Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

đặc trưng thể loại truyền thuyết dân gian vùng đồng bằng sông cửu long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.64 KB, 30 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




ĐỖ THỊ HỒNG HẠNH





ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI TRUYỀN THUYẾT
DÂN GIAN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG






LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN










TP Hồ Chí Minh – 2013

2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




ĐỖ THỊ HỒNG HẠNH




ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI TRUYỀN THUYẾT
DÂN GIAN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG


Chuyên ngành: LÝ LUẬN VĂN HỌC
Mã số: 62.22.32.01


LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN



Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. NGUYỄN TẤN PHÁT






TP Hồ Chí Minh – 2013

3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Truyền thuyết là một thể loại tự sự dân gian có vị trí quan trọng trong
nền văn học của mỗi dân tộc. Nghiên cứu về truyền thuyết cũng chính là
nghiên cứu về lịch sử, văn hóa của dân tộc, quốc gia. Việc phân loại và
nghiên cứu về đặc trưng của hệ thống các tác phẩm truyền thuyết dân gian
vùng ĐBSCL là chưa được đặt ra.
Nghiên cứu về thể loại truyền thuyết dân gian của người Việt ở vùng
ĐBSCL là việc làm cần thiết và có ý nghĩa đối với giảng viên, giáo viên, sinh
viên và học sinh trong quá trình giảng dạy, học tập phần văn học địa phương
tại các trường phổ thông, cao đẳng, đại học trong khu vực ĐBSCL.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Vì đề tài có liên quan đến vấn đề lý thuyết thể loại truyền thuyết nên ở
phần này chúng tôi sẽ đề cập đến những công trình nghiên cứu liên quan
đến vấn đề đặc trưng của thể loại truyền thuyết và những công trình nghiên
cứu về thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL.
3. Đối tượng, mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là truyền thuyết dân gian người
Việt được hình thành và lưu truyền ở vùng ĐBSCL.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu

Luận án hướng tới những mục tiêu chính sau đây: Xác định cơ sở hình
thành đặc trưng thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL; Phân tích và đề xuất
được những tiêu chí cơ bản để nhận diện các tác phẩm truyền thuyết dân
gian vùng ĐBSCL; Xác lập được các loại, các tiểu loại truyền thuyết dân gian
vùng ĐBSCL; Phân tích và xác định đặc trưng của thể loại truyền thuyết dân
gian vùng ĐBSCL.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
LA chủ yếu giới hạn sự nghiên cứu ở việc xác định đặc trưng thể loại
truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL dựa trên việc khảo sát và phân tích đặc
4
trưng cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của hai loại truyền
thuyết có số lượng văn bản lớn đó là: Truyền thuyết địa danh và truyền
thuyết nhân vật.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu liên ngành; Phương pháp thống kê; Phương pháp
so sánh; Phương pháp sưu tầm điền dã.
5. Đóng góp của luận án: Luận án có những đóng góp cụ thể như sau:
- Xác định được những cơ sở lịch sử - xã hội, cơ sở văn hóa góp phần
hình thành nên những đặc trưng của thể loại truyền thuyết dân gian vùng
ĐBSCL.
- Xác lập được một số tiêu chí cơ bản để nhận diện và phân loại truyền
thuyết dân gian nói chung, truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL nói riêng.
- Tổng hợp và giới thiệu được bức tranh tổng quan và mô tả đặc điểm
của các tài liệu sưu tầm, sưu khảo, các công trình nghiên cứu về thể loại
truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL.
- Hệ thống và phân loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL (gồm 3 loại
và 11 tiểu loại). Bổ sung vào kho tàng truyền thuyết Việt Nam 210 tác phẩm
truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL.
- Là công trình đầu tiên tìm ra những đặc trưng của thể loại truyền
thuyết dân gian vùng ĐBSCL trong một chỉnh thể vừa đa dạng vừa thống

nhất. Từ đó góp phần khẳng định giá trị, vị trí của thể loại truyền thuyết dân
gian vùng ĐBSCL trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam.
Chương 1
TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG –
CƠ SỞ HÌNH THÀNH ĐẶC TRƯNG VÀ MỘT SỐ TIÊU CHÍ
ĐỂ NHẬN DIỆN THỂ LOẠI
1.1. Cơ sở hình thành đặc trưng thể loại truyền thuyết dân gian
vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)
1.1.1. Cơ sở lịch sử - xã hội: Luận án (LA) đã xác định được những cơ
sở lịch sử - xã hội cơ bản góp phần hình thành đặc trưng thể loại truyền
thuyết dân gian vùng ĐBSCL như đặc điểm dân cư và thành phần dân tộc,
5
lịch sử hình thành vùng đất, lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm v.v.
1.1.2. Cơ sở văn hóa: LA đã tiến hành nghiên cứu các đặc điểm dân
cư, thành phần dân tộc, đặc điểm tâm lý, tính cách, đặc điểm tôn giáo, đặc
điểm môi trường tự nhiên của vùng ĐBSCL. Những đặc điểm này đã có tác
động, ảnh hưởng đến quá trình sáng tạo, lưu truyền, tiếp nhận đồng thời góp
phần tạo nên những đặc trưng của thể loại truyền thuyết dân gian trên vùng
đất mới phía Nam.
1.2. Một số tiêu chí nhận diện thể loại truyền thuyết dân gian vùng
ĐBSCL
1.2.1. Cơ sở xác định các tiêu chí để nhận diện thể loại truyền thuyết
dân gian
LA khảo sát và phân tích các tài liệu, các công trình nghiên cứu bàn về
vấn đề đặc trưng thể loại truyền thuyết dân gian để làm cơ sở xác định các
tiêu chí nhận diện thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL.
1.2.2. Một số tiêu chí để nhận diện thể loại truyền thuyết dân gian vùng
ĐBSCL
Thứ nhất, xét về mặt nội dung, truyền thuyết dân gian ở vùng ĐBSCL
phải chứa đựng nội dung dân tộc – lịch sử. Thứ hai, trong thể loại truyền

thuyết, tác giả dân gian bao giờ cũng thể hiện những quan điểm, thái độ, tình
cảm của mình đối với các nhân vật lịch sử, các vấn đề, các sự kiện lịch sử
trong quá khứ. Thứ ba, mặc dù ở thể loại truyền thuyết có vấn đề thiêng hóa
thực tại, có các yếu tố kỳ ảo nhờ các biện pháp nghệ thuật hư cấu, tưởng
tượng, phóng đại của tác giả dân gian trong quá trình kể lại diễn biến cốt
truyện nhưng ở thể loại truyện này, bao giờ cũng phải chứa đựng các yếu tố
thuộc về niềm tin. Thứ tư, một điểm cơ bản được coi như là một tiêu chí để
nhận diện thể loại truyền thuyết dân gian ở vùng ĐBSCL đó là nội dung dân
tộc - lịch sử của truyền thuyết phải được thể hiện cụ thể bằng những vấn đề
có liên quan đến lịch sử cộng đồng vùng ĐBSCL.
Tiểu kết chương 1
Những đặc điểm mang tính đặc trưng của vùng ĐBSCL như trong LA
đã phân tích là cơ sở hình thành hệ thống các tác phẩm văn học dân gian,
6
trong đó có các tác phẩm truyền thuyết. Giữa những đặc điểm về lịch sử - xã
hội, văn hóa của một vùng miền cụ thể có mối quan hệ khá chặt chẽ với việc
hình thành nên những đặc điểm mang tính đặc trưng của các tác phẩm
truyền thuyết dân gian.
Việc xác định các tiêu chí để nhận diện thể loại truyền thuyết dân gian
vùng ĐBSCL là việc làm cần thiết và có ý nghĩa khoa học. Bởi lẽ hiện nay
việc lựa chọn, sắp xếp, phân loại thể loại truyền thuyết dân gian ở vùng đất
mới phía Nam này vẫn còn có nhiều điểm bất cập.
Chương 2
ĐẶC ĐIỂM TƯ LIỆU TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG VÀ VẤN ĐỀ PHÂN LOẠI
2.1. Tình hình tư liệu truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL
LA tiến hành khảo sát 04 nhóm tư liệu sau đây: Nhóm tư liệu sưu tầm
văn học dân gian (Gồm có 16 tư liệu); Nhóm tư liệu sưu khảo địa chí, sưu
khảo lịch sử (Gồm có 11 tư liệu); Nhóm tư liệu nghiên cứu văn học, nghiên
cứu lịch sử (Gồm có 05 tư liệu); Nhóm tư liệu điền dã (Gồm có 126 văn bản

