghiệm kiểm soát chỉ được chấp
nhận nếu số lượng hợp lý. Nếu quá ít khối thì khả năng có một mẫu không có tính đại
diện rất lớn, có xét đến khả năng của những điều như những thay đổi của hệ thống kế
toán, và bản chất thời vụ của rất nhiều ngành kinh doanh.
5.2.2. Chọn mẫu “tình cờ”
Khi kiểm toán viên nghiên cứu một tổng thể và chọn lựa các phần tử của mẫu mà

không xét đến quy mô, nguồn gốc, hoặc các đặc điểm phân biệt khác của chúng thì
kiểm toán viên đang cố gắng lựa chọn một cách vô tư. Sự lựa chọn này được gọi là
chọn tình cờ.
Nhược điểm quan trọng nhất của việc chọn mẫu tình cờ là rất khó để hoàn toàn vô
tư khi chọn lựa các phần tử của mẫu.
5.2.3. Chọn mẫu theo xét đoán
Rất nhiều kiểm toán viên tin rằng nên sử dụng óc phán xét nghề nghiệp khi chọn
lựa các phần tử của mẫu trong các cuộc thử nghiệm kiểm soát. Khi cỡ mẫu nhỏ, mẫu
ngẫu nhiên thường không thể đem lại một mẫu có tính đại diện. Để cải tiến khả năng
tính đại diện của phương pháp chọn mẫu theo xét đoán của các cuộc thử nghiệm kiểm
soát, kiểm toán viên phải luôn luôn nhớ những điều sau:
- Việc chọn các phần tử kiểm tra, mỗi loại nghiệp vụ chủ yếu trong chu kỳ phải
được chọn. Thí dụ, khi khảo sát nghiệp vụ mua vào hàng hóa và dịch vụ thì sẽ thiếu
sót nếu chỉ khảo sát nghiệp vụ mua vào nguyên vật liệu nếu kiểm toán viên cũng có
quan tâm đến các nghiệp vụ như quảng cáo, sửa chữa và được tặng thưởng.
- Khi có nhiều người khác nhau có trách nhiệm xử lý các nghiệp vụ trong kỳ kế
toán thì phải khảo sát nghiệp vụ người thực hiện. Nếu có một sự thay đổi về nhân viên
kế toán trong năm hoặc nếu các nghiệp vụ ở các vị trí khác nhau được quản lý khác
nhau thì khả năng của mẫu không có tính đại diện tăng lên khi cuộc thử nghiệm bị giới
hạn trong phạm vi các nghiệp vụ chỉ do các nhân viên đó thực hiện mà thôi.
- Khi kiểm toán viên khảo sát các sai số trong số tiền, thì các phần tử của tổng thể
có số dư lớn sẽ được khảo sát kỹ lưỡng hơn những phần tử có số dư nhỏ. Trong các
cuộc thử nghiệm kiểm soát, kiểm toán viên quan tâm đến sự đầy đủ của quá trình kiểm
soát, nhưng đối với các cuộc khảo sát chính thức thì trọng tâm sẽ là khảo sát các số dư
bằng tiền lớn hơn vì chúng thường có khả năng chứa chấp sai số trọng yếu nhiều hơn.
6. Qui trình chọn mẫu khi thực hiện thử nghiệm kiểm soát
Dựa trên sự hiểu biết về hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán
viên xác định các đặc điểm của một thủ tục kiểm soát được thực hiện, cũng như các
điều kiện dẫn đến sai phạm nếu không thực hiện đầy đủ thủ tục kiểm soát. Sau đó,
kiểm toán viên có thể thử nghiệm về sự tồn tại hay không tồn tại của các đặc điểm đó.

Chọn mẫu kiểm toán cho thử nghiệm kiểm soát thường thích hợp khi thực hiện các
thủ tục kiểm soát đã để lại bằng chứng về sự thực hiện. Ví dụ: chữ ký của người chịu
trách nhiệm xét duyệt cho phép bán chịu trên các hóa đơn bán hàng.
Chọn mẫu thuộc tính là cách chọn mẫu được sử dụng rộng rãi đối với thử nghiệm
kiểm soát khi mà kiểm toán viên muốn ước lượng tỷ lệ sai lệch của các hoạt động
kiểm soát so với thiết kế. Chẳng hạn, nếu một mẫu thuộc tính chỉ ra tỷ lệ sai lệch 5%
với mức rủi ro cho phép là 3% thì kiểm toán viên có thể suy ra rằng khoảng từ 2% đến
8% số khoản mục trong tổng thể có thể bị sai lệch. Trong ví dụ này, 2% là tỷ lệ sai
lệch dưới (giới hạn dưới) và 8% là tỷ lệ sai lệch trên (giới hạn trên) đối với ước đoán
từ mẫu.
6.1. Khái niệm về qui trình chọn mẫu thuộc tính:
Chọn mẫu thuộc tính là cách chọn mẫu cho phép kiểm toán viên ước tính tỉ lệ các
phần tử trong một tổng thể có chứa một đặc điểm hoặc một thuộc tính được quan tâm.
Tỷ lệ này được gọi là tần số xuất hiện và là tỷ số các phần tử có chứa các thuộc tính
đặc thù so với tổng số các phần tử trong tổng thể. Tần số xuất hiện thường được biểu
diễn bằng số tỷ lệ. Kiểm toán viên thường quan tâm đến sự xuất hiện của các sai sót
trong tổng thể và xem tần số xuất hiện là tần số lệch lạc hoặc tần số sai số. Một sai sót
trong việc chọn mẫu thuộc tính có thể là cuộc thử nghiệm sai phạm của quá trình kiểm
soát hay sai số về tiền tệ, tùy thuộc vào đó là cuộc thử nghiệm kiểm soát hay là thử
nghiệm cơ bản. Cần chú ý là kỹ thuật chọn mẫu thuộc tính chỉ có thể áp dụng kiểm tra
các thủ tục kiểm soát có để lại “dấu vết”.
6.2. Mục đích qui trình chọn mẫu thuộc tính
Kiểm toán viên sử dụng cách chọn mẫu thuộc tính để xác định mức đánh giá thích
hợp của rủi ro kiểm soát. Cho dù cách chọn mẫu được dùng trước hết cho các cuộc thử
nghiệm kiểm soát, kiểm toán viên cũng sử dụng chọn mẫu thuộc tính cho thử nghiệm
chi tiết nghiệp vụ, nhất là khi hai thử nghiệm này được tiến hành đồng thời.
Những kiểm toán viên sử dụng cách chọn mẫu thuộc tính để đánh giá rủi ro chọn
mẫu vốn có trong từng qui trình chọn mẫu. Nếu một kiểm toán viên chọn một mẫu
gồm 100 phần tử từ một tổng thể và tìm thấy có hai sai phạm mà không sử dụng
phương pháp thống kê thì kiểm toán viên có thể kết luận tỉ lệ sai phạm của mẫu là 2%.

Nhưng kiểm toán viên quan tâm đến tỉ lệ sai phạm của tổng thể chứ không phải là tỉ lệ
sai phạm của mẫu. Cách làm khách quan duy nhất để có được sự đo lường về tỉ lệ sai
phạm cao nhất của tổng thể ở một mức tin cậy nhất định nào đó là sử dụng phương
pháp thống kê.
6.3. Qui trình chọn mẫu thuộc tính
6.3.1. Phân phối mẫu
Qui trình xác định tỉ lệ sai phạm cao nhất của tổng thể (Archived Upper Deviation
Rate_AUDR) ở một tin cậy nhất định của một số lượng nhất định các sai phạm trong
mẫu được dựa vào việc sử dụng quy luật phân phối mẫu toán học. Giả sử có một tổng
thể gồm các hóa đơn bán hàng có 5% không có chứng từ vận chuyển đính kèm. Nếu
kiểm toán viên chọn mẫu gồm 50 hóa đơn thì sẽ có bao nhiêu hóa đơn không đính kèm
chứng từ vận chuyển? Mẫu có thể không có một sự sai lệch nào hoặc có thể chứa 6
hoặc 7 sai lệch. Xác suất của từng số lượng xảy ra các sai lệch trong mẫu hình thành
qui luật phân phối mẫu. Quy luật phân phối mẫu của tổng thể mô tả ở trên được trình
bày theo bảng sau:
Số lượng các
sai phạm
Tỷ lệ % của
sai phạm
Xác suất
Xác suất
tính dồn
0 0 0,0769 0,0769
1 2 0,2025 0,2794
2 4 0,2611 0,5405
3 6 0,2199 0,7604
4 8 0,1360 0,8964
5 10 0,0656 0,9620
6 12 0,0260 0,9880
7 14 0,0120 1,0000

