Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

15 câu hỏi tự luận triết lớp cao học K20

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.97 KB, 23 trang )

Câu 1: Bản chất của CNDVBC với tính cách là hạt nhân của thế giới khoa học
Bản chất của CNDVBC với tính cách là hạt nhân của thế giới khoa học được biểu hiện
như sau
 Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm thực tiễn:
• Chủ nghĩa duy vật cũ thiếu quan điểm thực tiễn, đầy tính trực quan và máy móc,
nên không nhìn thấy được tính năng động sáng tạo của ý thức, không nhận thấy
được vai trò quan trọng của ý thức trong đời sống của con người.
• Khi khắc phục những nhược điểm trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng
định vật chất có trước và quyết định ý thức; trong hoạt động thực tiễn, ý thức
con người xâm nhập vào lực lượng vật chất, thông qua những lực lượng vật
chất, nó tác động tích cực làm biến đổi hiện thực vật chất (khách quan) theo nhu
cầu (chủ quan) của con người. Như vậy, chủ nghĩa duy vật biện chứng không
chỉ đối lập của chủ nghĩa duy tâm (cả duy tâm khách quan lẫn duy tâm chủ
quan) mà còn đối lập với chủ nghĩa duy vật tầm thường.
 Thống nhất thế giới quan duy vật với phép biện chứng:
• Chủ nghĩa duy vật cũ (thế kỷ XVII – XVIII), kể cả CN duy vật của Phoiơbắc
mang nặng tính siêu hình, phép biện chứng chủ yếu được nghiên cứu trong các
hệ thống triết học duy tâm, đặc biệt là hệ thống triết học duy tâm của Hêghen
nên nó thường tư biện, thần bí.
• C.Mác đã cải tạo triệt để CNDV cũ để giải thoát CNDV ra khỏi tính siêu hình;
đồng thời C.Mác cũng cải tạo triệt để phép biện chứng duy tâm để giải thoát
phép biện chứng ra khỏi tính thần bí, tư biện; từ đó, C.Mác xây dựng nên
CNDVBC hay phép biện chứng duy vật. C.Mác đã thống nhất TGQ duy vật với
phép biện chứng.
 Tính duy vật triệt để:
• CNDVBC không chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên mà con duy vật trong lĩnh
vực xã hội; CNDV lịch sử là cống hiến vĩ đại của C.Mác cho kho tàng tư tưởng
của loài người.
• CNDV cũ không triệt để, nó chỉ duy vật trong tự nhiên, còn trong lĩnh vực xã
hội, nó hoàn toàn duy tâm. Phoibắc – nhà duy vật vĩ đại nhất trước Mác, bậc
tiền bối của Mác cũng không ngoại lệ.


• CNDV lịch sử ra đời từ kết quả C.Mác và Ăngghen vận dụng CNDVBC vào
nghiên cứu lĩnh vực xã hội và tổng kết lịch sử, kế thừa có phê phán toàn bộ tư
tưởng xã hội của loài người trên cơ sở khái quát thực tiền mới của giai cấp vô
sản.
• “Trong khi nghiên cứu sâu và phát triển CNDV, Mác đã đưa học thuyết đó tới
chỗ hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ
nhận thức xã hội loài người. CNDV lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của
tư tưởng khoa học.
• “Tất cả những cái mà tư tưởng loài người đã sáng tạo ra, Mác đã nghiền ngẫm
lại, đã phê phán, và thong qua phong trào công nhân mà kiểm tra lại”
• Với CNDV lịch sử, nhân loại tiến bộ có được một công cụ vĩ đại trong nhận
thức và cải tạo thế giới.
 Tính thực tiễn – cách mạng: CNDVBC hướng dẫn con người trong hoạt động
thực tiễn cải tạo thế giới
• CNDVBC là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản:
Lợi ích của giai cấp vô sản phù hợp với lợi ích của nhân loại tiến bộ. Cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản giải phóng mình ra khỏi sự áp bức, bóc lột cũng là
cuộc đấu tranh của nhân loại tiến bộ và nó chỉ thắng lợi khi phát triển từ tự phát
lên tự giác.
Được luận chứng bằng những cơ sở lý luận khoa học, phản ánh các quy luật
phát triển khách quan của lịch sử, CNDVBC trở thành hệ tư tưởng của giai cấp
vô sản - một hệ tư tưởng chứa đựng trong mình sự thống nhất giữa tính khoa
học và tính cách mạng.
• CNDVBC không chỉ giải thích thế giới mà còn góp phần cải tạo thế giới:
Khi xâm nhập vào phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân loại tiến bộ,
phép biện chứng duy vật có được sức mạnh vật chất.
“Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song
vấn đề là cải tạo thế giới”. Để cải tạo TG hiệu quả giai cấp vô sản phải biết kết
họp sức mạnh vật chất chính trị của mình với sức mạnh tinh thần của triết học
DVBC để tạo nên sức mạnh tổng hợp vô địch.

• CNDVBC không khẳng định sự tất thắng của cái mới.
Mọi cái hiện tồn tại đều chứa đựng trong mình tính tự phủ định.
Là một hệ thống các quy luật phổ biến, CNDVBC trở thành công cụ tinh thần
để hạn chế rồi tiến đến xóa bỏ cái cũ lỗi thời, phát hiện và xây dựng cái mới tiến
bộ.
• CNDVBC là một hệ thống mở, là kim chỉ nam cho hành động.
Câu 2: Đảng ta khẳng định: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ
thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Anh/chị hãy chỉ ra và phân tích cơ sở triết học
của khẳng định đó.
Dựa vào những bài học kinh nghiệm từ những sai lầm, thất bại trước Đổi mới ở Việt Nam:
Do bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo
nguyện vọng chủ quan ảo tưởng đã xuất hiện trước Đổi mới, chúng có nguyên nhân và gây
ra những tác hại lớn trên nhiều lĩnh vực hoạt động của nước nhà:
Nguyên nhân:
Do yếu kém về năng lực tư duy, lạc hậu về lý luận, ít kinh nghiệm trong xây dựng và quản lý
đất nước; Do mắc nhiều sai lầm ấu trĩ “tả” khuynh, nóng vội (những sai lầm này xảy ra trong
một điều kiện lịch sử rất đặc biệt của dân tộc ta – một dân tộc biết phát huy tối đa sức mạnh
tinh thần, khao khát thoát ra khỏi cuộc sống lầm than, nô lệ …);
Do không xuất phát từ hiện thực cuộc sống, do bất chấp quy luật khách quan, coi thường tri
thức khoa học cùng tầng lớp tri thức, …
Tác hại:
Tạo ra những chính sách sai lầm, gây ra những hậu quả về nhiều mặt (kinh tế, chính trị, xã
hội…) rất nghiêm trọng và kéo dài, làm xói mòn lòng tin của nhân dân ta đối với Đảng và sự
nghiệp của Đảng.
Để công cuộc Đổi mới thành công, cần phải khắc phục hoàn toàn chủ nghĩa chủ quan mắc
phải trước Đổi mới, đồng thời ngăn ngừa không cho nó hồi sinh trở lại bằng cách quán triệt
và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc khách quan.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa trên nội dung lý luận của nguyên lý thống nhất thế giới
trong tính vật chất để xây dựng các yêu cầu của nguyên tắc khách quan.
Các yêu cầu cơ bản của nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng:

Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
Xuất phát từ hiện thực khách quan để tái hiện lại nó như nó vốn có mà không được đưa ra
những nhận định, đánh giá tùy tiện chủ quan.
Biết phát huy tính năng động sáng tạo của chủ thể, dám đưa ra các giả thuyết khoa học có giá
trị về khách thể, đồng thời biết cách tiến hành kiểm chứng các giả thuyết đó bằng thực
nghiệm.
Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
Xuất phát từ hiện thực khách quan để phát hiện ra những quy luật chi phối nó; cho dù hiện
thực khách quan đó có tồn tại như thế nào.
Dựa trên các quy luật khách quan đó vạch ra các chương trình, mục tiêu, kế hoạch; tìm kiếm
các biện pháp, công cụ, phương thức để tổ chức thực hiện các chương trình, mục tiêu, kế
hoạch đó; kịp thời điều chỉnh, uốn nắn hoạt động của con người theo lợi ích và mục đích
được đặt ra.
Như vậy, bằng việc rút ra những bài học kinh nghiệm từ những sai lầm, thất bại trước Đổi
mới; đồng thời quán triệt việc vận dụng nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa duy vật biện
chứng một cách nghiêm túc và triệt để, Đảng ta khẳng định: “Mọi đường lối, chủ trương của
Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”.
Cách khác
Bệnh chủ quan duy ý chí là một sai lầm khá phổ biến ở nước ta và ở nhiều nước XHCN
trước đây, gây tác hại nghiêm trọng đối với sự nghiệp xây dựng CNXH.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan một cách sáng tạo trên cơ sở của sự phản ánh.
Vì vậy, nếu cường điệu tính sáng tạo của ý thức sẽ rơi vào bệnh chủ quan, duy ý chí. Bệnh
chủ quan duy ý chí là khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan, của ý chí xa
rời hiện thực khách quan, bất chấp quy luật khách quan, lấy nhiệt tình Cách mạng thay cho
sự yếu kém về tri thức khoa học.
Ở Việt Nam, do bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ & hành động giản đơn, nóng vội chạy
theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng biểu hiện trong một số chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước.
Xuất phát từ hiện thực khách quan của nước ta yếu kém về năng lực tư duy, lạc hậu về lý
luận, ít kinh nghiệm trong xây dựng và quản lý đất nước. Đồng thời do sai lầm ấu trĩ “tả”

khuynh, xảy ra trong một điều kiện lịch sử rất đặc biệt của dân tộc ta (Biết phát huy tối đa
sức mạnh tinh thần, khao khát thoát ra khỏi cuộc sống lầm than, nô lệ) nhưng lại không xuất
phát từ hiện thực, bất chấp quy luật khách quan, coi thường tri thức khoa học nên tạo ra
những chính sách sai lầm, gây ra những hậu quả về nhiều mặt (kinh tế, xã hội ) rất nghiêm
trọng & kéo dài.
Trước thời kỳ đổi mới (ĐH6), Đảng ta đã mắc bệnh chủ quan, duy ý chí trong việc xây dựng
mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế,
Đảng ta đã nóng vội muốn xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, muốn sau khi cải tạo
XHCN chỉ còn lại hai thành phần: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể hay có lúc đẩy mạnh
quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ, chúng
ta đã duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp cơ chế xin cho, có
nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền lương, tiền tệ.
Để khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp. Trước hết
phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao năng lực trí tuệ, trình độ lý luận của Đảng, trong hoạt
động thực tiễn phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Phải đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chí trị, chống bảo
thủ, trì trệ, quan liêu. Phải nhận thức đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống quy luật
khách quan, trong đó các quy luật đặc thù của CNXH ngày càng chi phối mạnh mẽ phương
hướng phát triển chung của xã hội. Tiêu chuẩn đánh giá sự vận động đúng đắn các quy luật
thông qua chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là sản xuất phát triển, lưu thông
thông suốt, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao,
con người mới XHCN ngày càng hình thành rõ nét, xã hội ngày càng lành mạnh, chế độ
XHCN ngày càng được cũng cố. Điều đó là điều kiện đảm bảo sự dẫn dắt đúng đắn của
Đảng. Mọi chủ trương, chính sách gây tác động ngược lại là biểu hiện sự vận dụng không
đúng quy luật khách quan, phải được sửa đổi hai bãi bỏ.
Trên cơ sở quy luật khách quan đó, Đảng ta khẳng định “Mọi đường lối, chủ trương của
Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Để làm được điều đó, chúng
ta phải tôn trọng hiện thực khách quan, tôn trọng vai trò quyết định của vật chất.
Trở lại trang bảng câu hỏi
Câu 3: Bằng lý luận và thực tiễn, anh/chị hãy chứng minh rằng “ý thức con người