được sưu tầm).
2.2. Phân loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL
2.2.1. Cơ sở phân loại
LA tiến hành khảo sát và phân tích các cách phân loại truyền thuyết dân
gian của các nhà nghiên cứu đi trước như Đỗ Bình Trị, Hoàng Tiến Tựu, Kiều
Thu Hoạch, Phạm Thu Yến, Nguyễn Bích Hà, Lê Trường Phát, Trần Thị An,
Lê Chí Quế v.v. LA chọn cách phân loại của tác giả Kiều Thu Hoạch làm cơ
sở phân loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL.
2.2.2. Phân loại
Bảng 1. Phân loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL
ST
T
Loại Tiểu loại
Số
lượng
Ghi chú
1
Truyền
thuyết
địa
danh
1.Truyền thuyết địa danh liên quan
đến những nhân vật tiền hiền có
công khai phá, xây dựng vùng
ĐBSCL.
20 truyện





Phụ lục 1



7
2. Truyền thuyết địa danh liên quan
đến những sự kiện lịch sử chống
giặc ngoại xâm và nhân vật có công
chống giặc ngoại xâm.
3. Truyền thuyết địa danh liên quan
đến nhân vật Nguyễn Ánh.
Tổng cộng:
21 truyện




19 truyện


60
truyện
Phụ lục 2



Phụ lục 3




2
Truyền
thuyết
nhân
vật
1. Truyền thuyết về các nhân vật tiền
hiền khai phá, xây dựng vùng
ĐBSCL.
2. Truyền thuyết về các nhân vật
chống giặc ngoại xâm.
3. Truyền thuyết về các danh nhân
văn hoá.
4. Truyền thuyết về các nhân vật tôn
giáo.
5. Truyền thuyết về các nhân vật là
tướng cướp.
6. Truyền thuyết về các nhân vật là
tay sai cho giặc Pháp
Tổng cộng:
20 truyện



88 truyện


08 truyện


09 truyện



05 truyện


09 truyện


139
truyện
Phụ lục 4


Phụ lục 5

Phụ lục 6

Phụ lục 7

Phụ lục 8

Phụ lục 9


3
Truyền
thuyết
phong
vật
1.Truyền thuyết về các sản vật ở

vùng ĐBSCL.
2. Truyền thuyết về một số phong tục
ở vùng ĐBSCL

Tổng cộng:
08 truyện


03
truyện

11
truyện

Phụ lục
10




Tổng cộng:

210
truyện


Tiểu kết chương 2
1. Các công trình nghiên cứu về lịch sử, văn hoá, các công trình sưu tầm,
sưu khảo về văn học dân gian nói chung, truyền thuyết nói riêng của các nhà
khoa học, nhà sử học, nhà nghiên cứu folklore là những công trình nghiên

cứu nghiêm túc, công phu và khoa học. Tuy nhiên, do những mục đích
nghiên cứu khác nhau nên việc sưu tầm truyền thuyết dân gian hoặc việc ghi
chép, sắp xếp các truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL để đưa vào một hệ
8
thống thể loại vẫn chưa được các tác giả quan tâm. Mặc dù vậy, chúng tôi
vẫn rất trân trọng những đóng góp của các tác giả đi trước, các nhà nghiên
cứu văn hoá, lịch sử và folklore.
2. Theo thống kê, tư liệu về truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL là vô
cùng phong phú, bao gồm 3 loại và 11 tiểu loại với tổng số 210 truyền thuyết.
Việc phân loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL mà chúng tôi đã trình bày
ở trên chỉ là tương đối, hợp lý nhất trong khả năng có thể. Sự giao thoa giữa
các tiểu loại là điều khó tránh khỏi.
3. Số lượng truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL mà chúng tôi đã thống
kê trong Bảng 1 chưa phải là tất cả những truyền thuyết hiện có ở vùng này.
Tuy nhiên, với 210 truyền thuyết dân gian mà chúng tôi hiện có là những
truyền thuyết hiện đang tồn tại trong đời sống xã hội, đời sống tâm linh của
nhân dân vùng ĐBSCL, là nguồn tư liệu đáng tin cậy để giúp chúng tôi thực
hiện đề tài này.
Chương 3
ĐẶC TRƯNG CẤU TẠO TRUYỀN THUYẾT ĐỊA DANH
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
3.1. Khái niệm cốt truyện và các yếu tố tự sự của thể loại truyền thuyết
3.1.1. Khái niệm cốt truyện
Ở Việt Nam, khái niệm Cốt truyện cũng đã được Từ điển Tiếng Việt định
nghĩa: “Cốt truyện là hệ thống sự kiện làm nòng cốt cho sự diễn biến các mối
quan hệ và sự phát triển của tính cách nhân vật trong tác phẩm văn học loại
tự sự.”[191, tr.233]. Trong Từ điển thuật ngữ Văn học, các tác giả viết: “Cốt
truyện là hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và
nghệ thuật nhất định tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất của tác phẩm
văn học thuộc loại tự sự” [64, tr.70].

3.1.2. Các yếu tố tự sự của thể loại truyền thuyết
Các yếu tố tự sự của thể loại truyền thuyết bao gồm: Hệ thống nhân vật,
các motif, các chi tiết, các sự kiện lịch sử và lời kể trong tác phẩm truyền
thuyết.
Trong quá trình phân tích đặc trưng cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức
9
các yếu tố tự sự của các tiểu loại trong bảng phân loại, chúng tôi sẽ đồng
thời tiến hành khảo sát và so sánh với một số truyền thuyết ở một số vùng
miền khác của Việt Nam. Trên cơ sở đó, luận án sẽ chỉ ra những đặc điểm
mang tính đặc trưng của thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL.
3.2. Đặc trưng cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của
truyền thuyết địa danh
Về khái niệm Truyền thuyết địa danh, chúng tôi thống nhất sử dụng theo
khái niệm Truyền thuyết địa danh của tác giả Kiều Thu Hoạch: “Truyền thuyết
địa danh chủ yếu là chỉ loại truyền thuyết giải thích tên gọi, tức là nói về
nguồn gốc tên gọi của các địa danh ở các địa phương mà có gắn với các sự
kiện, nhân vật lịch sử có liên quan”[86, tr.35-36].
3.2.1. Cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của tiểu
loại truyền thuyết địa danh liên quan đến những nhân vật tiền hiền có
công khai phá, xây dựng vùng ĐBSCL (Ký hiệu : TL1A)
Ở TL1A, chúng tôi sưu tầm được 20 truyện (Phụ lục 1). Những truyền
thuyết này được phân bố khá đều ở hầu hết 13 tỉnh thuộc vùng ĐBSCL.
Khảo sát 20 truyền thuyết thuộc TL1A, chúng tôi nhận thấy mỗi câu
chuyện kể của TL1A thường được triển khai bằng sự lắp ghép của các lớp
truyện. Khái niệm lớp truyện mà chúng tôi sử dụng trong luận án này là một
danh từ dùng đề chỉ cho các phần của một câu chuyện truyền thuyết. Các
phần này được cấu tạo theo kiểu phần này tiếp theo phần kia, theo thứ tự
trước sau giữa các phần.
Trong TL1A, mỗi cốt truyện thường gồm có 04 lớp truyện, cụ thể như sau:
Lớp truyện thứ nhất, tác giả dân gian thường miêu tả, định vị địa danh.