Từ bảng trên là với một mẫu gồm 50 phần tử được chọn từ một tổng thể có tỉ lệ sai
phạm là 5% thì khả năng chọn được một mẫu có ít nhất một sự sai lệch là 92,31% (= 1
- 0,0769).
Từng tỉ lệ sai phạm của tổng thể và từng cỡ mẫu có một qui luật phân phối mẫu
riêng được xác định bằng phương pháp toán học.
Trong những tình huống kiểm toán thực tế, kiểm toán viên không chọn lặp lại từ
các tổng thể đã biết. Họ chọn một mẫu từ tổng thể chưa biết và lấy một tỉ lệ sai phạm
đặc trưng cho mẫu đó. Những kiến thức về quy luật phân phối giúp kiểm toán viên
thực hiện các bảng thống kê về tổng thể đó. Thí dụ, nếu kiểm toán viên chọn một mẫu
gồm 50 hóa đơn bán hàng để khảo sát việc đính kèm và nhận thấy có một sai phạm thì
kiểm toán viên có thể xem xét bảng xác suất ở trên và biết rằng có 20,25% xác suất là
lấy mẫu từ một tổng thể có tỉ lệ sai phạm là 5%, và có 79,75% (= 1 – 0,2025) xác suất
là mẫu được lấy từ một tổng thể có tỉ lệ sai phạm khác. Vì cách tính qui luật phân phối
xác suất cũng tương tự như đối với các tỉ lệ sai phạm khác của tổng thể nên chúng có
thể được xem xét một cách tổng hợp để đưa ra những kết luận thống kê đặc thù hơn về
tổng thể chưa biết đang được chọn mẫu. Những quy luật phân phối này là căn cứ của
các bảng mà kiểm toán viên sử dụng đối với qui trình chọn mẫu thuộc tính.
6.3.2. Sử dụng qui trình chọn mẫu thuộc tính đối với thử nghiệm kiểm soát
Với những nội dung cơ bản trên về chọn mẫu thuộc tính, bây giờ đã có thể xem xét
cách sử dụng nó vào qui trình kiểm toán. Phần quan trọng nhất của qui trình chọn mẫu
thuộc tính là quyết định của kiểm toán viên trong việc xác định cỡ mẫu và đánh giá kết
quả.
6.3.2.1. Xác định mục tiêu của thử nghiệm kiểm soát
Mục tiêu của thử nghiệm kiểm soát là nhằm thu thập các bằng chứng thiết kế và
hoạt động hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ. Kiểm toán viên thực hiện các thử
nghiệm kiểm soát để khẳng định mức rủi ro kiểm soát đã được họ đánh giá trong khâu
lập kế hoạch. Do vậy, việc chọn mẫu thuộc tính để kiểm tra sẽ cung cấp cho kiểm toán
viên những bằng chứng rằng một hoạt động kiểm soát cụ thể đang hoạt động hữu hiệu
và thích đáng nhằm khẳng định mức rủi ro kiểm soát đã được đánh giá sơ bộ trong
khâu lập kế hoạch.

6.3.2.2. Xác định các thuộc tính và các sai phạm.
Kiểm toán viên phải định nghĩa một cách tỉ mỉ các thuộc tính đang được khảo sát
và các tình trạng sai phạm của qui trình chọn mẫu thuộc tính được sử dụng.
Thuộc tính được quan tâm và các tình trạng sai phạm lấy trực tiếp từ chương trình
kiểm toán. Giả sử một phần chương trình kiểm toán về doanh thu như sau:
1. Xem xét các nghiệp vụ bán hàng có số tiền lớn và không bình thường.
2. Quan sát xem liệu trách nhiệm nhân viên phụ trách các khoản phải thu có tách
biệt với việc quản lý tiền mặt hay không?
3. Kiểm tra một mẫu gồm các bản sao hóa đơn bán hàng để xem có:
a/ Sự phê chuẩn bán chịu của người phụ trách tín dụng
b/ Đính kèm chứng từ vận chuyển
4. Chọn một mẫu gồm các chứng từ vận chuyển và đối chiếu từng cái với bản sao
hóa đơn bán hàng liên quan để kiểm tra tính có thật của các nghiệp vụ bán hàng.
5. So sánh số lượng trên từng bản sao hóa đơn bán hàng với số lượng trên các
chứng từ vận chuyển liên quan.
Chọn mẫu thuộc tính không thích hợp đối với hai thủ tục đầu tiên của chương trình
kiểm toán này. Thủ tục đầu tiên là một thủ tục phân tích nên không thích hợp qui trình
chọn mẫu thuộc tính. Thủ tục thứ hai là một thủ tục quan sát nên không cần tài liệu
chứng minh. Chọn mẫu thuộc tính có thể dùng cho bốn thủ tục còn lại. Bảng sau trình
bày bốn thuộc tính được quan tâm và tình trạng sai phạm của bốn thủ tục này.
Thuộc tính Tình trạng sai phạm
1. Bản sao hóa đơn bán hàng được phê
chuẩn việc bán chịu
Không có những chữ ký ghi tắt chỉ rõ sự
phê chuẩn bán chịu
2. Một bản sao chứng từ vận chuyển được
đính kèm với bản sao hóa đơn bán hàng
Chứng từ vận chuyển không được đính
kèm với bản sao hóa đơn bán hàng
3. Một bản sao hóa đơn bán hàng có thật

cho từng chứng từ vận chuyển
Bản sao hóa đơn bán hàng không có thật
cho từng chứng từ vận chuyển
4. Số lượng trên hóa đơn bán hàng giống
như số lượng trên chứng từ vận chuyển
Số lượng trên chứng từ vận chuyển và bản
sao hóa đơn bán hàng khác nhau
Mỗi thuộc tính trong bốn thuộc tính trên được kiểm tra cho từng phần tử được chọn
mẫu ngẫu nhiên của mẫu. Sự vắng mặt của thuộc tính nào ở bất kỳ phần tử mẫu nào
cũng đều là sai phạm đối với thuộc tính đó.
6.3.2.3. Xác định tổng thể được chọn mẫu
Tổng thể là tập hợp các dữ kiện mà kiểm toán viên muốn khái quát chúng. Kiểm
toán viên có thể định nghĩa tổng thể để đưa vào bất kì dữ liệu nào mong muốn nhưng
yêu cầu phải chọn mẫu một cách ngẫu nhiên từ toàn bộ tổng thể đã được khái niệm.
Kiểm toán viên chỉ có thể khái quát về tổng thể đã được chọn mẫu.
Điều quan trọng là kiểm toán viên xác định thật kĩ lưỡng tổng thể từ trước và phù
hợp với các mục tiêu thử nghiệm kiểm soát. Hơn nữa, trong một số trường hợp có thể
cần xác định cho nhiều tổng thể cho một tập hợp các thủ tục kiểm toán nhất định. Thí
dụ, nếu kiểm toán viên có ý định đối chiếu từ các hóa đơn bán hàng với các chứng từ
vận chuyển rồi các chứng từ vận chuyển với các bản sao hóa đơn bán hàng thì có hai
tổng thể (một tổng thể gồm các chứng từ vận chuyển và một tổng thể gồm các bản sao
hóa đơn bán hàng).
6.3.2.4. Xác định đơn vị chọn mẫu
Quá trình xem xét chính khi xác định đơn vị chọn mẫu là làm cho nó phù hợp với
các mục tiêu của thử nghiệm kiểm soát. Như vậy, xác định tổng thể và kế hoạch kiểm
toán thường quyết định đơn vị chọn mẫu thích hợp. Thí dụ, nếu kiểm toán viên muốn
xác định mức độ thường xuyên mà khách hàng không đáp ứng được đơn đặt hàng của
khách, đơn vị chọn mẫu phải được xác định là đơn đặt hàng của khách. Tuy vậy, nếu
mục tiêu là nhằm xác định liệu có khối lượng hàng hóa được mô tả trên đơn đặt hàng
của khách có đúng được đem giao và tính tiền hay không thì đơn vị chọn mẫu có thể