không chỉ phản ánh thế giới mà còn góp phần sáng tạo thế giới”.
Trả lời:
Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Nó là hình thức cao của
sự phản ánh của thực tại khách quan, hình thức mà riêng con người mới có. Ý thức của con
người là cơ năng của cái “khối vật chất đặc biệt phức tạp mà người ta gọi là bộ óc con
người” (theo Lê Nin).
Ý thức của con người tồn tại trước hết trong bộ óc của con người và sau đó, thông qua thực
tiễn lao động, nó tồn tại trong các vật phẩm do con người sáng tạo ra (vật chất xã hội – vật
chất mang/chứa ý thức). Ý thức bao gồm nhiều yếu tố như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí,
ý chí…. Trong đó, tri thức (yếu tố cốt lõi) và tình cảm có vai trò rất quan trọng. Tri thức và
tình cảm thống nhất, chuyển hoá lẫn nhau; sự thống nhất của chúng tạo ra động lực tinh thần
mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động của con người, góp phần làm cho con người trở thành chủ thể
sáng tạo ra lịch sử.
Thông qua hoạt động thực tiễn, mà trước hết là thực tiễn lao động, ý thức con người xâm
nhập vào hiện thực vật chất, nhờ đó, nó có được sức mạnh của cái tinh thần. Dựa trên sức
mạnh này, ý thức tác động đến thế giới, góp phần làm cho thế giới biến đổi. Ý thức con
người không chỉ phản ánh thế giới mà còn góp phần sáng tạo nên thế giới theo nhu cầu thực
tiễn xã hội.
Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những cái đã có trước, ý thức
có khả năng tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực tế,
có thể tiên đoán, dự báo tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, những huyền thoại, những
giả thuyết khoa học hết sức trừu tượng và khái quát cao. Những khả năng ấy càng nói lên
tính chất phức tạp và phong phú của đời sống tâm lý – ý thức ở con người mà khoa học còn
phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu để làm sáng tỏ bản chất của những hiện tượng ấy.
Ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên quá trình phản
ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người là quá trình năng động sáng tạo, thống nhất 3 mặt
sau:
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này mang tính chất
hai chiều, có định hướng, có chọn lọc các thông tin cần thiết.
Hai là, mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực chất, đây là

quá trình “ sáng tạo lại” hiện thực của ý thức theo nghĩa: mã hoá các đối tượng vật chất tạo
thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình hiện thực hoá tư
tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến các ý tưởng
phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này, con
người lựa chọn những phương pháp, phương tiện, công cụ để tác động vào hiện thực khách
quan nhằm thực hiện mục đích của mình.
Tính sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật của sự phản ánh mà kết
quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sáng tạo và phản ánh là hai mặt thuộc bản
chất ý thức.
Tác động của ý thức xã hội đối với con người là vô cùng to lớn. Nó không những là kim chỉ
nam cho hoạt động thực tiễn mà còn là động lực thực tiễn. Sự thành công hay thất bại của
thực tiễn, tác động tích cực hay tiêu cực của ý thức đối với sự phát triển của tự nhiên, xã hội
chủ yếu phụ thuộc vào vai trò chỉ đạo của ý thức mà biểu hiện ra là vai trò của khoa học, văn
hoá và tư tưỏng.
Nền kinh tế của nước ta từ một điểm xuất phát thấp, tiềm lực kinh tế - kỹ thuật yếu, trong
điều kiện sự biến đổi khoa học - công nghệ trên thế giới lại diễn ra rất nhanh, liệu nước ta có
thể đạt được những thành công mong muốn trong việc tạo ra nền khoa học - công nghệ đạt
tiêu chuẩn quốc tế trong một thời gian ngắn hay không? Chúng ta phải làm gì để tránh được
nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới? Câu hỏi này đặt ra cho chúng
ta một vấn đề đó là sự lựa chọn bước đi và trật tự ưu tiên phát triển khoa học - công nghệ
trong quan hệ với phát triển kinh tế trong các giai đoạn tới. Như vậy có nghĩa là ta cần phải
có tri thức vì tri thức là khoa học. Chúng ta phải không ngừng nâng cao khả năng nhận thức
cho mỗi người. Tuy nhiên nếu tri thức không biến thành niềm tin và ý chí thì tự nó cũng
không có vai trò gì đối với đời sống hiện thực cả. Chỉ chú trọng đến tri thức mà bỏ qua công
tác văn hoá- tư tưởng thì sẽ không phát huy được thế mạnh truyền thống của dân tộc. Chức
năng của các giá trị văn hoá đã đem lại chủ nghĩa nhân đạo, tính đạo đức. Không có tính đạo
đức thì tất cả các dạng giá trị (giá trị vật chất và tinh thần) sẽ mất đi mọi ý nghĩa. Còn cách
mạng tư tưởng góp phần làm biến đổi đời sống tinh thần - xã hội, xây dựng mối quan hệ tư
tưởng, tình cảm của con người với tư cách là chủ thể xây dựng đời sống tinh thần và tạo ra

được những điều kiện đảm bảo sự phát triển tự do của con người.Mà có tự do thì con người
mới có thể tham gia xây dựng đất nước.
Như vậy, ý thức mà biểu hiện trong đời sống xã hội là các vấn đề khoa học - văn hoá - tư
tưởng có vai trò vô cùng quan trọng. Tìm hiểu về ý thức và tri thức để có những biện pháp
đúng đắn tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện xã hội.
Câu 4: Lý luận, phương pháp là gì? Mối quan hệ giữa chúng. Anh/Chị hãy phân tích cơ
sở lý luận và nêu những yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc toàn diện. Việc tuân
thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn?
Lý luận, phương pháp
Định nghĩa phương pháp luận: Là học thuyết (lý luận) về phương pháp; nó vạch ra
cách thức xây dựng và nghệ thuật vận dụng phương pháp. Phương pháp luận còn được
coi như “ một hệ thống các quan điểm, nguyên tắc xuất phát, những cách thức chung
để thực hiện hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
 Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến.
• Mối liên hệ phổ biến là mối liên hệ giữa các mặt (thuộc tính) đối lập tồn tại
trong mọi sự vật, trong mọi lĩnh vực hiện thực.
• Mối liên hệ mang tính khách quan và phổ biến. Nó chi phối tổng quát sự vận
động, phát triển của mọi sự vật, quá trình xãy ra trong thế giới; và là đối tượng
nghiên cứu của phép biện chứng.
• Mối liên hệ phổ biến được nhận thức trong các phạm trù biện chứng như mối
liên hệ giữa: mặt đối lập- mặt đối lập; chất – lượng, cái cũ – cái mới; cái riêng-
cái chung; nguyên nhân- kết quả; nội dung – hình thức; bản chất- hiện tượng; tất
nhiên- ngẫu nhiên; khả năng – hiện thực.
 Nội dung nguyên lý:
• Mọi sự vật hiện tượngtrong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn mối liên hệ ràng
buộc lẫn nhau.
• Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng có những mối liên hệ
phổ biến

• Mối liên hệ phổ biến tồn tại khách quan, phổ biến; chúng chi phối một cách
tổng quát quá trình vận động, phát triển của mọi sự vật hiện tượng xảy ra trong
thế giới.
 Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc toàn diện:
• Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
Tìm hiểu, phát hiện càng nhiều mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính
chất, yếu tố, mặt,…) đang chi phối sự tồn tại của bản thân sự vật càng tốt
Phân loại để xác định những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính
chất, yếu tố, mặt,…) nào là bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định ; còn những
mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) nào là bên
ngoài, không cơ bản, ngẫu nhiên, không ổn định…;
Dựa trên những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố,
mặt,…) bên trong cơ bản, tất nhiên, ổn định…. Để lý giải được những mối liên
hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) còn lại. Qua đó xây
dựng một hình ảnh về sự vật như sự thống nhất các mối liên hệ, quan hệ (hay
những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…); phát hiện ra quy luật (bản chất) của
nó.
• Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
Đánh giá đúng vai trò của từng mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính
chất, yếu tố, mặt,…) chi phối sự vật.
Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng đồng bộ nhiều công cụ, phương tiện,
biện pháp thích hợp (mà trước hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật
chất) để biến đổi những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất,
yếu tố, mặt,…) để biến đổi những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm,
tính chất, yếu tố, mặt,…) của bản thân sự vật, đặc biệt là những mối liên hệ,
quan hệ (…) bên trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng…. của nó.
Nắm vững sự chuyển hóa các mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính
chất, yếu tố, mặt,…) của bản thân sự vật; kịp thời sử dụng các công cụ, phương
tiện, biện pháp bổ sung để phát huy hay hạn chế hay hạn chế sự tác động của
chúng, nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển theo đúng quy luật và hợp lợi

ích của chúng ta.
Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ giúp chủ thể khắc phục
được chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện,… trong
hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình.
Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối quan hệ, tính
chất nào đó mà không thấy được nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, nhiều tính chất
của sự vật.
Chủ nghĩa chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên
hệ của sự vật chứ không rút ra được mặt bản chất, không thấy được mối liên hệ
cơ bản của sự vật, mà coi chúng như nhau, kết hợp chúng một cách vô nguyên
tắc, tùy tiện.
Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái không
cơ bản, cái chủ yếu với cái thứ yếu… hay ngược lại nhằm đạt được mục đích
hay lợi ích của mình một cách tinh vi.
Trong xã hội nguyên tắc toàn diện đòi hỏi chúng ta không chỉ liên hệ nhận thức
với nhận thức mà còn liên hệ nhận thức với cuộc sống; phải chú ý đến lợi ích
của các chủ thể (các cá nhân hay giai tầng) khác nhau trong xã hội và biết phân
biệt đâu là lợi ích cơ bản (sống còn) và lợi ích không cơ bản (sống còn) và lợi
ích không cơ bản; phải biết phát huy (hay hạn chế) mọi tiềm năng hay nguồn
lực từ khắp các lĩnh vực hoạt động xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa ) từ các
thành phần kinh tế khác, từ các tổ chức, chính trị xã hội… để có thái độ, biện
pháp, đối sách hành động thích hợp mà không sa vào chủ nghĩa bình quân, quan
điểm dàn điều, tức không thấy được trọng tâm cốt lõi trong cuộc sống vô cùng
phức tạp.
 Việc tuân thủ nguyên tắc toàn diện sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong
hoạt động nhận thức và trong hoạt động thực tiễn.
• Việc quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ giúp chúng ta khắc
phục được chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện…
trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình.
• Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối quan hệ, tính