Những địa danh được đề cập đến trong các câu chuyện đều là những địa
danh thuộc vùng ĐBSCL.
Lớp truyện thứ hai, truyền thuyết kể về nguồn gốc, hoàn cảnh, đặc
điểm nhân vật lịch sử có liên quan đến địa danh.
Ở lớp truyện này, chúng tôi nhận thấy các nhân vật có nguồn gốc và
hoàn cảnh xuất thân khá đa dạng.
Lớp truyện thứ ba, kể về hành trạng và công tích của nhân vật có liên
10
quan đến những địa danh vùng ĐBSCL.
Trong các truyền thuyết thuộc TL1A có một số motif tiêu biểu như: Motif
người giết cọp và motif mở lối đi là hai motif thường gặp ở tiểu loại này.Về
motif người giết cọp, có 6/20 truyền thuyết TL1A có chứa đựng motif này.
Motif mở lối đi xuất hiện trong 7/20 truyền thuyết TL1A. Riêng ở Truyền
thuyết Ao bà Om thì xuất hiện thêm motif “đánh lừa”.
Lớp truyện thứ tư: Đoạn kết của nhân vật và việc lí giải tên gọi các địa danh.
Ở lớp truyện này, tác giả dân gian thường kể về sự “ra đi” của các nhân
vật. Sau đó, nhân dân ghi nhớ công lao của các nhân vật nên đã lấy tên các
nhân vật đặt tên cho rạch, cầu, kênh, làng xã v.v.
Cũng có trường hợp tác giả dân gian lấy tên nhân vật chiến thắng trong
cuộc thi tài để đặt tên cho địa danh (Ao Bà Om). Tuy nhiên, hiện tượng này
không phổ biến trong hệ thống truyền thuyết địa danh vùng ĐBSCL.
Sau đây là mô hình cấu tạo cốt truyện của truyền thuyết địa danh TL1A:
Mô hình 1: Miêu tả, định vị các địa danh  Nguồn gốc, hoàn cảnh,
đặc điểm nhân vật  Hành trạng, công tích của nhân vật  Đoạn kết
của nhân vật và việc lý giải tên gọi của địa danh.
Việc khảo sát cấu tạo cốt truyện của truyền thuyết địa danh TL1A đã cho
thấy các motif dường như chỉ xuất hiện ở lớp truyện thứ ba. Do đó, rất có
khả năng lớp truyện thứ ba này là nòng cốt của thể loại truyền thống.
Hệ thống nhân vật trong TL1A đã cho thấy công cuộc đấu tranh để chiến
thắng kẻ thù bốn chân, chinh phục tự nhiên, khai phá, xây dựng vùng đất mới

ở miền Tây Nam của Tổ quốc được nhiều tầng lớp người trong xã hội cùng
tham gia. Đặc điểm này trong truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL đã phản
ánh chân thực lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ, trong đó có
vùng ĐBSCL. Đây là một đặc điểm mang tính đặc trưng của cấu tạo cốt
truyện của truyền thuyết địa danh TL1A nói riêng, của thể loại truyền thuyết
dân gian vùng ĐBSCL nói chung.
Cảm hứng chủ đạo trong mảng truyền thuyết địa danh thuộc TL1A này
là cảm hứng ngợi ca những con người đã đóng góp, đã hy sinh trong quá
trình khai phá vùng đồng bằng hoang sơ, thấp trũng, đầy cỏ lác thành những
11
cánh đồng bằng phẳng, mênh mông. Đây cũng là cảm hứng bao trùm của
loại truyền thuyết địa danh người Việt.
Điểm tương đồng về nội dung giữa truyền thuyết địa danh TL1A so với
một số truyền thuyết địa danh của một số tỉnh miền Bắc, miền Trung Việt
Nam là cảm hứng ngợi ca và tôn vinh những con người đã có công lao chiến
đấu để chiến thắng kẻ thù bốn chân, chinh phục tự nhiên, khai phá, xây dựng
quê hương, đất nước. Hành trạng, công tích và tên tuổi của họ đã được nhân
dân ghi dấu lên mọi miền của đất nước.
Một điểm tương đồng nữa được thể hiện trong nội dung cốt truyện giữa
truyền thuyết địa danh TL1A so với một số truyền thuyết địa danh của một số
tỉnh miền Bắc, miền Trung đó là việc tác giả dân gian luôn chú ý ca ngợi
những người phụ nữ trong công cuộc khai phá, chinh phục tự nhiên, xây
dựng quê hương đất nước.
Bên cạnh những nét tương đồng được thể hiện trong cấu tạo cốt truyện
của truyền thuyết địa danh TL1A so với một số truyền thuyết của một số tỉnh
ở miền Bắc và miền Trung thì cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố
tự sự của truyền thuyết địa danh TL1A này vẫn có những nét đặc trưng riêng.
Thứ nhất, khảo sát truyền thuyết địa danh TL1A, không thấy xuất hiện
những kiểu xung đột, những sự kiện tranh chấp đất đai vốn khá phổ biến
trong một số truyền thuyết địa danh ở một số tỉnh thuộc vùng Trung Bộ và