xác định là đơn đặt hàng của khách, chứng từ vận chuyển hoặc bản sao hóa đơn bán
hàng.
6.3.2.5. Định rõ mức sai sót có thể bỏ qua(Tolerable Deviation Rate_TDR)
Việc xây dựng mức sai sót có thể bỏ qua (TDR) đòi hỏi óc phán xét chuyên nghiệp
về phía kiểm toán viên. TDR đại diện tỉ lệ sai phạm mà kiểm toán viên sẽ cho phép
trong tổng thể. Thí dụ, giả sử kiểm toán viên quyết định là TDR của thuộc tính 1 ở ví
dụ trên là 6%. Điều này có nghĩa là kiểm toán viên quyết định dù có 6% bản sao hóa
đơn bán hàng không được phê chuẩn bán chịu thì qui trình kiểm soát sự phê chuẩn
nghiệp vụ bán chịu vẫn được đánh giá là hiệu quả.
Mức sai sót có thể bỏ qua (TDR) được xác định dựa vào mức rủi ro kiểm soát ban
đầu (mức rủi ro kiểm soát ban đầu càng thấp thì TDR càng thấp như minh hoạ ở phụ
lục 7) và tầm quan trọng của thủ tục kiểm soát (thủ tục kiểm soát càng quan trọng thì
TDR càng thấp).
6.3.2.6. Định rõ rủi ro chấp nhận được của độ tin cậy cao (Risk of
Overreliance_ROR)
Bất cứ khi nào chọn mẫu đều có rủi ro khiến cho các kết luận định lượng về tổng
thể bị sai. Điều này luôn luôn đúng trừ khi tổng thể được khảo sát toàn bộ. Như đã đề
cập đến ở trên, đây là trường hợp của cả qui trình chọn mẫu thống kê và phi thống kê.
Đối với qui trình chọn mẫu thuộc tính ở các thử nghiệm kiểm soát, rủi ro đó được
gọi là rủi ro chấp nhận được của độ tin cậy cao vào thủ tục kiểm soát nội bộ (ROR).
ROR là rủi ro mà kiểm toán viên sẵn sàng nhìn nhận một thủ tục kiểm soát là hiệu quả
khi tỉ lệ sai phạm thực tế của tổng thể lớn hơn TDR. Thí dụ, giả sử TDR là 6%, ROR
là 10% và tỉ lệ sai phạm thực của tổng thể là 8%. Thủ tục kiểm soát trong trường hợp
này không được nhìn nhận vì tỉ lệ sai phạm thực tế lớn hơn TDR. Kiểm toán viên
không biết điều đó vì tỉ lệ sai phạm thực của tổng thể không được biết. ROR là 10% có
nghĩa là nếu kiểm toán viên thấy rằng qui trình kiểm soát là có hiệu quả trong thí dụ
này, thì kiểm toán viên sẽ có mức tin cậy cao vào qui trình kiểm soát nội bộ; do vậy,
mới có thuật ngữ chấp nhận rủi ro của độ tin cậy cao vào qui trình kiểm soát nội bộ.
6.3.2.7. Ước lượng tỉ lệ sai phạm dự kiến tổng thể (Expected Population
Deviation Rate – EDR)

Tỉ lệ sai phạm dự kiến của tổng thể là tỉ lệ sai phạm kiểm toán viên dự kiến sẽ phát
hiện trong mẫu lấy ra từ tổng thể.
Trong chọn mẫu thuộc tính, một sự ước lượng trước tỉ lệ sai phạm của tổng thể
(EDR) là cần thiết để lập kế hoạch về cỡ mẫu thích hợp. Nếu tỉ lệ ước lượng thấp thì
cỡ mẫu nhỏ tương ứng sẽ thỏa mãn tỉ lệ sai phạm chấp nhận được của kiểm toán viên.
Sử dụng các kết quả của lần kiểm toán năm trước, hoặc nếu chúng được suy xét là
không đáng tin cậy, thì kiểm toán viên có thể chọn một mẫu sơ bộ nhỏ từ tổng thể của
năm hiện hành nhằm mục đích này. Số ước lượng không nhất thiết phải chính xác vì tỉ
lệ sai phạm mẫu của năm hiện hành cuối cùng sẽ được dùng để ước lượng các đặc
điểm của tổng thể.
6.3.2.8. Xác định cỡ mẫu ban đầu
Bốn yếu tố xác định cỡ mẫu ban đầu của qui trình chọn mẫu thuộc tính là: quy mô
của tổng thể, tỉ lệ sai phạm chấp nhận được, mức rủi ro chấp nhận được của sự tin cậy
cao vào qui trình kiểm soát nội bộ, và tỉ lệ sai phạm ước tính tổng thể. Quy mô của
tổng thể không phải là một yếu tố chính trong phần đầu của nội dung dưới đây và được
nghiên cứu sau. Khi ba nhân tố chính có ảnh hưởng đến cỡ mẫu đã được xác định thì
có thể tính cỡ mẫu ban đầu bằng cách sử dụng bảng (phụ lục 2 và phụ lục 3).

Bảng sau minh họa ảnh hưởng của sự tăng lên của từng yếu tố trong bốn yếu tố:
Loại biến động
Ảnh hưởng đến dung lượng
mẫu ban đầu
Rủi ro chấp nhận được của độ tin cậy
cao tăng lên
Giảm
Tỉ lệ sai phạm chấp nhận được tăng
lên
Giảm
Tỉ lệ sai phạm ước lượng của tổng thể
tăng lên

Tăng
Quy mô của tổng thể tăng lên Tăng (ảnh hưởng nhỏ)
6.3.2.9. Lựa chọn mẫu một cách ngẫu nhiên
Sau khi kiểm toán viên đã tính cỡ mẫu ban đầu của qui trình chọn mẫu thuộc tính,
kiểm toán viên phải chọn các phần tử cá biệt trong tổng thể đưa vào mẫu. Điều cơ bản
là qui trình chọn lựa phải là chọn ngẫu nhiên vào bất cứ lúc nào sử dụng chọn mẫu
thống kê. Điều này có thể thực hiện bằng việc sử dụng các bảng số ngẫu nhiên, máy
tính, hoặc cách chọn mẫu có hệ thống.
6.3.2.10. Thực hiện các thủ tục kiểm toán
Kiểm toán viên phải thực hiện các thủ tục kiểm toán phù hợp với những mục tiêu
thử nghiệm cụ thể cho mỗi phần tử được chọn. Kiểm toán viên kiểm tra từng phần tử
trong mẫu để xác định xem liệu nó có phù hợp với định nghĩa của thuộc tính hay
không và tiến hành ghi chép của tất cả các sai phạm tìm được.
Khi thủ tục kiểm soát đã được hoàn tất cho một ứng dụng chọn mẫu thuộc tính thì
có một cỡ mẫu và số lượng các sai phạm của từng thuộc tính.
6.3.2.11. Khái quát tổng thể từ mẫu
Kiểm toán viên phải tính toán tỉ lệ sai phạm trên (AUDR) ở mức rủi ro chấp nhận
được của độ tin cậy cao vào cơ cấu kiểm soát nội bộ (ROR). AUDR là tỉ lệ sai phạm
cao nhất của tổng thể, căn cứ vào rủi ro của độ tin cậy cao mà kiểm toán viên xem xét
có thể chấp nhận được. AUDR được xác định bằng cách sử dụng một bảng biểu chọn
mẫu thuộc tính, như phụ lục 4 và phụ lục 5, sau đó AUDR được so sánh với TDR:
• AUDR <= TDR và không tìm thấy một sai phạm nào có dấu hiệu gian
lận thì kết luận: mức CR ban đầu được đánh giá là phù hợp.
• AUDR > TDR và không tìm thấy một sai phạm nào có dấu hiệu gian lận
thì kết luận: cần giảm độ tin cậy vào các thủ tục kiểm soát của khách hàng.
• Phát hiện một hay vài dấu hiệu gian lận, kiểm toán viên cần phải:
+ Đánh giá các ảnh hưởng của các sai phạm đến báo cáo tài chính.
+ Thực hiện các thủ tục kiểm toán thích hợp để thu thập bằng chứng về loại sai
phạm này.
6.3.2.12. Phân tích các sai phạm