chất nào đó mà không thấy được nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, nhiều tính chất
của sự vật. thường xem xét dàn trải, liệt kê những tính quy định khác nhau của
sự vật hay hiện tượng mà không làm nổi bật cái cơ bản, cái quan trọng nhất của
sự vật hay hiện tượng đó.
• Chủ nghĩa chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên
hệ của sự vật nhưng không rút ra được mặt bản chất, không thấy được mối liên
hệ cơ bản của sự vật mà coi chúng như nhau, kết hợp chúng một cách vô
nguyên tắc, tùy tiện. Do đó hoàn toàn bất lực khi cần phải có quyết sách đúng
đắn.
• Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái không
cơ bản, cái chủ yếu với cái thứ yếu… hay ngược lại nhằm đạt được mục đích
hay lợi ích của mình một cách tinh vi.
• Trong đời sống xã hội, nguyên tắc toàn diện có vai trò cực kỳ quan trọng. Nó
đòi hỏi chúng ta không chỉ liên hệ nhận thức với nhận thức mà cần phải liên hệ
nhận thức với thực tiễn cuộc sống, phải chú ý đến lợi ích của các chủ thể (các cá
nhân hay các giai tầng) khác nhau trong xã hội và biết phân biệt đâu là lợi ích
cơ bản (sống còn) và lợi ích không cơ bản, phải biết phát huy hay hạn chế mọi
tiềm năng hay nguồn lực từ khắp các lĩnh vực hoạt động xã hội (kinh tế, chính
trị, văn hóa…) từ các thành phần kinh tế, từ các tổ chức chính trị - xã hội… để
có thái độ, biện pháp, đối sách hành động thích hợp mà không sa vào chủ nghĩa
bình quân, quan điểm dàn đều, tức không thấy được trọng tâm, trọng điểm, điều
cốt lõi trong cuộc sống vô cùng phức tạp.
Trở lại trang bảng câu hỏi
Câu 5: Anh, chị phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập. Ý nghĩa PP luận của qui luật này. ĐCS VN đã và đang vận dụng qui luật này như
thế nào vào sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước ta?
 Đặt vấn đề.
• Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (còn gọi là quy luật mâu
thuẫn), là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, là hạt nhân
của phép biện chứng, nó vạch ra nguồn gốc bên trong sự vận động và phát triển

của sự vật hiện tượng.
 Các khái niệm.
• Trước khi phép biện chứng mácxít ra đời, tư tưởng biện chứng về những đối lập
đạt được đỉnh cao nhất trong học thuyết của triết học cổ điển Đức, tiêu biểu nhất
là Cantơ và Hêghen. Song, do bị chi phối bởi quan niệm duy tâm, nên không thể
phát triển học thuyết mâu thuẫn biện chứng đến độ triệt để.
• Kế thừa một cách có phê phán những thành tựu có giá trị nhất trong toàn bộ lịch
sử triết học và dựa trên những thành quả mới nhất của khoa học hiện đại, C.Mác
và PH.Ăngghen đã phát triển học thuyết mâu thuẫn biện chứng lên một tầm cao
mới. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã cho rằng, chúng ta phải tìm xung
lực vận động và phát triển của sự vật trong chính sự vật đó, trong những mâu
thuẫn của bản thân sự vật. Quan điểm lý luận đó được thể hiện trong quy luật
thống nhất và đấu tranh của của các mặt đối lập.
• Nội dung cơ bản của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập được
làm sáng tỏ thông qua một loạt những phạm trù cơ bản: “mặt đối lập”, “sự thống
nhất” và “đấu tranh của các mặt đối lập”
Tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược
nhau. Trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân; trong sinh vật có đồng hóa và dị
hóa; trong kinh tế thị trường có cung và cầu, v.v Những mặt trái ngược nhau
đó, trong phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập. Mặt đối lập là phạm trù
dùng để chỉ những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy
định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan
trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Chính những mặt như vậy nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại với nhau tạo
thành mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại khách quan trong cả
tự nhiên lẫn trong xã hội và tư duy.
Hai mặt đối lập tuy có tính bài trừ, phủ định nhau, nhưng chúng lại gắn bó chặt
chẽ với nhau, tồn tại trong sự thống nhất của chúng. Sự thống nhất của các mặt
đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của các mặt đối lập, sự tồn tại
của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề.

Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau, “sự thống nhất
của các mặt đối lập” còn bao hàm sự “đồng nhất” của các mặt đó. Do có sự
“đồng nhất” của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn, đến một
lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển hoá lẫn nhau.
• Như vậy, các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn tác động qua lại với
nhau “đấu tranh” với nhau. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại
theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
 Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
• Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Mâu thuẫn biện chứng cũng bao hàm cả "sự thống nhất" lẫn "đấu tranh" của các
mặt đối lập. Sự thống nhất gắn liền với sự đứng im, sự ổn định tạm thời của sự
vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Điều
đó có nghĩa là sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, sự đấu tranh giữa
các mặt đối lập là tuyệt đối.
• Vậy mâu thuẫn biện chứng có quan hệ như thế nào với nguồn gốc của sự vận
động và sự phát triển?
Mâu thuẫn là sự tác động lẫn nhau của các mặt, các khuynh hướng đối lập.
Chính sự tác động qua lại, sự đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc vận
động và phát triển, là xung lực của sự sống. Chẳng hạn, tư tưởng, nhận thức của
con người không thể phát triển, nếu không có sự cọ xát thường xuyên với thực
tiễn, không có sự tranh luận để làm rõ đúng sai
Sự vận động và sự phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và
sự thay đổi. Thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định tính ổn định
và tính thay đổi của sự vật. Do vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và
phát triển.
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến, nó tồn tại trong tất cả các
sự vật và hiện tượng, ở mọi giai đoạn tồn tại và phát triển của sự vật và hiện
tượng.
 Phân loại mâu thuẫn
• Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài:

Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối
lập của cùng một sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật là mâu thuẫn
diễn ra trong mối liên hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác nhau. Mâu thuẫn
bên trong có vai trò quyết định trực tiếp với quá trình vận động và phát triển của
sự vật. Tuy nhiên, mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài không ngừng
tác động nhau.
• Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản: Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn
quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự
vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Mâu thuẫn không cơ bản là
mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó quy định sự
vận động và phát triển của một mặt nào đó của sự vật.
• Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu:
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển
nhất định của sự vật, giải quyết nó sẽ tạo điều kiện giải quyết mâu thuẫn khác ở
cùng giai đoạn (những mâu thuẫn thứ yếu). Sự phát triển hơn nữa của sự vật,
chuyển hoá nó sang giai đoạn tồn tại khác của mình phụ thuộc vào việc giải
quyết mâu thuẫn chủ yếu.
• Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng:
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người,
những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau (Thí dụ mâu thuẫn giữa
CNXH và CNTB, giữa tư sản và vô sản). Mâu thuẫn không đối kháng là mâu
thuẫn giữa những lực lượng, khuynh hướng xã hội có đối lập về lợi ích không
cơ bản, cục bộ, tạm thời (Thí dụ mâu thuẫn giữa tầng lớp nông dân, giữa các bộ
phận công nhân khác nhau, giữa lao động trí óc và lao động chân tay, ở nước
ta hiện nay).
Phân biệt mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng có ý nghĩa quan
trọng trong việc xác định phương pháp giải quyết mâu thuẫn.
 Ý nghĩa phương pháp luận.
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập có ý nghĩa phương
pháp luận quan trọng đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn.

• Để phân tích đúng bản chất của sự vật, trước hết phải nhận thức sự vật như một
thực thể đồng nhất, tiếp đó phải nghiên cứu những mặt khác nhau, những mặt
đối lập và tác động qua lại giữa các mặt đối lập để nhận biết mâu thuẫn và
nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
• Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét toàn diện các mặt đối lập; theo dõi toàn
bộ quá trình phát sinh, phát triển của các mặt đó; xem xét đến từng vị trí , vai trò
và mối liên hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn.
• Phải xác định đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn; tìm ra phương thức,
phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn và tổ chức thực
tiễn để giải quyết mâu thuẫn một cách thực tế.
• Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi. Cho nên, chúng ta
không được giải quyết mâu thuẫn một cách vội vàng khi chưa có đủ điều kiện;
phải tạo điều kiện thức đẩy sự chín muồi của mâu thuẫn và điều kiện giải quyết.
• Đối với các mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau.
Điều đó tuỳ thuộc vào bản chất của mâu thuẫn, vào những điều kiện cụ thể. Phải
có biện pháp giải quyết thích hợp với từng mâu thuẫn.
Tóm lại, từ những điều trình bày trên đây, chúng ta nhận thấy, mọi sự vật và hiện tượng đều
chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành mâu thuẫn trong bản thân sự
vật; sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận
động và phát triển, dẫn đến sự mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới.
Trở lại trang bảng câu hỏi
Câu 6: Phân tích nội dung quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất và ngược lại và vạch ra ý nghĩa phương pháp luận của nó. Đảng Cộng sản đã và
đang vận dụng như thế nào?
Đây là một quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, nó vạch ra cách thức của sự vận
động, phát triển.
 Nội dung quy luật:
• Mỗi sự vật, hiện tượng đều là một thể thống nhất của 2 mặt chất và lượng và
chúng có quan hệ hữu cơ với nhau. Phép biện chứng duy vật đã đưa ra và sử
dụng các khái niệm: chất, lượng, thuộc tính, độ, điểm nút, bước nhảy để diễn

đạt mối quan hệ giữa chất và lượng trong sự vận động và phát triển của sự vật,
hiện tượng - cách thức vận động, phát triển.
• Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
Từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất. Sự thống nhất giữa
chất và lượng tồn tại trong một độ nhất định khi sự vật còn là nó chưa trở thành
cái khác. Trong mối quan hệ giữa chất và lượng thì chất là mặt tương đối ổn
đinh, còn lượng là mặt biến đổi hơn. Sự vận động và phát triển của sự vật bao
giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Song không phải bất kỳ sự thay đổi
nào về lượng cũng dẫn đến sự thay đổi về chất ngay tức khắc, mặc dù bất kỳ sự
thay đổi nào về lượng cũng ảnh hưởng đến trạng thái tồn tại của sự vật. Chỉ khi
nào lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định (điểm nút) thì mới dẫn đến sự
thay đổi về chất. Sự thay đổi căn bản về chất được gọi là bước nhảy. Như vậy,
khi lựợng biến đổi đến điểm nút thì diễn ra bước nhảy, chất mới ra đời thay thế
cho chất cũ, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ, nhưng rồi những lượng
mới này lại tiếp tục biến đổi đến điểm nút mới lại xảy ra bước nhảy mới. Cứ
như vậy, quá trình vận động, phát triển của sự vật diễn ra theo cách thức từ
những thay đổi về lựợng dẫn đến những thay đổi về chất một cách vô tận. Đó là
quá trình thống nhất giữa tính tuần tự, tiệm tiến, liên tục với tính gián đoạn,
nhảy vọt trong sự vận động, phát triển.
Sự tác động trở lại của chất đối với lượng. Khi chất mới ra đời, nó không tồn tại
một cách thụ động, mà có sự tác động trở lại đối với lượng, được biểu hiện ở
chỗ, chất mới sẽ tạo ra một lượng mới cho phù hợp với nó để có sự thống nhất
mới giữa chất là lượng. Sự quy định này có thể được biểu hiện ở quy mô, nhịp
độ và mức độ phát triển mới của lượng.
 Ý nghĩa phương pháp luận: nắm được quy luật này sẽ tránh nôn nóng đốt cháy
giai đoạn tích lfy về lượng đồng thời tránh tư tưởng tuyệt đối hóa sự thay đổi
lượng.
• Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải chú ý tích lũy dẫn những thay đổi
về lượng, đồng thời phải biết thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều
kiện chín muồi.