Nam Trung Bộ.
Thứ hai, trong quá trình triển khai cốt truyện, không thấy có sự xuất hiện
của các motif thụ thai và sinh nở thần kỳ, motif hiển linh, motif hóa thân như
trong một số truyền thuyết địa danh tiêu biểu ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Sự phân tích trên cho thấy cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố
tự sự của truyền thuyết địa danh TL1A vùng ĐBSCL vừa mang những điểm
chung lại vừa có những điểm riêng mang tính đặc trưng so với một số truyền
thuyết địa danh của một số vùng miền khác trong cả nước.
3.2.2. Cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của tiểu
loại truyền thuyết địa danh liên quan đến những sự kiện lịch sử và
nhân vật có công đấu tranh chống giặc ngoại xâm (Kí hiệu: TL1B).
12
Cấu tạo cốt truyện của truyền thuyết địa danh TL1B được triển khai như sau:
Trong lớp truyện thứ nhất, truyền thuyết địa danh TL1B thường có hai
dạng cấu tạo:
Dạng cấu tạo thứ nhất, tác giả dân gian thường miêu tả hoặc xác định vị
trí của địa danh trước khi đi vào kể về nguồn gốc hình thành địa danh ấy.
Dạng cấu tạo thứ hai, tác giả dân gian đi ngay vào việc giới thiệu sự kiện
lịch sử hoặc kể về nguồn gốc, lai lịch của nhân vật có liên quan đến địa danh.
Lớp truyện thứ hai, tác giả dân gian kể về diễn biến của sự kiện lịch
sử hoặc hành trạng, công tích của nhân vật có liên quan đến địa danh.
Lớp truyện thứ ba kể về đoạn kết của sự kiện lịch sử hoặc của nhân
vật lịch sử và việc hình thành tên gọi địa danh.
Sau đây là mô hình cấu tạo cốt truyện của truyền thuyết địa danh TL1B:
Mô hình 1: Miêu tả, định vị các địa danh  Giới thiệu về sự kiện
lịch sử hoặc nguồn gốc, hoàn cảnh, đặc điểm nhân vật  Diễn biến của
sự kiện lịch sử hoặc hành trạng, công tích của nhân vật  Đoạn kết của
sự kiện lịch sử hoặc đoạn kết của nhân vật và việc lý giải tên gọi của
địa danh.
Mô hình 2: Kể về sự kiện lịch sử hoặc kể về nguồn gốc, hoàn cảnh,

đặc điểm của nhân vật có liên quan đến địa danh  Diễn biến sự kiện
lịch sử hoặc hành trạng, công tích của nhân vật  Đoạn kết của sự kiện
lịch sử hoặc đoạn kết của nhân vật và việc lý giải tên gọi của địa danh.
Việc khai thác mối quan hệ giữa con người với cộng đồng là nét đặc
trưng của thể loại truyền thuyết so với thần thoại và cổ tích. Đây cũng là đặc
điểm nội dung mang tính tương đồng nổi bật nhất của truyền thuyết địa danh
vùng ĐBSCL so với truyền thuyết địa danh cùng tiểu loại ở các vùng miền khác
trong cả nước.
Tuy nhiên, bên cạnh điểm tương đồng về nội dung so với truyền thuyết
địa danh ở các vùng miền khác như vừa nêu, truyền thuyết địa danh TL1B
còn có những nét đặc trưng riêng.
Nét đặc trưng thứ nhất thể hiện ở cảm hứng sáng tác. Truyền thuyết địa
danh vùng ĐBSCL không chỉ chứa đựng cảm hứng ca ngợi và tôn vinh mà
13
còn có cả cảm hứng bi tráng khi kể về những mất mát, đau thương của nhân
dân, đặc biệt là trong thời kỳ chống giặc Pháp xâm lược. Đặc điểm mang tính
đặc trưng này của truyền thuyết địa danh TL1B có cơ sở từ đặc điểm lịch sử,
xã hội của vùng ĐBSCL, đặc biệt là giai đoạn lịch sử Pháp xâm lược Nam Bộ
1858 – 1918. Thứ hai, khảo sát truyền thuyết địa danh TL1B, chúng tôi nhận
thấy sự vắng bóng của yếu tố thần kỳ trong cấu tạo cốt truyện. Thứ ba,
những nhân vật xuất hiện trong truyền thuyết địa danh TL1B thường không
có những công trạng lớn đối với lịch sử cộng đồng.
3.2.3. Cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của tiểu
loại truyền thuyết địa danh có liên quan đến nhân vật Nguyễn Ánh (Kí
hiệu: TL1C)
Truyền thuyết địa danh ở vùng ĐBSCL có liên quan đến nhân vật
Nguyễn Ánh hiện chúng tôi mới sưu tầm được 19 truyện. Những truyền thuyết
này được phân bố ở các tỉnh thuộc vùng ĐBSCL cụ thể như sau:
Bảng 2: Tình hình phân bố truyền thuyết địa danh có liên quan
đến nhân vật Nguyễn Ánh

STT Tỉnh / Thành phố Số lượng
1 Bạc Liêu 01
2 Bến Tre 01
3 Cà Mau 03
4 Đồng Tháp 06
5 Long An 01
6 Kiên Giang 04
7 Tiền Giang 01
8 Vĩnh Long 02
Tổng số: 19
Chúng tôi nhận thấy 19 truyền thuyết địa danh có liên quan đến nhân vật
Nguyễn Ánh có 03 type truyện cơ bản:
Ở type truyện thứ nhất, gồm 06 truyền thuyết đều có chung một kiểu
cấu tạo cốt truyện: Đó là tác giả dân gian kể về việc Nguyễn Ánh gặp khó
khăn trong quá trình chạy trốn quân Tây Sơn, được yếu tố thần kỳ trợ giúp
nên Nguyễn Ánh và đoàn tuỳ tùng đã vượt qua được khó khăn hoạn nạn.
Sau khi đánh bại quân Tây Sơn và lên ngôi vào năm 1802, Nguyễn Ánh nhớ
14
những nơi mình đã đến, nhớ ơn những nhân vật đã giúp mình trước đây nên
đã đặt tên cho địa danh, sắc phong và cho xây miếu, đình để nhân dân thờ
phụng cho đến ngày nay.
Khảo sát 06 truyền thuyết thuộc type truyện này, chúng tôi sơ đồ hoá
cấu tạo cốt truyện như sau:
Mô hình 1: Chúa Nguyễn Ánh và đoàn tuỳ tùng chạy trốn quân Tây
Sơn, gặp nhiều khó khăn nguy hiểm → Chúa Nguyễn Ánh khấn vái hoặc
được thần linh báo mộng → được trợ giúp → vượt qua khó khăn, nguy
hiểm → lên ngôi vua → Nhà vua đặt tên cho vùng đất mà mình đã đến
→ Hình thành tên gọi địa danh hoặc di tích.
Ở type truyện thứ hai của truyền thuyết địa danh TL1C, chúng tôi nhận
thấy có điểm tương đồng và có điểm khác biệt so với type truyện thứ nhất.

Điểm tương đồng được thể hiện ở nội dung của những câu chuyện đều kể
về quá trình Nguyễn Ánh chạy trốn quân Tây Sơn, gặp khó khăn, nguy hiểm.
Tuy nhiên, ở type truyện thứ hai này không thấy có sự xuất hiện của yếu tố
thần kỳ trợ giúp Nguyễn Ánh trong cấu tạo cốt truyện. Nhân vật Nguyễn Ánh
cùng quan quân vượt qua mọi khó khăn là nhờ vào việc giúp đỡ chủ yếu của
con người, của nhân dân ở mỗi địa phương thuộc vùng ĐBSCL mà Nguyễn
Ánh đã từng lưu trú.
Chúng tôi sơ đồ hoá cấu tạo cốt truyện của type truyện thứ hai như sau:
Mô hình 2: Nguyễn Ánh chạy trốn quân Tây Sơn → gặp khó khăn →
nhờ nhân dân → được trợ giúp → vượt qua khó khăn → khi lên ngôi,
Nguyễn Ánh nhớ ơn nên đặt tên địa danh, di tích mang tên nhân vật đã
giúp đỡ Nguyễn Ánh.
Type truyện thứ ba cũng kể về sự kiện Nguyễn Ánh cùng đoàn tùy tùng
vừa chạy trốn quân Tây Sơn vừa tích cực chuẩn bị các điều kiện về cơ sở
vật chất để chuẩn bị chống lại quân Tây Sơn. Dân gian lý giải việc hình thành
tên gọi các địa danh luôn có sự gắn bó chặt chẽ với mọi hoạt động, sinh hoạt
của Nguyễn Ánh.
Trong type truyện thứ ba của truyền thuyết địa danh TL1C chúng tôi
nhận thấy có sự xuất hiện của yếu tố thần kỳ trong cốt truyện. Chúng tôi mô
15
hình hóa thành hai dạng như sau:
Mô hình 3: Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn truy đuổi → trên đường
bôn tẩu, Nguyễn Ánh và đoàn tuỳ tùng dừng chân ở một số địa phương
để chuẩn bị cho việc khôi phục cơ đồ → chiến thắng Tây Sơn → Vua
nhớ ơn đất và người ở các địa phương đã giúp nhà vua lúc khó khăn nên
đặt tên cho những địa danh ấy.
Mô hình 4: Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn truy đuổi → trên đường
bôn tẩu, Nguyễn Ánh và đoàn tuỳ tùng dừng chân ở một số địa phương
để chuẩn bị cho việc khôi phục cơ đồ → Nhân dân ở các địa phương
đặt tên cho địa danh phù hợp với hoàn cảnh của nhân vật Nguyễn Ánh