Ngoài việc xác định AUDR cho từng thuộc tính người ta còn cần phải phân tích
những sai phạm cá biệt để xác định nhược điểm trong cơ cấu kiểm soát nội bộ đã gây
nên chúng. Những sai phạm cũng có thể do sự bất cẩn của nhân viên, sự hiểu lầm của
các hướng dẫn, sự cố ý không thực hiện các thủ tục, hoặc do những nguyên nhân khác.
Bản chất của một sai phạm và nguyên nhân của nó có ảnh hưởng đáng kể đến quá
trình kiểm soát chất lượng của hệ thống. Ví dụ, nếu tất cả các sai phạm trong các cuộc
khảo sát quá trình kiểm tra nội bộ các hóa đơn bán hàng xảy ra trong khi người thường
chịu trách nhiệm việc thực thi các khảo sát đang nghỉ phép thì điều này sẽ ảnh hưởng
đến quá trình đánh giá của kiểm toán viên về cơ cấu kiểm soát nội bộ và quá trình điều
tra đó.
6.3.2.13. Quyết định tính chấp nhận được của tổng thể
Sự phân biệt TDR và ROR đã được kiểm toán viên chọn trước khi thực hiện các
thử nghiệm và phân biệt AUDR với ROR tính được từ mẫu là điều quan trọng. Hai chỉ
tiêu đầu phản ánh các tiêu chuẩn mà kiểm toán viên cho là cần thiết; hai chỉ tiêu sau là
các kết quả được tính một cách khách quan căn cứ trên mẫu.
Trước khi tổng thể được xét là chấp nhận được, AUDR được xác định căn cứ trên
các kết quả thực tế của mẫu phải thấp hơn hoặc bằng với TDR khi cả hai đều dựa trên
ROR.
7. Qui trình chọn mẫu khi thực hiện thử nghiệm chi tiết số dư
Trong thử nghiệm cơ bản, kiểm toán viên thường đánh giá sơ bộ số tiền sai sót
trong tổng thể. Các đánh giá sơ bộ sẽ có ích trong việc thiết kế mẫu và xác định độ lớn
của mẫu. Nếu số tiền ước tính cao hơn mức có thể chấp nhận thì kiểm toán viên có thể
kiểm tra toàn bộ hoặc sử dụng cỡ mẫu lớn hơn.
Các thử nghiệm cơ bản được thiết kế để phát hiện các gian lận và sai sót trọng yếu
trên báo cáo tài chính. Do đó, kỹ thuật lấy mẫu cho thử nghiệm cơ bản được thiết kế
để ước lượng số tiền sai sót ở một số dư tài khoản.
Chọn mẫu kiểm toán cho các thử nghiệm cơ bản thường được tiến hành qua các
bước sau:
1. Xác định mục đích của thử nghiệm
2. Xác định tổng thể

3. Chọn lựa kỹ thuật lấy mẫu kiểm toán
4. Xác định cỡ mẫu
5. Quyết định phương pháp chọn lựa các phần tử của mẫu
6. Chọn lựa và kiểm tra các phần tử của mẫu
7. Đánh giá kết quả mẫu
8. Lập tài liệu về các thủ tục chọn mẫu
Để thực hiện chọn mẫu kiểm toán, kiểm toán viên có thể áp dụng các kỹ thuật chọn
mẫu theo đơn vị tiền tệ hoặc chọn mẫu biến đổi.
7.1. Chọn mẫu theo đơn vị tiền tệ là cách chọn lấy một đơn vị tiền tệ làm đơn vị
tổng thể. Do vậy, tổng thể sẽ là tổng số tiền lũy kế của đối tượng kiểm toán và đơn vị
mẫu cũng sẽ là từng đơn vị tiền tệ cụ thể.
Đặc điểm cơ bản của kỹ thuật chọn mẫu này là nếu khoản mục nào có số tiền càng
lớn (chứa đựng càng nhiều đơn vị tiền tệ) thì càng có cơ hội được chọn. Tất nhiên, với
đòi hỏi tính chính xác cao khi xem xét đến tiền tệ, đặc biệt trong trường hợp có nhiều
sai lầm trong tổng thể thì kích cỡ mẫu chọn thông thường cần phải lớn. Tuy nhiên, nếu
trường hợp các khoản mục có xu hướng khai giảm giá trị thì việc áp dụng phương
pháp chọn mẫu theo đơn vị tiền tệ là không phù hợp.
Quá trình chọn mẫu theo đơn vị tiền tệ cũng được tiến hành qua các bước tương tự
như đối với quá trình chọn mẫu thuộc tính.
Kỹ thuật chọn mẫu theo đơn vị tiền tệ cũng sử dụng các cách như chọn mẫu dựa
theo Bảng số ngẫu nhiên, chọn mẫu dựa trên chương trình máy vi tính và chọn mẫu hệ
thống.
Khác với chọn mẫu theo đơn vị tự nhiên, chọn mẫu theo đơn vị tiền tệ đã chú ý tới
quy mô (một biểu hiện của tính trọng yếu) nên đã khắc phục được nhiều nhược điểm
của phương pháp này trong chọn mẫu theo đơn vị hiện vật. Do vậy, trong chọn mẫu,
phương pháp chọn mẫu theo đơn vị tiền tệ được ứng dụng khá rộng rãi.
Kết quả chọn mẫu theo đơn vị tiền tệ cho thấy các đơn vị mẫu được chọn thường là
những mục có số dư lớn, đặc biệt là trong trường hợp có bước nhảy đột biến về mặt
2
lượng (tiền). Vì vậy trong những trường hợp các khoản mục trong tổng thể có tính chất

giống nhau (tiền, hàng tồn kho…) thì các phần tử mẫu được chọn có tính đại diện cao
đó tập trung vào những khoản mục trọng yếu. Ngược lại, trong các trường hợp các
khoản mục không đồng nhất về tính trọng yếu biểu hiện qua số tiền thì chọn mẫu theo
đơn vị tiền tệ có thể không phát huy tính ưu việt nói trên. Đặc biệt trong trường hợp
các khoản mục có giá trị bằng 0 sẽ không có cơ hội được chọn ngay cả khi nó đã bị
xuyên tạc. Tương tự như vậy, các khoản mục có giá trị nhỏ, nếu chúng là sai phạm xảy
ra ở mức đáng quan tâm, thì cần kiểm toán riêng cho số dư nhỏ hoặc bằng 0.
Một vấn đề nữa cũng cần được quan tâm đó là tình huống số dư nhỏ hơn 0 (kể cả
dư có của các khoản phải thu hoặc dư nợ của các khoản phải trả). Trong trường hợp
này, nếu đưa vào mẫu chọn, số phải xử lý vào số cộng dồn phải là số tuyệt đối song sẽ
rất phức tạp trong đánh giá. Vì vậy, trong những trường hợp đặc biệt này thì chúng cần
được kiểm tra riêng hoặc dùng các phương pháp khác để chọn mẫu kiểm toán.
7.2. Kỹ thuật chọn mẫu biến đổi là một kỹ thuật giúp kiểm toán viên ước lượng
bằng chỉ tiêu giá trị, kỹ thuật này rất hữu ích trong kiểm toán. Thí dụ: kiểm toán viên
có thể dùng kỹ thuật chọn mẫu biến đổi để ước lượng giá trị hàng tồn kho, ước lượng
các khoản phải thu khách hàng.
7.2.1. Kỹ thuật chọn mẫu biến đổi thống kê
Các phương pháp chọn mẫu biến đổi thống kê bao gồm ước lượng trung bình đơn
vị, ước lượng tỉ số và ước lượng sai biệt.
7.2.1.1. Phương pháp ước lượng trung bình đơn vị: dùng để ước lượng giá trị
trung bình của một phần tử trong tổng thể bằng cách xác định được giá trị trung bình
của mẫu, với một rủi ro chọn mẫu xác định trước.
Xác định cỡ mẫu được xác định theo công thức sau:
Cỡ mẫu =
Kích thước tổng thể x Hệ số từ chối sai x Độ lệch chuẩn ước tính
Khoảng ước lượng dự kiến
Trong đó:
• Độ lệch chuẩn của một tổng thể là thước đo sự phân tán của giá trị các phần tử
đối với giá trị trung bình của tổng thể. Giá trị các phần tử càng cách biệt nhau nhiều thì
độ lệch chuẩn của tổng thể càng lớn. Độ lệch chuẩn được tính bằng công thức sau:

n
xxi
N
i

=

1
2
)(
Trong thực tế, kiểm toán viên không thể tính được độ lệch chuẩn của tổng thể, thay
vào đó kiểm toán viên tính được bằng cách rút ra từ một mẫu thử nghiệm với khoảng
50 phần tử với một công thức thống kê như sau:
1
)(
1
2