• Chống lại quan điểm tả khuynh: chủ quan, nóng vội, duy ý chí, khi lượng chưa
biến đổi đến điểm nút đã thực hiện bước nhảy.
• Chống lại quan điểm hữu khuynh: bảo thủ, trì trệ, khi lượng đã biến đổi đến
điểm nút nhưng chần chừ không thực hiện bước nhảy.
• Phải thấy được tính đa dạng của các bước nhảy, nhận thức được từng hình thức
bước nhảy, có thái độ ủng hộ bước nhảy, tạo mọi điều kiện cho bước nhảy được
thực hiện một cách kịp thời.
• Phải có thái độ khách wan và quyết tâm thực hiện bước nhảy khi hội đủ các
điều kiện chin muồi.
 Đảng cộng sản Việt nam đã và đang vận dụng quy luật này như thế nào vào sự
nghiệp cách mạng hiện tại ở nước ta.
• Đảng ta đã vận dụng quy luật này một cách sáng tạo, tiêu biểu và rõ ràng nhất là
cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 - tâp dượt qua các cuộc đấu tranh để chờ
thời cơ chín muồi tích đủ về lượng tức đấu tranh chính trị và bạo lực cách mạng
để xây dựng một xã hội mới dân chủ, tiến bộ phủ định xã hội Phong kiến đã
mục nát và lỗi thời.
• Trong những năm đổi mới, trong hoạt động nhận thức cũng như thực tiễn Đảng
ta đã vận dụng tổng hợp tất cả các quy luật một cách đầy đủ, sâu sắc, năng
động, sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể của dân tộc đưa đất nước thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế, củng cố địa vị trên trường quốc tế và bước đầu đã gặt hái
được những thành quả đáng mừng như: gia nhập phiên chợ toàn cầu WTO,
Thành viên không thường trực Đại hội đồng Liêp hợp quốc và phấn đấu đến
năm 2020 nước ta sẽ cơ bản là một nước công nghiệp.
• Đất nước có nở hoa hay không là do tay tôi, tay bạn vun trồng. "Đừng hỏi Tốc
quốc đã làm gì cho ta, mà cần hỏi ta đã làm gì cho tổ quốc hôm nay".
Câu 7: Anh / Chị hãy giải thích câu nói của V.I.Lênin: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép
biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được
hạt nhân của phép chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và sự phát
triển thêm”
Trả lời

- PBC là hệ thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù chuyển hóa lẫn nhau phản ánh mối liên
hệ và sự vận động, phát triển của thế giới vật chất.
 Nguyên lý là những luận điểm xuất phát, những tư tưởng chủ đạo của một học
thuyết hay lý luận mà tính chân lý của chúng là hiển nhiên, không thể hay không
cần phải chứng minh nhưng không mâu thuẫn với thực tiễn và nhận thức về lĩnh
vực mà học thuyết hay lý luận đó phản ánh.
• Với tính cách là một học thuyết triết học, PBCDV được xây dựng dựa trên 2
nguyên lý cơ bản: NL về mối liên hệ phổ biến và NL về sự phát triển.
• NL về mối liên hệ phổ biến: Khi khái quát từ những biểu hiện cụ thể của MLH
xảy ra trong các lĩnh vực khác nhau của thế giới, NL về mối liên hệ phổ biến có
nội dung như sau:
Mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn
MLH ràng buộc qua lại lẫn nhau.
Trong muôn vàn MLH chi phối sự tồn tại của SV, HT, QT trong thế giới có
MLH phổ biến. MLH phổ biến tồn tại khách quan – phổ biến, nó chi phối một
cách tổng quát sự VĐ và PT của mọi SV, HT, QT trong thế giới.
• NL về sự phát triển: Khi khái quát từ những biểu hiện cụ thể của sự phát triển
xảy ra trong các lĩnh vực khác nhau của thế giới, NL về sự phát triển có nội
dung như sau:
Mọi SV, HT trong thế giới đều không ngừng VĐ và PT.
PT mang tính khách quan – phổ biến, là khuynh hướng vận động tổng hợp tiến
lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện
của một hệ thống vật chất do việc giải quyết mâu thuẫn, thực hiện bước nhảy về
chất gây ra và hướng theo xu thế phủ định của phủ định.
 Quy luật: là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, chung, lặp lại
giữa các sự vật, hiện tượng và chi phối sự vận động, phát triển của chúng.
PBCDV gồm 3 quy luật cơ bản sau:
• QL thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập:
Mặt đối lập: SV là một tập hợp các yếu tố (thuộc tính) tương tác với nhau và
với môi trường. Kết quả của sự tương tác này là các yếu tố tạo nên bản thân SV

có một sự biến đổi nhất định, trong đó có một vài yếu tố biến đổi trái ngược
nhau. Những yếu tố trái ngược nhau (bên cạnh những yếu tố giống hay khác
nhau) tạo nên cơ sở của các mặt đối lập trong SV. MĐL tồn tại k.quan và phổ
biến.
Thống nhất của các mặt đối lập là các MĐL kg tách rời nhau tức MĐL này lấy
MĐL kia làm điều kiện, tiền đề cho sự tồn tại của mình; là các MĐL đồng nhất
nhau tức trong chúng chứa những yếu tố giống nhau cho phép chúng đồng tồn
tại trong SV; là các MĐL tác động ngang nhau, tức sự thay đổi trong MĐL này
tất yếu sẽ kéo theo sự thay đổi trong MĐL kia, và ngược lại.
Đấu tranh của các MĐL: Dù tồn tại trong sự thống nhất, song các MĐL luôn
đấu tranh với nhau, tức chúng luôn tác động qua lại theo xu hướng bài trừ, phủ
định hay loại bỏ lẫn nhau. Hình thức và mức độ đấu tranh của các MĐL rất đa
dạng, trong đó thủ tiêu lẫn nhau là một hình thức đặc biệt của các MĐL.
Mâu thuẫn BC, tức sự thống nhất và đấu tranh của các MĐL, tồn tại k.quan phổ
biến và đa dạng (MT bên trong – MT bên ngoài; MT cơ bản – MT kg cơ bản;
MT chủ yếu – MT thứ yếu; MT trong tự nhiên – MT trong xã hội – MT trong tư
duy). Sự tác động lên bản thân sự vật là nguồn gốc, động lực của mọi sự vận
động, phát triển xảy ra trong thế giới.
Chuyển hóa của các MĐL (giải quyết MTBC): sự thống nhất mang tính tương
đối gắn liền với sự ổn định của SV; sự đấu tranh mang tính tuyệt đối gắn liền
với sự VĐ, thay đổi của SV. MTBC phát triển tương ứng với quá trình thống
nhất các MĐL chuyển từ mức độ trừu tượng sang cụ thể; còn sự đấu tranh các
MĐL chuyển từ mức bình lặng sang quyết liệt từ đó làm xuất hiện các khả năng
chuyển hóa của các MĐL. Khi đk k.quan hội đủ, một trong khả năng đó biến
thành hiện thực, các MĐL tự thực hiện quá trình chuyển hóa. MTBC sẽ được
giải quyết khi các MĐL tự phủ định chính mình để biến thành cái khác. Với hai
phương thức chuyển hóa như sau: MĐL này chuyển hóa thành MĐL kia ở trình
độ mới và cả hai MĐL cùng chuyển hóa thành một cái thứ 3 nào đó.
Nd quy luật: Các MTBC khác nhau tác động kg giống nhau đến quá trình vận
động và phát triển của sự vật. Mỗi MTBC đều trải qua các giai đoạn từ sinh

thành (sự xuất hiện của các MĐL) sanh hiện hữu (sự thống nhất và đấu tranh
của các MĐL), rồi giải quyết (sự chuyển hóa của các MĐL). MTBC được giải
quyết, cái cũ mất đi cái mới ra đời với những MTBC mới hay thay đổi vai trò
tác động của MTBC cũ. MTBC là nguồn gốc của mọi sự vận động và phát triển.
Do đó, VĐ và PT trong thế giới vật chất là tự bản thân nó.
Phép biện chứng đòi hỏi xem xét sự thống nhất của các mặt đối lập một cách cụ
thể, xem xét những mối quan hệ cụ thể. Đây cũng là bản chất của sự đồng nhất
mang tính biện chứng, sự đồng nhất có chứa đựng các yếu tố khác biệt.
Nhấn mạnh tính chất quan trọng của sự thống nhất của các mặt đối lập,
V.I.Lênin đưa ra một định nghĩa nữa về phép biện chứng: “Có thể định nghĩa
vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như
thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có
những sự giải thích và một sự phát triển thêm”. Phép biện chứng là sự phát triển
của nó, các mặt đối lập và mâu thuẫn - hạt nhân của phép biện chứng.
• QL chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và
ngược lại: Mọi SV đều được đặc trưng bằng sự thống nhất giữa lượng và chất.
SV bắt đầu bằng sự thay đổi về lượng một cách liên tục hay tiệm tiến); nếu
lượng chỉ thay đổi trong độ; chưa vượt quá điểm nút thì chất kg thay đổi căn
bản; khi lượng thay đổi vượt qua độ, quá điểm nút thì chất sẽ thay đổi căn bản,
bước nhảy nhất định sẽ xảy ra. Bước nhảy làm cho chất thay một cách gián
đoạn hay đột biến; chất cũ mất đi chất mới ra đời. Chất mới gây ra sự thay đổi
về lượng. Sự thay đổi về lượng gây ra sự thay đổi về chất và sự thay đổi về chất
gây ra sự thay đổi về lượng là phương thức VĐ, PT của SV trong thế giới.
• QL phủ định của phủ định: Mọi SV đều liên hệ lẫn nhau và luôn vận động phát
triển. Phát triển là một chuỗi các lần phủ định BC có gắn liền với việc giải quyết
mâu thuẫn và thực hiện bước nhảy về chất xảy ra bên trong SV. PĐBC man tính
k.quan – nội tại, kế thừa – tiến lên. Qua một số lần PĐBC xuất hiện PĐ của PĐ,
xác lập cái cũ ở một trình độ cao hơn. PĐ của PĐ vạch ra khuynh hướng phát
triển xoắn ốc tiến lên của mọi SV trong thế giới.
 Ngoài những nguyên lý và QL, PBC còn có sáu cặp phạm trù: cái riêng và các