khi ở địa phương mình.
Vấn đề đề cao và huyền thoại hóa nhân vật Nguyễn Ánh trong truyền
thuyết địa danh vùng ĐBSCL có nhiều điểm tương đồng so với một số truyền
thuyết địa danh ở một số tỉnh thuộc vùng Nam Trung Bộ, vùng Đông Nam Bộ.
Hệ thống truyền thuyết dân gian về nhân vật Nguyễn Ánh chắc hẳn sẽ
góp phần lấp đầy khoảng trống trong lịch sử mà ở đó xuất hiện nhiều cách
nhìn nhận, đánh giá trái chiều về nhân vật này từ bấy lâu nay.
Tiểu kết chương 3
Hệ thống truyền thuyết địa danh vùng ĐBSCL phong phú và đa dạng với
sự hiện diện của ba tiểu loại chính: Truyền thuyết địa danh có liên quan đến
các nhân vật tiền hiền có công khai phá vùng đất mới; Truyền thuyết địa
danh có liên quan đến các sự kiện lịch sử chống ngoại xâm và các nhân vật
chống ngoại xâm; Truyền thuyết địa danh có liên quan đến nhân vật Nguyễn
Ánh. Trong ba tiểu loại trên, tiểu loại thứ ba xuất hiện với một mật độ khá dày
ở các tỉnh thuộc vùng ĐBSCL có thể xem như là một biểu hiện mang tính đặc
trưng về cơ cấu thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL so với một số
vùng miền khác trong cả nước.
Với những đặc điểm của thể loại, truyền thuyết địa danh vùng ĐBSCL
không chỉ giải thích tên gọi của địa danh mà quan trọng hơn, truyền thuyết
địa danh ở vùng đất mới phía Nam này còn phản ánh và ghi giữ những nhân
vật và sự kiện lịch sử trong quá khứ có liên quan đến địa danh theo quan
16
điểm, thái độ, tình cảm của nhân dân vùng ĐBSCL. Việc phản ánh này đã
góp phần lấp đầy một số khoảng trống trong lịch sử, ghi nhận vai trò, ảnh
hưởng của một số nhân vật lịch sử trong quá khứ.
Cùng với cảm hứng ca ngợi và tôn vinh các nhân vật tiền hiền, các nhân
vật chống giặc ngoại xâm v.v, truyền thuyết địa danh vùng ĐBSCL còn chứa
đựng cả cảm hứng lên án, tố cáo những tội ác dã man của quân thù - mà chủ
yếu là giặc Pháp xâm lược. Đây cũng là một đặc điểm mang tính đặc trưng
của thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL.

So với truyền thuyết địa danh ở vùng Bắc Bộ, truyền thuyết địa danh
vùng ĐBSCL có một số điểm tương đồng và dị biệt. Điểm tương đồng thể
hiện chủ yếu ở nội dung dân tộc lịch sử, ở cốt lõi lịch sử của tác phẩm luôn
gắn bó chặt chẽ với những đặc điểm lịch sử - xã hội và văn hóa ở một vùng
miền cụ thể. Điểm dị biệt thể hiện ở xu hướng bám sát hiện thực lịch sử của
tác phẩm, yếu tố thần kỳ xuất hiện thưa thớt trong hệ thống truyền thuyết địa
danh vùng ĐBSCL, cốt truyện thường đơn giản và ít tình tiết.
Chương 4
ĐẶC TRƯNG CẤU TẠO TRUYỀN THUYẾT NHÂN VẬT
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Khái niệm Truyền thuyết nhân vật là một khái niệm dùng để chỉ các câu
chuyện kể trong dân gian trực tiếp đề cập đến các nhân vật lịch sử trong quá
khứ. Các nhân vật này có vai trò, sự ảnh hưởng, tác động nhất định đối với đông
đảo quần chúng nhân dân ở một vùng miền hoặc ở một địa phương cụ thể.
4.1. Cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của truyền
thuyết về các nhân vật tiền hiền có công khai phá, xây dựng vùng ĐBSCL
(Ký hiệu: TL2A)
Cấu tạo cốt truyện của truyền thuyết nhân vật TL2A thường bao gồm 3
lớp truyện, được triển khai cụ thể như sau:
Lớp truyện thứ nhất: Tác giả dân gian kể về nguồn gốc, đặc điểm nhân vật.
Lớp truyện thứ hai: Sự nghiệp, hành trạng và công đức của nhân vật.
Lớp truyện thứ ba: Đoạn kết của nhân vật.
Chúng tôi sơ đồ hóa cấu tạo cốt truyện của truyền thuyết nhân vật TL 2A
17
như sau:
Mô hình 1: Nguồn gốc, đặc điểm nhân vật  Sự nghiệp, hành trạng,
công đức của nhân vật  Đoạn kết của nhân vật.
Nhìn chung, cấu tạo cốt truyện của các tác phẩm truyền thuyết nhân
vật TL2A đơn giản, tuân theo cấu tạo cốt truyện mang tính đặc trưng của thể
loại truyền thuyết. Nội dung chủ đạo trong các truyền thuyết này chính là sự

thể hiện cảm hứng khẳng định, ca ngợi và tôn vinh các nhân vật vốn được
xem là các bậc tiền hiền trong lịch sử hình thành, xây dựng và phát triển
vùng ĐBSCL.
Việc tác giả dân gian ca ngợi các nhân vật trong các truyền thuyết mà
không có sự phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân v.v đã thể hiện
tinh thần phóng khoáng, rộng mở, bao dung trong tính cách của người dân
vùng đồng bằng Nam Bộ. Đó là nét tính cách mang tính đặc trưng của người
dân Nam Bộ được thể hiện khá đậm nét trong những truyền thuyết nói trên.
4.2. Cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của truyền
thuyết về các nhân vật có công đấu tranh chống giặc ngoại xâm (Kí
hiệu: TL2B)
Trong hệ thống thể loại truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL, tiểu loại
truyền thuyết về các nhân vật có công đấu tranh chống giặc ngoại xâm chiếm
số lượng nhiều nhất (86 truyện/210 truyện).
Khảo sát 86 truyền thuyết dân gian TL2B, chúng tôi nhận thấy có 49
truyện thuộc dạng kết cấu đơn, 37 truyền thuyết thuộc dạng kết cấu chuỗi.
Truyền thuyết thuộc dạng kết cấu đơn đều có cấu tạo gồm 3 lớp truyện mang
tính phổ biến của thể loại truyền thuyết, đó là:
Lớp truyện thứ nhất: Kể về nguồn gốc, đặc điểm của nhân vật chính.
Lớp truyện thứ hai: Kể về hành trạng và chiến công của nhân vật chính.
Lớp truyện thứ ba: Kể về đoạn kết của nhân vật chính.
Trong 37 truyền thuyết thuộc dạng kết cấu chuỗi cũng có những truyền
thuyết đáp ứng đặc điểm cấu tạo gồm 3 lớp truyện như đã nêu trên, cụ thể
như sau:
18
Bảng 3. Truyền thuyết về Nguyễn Trung Trực
Lớp
truyện
Nội dung của lớp
truyện