=
n
xxi
n
i
• Khoảng ước lượng dự kiến: là phạm vi cộng thêm hay trừ đi xung quanh kết
quả mẫu và giá trị mẫu được hy vọng là nằm trong khoảng đó. Khoảng ước lượng dự
kiến là khoảng ước lượng tạm tính để xác định cỡ mẫu, nó được tính bằng công thức:
x
i

: Giá trị phần tử i trong tổng thể

x
: Giá trị trung bình của tổng thể
n : Số phần tử của tổng thể
x
i
: Giá trị phần tử i trong mẫu

x
: Giá trị trung bình của mẫu
n : Số phần tử của mẫu
Khoảng ước lượng dự kiến =
Sai lầm có thể bỏ qua
1 +
Hệ số chấp nhận sai
Hệ số từ chối sai
Trong đó:
Sai lầm có thể bỏ qua là số tiền sai lầm tối đa có thể nằm trong tài khoản mà không
làm báo cáo tài chính có sai sót trọng yếu.
Hệ số chấp nhận sai được hình thành từ rủi ro chấp nhận sai. Rủi ro chấp nhận sai
của một tổng thể là khả năng kết quả mẫu chỉ ra rằng không có sai sót trọng yếu trong
khi thực tế có sai sót trọng yếu. Rủi ro này tương tự như rủi ro do độ tin cậy cao vào
kiểm soát nội bộ. Loại này rất nguy hiểm.
Hệ số từ chối sai được hình thành từ rủi ro từ chối sai. Rủi ro từ chối sai của một
tổng thể là khả năng kết quả mẫu chỉ ra rằng tổng thể mẫu có sai sót trọng yếu, trong
khi thực tế không có sai sót trọng yếu. Rủi ro này tương tự như rủi ro do độ tin cậy
thấp vào kiểm soát nội bộ. Loại này có thể mang lại sự không hiệu quả trong kiểm
toán.
Từ mức rủi ro từ chối sai và mức rủi ro chấp nhận sai đã định, kiểm toán viên sẽ

tìm được hệ số chấp nhận sai và hệ số từ chối sai bằng cách tra bảng hệ số rủi ro (phụ
lục 6).
Đánh giá kết quả mẫu:
Từ cỡ mẫu cần thiết, kiểm toán viên tiến hành chọn lựa và kiểm tra các phần tử
mẫu. Qua đó, xác định được:
- Giá trị trung bình mẫu:
n
xi
x
n
i

=
=
1
- Độ lệch chuẩn của mẫu:
1
1
2



=
n
xxi
n
i
)(
Với số liệu có được, kiểm toán viên điều chỉnh khoảng ước lượng theo độ chênh
lệch của mẫu:

Khoảng
ước lượng
điều chỉnh
=
Sai lầm
có thể bỏ
qua
-
Kích thước
tổng thể
*
Hệ số
chấp
nhận sai
*
Độ lệch
chuẩn của
mẫu
Comau
Sau đó kiểm toán viên tính giá trị ước tính của tổng thể:
Giá trị ước tính
của tổng thể
=
Giá trị trung bình
mẫu kiểm toán
*
Kích thước
của tổng thể
Cuối cùng kiểm toán viên so sánh giá trị sổ sách với giá trị ước lượng của tổng thể
+/- khoảng ước lượng điều chỉnh.

Nếu giá trị của sổ sách nằm trong khoảng tìm được, thì kết quả mẫu cho phép kết
luận số dư tài khoản không có sai sót trọng yếu.
Ước lượng trung bình là một phương pháp có độ tin cậy cao dù rằng tổng thể có
mức độ sai sót cao hay thấp, quy mô sai sót lớn hay nhỏ, sai sót một bên hoặc sai sót
cả hai bên (có sai sót lớn hơn,có sai sót nhỏ hơn). Phương pháp này chỉ không chính
xác nếu các giá trị phần tử trong tổng thể bị lệch nhiều. Phương pháp này còn có ưu
điểm là chỉ cần một giá trị kiểm toán của mỗi phần tử.
x
i
: Giá trị phần tử
thứ i của mẫu

x
: Giá trị trung bình
của mẫu
n : Số phần tử của
mẫu
7.2.1.2. Phương pháp ước lượng tỷ số và ước lượng sai biệt
Ước lượng tỷ số và ước lượng sai biệt là hai kỹ thuật chọn mẫu được dùng trong
chọn mẫu biến đổi. Mặc dù có một số điểm tương đồng nhưng đây thực sự là hai
phương pháp khác nhau và có những điều kiện vận dụng khác nhau. Dưới đây sẽ trình
bày nguyên tắc và đặc điểm của hai phương pháp này.
Ước lượng tỷ số: Kiểm toán viên dùng một mẫu để ước lượng tỷ số giữa giá trị
kiểm toán (giá trị đúng) và giá trị sổ sách của một tổng thể. Tỷ số này được ước lượng
bằng cách chia tổng số giá trị đúng của mẫu cho tổng số giá trị sổ sách của các phần tử
trong mẫu theo công thức sau:


=
=

=
n
j
j
n
j
j
b
a
R
1
1
Sau đó, giá trị ước lượng của tổng thể sẽ được tính bằng cách nhân R với giá trị sổ
sách của tổng thể.
Ước lượng tỷ số chỉ thích hợp với các tổng thể có đặc điểm là độ lớn của sai lầm
thì gần như tỷ lệ với giá trị sổ sách của các phần tử. Còn nếu độ lớn của các sai lầm
độc lập với giá trị sổ sách của nó thì phương pháp ước lượng sai biệt sẽ thích hợp hơn.
Ước lượng sai biệt: Kiểm toán viên dùng một mẫu để ước lượng mức sai biệt trung
bình giữa giá trị đúng và giá trị sổ sách của một phần tử trong tổng thể. Mức sai biệt
trung bình được tính bằng cách chia tổng số sai biệt giữa giá trị đúng và giá trị sổ sách
của các phần tử của mẫu theo công thức sau:

=
−=
n
j
jj
ba
n
d

1
1
)(
Sau đó, tổng số sai biệt giữa giá trị sổ sách của tổng thể và giá trị đúng được ước
tính sẽ được xác định bằng cách nhân sai biệt trung bình với số lượng phần tử của tổng
thể.
Cả hai phương pháp ước lượng tỷ số và ước lượng trung bình đòi hỏi phải có giá trị
kiểm toán và giá trị sổ sách của các phần tử.
7.2.2. Chọn mẫu biển đổi phi thống kê
Sự khác biệt chủ yếu trong chọn mẫu thống kê và phi thống kê trong các thử
nghiệm cơ bản là xác định cỡ mẫu và đánh giá kết quả mẫu.
- Xác định cỡ mẫu: Chọn mẫu biến đổi phi thống kê vẫn phải xem xét các nhân tố
ảnh hưởng đến cỡ mẫu nhưng không định lượng được các nhân tố đó. Sự ảnh hưởng
các nhân tố được trình bày như sau:
Yếu tố
Sự thay đổi
của các yếu tố
Ảnh hưởng tới
cỡ mẫu cần có
- Rủi ro chọn mẫu Giảm Tăng
R : Tỷ số ước lượng giữa giá trị kiểm toán và giá trị sổ sách
a
j
: Giá trị kiểm toán của phần tử thứ j
b
j
: Giá trị sổ sách của phần tử thứ j
n : Số phần tử của mẫu
d : Sai biệt trung bình giữa giá trị kiểm toán và giá trị
sổ sách