chung, nguyên nhân và kết quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức,
bản chất và hiện tượng, khả năng và hiện thực.
Tóm lại, PBC DV là hệ thống các quan điểm của con người về thế giới, là hệ thống các
phương pháp nhận thức và cải tạo thế giới, là hệ thống các giá trị để con người đánh giá và
điều chỉnh các hành vi trong hoạt động của mình.
Cách khác
 GIẢI THÍCH:
• V.I.LêNin ý muốn nói vị trí “hạt nhân” của phép biện chứng duy vật; quy luật
này vạch ra nguồn gốc, động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động
và phát triển, do điều này xuất phát từ qui luật thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập. Thực tế, tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới (tự nhiên, xã hội,
tư duy) đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau, khuynh hướng biến đổi trái
ngược nhau, có thể là mâu thuẩn nội tại hoặc giữa nó với sự vật hiện tượng khác
– điều này mang tính khách quan và phổ biến.
• Ta nhận thấy, nhân tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập: Trong nguyên tử có
điện tử và hạt nhân (điện tích âm và điện tích dương); trong sinh vật có đồng
hoá và dị hoá; trong kinh tế thị trường có cung và cầu, hàng và tiền v v Những
mặt trái ngược nhau đó trong phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập. Tuy
nhiên, theo phép biện chứng quan niệm, mâu thuẫn để chỉ mối liên hệ thống
nhất và đấu tranh, chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng
hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
• Do các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành
mâu thuẫn biện chứng, vì vậy mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách
quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự thống nhất, đấu tranh và
chuyển hóa giữa các mặt đối lập này tạo thành khái niệm thống nhất của các
mặt đối lập dùng để chỉ sự liên hệ, ràng buộc, không tách rời nhau, quy định lẫn
nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại. Xét về phương
diện nào đó giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có một số yếu tố giống nhau. Sự
thống nhất của các mặt đối lập bao hàm sự đồng nhất của nó.
• Mặt khác khái niệm sự đấu tranh giữa các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh

hướng tác động qua lại, bài trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập. Hình thức
đấu tranh của các mặt đối lập rất phong phú tùy thuộc vào tính chất, mối quan
hệ và điều kiện cụ thể của sự vật, hiện tượng.
• Tóm lại 2 ý này, quá trình thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu
dẫn đến sự chuyển hóa giữa chúng. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập diễn ra
hết sức phong phú, đa dạng tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập cũng
như tùy thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể. Trong sự thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập, sự đấu tranh giữa chúng là tuyệt đối, sự thống nhất
giữa chúng là tương đối, có điều kiện, tạm thời; trong sự thống nhất đã có sự
đấu tranh, đấu tranh trong tính thống nhất của chúng.
• Không chỉ dừng lại ở đó, ta thử xét thêm vai trò của mâu thuẫn đối với quá trình
vận động và phát triển của sự vật: Sự liên hệ, tác động và chuyển hóa giữa các
mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển trong thế giới.
“Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Do hai mặt đối lập
tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau. Sự thống
nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau
giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm
tiền đề. Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ
cũng có những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự
“đồng nhất” của các mặt đối lập. Với ý nghĩa đó,” sự thống nhất của các mặt đối
lập” còn bao hàm cả sự “đồng nhất” của các mặt đó. Do có sự “đồng nhất” của
các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn đến một lúc nào đó, các
mặt đối lập có thể chuyển hoá lẫn nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập còn
biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng. Song đó chỉ là trạng thái vận
động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển khi diễn ra sự cân bằng của các
mặt đối lập.
 DO ĐÓ:
• Để thúc đẩy sự vật phát triển thì phải tôn trọng nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn
đó là đấu tranh của các mặt đối lập. Khi đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn phải
phù hợp với trình độ phát triển mâu thuẫn đồng thời phải tìm ra phương thức,

phuơng tiện, lực lượng để giải quyết mâu thuẫn.
• Các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn luôn “đấu tranh” với nhau. Đấu
tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ
định lẫn nhau giữa các mặt đó. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức
phong phú, đa dạng, tuỳ thuộc vào tính chất, vào mối liên hệ qua lại giữa các
mặt đối lập và tuỳ điều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng.
 PHÁT TRIỂN THÊM:
• Do bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng tồn tại mâu thuẫn, nhưng muốn phát hiện
ra được mâu thuẫn thì phải tìm ra những mặt những khuynh hướng trái ngược
nhau tức là tìm ra mặt đối lập, đồng thời tìm ra mối liên hệ tác động lẫn nhau
giữa các mặt đối lập đó. Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát
sinh, phát triển của từng mâu thuẫn, phải xem xét vị trí vai trò và mối quan hệ
lẫn nhau của các mâu thuẫn. Đồng thời phải xem xét quá trình phát sinh, phát
triển và vị trí của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng,
điều kiện chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng có như thế chúng ta mới hiểu đầy đủ
đúng đắn về bản thân sự vật hiện tượng, đúng sự vận động phát triển và điều
kiện để giải quyết mâu thuẫn như thế nào.
• Vì mâu thuẫn có tính khách quan, tính phổ biến và là nguồn gốc, động lực của
sự vận động, phát triển do vậy trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng
mâu thuẫn, phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được
nguồn gốc, bản chất, khuynh hướng của sự vận động phát triển. Vì mâu thuẫn
có tính đa dạng, phong phú do đó trong việc nhận thức và giải quyết mâu thuẫn
cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể tức là biết phân tích cụ thể từng loại mâu
thuẫn và phương pháp giải quyết phù hợp. Trong quá trình hoạt động nhận thức
và thực tiễn, cần phân biệt đúng vai trò, vị trí của các loại mâu thuẫn trong từng
hoàn cảnh, điều kiện nhất định; những đặc điểm của mâu thuẫn đó để tìm ra
phương pháp giải quyết từng loại mâu thuẫn một cách đúng đắn nhất.
• Theo tôi, ý nghĩa phương pháp luận mà V.I.LêNin muốn truyền đạt lại: Để nhận
thức đúng bản chất sự vật và tìm ra phương hướng và giải pháp đúng cho hoạt
động thực tiễn phải đi sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật. Muốn

phát hiện ra mâu thuẫn phải tìm ra trong thể thống nhất những mặt, những
khuynh hướng trái ngược nhau, tức tìm ra những mặt đối lập và tìm ra những
mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó. Mặt khác,
V.I.Lênin từng viết: “Sự phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức của các bộ
phận của nó, đó là thực chất…của phép biện chứng”.
• Do đó, khi ta phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển
của từng mâu thuẫn, xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau của các mâu
thuẫn; phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối lập,
mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng, điều kiện chuyển hoá lẫn nhau giữa
chúng. Chỉ có như thế mới có thể hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu
hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn. Để thúc đẩy
sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn, không được điều
hoà mâu thuẫn.Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn phải phù hợp với trình độ
phát triển của mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng để
giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín
muồi. Một mặt phải chống thái độ chủ quan, nóng vội; mặt khác phải tích cực
thúc đẩy các điều kiện khách quan để làm cho các điều kiện giải quyết mâu
thuẫn đi đến chín muồi. Mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải quyết
khác nhau. Phải tìm ra các hình thức giải quyết mâu thuẫn một cách linh hoạt,
vừa phù hợp với từng loại mâu thuẫn, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể.
Câu 8: Cơ sở nào khẳng định nguyên tắc lịch sử cụ thể là “linh hồn” phương pháp luận
của triết học Mác – Lênin? Nêu những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc lịch sử cụ thể.
 Cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử là toàn bộ nội dung lý luận của phép biện chứng
duy vật nên nó được xem như là “linh hồn” phương pháp luận của triết học Mác-Lênin
với tính cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển, tức là một hệ
thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù nói về mối liên hệ phổ biến và về sự phá triển
xảy ra trong toàn bộ thế giới
 Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc lịch sử-cụ thể:
• Trong hoạt động nhận thức: chủ thể phải tìm hiểu quá trình hình thành, tồn tại
và phát triển cụ thể của những sự vật cụ thể trong những điều kiện, hoàn cảnh

cụ thể
• Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể phải xây dựng được những đối sách cụ thể,
áp dụng cho những sự vật cụ thể đang tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh,
quan hệ cụ thể mà không nên áp dụng những khuôn mẫu chung chung cho bất
cự sự vật nào, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ nào
• Nguyên tắc lịch sử-cụ thể đòi hỏi phải phân tích sự vật cụ thể trong những tình
hình cụ thể, nghĩa là : “một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như
thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và
đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xem xét hiện nay nó đã trở thành
như thế nào”
• Nguyên tắc lịch sử-cụ thể đòi hỏi chúng ta phải bao quát được các sự kiện xảy
ra trong nghiên cứu khoa học hay các biến cố xảy ra trong tiến trình lịch sử
nhân loại. Tuy nhiên, nó không cho phép chúng ta kết hợp các sự kiện khoa học
như những cái ngẫu nhiên thuần tuý của tự nhiên hay mô tả các biến cố lịch sử
như những cái vụn vặt đơn lẻ của xã hội; mà nó đòi hỏi chúng ta phải tái hiện
chúng, mô ta chúng trên cơ sở vạch ra được cái tất yếu logic, cái chung (quy
luật, bản chất) của chúng, chỉ ra được những trật tự nhân quả quy định chúng.
Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta phải xâ dựng được bức tranh khoa học về thế
giới, để qua đó chúng ta nhận thức được tính muôn vẻ của tự nhiên, tính phong
phú của lịch sử trong sự thống nhất.
• Nguyên tắc lịch sử-cụ thể đã được các lãnh tụ của giai cấp vô sản tận dụng, như
Lênin đã có nhận định là cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thắng lợi ở vài
nước, ở khâu yếu nhất của chủ nghĩa tư bản. Ngày nay Đảng Cộng sản Việt
Nam, Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng đang quán triệt và vận dụng sáng tạo
nguyên tắc này vào thực tiễn cách mạng mỗi nước để xây dựng quốc gia mình
một con đường riêng để đi lên CNXH.
Câu 9: Phép biện chứng tư duy, tư duy biện chứng là gì? Mối quan hệ giữa chúng?
 Phép biện chứng tư duy, tư duy biện chứng
• Phép biện chứng tư duy là một hệ thống tư tưởng phản ánh những mối liên hệ
cơ bản và phổ quát – các nguyên lý, quy luật biện chứng – chi phối những hình

thức tư duy biện chứng. Về nguồn gốc, phép biện chứng tư duy chính là sự phản
ánh của phép biện chứng khách quan vào trong bộ óc con người.
• Tư duy biện chứng là một hệ thống các nguyên tắc có quan hệ với nhau điều
phối hoạt động của chủ thể tư duy trong việc nhận thức và cải tạo thực tiễn thế
giới. Về nguồn gốc, tư duy biện chứng được xây dựng từ những nội dung cơ
bản của phép biện chứng tư duy, trước hết là từ nội dung của các nguyên lý, quy
luật cơ bản.
 Mối quan hệ giữa phép biện chứng tư duy và tư duy biện chứng
• Phép biện chứng tư duy có nhiệm vụ giải thích những gì xảy ra trong quá trình
tư duy nhận thức, đồng thời vạch ra những mối liện hệ phổ biến giữa các tiến
trình tư duy và diễn đạt điều đó bằng hệ thống các phạm trù của phép biện
chứng duy vật. Trong khi đó, tư duy biện chứng – công cụ nhận thức hiệu quả
được xây dựng từ nội dung của phép biện chứng tư duy nói riêng, phép biện
chứng duy vật nói chung – được chủ thể sử dụng để nắm bắt bản chất của sự vật
trong quá trình vận động, phát triển của chính nó.
• Phép biện chứng tư duy thực hiện chức năng chính là giải thích, nó chỉ ra các
quy luật mà tư duy biện chứng tuân theo, các hình thức mà tư duy biện chứng
phải dựa vào. Còn tư duy biện chứng thực hiện chức năng điều tiết, nó chỉ ra
chủ thể tư duy phải xử sự như thế nào, phải thực hiện những thao tác nào để đạt
được mục đích là hiểu thấu bản chất của sự vật trong sự vận động và phát triển
của nó – khách thể biện chứng.
• Không nên đồng nhất phép biện chứng của tư duy với tư duy biện chứng mặc
dù chúng cùng phản ánh một đối tượng là tư duy lý luận hiện đại. Nói đến
phương thức tư duy lý luận khoa học không nên chỉ chú trọng đến các nguyên
tắc chi phối tư duy mà cần phải làm rõ các quy luật, hình thức thể hiện của nó.
Câu 10: Lý luận, thực tiển là gì? Anh/Chị hãy phân tích cơ sở lý luận và nêu những yêu
cầu phương pháp luận của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Việc tuân
thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn?
 Lý luận, thực tiễn là gì?

• Thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của TH Mác – Lênin
nói chung, của lý luận nhận thức mátxít nói riêng
• Lý luận:
Là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những mối
liên hệ bản chất, những quy luật của các sự vật hiện tượng
 Cơ sở lý luận của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
• Thực tiễn: là hoạt động vật chất “cảm tính”, có mục đích, có tính lịch sử xã hội
của con người, nhằm cải tạo tự nhiện, xã hội và bản thân con người.
Thực tiễn là một hoạt động vật chất có mục đích của con người: Hoạt động thực
tiễn là bản chất của con người. Động vật chỉ hoạt động theo bản năng để phù
hợp với thế giới bên ngoài một cách thụ động, nhưng Con người chủ động thích
nghi với thế giới bên ngoài bằng cách cải tạo thể giới thoả mãn theo nhu cầu của
mình. Trong hoạt động vật chất, con người sử dụng các phương tiện, công cụ,
sức mạnh vật chất của mình để tác động vào tự nhiên, xã hội nhằm cải tạo, biến
đổi chúng phù hợp với nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ động tích cực
và làm chủ thế giới. Khi hoạt động thực tiễn, để đạt hiệu quả cao, con người tạo
ra những vật phẩm không có sẵn trong tự nhiên, đó chính là những công cụ, và
sử dụng chúng. Thực tiễn gồm những dạng cơ bản và không cơ bản của thực
tiễn:
Dạng cơ bản:
Hoạt động sản xuất vật chất – là một dạng họat động nguyên thủy và cơ bản và nó quyết định
sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Hoạt động chính trị xã hội nhằm cải tạo, biến đổi xã hội, phát triển các quan hệ xã hội, chế
độ xã hội.
Hoạt động thực nghiệm khoa học do nhu cầu phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật hiện đại.
Dạng không cơ bản: là những họat động được hình thành và phát triển từ những dạng cơ
bản, chúng là dạng thực tiễn phái sinh. Ví dụ: họat động trong một số lĩnh vực như đạo đức,
nghệ thuật, giáo dục, tôn giáo …
Thực tiễn có tính chất lịch sử xã hội: Thực tiễn là hoạt động có tính chất loài (loài người).

Hoạt động thực tiễn không thể được tiến hành không chỉ một vài cá nhân mà là tòan xã hội,
từ thế hệ này sang thế hệ khác, …trình độ và hình thức hoạt động thực tiễn thay đổi qua các
giai đoạn khác nhau của xã hội. Vì vậy về phương thức thực hiện cũng như về nội dung thực
tiễn mang tính lịch sử - xã hội.
Thực tiễn cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con người: Thực tiễn hướng vào việc cải tạo
giới tự nhiên, biến giới tự nhiên thứ 1 thành giới tự nhiên thứ 2 – “thế giới thỏa mãn nhu cầu
vật chất của con người để con người tồn tại và phát triển”.Nó hướng đến việc cải tạo các chế
đô xã hội thành một xã hội ngày càng văn minh, dân chủ, công bằng. Hoạt động thực tiễn
còn hướng đến cải tạo bản thân con người để con người ngày càng hoàn thiện hơn.
Lý luận: Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những
mối liên hệ bản chất bản chất, những quy luật của các sự vật hiện tượng.
Lý luận có nguồn gốc:
Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm lý
luận được hình thành, nhưng lý luận không hình thành một cách tự phát và cũng không bắt
buộc mọi lý luận đều xuất phát từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối, lý luận có thể đi
trước dữ kiện kinh nghiệm.
Muốn hình thành lý luận, con người phải thông qua quá trình nhận thức kinh nghiệm. Nhận
thức kinh nghiệm là quá trình lặp đi lặp lại diễn biến của sự vật hiện tượng. Nhận thức kinh
nghiệm là kết quả của tri thức kinh nghịêm.
Chức năng cơ bản của lý luận là phản ánh hiện thực khách quan và chức năng phương pháp
luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn khách quan và chứa năng phương pháp luận chỉ đạo hoạt
động thực tiễn và nhận thức của con người.
Lý luận có hai cấp độ khác nhau, cấp độ lý luận ngành và cấp độ lý luận triết học ( tùy vào
phạm vi phản ánh của nó và vai trò của phương pháp luận).
Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Thực tiễn và lý luận có mối quan hệ biện chứng cho nhau. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là
mục đích và là tiêu chuẩn của lý luận. Lý luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực
tiễn, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
Như ở trên ta đã nói, thực tiễn là cơ sở của lý luận. Con người nhận thức giới tự nhiên đầu
tiên bằng hoạt động thực tiễn. Sự tác động của con người buộc giới tự nhiên bộc lộ những

thuộc tính, quy luật để từ đó con người có kinh nghiệm. Quá trình phân tích, tổng hợp, khái
quát kinh nghiệm thành một môn khoa học lý luận. Thực tiễn đề ra những vấn đề mà lý luận
phải trả lời.
Thực tiễn là động lực của lý luận. Qua hoạt thực tiễn luôn nảy sinh những vấn đề đòi hỏi lý
luận phải hoàn thiện chính mình để bao quát và giải quyết tốt các vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Điều này càng làm cho lý luận ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn.
Thực tiễn là mục đích của lý luận. Không có thực tiễn thì lý luận không thể đem lại lợi ích
cao hơn, thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người và qua thực tiễn đã giúp cho lý
luận hoàn thành được mục đích của mình. Lý luận hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn làm cho thực
tiễn ngày càng hiệu quả hơn.
Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận: Lý luận chỉ được coi là chân lý khi nó phù hợp
với thực tiễn khách quan mà nó phản ánh, và đồng thời nó được thực tiễn kiểm nghiệm.
Thông qua thực tiễn những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào kho tang tri thức
nhân loại.
Lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn.
Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận để làm cho thực tiễn có hiệu quả nhất.
Hoạt động thực tiễn của con người muốn có hiệu quả nhất thiết phải có lý luận soi đường.
Khi lý luận đạt đến chân lý thì lý luận có khả năng định hướng mục tiêu, xác định lực lượng,
phương pháp, biện pháp thực hiện. Lý luận còn dự báo được khả năng phát triển của các mối
quan hệ thực tiễn.
Vận dụng lý luận vào thực tiễn cần phân tích rõ từng tình hình cụ thể, tránh vận dụng lý luận
máy móc, giáo điều kinh viện. Như vậy chẳng những hiểu sai giá trị của lý luận mà còn làm
phương hại đến thực tiễn, làm sai lệch sự thống nhất tất yếu giữa lý luận và thực tiễn
Từ lý luận xây dựng mô hình thực tiễn phát huy những nhân tố tích cực, hạn chế những yếu
tố tiêu cực nhằm đạt kết quả cao.
Bám sát diễn biến của thực tiễn để kịp thời bổ sung những khuyết điểm của lý luận hoặc có
thể thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn.
Việc tuân thủ khắc phục được những hạn chế gì?
Là nhận thức được hình thành và phát triển trên cơ sở nhận thức kinh nghiệm
Có tính trừu tượng và khái quát vì chỉ tập trung phản ánh những bản chất mang tính quy luật

của svht.
Khắc phục được bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều trong nhận thức
Câu 11: Anh/Chị hãy nêu ra những nguyên nhân cơ bản của bệnh kinh nghiệm và bệnh
giáo điều. Để khắc phục triệt để bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều, chúng ta cần phải
quán triệt nguyên tắc nào trong triết học Mác – Lênin? Phân tích các yêu cầu cơ bản
của nguyên tắc đó
Những nguyên nhân cơ bản của bệnh kinh nghiệm:
Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng tuyệt tối hóa kinh nghiệm, coi thường lý
luận khoa học, khuếch đại vai trò thực tiễn để hạ thấp vai trò lý luận.
Kinh nghiệm là rất quý, góp phần thành công trong điều kiện, hoàn cảnh nhất định và
là cơ sở để khái quát lý luận. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa kinh nghiệm một nơi, một
lúc nào đó, xem thường lý luận sẽ rơi vào bệnh kinh nghiệm và sẽ thất bại trong thực
tiễn khi điều kiện, hoàn cảnh thay đổi. Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm là do yếu
kém về lý luận, cụ thể:
guyên nhân chủ quan: dễ thỏa mãn với vốn kinh nghiệm bản thân, ngại học lý luận,
không chịu nâng cao trình độ lý luận, coi thường khoa học kỹ thuật, coi thường giới trí
thức, thiếu nhìn xa trông rộng, dễ bảo thủ trì trệ.
Nguyên nhân khách quan: sự tồn tại phổ biến nền sản xuất nhỏ, trình độ dân trí thấp,
khoa học – kỹ thuật chưa phát triển, Nho giáo phong kiến còn ảnh hưởng nặng nề.
 Những nguyên nhân cơ bản của bệnh giáo điều:
• Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng cường điệu vai trò lý luận, coi nhẹ
thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử - cụ thể, áp
dụng kinh nghiệm một cách rập khuôn, máy móc.
• Biểu hiện của bệnh giáo điều là bệnh sách vở, nắm lý luận chỉ dừng ở câu chữ
theo kiểu “tầm chương trích cú”; hiểu lý luận một cách phiến diện, hời hợt, biến
lý luận thành tín điều và áp dụng lý luận một cách máy móc; vận dụng sai lý
luận vào thực tiễn, không bổ sung, điều chỉnh lý luận. Nguyên nhân của bệnh
giáo điều là do yếu kém về lý luận, cụ thể:
Hiểu lý luận bằng kinh nghiệm, hiểu lý luận một cách đơn giản, phiến diện, cắt
xén, sơ lược…