Tên truyện
I
Nguồn gốc, đặc điểm
của nhân vật
1. Truyền thuyết về Nguyễn Trung Trực
2. Sức khoẻ và võ nghệ của ông Nguyễn.
II
Hành trạng và chiến
công của nhân vật
1. Tài trí của Nguyễn Trung Trực
2. Lòng hiếu thảo và khí phách lẫm liệt
của Nguyễn Trung Trực
3. Nguyễn Trung Trực và trận đánh trên
sông Nhựt Tảo.
4. Ông Nguyễn diệt giặc ở Kiên Giang.
5. Ông Soái nghi binh
6. Nguyễn Trung Trực cứu cô Ba Đỏ
7. Nguyễn Trung Trực và nỗi đau mất vợ,
con.
III
Đoạn kết của nhân
vật
1. Ông Nguyễn trong giờ phút bị bao vây
ở Phú Quốc.
2. Ông Nguyễn.
3. Nguyễn Trung Trực chịu thụ hình
4. Ông Soái phi ngựa trên biển giết giặc.
Về nhân vật Đốc Binh Kiều, chúng tôi sưu tầm được 03 truyền thuyết kể
về nhân vật này, mỗi câu chuyện kể tương ứng với một lớp truyện, cụ thể
như sau:

Bảng 4. Truyền thuyết về Đốc Binh KIều
Lớp
truyện
Nội dung của lớp
truyện
Tên truyện
I
Nguồn gốc, đặc điểm
của nhân vật
Truyền thuyết về Đốc Binh Kiều.
II
Hành trạng và chiến
công của nhân vật
Đốc Binh Kiều đánh úp hoả công
III Đoạn kết của nhân vật

Đốc Binh Kiều hiển linh
Ở nhóm truyền thuyết về Thiên Hộ Dương, chúng tôi đã sưu tầm được
11 truyền thuyết. Cụ thể như sau:
Bảng 5. Truyền thuyết về Thiên Hộ Dương
Lớp
truyện

Nội dung của
lớp truyện
Tên truyện
I
Nguồn gốc, đặc
điểm của nhân
vật

1. Truyền thuyết về Thiên Hộ Dương
2. Thiên Hộ Dương thuở nhỏ
3. Sức khoẻ và võ nghệ của Thiên Hộ Dương.
19
4. Thiên Hộ Dương với đường roi song đôi.
II
Hành trạng và
chiến công của
nhân vật
1. Thiên Hộ Dương dẹp mối bất hoà giữa các
tướng cận vệ.
2. Thiên Hộ Dương đấu gươm với đô đốc Bạc

3. Thiên Hộ Dương và đạo binh rắn.
4. Trận Mỹ Trà năm Ất Sửu
III
Đoạn kết của
nhân vật
1. Thiên Hộ Dương lâm nạn.
2. Đoạn cuối cuộc khởi nghiã Thiên Hộ Dương
3. Ngày giỗ của ông Thiên Hộ Dương
Về chuỗi truyền thuyết Trương Định, chúng tôi đã sưu tầm được 07
truyền thuyết, cụ thể như sau:
Bảng 6. Truyền thuyết về Trương Định
Lớp
truyện
Nội dung của lớp truyện

Tên truyện
I

Nguồn gốc, đặc điểm
nhân vật
1. Chuyện anh hùng Trương Định
II
Hành trạng và chiến công
của nhân vật
1. Trương Định và người vợ ở đất Gò
Công
2. Trương Định gặp gỡ cụ Đồ Chiểu
3. Anh hùng Trương Định dựng cờ
kháng Pháp
4. Sự bền lòng tranh đấu của Trương
Định và nghĩa quân.
III Đoạn kết của nhân vật
1. Ngày cuối cùng của Trương Định
2. Phút cuối cùng của Trương Định
Khảo sát cốt truyện của các truyền thuyết thuộc TL2B, chúng tôi nhận
thấy đa số các truyền thuyết nhân vật TL2B đều có cấu tạo gồm 03 lớp
truyện với những nội dung cụ thể như sau :
Lớp truyện thứ nhất, Kể về nguồn gốc và đặc điểm của nhân vật.
Khảo sát lớp truyện thứ nhất của 86 truyền thuyết nhân vật chống giặc
ngoại xâm ở vùng ĐBSCL, chúng tôi nhận thấy không có sự xuất hiện của
motif sự thụ thai và sinh nở thần kỳ như một số truyền thuyết nhân vật anh
hùng chống ngoại xâm ở một số tỉnh thuộc vùng Bắc Bộ.
Chúng tôi nhận thấy motif sự thụ thai và sinh nở thần kỳ xuất hiện một
cách thưa thớt trong truyền thuyết nhân vật ở vùng Nam Trung Bộ và khi đến
với vùng đất Nam Bộ mà cụ thể là vùng ĐBSCL thì motif sự thụ thai và sinh
nở thần kỳ này không còn thấy xuất hiện trong bất cứ một truyền thuyết nhân
20
vật anh hùng chống ngoại xâm nào.

Ở lớp truyện thứ hai, Kể về tài năng và chiến công của nhân vật. Đây
cũng là nội dung cơ bản trong các truyền thuyết về nhân vật anh hùng chống
giặc ngoại xâm của người Việt nói chung. Chiến công của các nhân vật anh
hùng trong truyền thuyết TL2B ở vùng ĐBSCL được tạo nên chủ yếu do
nhân vật có sức khỏe phi thường hoặc do mưu trí, các nhân vật biết phát huy
lối đánh dân gian, lối đánh bí mật, bất ngờ và ít bị tiêu hao lực lượng.
Khảo sát lớp truyện thứ ba, lớp truyện kể về đoạn kết của các nhân vật
anh hùng chống giặc ngoại xâm, chúng tôi nhận thấy có 14/86 truyền thuyết
thuộc tiểu loại 2B có motif hoá thân, motif nhân vật hiển linh, âm phù, 72
truyền thuyết còn lại kể về cái chết của các nhân vật thường tuân thủ theo
đúng thực tế, nếu có thay đổi thì cũng không đáng kể.
Motif nhân vật bị giặc chém đầu là motif phổ biến trong truyền thuyết
nhân vật anh hùng chống giặc ngoại xâm ở vùng ĐBSCL. Theo thống kê, có
17/86 truyền thuyết về nhân vật anh hùng chống ngoại xâm có motif nhân vật
hy sinh do bị giặc chém đầu. Những truyền thuyết kể về người anh hùng hy
sinh do bị giặc chém đầu vừa mang tính bi tráng, vừa mang đậm tính anh
hùng ca.
Cũng ở lớp truyện thứ ba của nhóm truyền thuyết 2B, có 11/86 truyền
thuyết mà trong đó tác giả dân gian kể về sự hiển linh, âm phù của các nhân
vật anh hùng.
Nhìn chung, motif hiển linh xuất hiện trong phần kết của các tác phẩm
truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL đã làm nổi bật quan niệm của tác giả
dân gian về chất thiêng của người anh hùng.
Sau đây là mô hình thứ nhất về cấu tạo cốt truyện của truyền thuyết nhân
vật TL2B (truyền thuyết nhân vật TL2B có motif nhân vật hiển linh, âm phù):
Mô hình 1: Nguồn gốc, đặc điểm nhân vật → tài năng, chiến công
của nhân vật → nhân vật hi sinh → hiển linh, âm phù → được nhân dân
thờ cúng.
Tuy nhiên, đa số truyền thuyết dân gian thuộc tiểu loại 2B này đều kể về
đoạn kết của các nhân vật anh hùng chống giặc ngoại xâm theo đúng thực tế,