a
j
: Giá trị kiểm toán của phần tử thứ j
b
j
: Giá trị sổ sách của phần tử thứ j
n : Số phần tử của mẫu
- Khoảng ước lượng Tăng Giảm
- Quy mô tổng thể
- Độ phân tán của giá trị các phần tử trong
tổng thể
Tăng
Tăng
Tăng
Tăng
- Đánh giá kết quả mẫu: Từ sai sót tìm được trong mẫu, kiểm toán viên dự đoán
sai sót trong tổng thể (sai sót dự kiến), có xem xét đến rủi ro lấy mẫu tuy không định
lượng được rủi ro này. Có nhiều cách để dự đoán sai sót trong tổng thể, trong đó có 2
cách được đề nghị sử dụng là phương pháp ước lượng tỷ số và phương pháp ước lượng
sai biệt.
Khi sai sót ước lượng dự kiến lớn hơn sai sót có thể bỏ qua, kiểm toán viên kết
luận tổng thể có khả năng sai sót trọng yếu. Ngược lại khi sai sót dự kiến nhỏ hơn sai
sót có thể bỏ qua, kiểm toán viên phải xét đoán xem liệu có thể chấp nhận tổng thể
không có sai sót trọng yếu hay không. Sai sót dự kiến càng gần với sai sót có thể bỏ
qua, khả năng có sai sót trọng yếu trong tài khoản sẽ càng lớn.
Chương II. TÌNH HÌNH THỰC TẾ VỀ CÔNG TÁC CHỌN MẪU TRONG
KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH DO CÔNG TY TNHH KIỂM TOÁN VÀ
KẾ TOÁN AAC THỰC HIỆN
1. Giới thiệu về công ty TNHH kiểm toán và kế toán AAC
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển công ty TNHH kiểm toán và kế toán AAC

Công ty kiểm toán và kế toán AAC, trước đây là công ty kiểm toán Đà Nẵng-công
ty Kiểm toán độc lập trực thuộc Bộ Tài chính được thành lập theo quyết định số
194/TC/TCCB ngày 01 tháng 4 năm 1993 và Quyết định số 106 TC/TCCB ngày 13
tháng 02 năm 1995 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, là một trong số rất ít các công ty kiểm
toán được thành lập đầu tiên tại Việt Nam. Việc thành lập công ty được thực hiện trên
cơ sở sát nhập hai chi nhánh của hai công ty hành nghề kiểm toán từ năm 1991, đó là:
Chi nhánh Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO) và Chi nhánh công ty tư vấn tài
chính kế toán và kiểm toán (AASC) tại khu vực Miền Trung và Tây Nguyên.
Để phù hợp với tình hình mới về sự phát triển công ty, Bộ Tài chính đã có quyết
định số 139/2000/QĐ-BTC ngày 06/9/2000 về việc đổi tên “Công ty kiểm toán Đà
Nẵng – DAC” thành “Công ty Kiểm toán và Kế toán AAC”.
Năm 2007, Công ty chuyển đổi sở hữu từ Doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty
TNHH hai thành viên trở lên theo Quyết định phê duyệt phương án chuyển đổi số
1335/QĐ-BTC ngày 02/04/2007 của Bộ Tài chính.
Ngày 6/1/2008, AAC đã được Hội đồng xét trao giải “ Thương mại Dịch vụ - Top
Trade Services 2007 ” - Bộ Thương mại bình chọn là một trong 06 công ty kiểm toán
được nhận giải/cúp “Thương mại Dịch vụ - Top Trade Services 2007”. Giải thưởng
này được trao cho những doanh nghiệp tiêu biểu, hoạt động trong 11 lĩnh vực Thương
mại Dịch vụ mà Việt Nam cam kết thực hiện khi gia nhập WTO, đã có những đóng
góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung và ngành thương mại dịch
vụ nói riêng, trong đó có dịch vụ kế toán, kiểm toán. Giải thưởng “Top Trade Service
2007” một lần nữa góp phần làm phong phú thêm bảng thành tích mà AAC đã đạt
được trong những năm qua, đặc biệt là tăng cường vị thế, uy tín và thương hiệu của
AAC trên thị trường dịch vụ kiểm toán và kế toán.
Tháng 9/2008, Công ty TNHH Kiểm toán và Kế toán AAC trở thành thành viên
của hãng Kiểm toán quốc tế Polaris International.
AAC hoạt động trên phạm vi toàn quốc, được phép kiểm toán tất cả các loại hình
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, kể cả các ngành có quy chế riêng về việc
lựa chọn và bổ nhiệm kiểm toán độc lập có điều kiện. AAC đã được Chủ tịch Uỷ ban
Chứng khoán Nhà nước cho phép kiểm toán các tổ chức phát hành và kinh doanh

chứng khoán, được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép kiểm toán
các tổ chức Tín dụng-Ngân hàng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
AAC hoạt động theo phương châm: độc lập, khách quan, trung thực và bí mật số
liệu khách hàng, và đó cũng là lời cam kết của chúng tôi đối với khách hàng.
Mục tiêu hoạt động của AAC là giúp khách hàng và những người quan tâm bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của mình, cung cấp cho họ những thông tin đích thực và cần thiết
để tổ chức điều hành hoạt động của doanh nghiệp và đưa ra các quyết định quản lý phù
hợp với thực tiễn. Hoạt động của AAC nhằm góp phần phát hiện và ngăn ngừa những
rủi ro cho doanh nghiệp được thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
AAC thực hiện kiểm toán theo đúng Nguyên tắc, Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam
và thông lệ kiểm toán quốc tế, phù hợp với những quy định hiện hành về hoạt động
kiểm toán của Nhà nước Việt Nam.
Đến nay, mọi hoạt động của công ty đã đi vào nề nếp; công ty đã xây dựng và thực
hiện đầy đủ các quy trình kiểm toán chuyên ngành và công tác kiểm soát chất lượng
hoạt động kiểm toán đã được hoàn thiện.
AAC có tỉ trọng cao nhất về số lượng Kiểm toán viên cấp Quốc gia trên tổng số
nhân viên chuyên nghiệp so với tất cả các công ty kiểm toán trong và ngoài nước đang
hoạt động tại Việt Nam. Số lượng kiểm toán viên hiện nay của Công ty là 27 người
trên tổng số 100 cán bộ công nhân viên. 100% đội ngũ Kiểm toán viên và Trợ lý kiểm
toán viên cao cấp của AAC được đào tạo trực tiếp bởi các Chuyên gia cao cấp về
Kiểm toán của Cộng đồng Châu Âu thông qua chương trình hợp tác về Kiểm toán và
kế toán của Dự án EURO- TAPVIET do Cộng đồng Châu Âu tài trợ.
AAC nhờ có đội ngũ chuyên nghiệp chất lượng cao, ý thức trách nhiệm đối với
khách hàng như đối với chính bản thân mình, có đạo đức nghề nghiệp trong sáng nên
trong quá trình hoạt động luôn được các nhà đầu tư tín nhiệm và đánh giá cao về chất
lượng phục vụ cũng như được sự công nhận của các cơ quan chức năng như Uỷ ban
chứng khoán Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước…
1.2. Các loại dịch vụ chuyên ngành của công ty TNHH kiểm toán và kế toán
AAC
1.2.1. Kiểm toán