Xuyên tạc, bóp méo lý luận…
 Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều có hiệu quả:
Hoàn cảnh giai cấp vô sản của nước ta trong buổi đầu cách mạng vừa giành độc lập tự do
làm mảnh đất màu mỡ cho các bệnh này phát triển nhanh, tuy nhiên chúng ta đã để chúng
tồn tại quá dài. Để khắc phục triệt để bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều, chúng ta cần phải
quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong triết học Mác – Lênin. Cụ
thể:
• Bám sát thực tiễn, lý luận phải gắn liền với thực tiễn, thường xuyên kiểm tra
trong thực tiễn và không ngừng phát triển cùng thực tiễn, tăng cường học tập
nâng cao trình độ lý luận, bổ sung, vận dụng lý luận phù hợp với thực tiễn;
• Phải coi trọng lý luận và công tác lý luận; nâng cao dân trí, đẩy mạnh sự nghiệp
giáo dục và đào tạo, phổ biến rộng rãi tri thức khoa học – công nghệ…;
• Phải đổi mới công tác lý luận của Đảng dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Quán triệt nhiệm vụ, hướng nghiên cứu chủ
yếu và phương châm lớn chỉ đạo hoạt động lý luận của Đảng;
• Hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì kinh tế thị trường
luôn vận động và biến đổi, đòi hỏi mọi thành phần, mọi chủ thể kinh tế phải
năng động, sáng tạo, phải thường xuyên bám sát thị trường để ứng phó cho phù
hợp
• Phải đổi mới tư duy lý luận, khắc phục sự lạc hậu của lý luận, thu hẹp khoảng
cách giữa lý luận và thực tiễn bằng cách:
Từ bỏ lối nghiên cứu kinh viện, tư biện;
Thường xuyên đối chiếu lý luận với cuộc sống, vận dụng lý luận vào
hoàn cảnh thực tế của nước ta;
• Coi trọng và thường xuyên tổng kết thực tiễn, qua đó sửa đổi, phát triển lý luận
đã có, bổ sung hoàn chỉnh đường lối, chính sách, hình thành lý luận mới, quan
điểm mới để chỉ đạo sự nghiệm đổi mới xã hội.
Trở lại trang bảng câu hỏi
Câu 12: Phân tích nội dung cơ bản của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
lực lượng sản xuất. Đảng ta đã vận dụng quy luật này như thế nào vào quá trình xây

dựng CNXH ở nước ta hiện nay
Biện chứng giữa LLSX và QHSX
Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX
Trình độ của LLSX quyết định QHSX
Trình độ của LLSX ntn, phát triển đến đâu thì QHSX phải tương ứng với nó, có nghĩa là
cách thức sở hữu, quản lý và phân phối sp phải tương ứng với nó.
Trình độ của LLSX thay đổi đến mức độ nào thì QHSX phải thay đổi cho phù hợp.
LLSX là yếu tố động thường xuyên thay đổi từng ngày từng giờ: trong quá trình lao động,
NLĐ không hài lòng với TLLĐ mình đã làm (sức lực bỏ ra ít, NSLĐ thu được nhiều) =>
phải thay đổi hoặc cải tiến CCLĐ/ trình độ chuyên môn phải thay đổi theo
QHSX là yếu tố tĩnh (yếu tố bảo thủ) chậm chạp, ít thay đổi. Vì QHSX liên quan tới chủ sở
hữu (ko ông chủ nào muốn thay đổi quyền chủ sở hữu) => họ bảo vệ (có thể dùng bảo lực
hoặc hệ tư tưởng PL)
QHSX tác động trở lại LLSX: cách thức sở hữu, quản lý phân phối sx sẽ tác động đến tất cả
các yếu tố cấu thành LLSX
Nếu QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX nó sẽ đóng vai trò thúc đẩy làm cho
LLSX không ngừng phát triển. Một QHSX được coi là phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX là QHSX phải tạo điều kiện tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa TLSX và người
lao động thì QHSX ấy mới được gọi là QHSX tiến bộ.
QHSX không phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì sẽ kìm hãm, trói buộc LLSX.
Thể hiện ở 2 trường hợp:
TH1: QHSX quá lạc hậu hơn trình độ phát triển của LLSX, đây là trường hợp thường xảy ra
ở các nước tư bản phát triển. Do LLSX ở các nước TB mang tính chất XH hóa còn QHSX là
sở hữu tư nhân TLSX. Các nhà kinh tế TB đã có những điều chỉnh QHSX bằng cách điều
chỉnh qhệ sở hữu (bán cổ phần cho người lao động), qhệ quản lý (vai trò của người lao động
được xác nhận), qhệ phân phối sản phẩm (đời sống XH được nâng cao)
TH2: QHSX tiên tiến một cách giả tạo, thường xảy ra ở các nước nghèo đang phát triển,
chẳng hạn như Việt Nam. LLSX quá thấp kém, QH sở hữu toàn dân, quan hệ phân phối bình
quân, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp… làm nền kinh tế chậm phát triển. Khắc phục bằng
cách điều chỉnh như giao ruộng đất cho nông dân, bán cổ phần cho người lao động, qhệ quản

lý và qhệ phân phối cũng phải điều chỉnh. Có như vậy nó mới là động lực cho nền sản xuất
phát triển.
Đảng ta đã vận dụng quy luật này vào quá trình xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay:
Biện chứng giữa LLSX và QHSX có tính quy luật mày cũng tác động mạnh mẽ vào sự
nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta.Lý luận và thực tiễn cho chúng ta thấy rằng, LLSX chỉ có
thể phát triển khi có một QHSX phù hợp với nó.Còn QHSX lạc hậu hơn, hoặc “tiên tiến”
(theo ý muốn chủ quan của con người) hơn so với trình độ phát triển của LLSX thì nó sẽ kìm
hãm sự phát triển của LLSX.Do đó, trong công cuộc đổi mới kể từ Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI (1986), VII (1991), VIII (1996) và lần thứ IX (2001), Đảng ta đã “chủ
trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN,
đó chính là nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN”
Đường lối đó xuất phát từ trình độ LLSX ở nước ta vừa thấp kém, vừa không đồng đều nên
chúng ta không thể nóng vội, chủ quan như trước đây để xây dựng một QHSX dựa trên chế
độ công hữu XHCN về tư liệu sản xuất.Như thế sẽ thúc đẩy quan hệ sản xuất vượt quá xa
(không phù hợp) so với LLSX vốn có của chúng ta.Vì vậy thực hiện nhất quán và lâu dài nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN mà Đảng ta đã đề ra trong công
cuộc đổi mới đất nước là nhằm khơi dậy tiềm năng của sản xuất, khơi dậy năng lực sáng tạo,
chủ động, kích thích lợi ích …đối với các chủ thể trong quá trình sản xuất, kinh doanh để
thúc đẩy sản xuất phát triển theo đúng mục đích của nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN ở nước ta là “Phát triển LLSX, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ
thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân.Phát triển LLSX hiện đại gắn liền với xây
dựng QHSX mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
Đối với nước ta, từ một nước nông nghiệp lạc hậu , lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, do
vậy, trong sự nghiệp xây dựng CNXH, đi đôi với việc củng cố và hoàn thiện QHSX thì điều
cần thiết và có tính quyết định là chúng ta phải phát triển LLSX.Muốn phát triển LLSX thì
không có con đường nào khác là phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa.Đảng ta đã
khẳng định : “về thực chất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản ,
toàn diện các hoạt động sản xuất , kinh doanh, dịch vụ, quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao
động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,

phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển công nghiệp và iến bộ
khoa học, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”
Quan niệm ấy về công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) cho thấy vấn đề then chốt của
quá trình này ở một nước nông nghiệp lạc hậu là cải biến lao động thủ công thành lao động
sử dụng kỹ thuật tiên tiến trong toàn bộ nền kinh tế để đạt được năng suất lao động xã hội
cao.Song, đó không chỉ là sự tăng them một cách giản đơn tốc độ tốc độ và tỷ trọng của sản
xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà còn là cả một quá trình chuyển dịch cơ cấu, gắn liền
với đổi mới công nghệ, tạo nền tảng hiệu quả cho sự tăng trưởng bền vững và có hiệu quả
cao trong nền kinh tế quốc dân.CNH phải đi đôi với HĐH, kết hợp những bước tiến tuần tự
về công nghệ , tận dụng để phát triển chiều rộng , với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt đón
đầu để phát triển chiều sâu, tạo nên những mũi nhọn theo trình độ tiến triển của khoa học
công nghệ trong và khu vực trên thế giới.
Như vậy, có thể nói, CNH, HĐH ở nước ta hiện nay là một quá trình rộng lớn và phức tạp,
được triển khai đồng thời với quá trình hiện đại hóa và luôn gắn bó với quá trình HĐH.Sự
nghiệp CNH, HĐH ấy phải thật sự lấy phát triển giáo dục – đào tạo, khoa học và công nghệ
làm nền tảng và động lực.Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí , đào tạo
nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi về nguồn nhân lực của công cuộc
đẩy mạnh CNH, HĐH, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
và văn minh”
Trở lại trang bảng câu hỏi
CÂU 13: Anh/ Chị hãy phân tích phép biện chứng giữa cơ sở hạ tầng (CSHT) và kiến
triến thượng tầng (KTTT) trong sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế -
xã hội. Đảng ta đã vận dụng mối quan hệ biện chứng này như thế nào vào vào quá
trình xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay.
Phép biện chứng giữa cơ sở hạ tầng (CSHT) và kiến triến thượng tầng (KTTT) trong
sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội.
CSHT là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định.
Kết cấu của một cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm: quan hệ sản xuất thống trị
luôn giữ vai trò chủ đạo , chi phối các quan hệ SX khác.
CSHT của một XH luôn được đặc trưng bởi quan hệ SX thống trị trong XH đó.

KTTT là toàn bộ các quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo ,các
thể chế xã hội tương ứng như Nhà nước, đảng phái, giáo hội… được hình thành trên một
CSHT nhất định.
Kết cấu của KTTT bao gồm nhiều yếu tố, trong đó, mỗi yếu tố đều có đặc điểm riêng, có qui
luật phát triển riêng.
Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng luôn mang tính giai cấp. Trong KTTT, nhà
nước đóng vai trò quan trọng nhất, nó không chỉ tiêu biểu cho chế độ chính trị của XH cụ thể
nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị mới có thể thực hiện được sự thống trị của mình đối với
các mặt của đời sống XH.
CSHT và KTTT là hai mặt cấu thành của HTKTXH, chúng thống nh ất biện chứng với nhau,
tác động qua lại với nhau, trong đó, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, song
KTTT cũng có tác động ích cực trở lại CSHT.
Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT
CSHT quyết định KTTT (CSHT nào thì KTTT nấy):
Trật tự kinh tế xét đến cùng quy định trật tự chính trị, mâu thuẫn trong kinh tế gây ra mâu
thuẫn trong chính trị. Giai cấp nào thống trị trong kinh tế thì giai cấp đó thống trị trong chính
trị.
Tất cả các yếu tố của KTTT dều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào CSHT và do CSHT
quy định.
CSHT thay đổi hay mất đi thì sớm hay muộn KTTT cũng phải thay đổi hay mất đi để cho
một KTTT mới ra đời, tuy nhiên đây là một quá trình phức tạp.
Sự tác động của KTTT đến CSHT: Do KTTT và mỗi yếu tố của nó có tính độc lập tương đối
và vai trò khác nhau nên chúng tác động đến CSHT theo những cách những xu hướng khác
nhau.
Chức năng chính của KTTT là xây dựng, củng cố, bảo vệ CSHT đã sinh ra nó, chống lại
mọi nguy cơ làm suy yếu hay phá hoại chế độ kinh tế hiện hành.
KTTT tác động mạnh mẽ đến kinh tế - xã hội, nhưng nó không thể làm thay đổi xu hướng
phát triển khách quan của đời sống kinh tế - xã hội. Sự tác động của nó chủ yếu diễn ra theo
2 hướng:
Nếu phù hợp với CSHT, với các quy luật kinh tế thì KTTT thúc đẩy sự tăng trưởng, đảm bảo