21
không có xu hướng huyền ảo hoá nhân vật, không có sự xuất hiện của motif
hiển linh, âm phù trong cấu tạo cốt truyện của truyền thuyết (75/86 truyện).
Mặt khác, khảo sát lớp truyện thứ ba của truyền thuyết nhân vật TL2B
chúng tôi nhận thấy motif hóa thân không xuất hiện trong phần kết của các
tác phẩm truyền thuyết nhân vật TL2B ở vùng ĐBSCL. Đây là một điểm khác
biệt rất rõ so với một số truyền thuyết dân gian ở vùng Bắc Bộ. Việc kể lại cái
chết của các nhân vật anh hùng chống ngoại xâm chủ yếu được kể lại theo
đúng thực tế. Vì vậy mà phần kết của mỗi truyền thuyết nhân vật vùng ĐBSCL
mang đậm tính hiện thực hơn.
Sau đây là mô hình thứ hai về cấu tạo cốt truyện của truyền thuyết nhân
vật TL2B (truyền thuyết nhân vật không có motif nhân vật hiển linh, âm phù):
Mô hình 2: Nguồn gốc, đặc điểm nhân vật → tài năng, chiến công của
nhân vật → nhân vật hi sinh → được nhân dân lưu truyền và thờ cúng.
Trong các tác phẩm truyền thuyết TL2B, nhân dân ca ngợi tài năng,
chiến công của những con người đã đóng góp, đã hy sinh cho mảnh đất này,
song nhân dân cũng không hề né tránh nói lên những mất mát, đau thương
của nhân dân trong cuộc kháng chiến “khổ nhục nhưng vĩ đại” này. Truyền
thuyết ở vùng ĐBSCL đã phản ánh chân thực nỗi gian lao, nỗi bi hùng của
hiện thực ấy.
Ở đây, chúng tôi muốn bổ sung thêm một đặc điểm nội dung tư tưởng
của truyền thuyết dân gian người Việt, đó là: Truyền thuyết dân gian là
khúc ca bi tráng của nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất
nước, đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược. Đây là
một đặc điểm nội dung tư tưởng của thể loại truyền thuyết mà các nhà
nghiên cứu trước đây chưa đề cập đến.
4.3. Cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của truyền
thuyết về các danh nhân văn hoá ( Kí hiệu: TL2C)
Truyền thuyết về các danh nhân văn hoá ở vùng ĐBSCL là những câu
chuyện dân gian kể về những con người có danh tiếng trong lĩnh vực văn

hoá ở vùng đồng bằng miền Tây Nam Bộ này.
22
Truyền thuyết nhân vật TL2C có cấu tạo cốt truyện cụ thể như sau:
Đa số các truyền thuyết TL2C (5/8 truyện) gồm có đầy đủ cả 3 lớp truyện
mang tính đặc trưng của thể loại truyền thuyết đó là:
- Lớp truyện thứ nhất : Kể về nguồn gốc, lai lịch, đặc điểm của nhân vật.
- Lớp truyện thứ hai: Kể về sự nghiệp, hành trạng của nhân vật.
- Lớp truyện thứ ba: Kể về đoạn kết của nhân vật.
Ngoài ra, có 3/8 truyền thuyết về các danh nhân văn hoá chỉ có 01 hoặc
02 lớp truyện trong cấu tạo cốt truyện. Ở đây xuất hiện vấn đề mang tính lý
luận về thể loại truyền thuyết dân gian đó là truyền thuyết dân gian Việt Nam
nói chung, truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL nói riêng có hai dạng tồn tại
song song: Dạng thứ nhất tồn tại với một cốt truyện hoàn chỉnh (bao gồm 3
lớp truyện); Dạng thứ hai tồn tại ở dạng mẩu chuyện (chỉ bao gồm 1 hoặc 2
lớp truyện).
Đặc điểm cấu tạo cốt truyện của truyền thuyết về danh nhân văn hoá ở
vùng ĐBSCL có nhiều điểm tương đồng với một số truyền thuyết mới được
sưu tầm ở vùng Lam Sơn, Liễu Đôi.
Tuy nhiên, so với một số truyền thuyết danh nhân văn hoá ở một số tỉnh
ở phía Bắc thì cấu tạo cốt truyện của truyền thuyết danh nhân văn hoá ở
vùng ĐBSCL vẫn có những đặc điểm riêng. Cụ thể, trước hết phải kể đến
yếu tố thần kỳ, yếu tố này rất hiếm gặp trong cốt truyện của truyền thuyết
danh nhân văn hoá vùng ĐBSCL nói riêng và cả hệ thống truyền thuyết dân
gian vùng ĐBSCL nói chung. Xét ở cả 3 lớp truyện trong một cốt truyện hoàn
chỉnh, chúng tôi nhận thấy truyền thuyết nhân vật TL2C chỉ có 1/8 truyền
thuyết có yếu tố thần kỳ xuất hiện trong các lớp truyện (Truyền thuyết về Bà
Tư Có), còn lại là 7/8 truyện đều không có yếu tố thần kỳ xuất hiện trong các
lớp truyện.
Ở lớp truyện thứ hai, truyền thuyết danh nhân văn hoá vùng ĐBSCL
tập trung kể về sự nghiệp, hành trạng, tài năng của nhân vật. Đa số các nhân