Cung cấp các dịch vụ kiểm toán luôn luôn là thế mạnh của AAC. Các dịch vụ kiểm
toán do AAC cung cấp đều được lập kế hoạch và tiến hành theo các Quy trình kiểm
toán chuẩn do AAC xây dựng. Từ các kết quả kiểm toán , AAC đảm bảo cung cấp
những góp ý xây dựng hiệu quả cho các khách hàng của mình. Trải qua một thời gian
dài nỗ lực xây dựng và không ngừng phát triển, AAC đã tạo dựng được niềm tin của
các khách hàng trong từng dịch vụ kiểm toán.
Các dịch vụ kiểm toán do AAC cung cấp bao gồm:
 Kiểm toán báo cáo tài chính
 Kiểm toán báo cáo tài chính vì mục đích thuế
 Kiểm toán hoạt động
 Kiểm toán tuân thủ
 Kiểm toán nội bộ
 Kiểm tra thông tin tài chính trên cơ sở thủ tục thoả thuận trước.
1.2.2. Kế toán
 Dịch vụ ghi sổ và giữ sổ kế toán
 Hướng dẫn nghiệp vụ kế toán
 Lập các Báo cáo tài chính định kỳ
 Chuyển đổi các Báo cáo tài chính được lập theo VAS, IAS
 Thiết kế và hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy kế toán
1.2.3. Tư vấn thuế
Đối với các công ty, thuế ngày càng đóng vai trò quan trọng do các quy định về thuế
càng ngày càng trở nên phức tạp. Thông qua một đội ngũ các chuyên gia am hiểu về
các sắc thuế và tận tâm, AAC sẵn sàng hỗ trợ các khách hàng hoàn thành đúng nghĩa
vụ thuế với nhà nước đồng thời tận dụng triệt để các lợi thế về thuế trong hoạt động
kinh doanh để gia tăng lợi ích của các chủ sở hữu công ty. Đối với nhiều cá nhân, thuế
thu hút được sự quan tâm ngày càng nhiều hơn. Với khả năng của mình, AAC giúp các
khách hàng của mình có đầy đủ tự tin hoàn thành nghĩa vụ thuế với nhà nước cũng
như đảm bảo được giá trị tài sản của mình. AAC sẵn sàng bảo vệ khách hàng trong
mọi trường hợp tranh chấp xảy ra. AAC làm việc hết mình để xây dựng uy tín của
chính mình, niềm tin đối với khách hàng không chỉ vì các khách hàng, vì Nhà nước mà

còn vì cộng đồng.
Các dịch vụ thuế do AAC cung cấp bao gồm:
 Đăng ký & kê khai thuế
 Tư vấn kế hoạch thuế
 Cung cấp các văn bản thuế có liên quan
1.2.4. Tư vấn và đào tạo
Thế giới hiện nay đang thay đổi từng phút, từng giây, để có được thành công mỗi
người phải biết nắm bắt lấy từng cơ hội đồng thời phải biết kiểm soát các rủi ro. Thông
qua việc cung cấp các dịch vụ tư vấn có hiệu quả và các khóa các cập nhật các kiến
thức mới nhất, AAC đã tham gia thành công vào việc giúp các khách hàng của mình
thích ứng với môi trường mới.
Các dịch vụ tư vấn & đào tạo do AAC cung cấp bao gồm:
 Đăng ký chế độ kế toán doanh nghiệp
 Tư vấn thực hành kế toán
 Tư vấn đầu tư & thủ tục cấp phép
 Tư vấn thành lập doanh nghiệp
 Tư vấn xác định giá trị & cổ phần hoá doanh nghiệp
 Tư vấn tổ chức bộ máy kế toán
 Tư vấn tài chính
 Tổ chức lớp bồi dưỡng kế toán trưởng
 Tổ chức lớp thực hành kế toán
 Tổ chức lớp chuẩn mực kế toán & kiểm toán
 Tổ chức lớp kiểm toán nội bộ
 Tổ chức lớp ôn tập & cấp chứng chỉ hành nghề kế toán
 Tổ chức lớp bồi dưỡng kiến thức chứng khoán
1.2.5. Dịch vụ tin học
 Cung cấp và tư vấn việc lựa chọn các phần mềm tin học về kế toán và quản lý;
 Tư vấn việc lựa chọn trang bị các thiết bị tin học;
 Các dịch vụ khác có liên quan.
1.3. Cơ cấu tổ chức tại công ty TNHH kiểm toán và kế toán AAC

Tổng
Giám đốc
Phó tổng
giám đốc
Giám đốc các khối
Trưởng
phòng và
Quản lý
Kiểm toán viên chính
(Sau khi có chứng chỉ kiểm toán viên)
Trợ lý kiểm toán viên cấp 3
(Sau khi làm trợ lý KTV cấp 2 được 1 năm)
Trợ lý kiểm toán viên cấp 2
(Sau khi làm trợ lý kiểm toán viên cấp 1 được 1 năm)
Trợ lý kiểm toán viên cấp 1
(Sau khi được tuyển dụng chính thức đến 12 tháng sau đó)
Nhân viên thử việc
(Trong thời gian thử việc 3 tháng)
* Tổng giám đốc: là người đại diện toàn quyền của công ty, chịu trách nhiệm trước
Bộ trưởng Bộ Tài chính và trước pháp luật về toàn bộ hoạt động công ty.
 Đánh giá rủi ro của hợp đồng kiểm toán liên quan đến hoạt động công ty
 Duy trì các mối quan hệ với các cán bộ cấp cao của công ty
 Chịu trách nhiệm giải đáp thắc mắc về các vấn đề kế toán và kiểm toán có tầm
quan trọng.
 Chịu trách nhiệm đánh giá các công việc kiểm toán đã được thực hiện
 Chịu trách nhiệm ký Báo cáo kiểm toán và thư quản lý
 Chịu trách nhiệm tham gia buổi họp với khách hàng sau khi kết thúc cuộc kiểm
toán hoặc uỷ quyền lại.
* Phó tổng giám đốc: giúp việc cho tổng giám đốc, được tổng giám đốc phân công
uỷ quyền giải quyết những công việc cụ thể về các vấn đề liên quan đến nhân lực,

hành chính, khách hàng và các lĩnh vực nghiệp vụ; chịu trách nhiệm trước tổng giám
đốc và pháp luật nhà nước về các vấn đề được phân công và uỷ quyền.
* Giám đốc các khối:
 Về nghiệp vụ chuyên môn
 Về nhân sự
 Cộng tác, hỗ trợ
 Hành chính
* Kế toán trưởng: tổ chức thực hiện công tác kế toán, thống kê tài chính và kiểm
toán nội bộ, có các quyền và nhiệm vụ theo quy định của pháp luật như:
- Lập báo cáo tài chính, cung cấp số liệu công khai tài chính, tổ chức vận dụng hệ
thống chứng từ, vận dụng hệ thống tài khoản kế toán đúng theo đặc điểm kinh doanh
của công ty, ghi chép, lưu trữ chứng từ, hồ sơ kế toán.
- Chịu trách nhiệm chuẩn bị tất cả những thông tin quản lý và thông tin tài chính,
chịu trách nhiệm lập các kế hoạch về tài chính, dự trù ngân sách và các vấn đề liên
quan đến hệ thống kế toán, liên quan đến ngân hàng, quản lý tiền mặt, tính lương và
các vấn đề về thuế.
- Chịu trách nhiệm về chi trả, thanh toán với khách hàng, tham gia các cuộc bàn
bạc liên quan đến bảo trì thiết bị.
* Trưởng phòng:
Trưởng phòng chịu trách nhiệm trước giám đốc các khối và đóng vai trò quan
trọng trong nhiều lĩnh vực hoạt động của công ty đặc biệt là các vấn đề liên quan đến
nhân sự, phối hợp hoạt động và đảm nhiệm các công việc hành chính. Họ giữ vai trò
lãnh đạo lãnh đạo trong Ban quản lý của phòng và có chức năng như cầu nối giữa ban
giám đốc, ban quản lý và các nhóm nhân viên; có chức năng quan trọng đối với hoạt
động của công ty trong việc tạo ra môi trường làm việc đầy tính chuyên môn để có thể
đóng góp vào việc phát triển một cách tối đa nguồn nhân lực làm việc tại công ty.
* Kiểm toán viên chính: đảm nhận trọng trách sau Ban quản lý, bao gồm:
- giám sát công việc của các trợ lý/nhân viên thử việc thực hiện hợp đồng kiểm
toán lớn với khách hàng có nhiều phòng ban hay các chi nhánh hoặc các vụ việc đặc
biệt khác, báo cáo trực tiếp với người quản lý phụ trách một vụ việc kiểm toán.