vật đều được nhân dân tập trung ca ngợi về những đóng góp cụ thể để tạo ra
những giá trị văn hóa vật chất, giá trị văn hóa tinh thần gắn bó với đời sống
của nhân dân vùng sông nước hoặc hội nhập vào đời sống văn minh của
23
thời đại.
Đặc điểm lớp truyện thứ ba của truyền thuyết TL2C kể về phần kết của
các nhân vật (đối với những truyền thuyết có đầy đủ ba lớp truyện): Nhân vật
mất đi, được nhân dân biết ơn, xây lăng mộ hoặc lập miếu thờ và tôn vinh
các nhân vật là nhân tài của địa phương.
4.4. Cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của truyền
thuyết về các nhân vật tôn giáo (Kí hiệu:TL2D)
Truyền thuyết về các nhân vật tôn giáo ở vùng này chiếm số lượng
không nhiều, chỉ gồm có 09 truyền thuyết (Phụ lục 7). Nhìn chung, truyền
thuyết nhân vật TL2D bao gồm hai kiểu cấu tạo cốt truyện. Kiểu cấu tạo thứ
nhất đó là truyện gồm có 03 lớp truyện rõ rệt:
- Lớp truyện thứ nhất: Tác giả dân gian kể về đặc điểm, nguồn gốc
xuất thân của nhân vật.
- Lớp truyện thứ hai: Kể về những đóng góp của nhân vật cho đời, cho đạo.
- Lớp truyện thứ ba: Kể về đoạn kết của nhân vật.
Ở kiểu cấu tạo thứ hai, các truyền thuyết chỉ bao gồm có hai lớp
truyện chính:
- Lớp truyện thứ nhất: Kể về nguồn gốc xuất thân, đặc điểm nhân vật.
- Lớp truyện thứ hai: Kể về những đóng góp, những kỳ tích của nhân vật.
Nhìn chung, đa số truyền thuyết nhân vật TL 2D (6/9 truyện) thuộc kiểu
cấu tạo cốt truyện thứ hai. Những câu chuyện này đều đang còn tồn tại ở
dạng những mẩu chuyện chứ chưa thể xem là những câu chuyện có cốt
truyện hoàn chỉnh.
4.5. Cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của truyền
thuyết về các nhân vật là tướng cướp (Kí hiệu: TL2E)
Truyền thuyết về các nhân vật là tướng cướp chiếm số lượng không

nhiều (Phụ lục 8). Cấu tạo cốt truyện của truyền thuyết nhân vật TL2E được
triển khai như sau:
Lớp truyện thứ nhất: Nguồn gốc và đặc điểm của nhân vật.
Lớp truyện thứ hai: Hành trạng, chiến công của nhân vật.
Lớp truyện thứ ba: Đoạn kết của nhân vật.
24
Trong lớp truyện thứ ba của truyền thuyết nhân vật TL2E ở vùng ĐBSCL
đều không thấy xuất hiện các motif hoá thân hay các motif hiển linh, âm phù
như một số truyền thuyết nhân vật khác. Đặc điểm này có nét tương đồng so
với phần kết của truyền thuyết Chàng Lía được sưu tầm ở vùng Nam Trung Bộ.
4.6. Cấu tạo cốt truyện và việc tổ chức các yếu tố tự sự của truyền
thuyết về các nhân vật làm tay sai cho thực dân Pháp (Ký hiệu: TL2F)
Truyền thuyết nhân vật TL2F bao gồm những câu chuyện kể về các
nhân vật làm tay sai cho thực dân Pháp trong giai đoạn lịch sử 1858 – 1945.
Trong quá trình sưu tầm, điền dã, đồng thời căn cứ vào các tiêu chí để
nhận diện các tác phẩm truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL, chúng tôi đã
sưu tầm được 09 truyền thuyết nhân vật thuộc TL2F hiện vẫn đang được lưu
truyền trong đời sống của cư dân vùng ĐBSCL (Phụ lục 9). Cấu tạo cốt
truyện của truyền thuyết nhân vật TL2F gồm 03 lớp truyện, được triển khai
như sau:
Lớp truyện thứ nhất: Nguồn gốc, đặc điểm nhân vật.
Lớp truyện thứ hai: Hành trạng của nhân vật.
Lớp truyện thứ ba: Đoạn kết của nhân vật.
Khảo sát 09 truyền thuyết thuộc tiểu loại 2F này, chúng tôi nhận thấy ở
lớp truyện thứ nhất không thấy xuất hiện motif thụ thai hoặc sinh nở thần kì.
Đây cũng là điểm tương đồng với nhiều tiểu loại truyền thuyết dân gian khác
ở vùng ĐBSCL.
Chúng tôi mô hình hoá cốt truyện của truyền thuyết nhân vật TL2F như sau:
Mô hình 1: Nguồn gốc, đặc điểm nhân vật  Hành trạng của nhân vật.
Mô hình 2: Nguồn gốc, đặc điểm nhân vật  Hành trạng của nhân

vật  Đoạn kết của nhân vật.
Mô hình 3: Chỉ có đoạn kết của nhân vật.
Như vậy, ở truyền thuyết nhân vật TL2F này tồn tại cả ba dạng cấu tạo
cốt truyện như vừa nêu trên. Có những truyền thuyết mới chỉ tồn tại ở dạng
những mẩu chuyện chứ chưa có một cốt truyện hoàn chỉnh.
Dù tồn tại ở dạng mô hình nào thì nội dung mỗi câu chuyện kể vẫn tập
trung kể lại những tội ác và bản chất xấu xa của các nhân vật là tay sai, ác
25
ôn. Ẩn sau mỗi lời kể đó là lòng căm thù, là thái độ phê phán và lên án gay
gắt của tác giả dân gian đối với các nhân vật này.
Theo khảo sát của chúng tôi, những truyền thuyết kể về bọn tay sai, ác ôn
hầu như chỉ có ở vùng ĐBSCL. Bởi vì khảo sát truyền thuyết dân gian ở một số
tỉnh thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ và một số vùng miền khác trong cả nước
chúng tôi không thấy có tiểu loại này xuất hiện. Đây có thể xem là một nội dung
mang tính đặc trưng của hệ thống truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL.
Với tiểu loại truyền thuyết này, nội dung của cảm hứng sáng tác trong
thể loại truyền thuyết người Việt đã được mở rộng thêm. Nội dung ấy không
chỉ bao gồm cảm hứng tôn vinh và ca ngợi các bậc tiền hiền, các nhân vật
anh hùng chống giặc ngoại xâm, các nhân vật có công trong lịch sử mà còn
bao gồm cả cảm hứng phủ định và phê phán, là sự căm ghét và lên án gay
gắt đối với bọn tay sai, ác ôn trong thời kì chống thực dân Pháp xâm lược
của nhân dân vùng ĐBSCL.
Tiểu kết chương 4
1. Hệ thống truyền thuyết nhân vật vùng ĐBSCL là một hệ thống bao
gồm 06 tiểu loại khác nhau. Trong đó, đa số là các tiểu loại truyền thuyết đã
xuất hiện ở vùng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ. Tuy nhiên, có một
hệ thống truyền thuyết về các nhân vật anh hùng chống giặc Pháp xâm lược,
hệ thống truyền thuyết về các nhân vật là tay sai của Pháp giai đoạn 1858 –
1945 được xem như là những nội dung mang tính đặc trưng của thể loại
truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL.

2. Cảm hứng chủ đạo trong các truyền thuyết nhân vật vùng ĐBSCL là
ca ngợi và tôn vinh những giá trị của cộng đồng trong lịch sử: Ca ngợi và tôn
vinh các bậc tiền hiền, nhân vật anh hùng chống giặc ngoại xâm, các danh
nhân văn hóa, các nhân vật tôn giáo. Bên cạnh đó, trong nhiều các tác phẩm
truyền thuyết dân gian vùng ĐBSCL còn xuất hiện cảm hứng lên án, phê
phán các nhân vật là tay sai đắc lực của giặc Pháp xâm lược.
3. Truyền thuyết nhân vật vùng ĐBSCL tồn tại với nhiều dạng cấu tạo
cốt truyện khác nhau. Tồn tại ở dạng kết cấu chuỗi, kết cấu đơn và tồn tại ở
cấp độ chi tiết (mẩu chuyện). Trong cốt truyện của các tác phẩm truyền

×