- xem xét các giấy tờ làm việc sỏ bộ, việc hỗ trợ đào tạo các nhân viên, bố trí
nhân sự cho các hoạt động kiểm toán, ký vào các báo cáo kiểm toán theo sự phân công
của trưởng phòng.
* Trợ lý kiểm toán viên:
KHỐI KIỂM
TOÁN BCTC
PHÒNG
KIỂM
TOÁN
BCTC 3
KHỐI KIỂM
TOÁN XDCB
PHÒNG TƯ VẤN
- ĐÀO TẠO
CHI NHÁNH
TP. HCM
PHÒNG KẾ TOÁN
HÀNH CHÍNH
BAN KIỂM
SOÁT CHẤT
LƯỢNG
PHÒNG KIỂM
TOÁN XDCB 1
PHÒNG KIỂM
TOÁN XDCB 2
BAN KIỂM
SOÁT CHẤT
LƯỢNG
PHÒNG
KIỂM

TOÁN
BCTC 1
PHÒNG
KIỂM
TOÁN
BCTC 2
TỔNG GIÁM ĐỐC
PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC
XDCB
PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC
BCTC
PHÒNG
KIỂM
TOÁN
BCTC 4
Chịu trách nhiệm trước Kiểm toán viên hoặc người quản lý công việc về tất cả
những vấn đề liên quan đến việc thực hiện một công việc. Tuỳ vào năng lực thâm niên
công tác mà trợ lý kiểm toán viên chia làm ba cấp:
- Trợ lý kiểm toán viên cấp 1 (sau khi làm trợ lý kiểm toán viên cấp 2 được 1 năm)
- Trợ lý kiểm toán viên cấp 2 (sau khi làm trợ lý kiểm toán viên cấp 3 được 1 năm)
- Trợ lý kiểm toán viên cấp 3 (nhân viên thử việc được 3 tháng): là những nhân
viên chưa được nhận chính thức vào công ty, sau thời gian thử việc 3 tháng, nếu các
kiểm toán viên thấy có đủ trình độ, năng lực thì sẽ được nhận vào công ty.
Cơ cấu tổ chức phòng ban công ty
1.4. Sơ lược về quy trình kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty TNHH kiểm
toán và kế toán AAC
Công ty TNHH kiểm toán và kế toán AAC đã xây dựng thành công Quy trình kiểm
toán báo cáo tài chính qua thực tế công tác kiểm toán Báo cáo tài chính tại các loại
hình doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế, với kiến thức và kinh nghiệm
tích luỹ được.

Quy trình kiểm toán Báo cáo tài chính được soạn lập trên cơ sở tuân thủ những
Chuẩn mực Kiểm toán, Quy chế kiểm toán độc lập và chế độ kế toán hiện hành, đồng
thời có sự so sánh đối chiếu và vận dụng các Chuẩn mực kiểm toán Quốc tế và Thông
lệ được chấp nhận chung của Quốc tế. Quy trình này cho phép kiểm toán viên AAC
lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán một cách khoa học và hiệu quả nhằm đạt được
mục tiêu đề ra cho mỗi cuộc kiểm toán.
Mục tiêu của cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính là nhằm đưa ra ý kiến liệu các báo
cáo tài chính có phản ánh trung thực hợp lý về tình hình tài chính, kết quả hoạt động
kinh doanh và dòng lưu chuyển tiền tệ trong niên độ của doanh nghiệp theo các quy
định hiện hành hay không. Dựa vào các thông tin trên các báo cáo tài chính đã được
kiểm toán, người sử dụng báo cáo tài chính có thể an tâm đưa ra các quyết định kinh tế
phù hợp với thực tế của doanh nghiệp.
Ngoài ra, việc kiểm toán báo cáo tài chính còn mang lại cho doanh nghiệp nhiều lợi
ích như trong quá trình kiểm toán, các Kiểm toán viên sẽ xem xét kỹ lưỡng hệ thống
kiểm soát nội bộ và hệ thống kế toán tại doanh nghiệp, để từ đó đưa ra những ý kiến
giúp doanh nghiệp hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ và hệ thống kế toán của mình,
nhằm phát hiện và ngăn ngừa rủi ro do những hạn chế trong công tác quản lý, đặc biệt
là trong quản lý tài chính.
Cuộc kiểm toán tập trung vào hai vấn đề sau:
 Xem xét hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp
 Đánh giá tính trung thực, hợp lý về tình hình tài chính, kết quả hoạt động kinh
doanh và dòng lưu chuyển tiền tệ trong niên độ của doanh nghiệp.
Kết thúc cuộc kiểm toán, AAC sẽ cung cấp cho doanh nghiệp Báo cáo kiểm toán
kèm theo các Báo cáo tài chính của năm tài chính được kiểm toán. Trong trường hợp
cần thiết, AAC sẽ phát hành thư quản lý đề cập đến những phát hiện của Kiểm toán
viên trong quá trình kiểm toán nhằm giúp doanh nghiệp hoàn thiện hệ thống kiểm soát
nội bộ và hệ thống kế toán của mình.
* Các giai đoạn của qui trình kiểm toán báo cáo tài chính:
Kết thúc kiểm
toán

Lập kế hoạch
kiểm toán
Thực hiện
kiểm toán
Quy trình
kiểm toán
BCTC
1.4.1 Lập kế hoạch kiểm toán
Quy trình lập kế hoạch kiểm toán tại AAC
* Nội dung của lập kế hoạch kiểm toán:
 Bản ghi nhớ kế hoạch kiểm toán
 Tìm hiểu khách hàng: Sự am hiểu tường tận về khách hàng mà công ty kiểm
toán là một điều rất quan trọng, bao gồm những thông tin về:
o Con người
o Sản phẩm
o Thị trường
o Kết quả hoạt động kinh doanh
o Tài chính
o Tài sản và công nợ
o Hệ thống kế toán
Tìm hiểu thông tin hay
cập nhật thông tin
Ký kết hợp đồng kiểm
toán
Phân tích báo cáo tài
chính
Tham chiếu cuộc kiểm
toán năm trước
Kế hoạch kiểm toán
Tài liệu và thông tin yêu

cầu khách hàng lập
Khách hàng
Hệ thống kế toán
Hệ thống kiểm soát nội
bộ
Tìm hiểu
Kiểm tra KH kiểm toán
o Chính sách kế toán
o Những thông tin khác
o Hợp đồng kiểm toán
o Cuộc họp để lập kế hoạch
o Xem xét các sự kiện từ những năm trước
o Các thủ tục phân tích kiểm toán theo kế hoạch
o Hệ thống kế toán
o Phương pháp kế toán
o Các dịch vụ khác và tư vấn cho doanh nghiệp
o Quản lý
1.4.2 Thực hiện kiểm toán
Các nội dung cụ thể trong bước này:
 Qui định về nhiệm vụ của nhóm trưởng
 Các qui trình nghiệp vụ phát sinh đặc trưng của một doanh nghiệp
 Nguyên tắc sắp xếp, đánh số và tham chiếu giấy làm việc
 Chỉ mục giấy làm việc
 Các ký hiệu sử dụng thống nhất trên giấy làm việc
Kết cấu của một chương trình kiểm toán, bao gồm:
o Xác định mục tiêu kiểm toán:
Xét trên quan điểm kiểm toán viên, mục tiêu kiểm toán là mục tiêu mà chúng ta
đặt ra nhằm đạt được bằng chứng kiểm toán có hiệu lực về một hay nhiều cơ sở dẫn
liệu báo cáo tài chính thông qua việc thực hiện các thủ tục kiểm toán phù hợp. Cơ sở
dẫn liệu báo cáo tài chính bao gồm: tính đầy đủ, tính hiện hữu, tính chính xác, đánh

giá, sở hữu và trình bày
o Xác định tài liệu yêu cầu: Đó là tất cả những tài liệu cần thiết để kiểm
toán trên một khoản mục trên báo cáo tài chính. Thí dụ, đối với chương trình kiểm
toán vốn bằng tiền, tài liệu yêu cầu bao gồm: biên bản kiểm kê quỹ, xác nhận số dư
ngân hàng; sổ quỹ, sổ chi tiết tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, sổ phụ ngân hàng, sổ cái;
các chứng từ liên quan đến thu chi tiền mặt và tiền gửi ngân hàng; các tài liệu khác có
liên quan.
o Thực hiện các thủ tục kiểm toán: Đó là tất cả các thủ tục kiểm toán cần
thiết để thu được bằng chứng kiểm toán có hiệu lực chứng minh một khoản mục trên
báo cáo tài chính, bao gồm kiểm tra các hoạt động kiểm soát, các thủ tục phân tích và
kiểm tra chi tiết thông qua các kỹ thuật kiểm toán như so sánh, tính toán, xác nhận,
phỏng vấn, kiểm tra tài liệu, quan sát và kiểm tra thực tế.
Khi thực hiện các thủ tục kiểm toán, phương pháp chọn mẫu áp dụng trong
kiểm toán báo cáo tài chính do AAC thực hiện được thực hiện qua các bước:

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×