sự phát triển bền vững cho CSHT.
Nếu không phù hợp với CSHT, với các quy luật kinh tế thì KTTT kìm hãm sự tăng trưởng,
gây bát ổn cho đời sống xã hội
Đảng ta đã vận dụng mối quan hệ biện chứng này trong quá trình xây dựng CHXH ở
nước ta hiện nay.
Nước ta đã trải qua các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau: từ xã hội cộng sản nguyên thủy
tiến lên xã hội chiếm hữu nô lệ, đến xã hội phong kiến rồi tiến hóa lên CNXH bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa và đỉnh cao nhất trong quá trình tiến hóa này là chủ nghĩa cộng sản. Nước
ta đang trong giai đoạn xây dựng CNXH theo hướng xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Do đó mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT là 1 quá
trình đấu tranh lâu dài giữa cái mới và cái cũ. CNXH đang trong quá trình xây dựng nên là
cái mới còn rất non yếu, muốn xóa bỏ hết tàng dư của xã hội cũ - đại diện cho cái cũ rất khó
bởi nó đã tồn tại lâu dài. Tuy nhiên con đường đi lên CNXH ở nước ta diễn ra theo các quy
luật khách quan của thời đại chứ không phải do ý muốn chủ quan của con người quyết định
nên nó là cái mới nhưng hợp quy luật nên ngày càng phát triển và ngược lại cái cũ không
hợp quy luật sẽ ngày càng yếu đi.
Đảng ta đã ra sức xây dựng CNXH trong đó phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền
với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt: sở hữu, quản lý và phân phối. Quá
trình xây dựng này đòi hỏi chúng ta phải xây dựng các quan điểm về chính trị, pháp quyền,
triết học, đạo đức, tôn giáo ,các thể chế xã hội tương ứng như Nhà nước, đảng phái, giáo
hội cho phù hợp với sự phát triển của phương thức sản xuất mà Đảng đã đề ra để góp phần
xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Câu 14: Hình thái kinh tế -XH là gì? Anh chị hãy phân tích tư tưỏng của Mác “Sự phát
triển hình thái KT-XH là một quá trình lịch sử tự nhiên”. Ý nghĩa của hình thái KT-
XH?
Hình thái kinh tế-XH:
Là phạm trù của Chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ XH ở từng giai đoạn lịch sử nhất
định, với một kiểu QHSX đặc trưng cho XH đó, phù hợp với một trình độ nhất định của
LLSX, và với một KTTT tương ứng, đựơc xây dựng trên những QHSX ấy.
Hình thái kinh tế - xã hội là gì ?

Hình thái kinh tế - xã hội là một xã hội trọn vẹn trong một giai đoạn lịch sử cụ thể với một
kiểu QHSX phù hợp với trình độ nhất định của LLSX và với một kiến trúc thượng tầng được
xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Lưu ý: xã hội trọn vẹn ở đây là một xã hội đầy đủ yếu tố cơ bản và yếu tố không cơ bản, nó
tồn tại trong một giai đoạn lịch sử cụ thể. Nếu như vậy có thể nói là CNXH chưa phải là một
hình thái kinh tế - xã hội theo đúng nghĩa hình thái KT-XH Công xã nguyên thủy, hình thái
KT-XH chiếm hữu nô lệ, hình thái KT-XH phong kiến, hình thái KT-XH TBCN, mà hình
thái kinh tế - xã hội XHCN là một giai đoạn đầu của hình thái KT-XH CSCN.
Sự phát triển hình thái kinh tế-XH là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Thứ nhất: Sự phát triển lịch sử của nhân loại từ cộng xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, CNTB, CNCS, cũng là sự phát triển của hình thái kinh tế-XH, là một quá trình
khách quan, tuân theo những qui luật khách quan của nó chứ không hề phụ thuộc vào yếu tố
chủ quan của con người. Lênin chỉ rõ “ Mác coi sự vận động XH là một quá trình lịch sử tự
nhiên, chịu sự chi phối của những qui luật không những không phụ thuộc vào ý chí, ý thức
và ý định của con người mà trái lại, còn quyết định ý chí, ý thức và ý định của con người”;
và “lịch sử-tự nhiên nghĩa là quá trình lịch sử nhưng mang tính tự nhiên, tiếp tục lịch sử của
giới tự nhiên, vận động theo qui luật và xét cho cùng thì không theo ý muốn con người”.
Trong sự vận động, phát triển của mình, các hình thái kinh tế-XH vừa bị chi phối bởi các qui
luật phổ biến (qui luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX, qui luật
CSHT quyết định KTTT,…) vừa bị chi phối bởi các qui luật riêng, đặc thù. Sự tác động của
các qui luật khách quan đó làm cho các hình thái kinh tế-XH phát triển từ thấp lên cao.
Nguồn gốc sâu xa của sự vận động, phát triển các hình thái kinh tế-XH là sự phát triển của
LLSX. LLSX phát triển làm thay đổi QHSX. QHSX thay đổi làm KTTT thay đổi theo, và do
đó mà các hình thái kinh tế-XH vận động, phát triển và thay thế lẫn nhau từ thấp lên cao. Sự
tác động của các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế-XH phát triển thay thế
nhau từ thấp lên cao, đó là con đường phát triển chung của nhân loại.
Thứ hai: sự phát triển của XH là quá trình khách quan, tuân theo qui luật khách quan, không
phụ thuộc ý muốn chủ quan của con người, thông qua hoạt động tự giác, có mục đích, với
những lợi ích nhất định của con người. XH là XH con người. mọi biến đổi của XH đều phải
thông qua hoạt động của con ngừơi dưới sự chi phối của các qui luật XH. Nếu hoạt động của

con người phù hợp qui luật khách quan thì XH phát triển nhanh và ngược lại sẽ làm chậm
tiến trình phát triển của lịch sử. Đây là sự khác biệt căn bản giữa tồn tại XH và tồn tại tự
nhiên, giữa sự vận động, phát triển của XH với sự vận động phát triển của tự nhiên.
Thứ ba: chính sự phát triển của XH mang tính lịch sử-tự nhiên cho nên, trong sự phát triển
của nó, vừa bao hàm tính phổ biến, tính qui luật chung, lại vừa bao hàm tính đặc thù, tính
phong phú, đa dạng. Con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các qui
luật chung mà còn chịu tác động bởi các điều kiện phát triển cụ thể của mỗi dân tộc (tự
nhiên, chính trị, truyền thống, văn hóa, tác động quốc tế,…Mác cho rằng sự phát triển lịch sử
tự nhiên của XH, biểu hiện trong sự phát triển của mỗi dân tộc, hoàn toàn có thể biểu hiện
dưới hình thức phát triển rút ngắn, hay là khả năng bỏ qua một, hay một vài giai đoạn phát
triển nào đó để lên hẳn giai đoạn phát triển cao hơn. Trong cùng một hình thái kinh tế-XH
nhưng có những hình thức khác nhau trong những điều kiện lịch sử-cụ thể. Sự phát triển rút
ngắn, sự bỏ qua đó phải diễn ra theo một quá trình lịch sử tự nhiên chứ không theo ý muốn
chủ quan của con người. Tóm lại, theo quan điển triết học Mác, quá trình lịch sử tự nhiên của
sự phát triển XH chẳng những diễn ra theo con đừơng phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả
sự bỏ qua, trong những điều kiện nhất định, một hoặc một số hình thái kinh tế-XH nhất định.
Ý nghĩa của hình thái kinh tế-XH
Lý luận hình thái kinh tế-XH đã đưa lại quan điểm duy vật về XH chỉ ra sản xuất vật chất là
cơ sở của đời sống XH và PTSX quyết định các mặt của đời sống XH. Chính vì vậy, không
thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng, ý chí chủ quan của con người để giải thích các hiện tượng
XH mà phải xuất phát từ PTSX.
Lý luận này chỉ ra XH không phải là sự kết hợp ngẫu nhiên của các cá nhân mà là một thể
thống nhất tác động lẫn nhau của các yếu tố LLSX, QHSX, KTTT. Trong đó, QHSX là quan
hệ cơ bản, quyết định các quan hệ khác. Vì vậy, nó là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các
chế độ XH. Muốn nhận thức đúng đắn đời sống XH, phải phân tích sâu sắc các mặt của đời
sống XH và các mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng, đặc biệt đi sâu phân tích QHSX thì mới
hiểu đúng về đời sống XH.
Lý luận này còn chỉ ra sự phát triển của các hình thái kinh tế-XH là một quá trình lịch sử tự
nhiên diễn ra theo các qui luật khách quan. Muốn nhận thức đúng đắn XH thì ta phải nghiên
cứu các qui luật vận động, chi phối sự phát triển của XH.

Lý luận này vừa chỉ ra những qui luật phát triển chung của nhân loại mà nó còn chỉ ra mỗi
dân tộc do những điều kiện cụ thể mà có con đường phát triển riêng, đặc thù cho mình. Để
nhận thức đúng con đường phát triển của đất nước mình và các dân tộc khác, phải kết hợp
chặt chẽ việc nghiên cứu những qui luật chung với nghiên cứu cụ thể điều kiện cụ thể của
mỗi dân tộc về tự nhiên, truyền thống văn hóa, mối quan hệ quốc tế.
 Lý luận hình thái kinh tế xã hội vẫn còn nguyên giá trị đến ngày hôm nay.
Câu 15: Quan điểm của triết học Mac-Lênin về con người và về vấn xây dựng con
người Việt nam hiện nay
Quan điểm của triết học Mac-Lênin về con người
Quan điểm về bản chất con người
Khái niệm con người: con người là thực thể tự nhiên mang đặc tính XH có sự thống nhất
biện chứng giữa 2 phương diện: tự nhiên và XH.
Hay nói cách khác con người là một thể thống nhất giữa 2 mặt sinh vật và XH
Xét bản tính tự nhiên của con người
Con người là kết quả của tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vậy con người tự
nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học, bản tính loài, do đó yếu tố sinh học trong
con người là điều kiện tự nhiên để quyết định sự tồn tại của con người. Mặt khác con người
là một bộ phận của giới tự nhiên, bởi vậy giới tự nhiên là thành phần vô cơ của con người.
Ph.Aêngghen viết: “Bản thân chúng ta với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc chúng ta là
thuộc về giới tự nhiên”. Do vậy, trước hết nó bị chi phối bởi các quy luật tự nhiên sinh học
như : quy luật trao đổi chất giữa cơ thể với môi trường, quy luật biến dị và di truyền, quy luật
tiến hóa …
Xét bản tính XH của con người, thể hiện 2 mặt
Xét về giác độ nguồn gốc hình thành con người không chỉ có nguồn gốc tự nhiên mà con
người còn có nguồn gốc XH, mà trước hết và cơ bản là nhân tố lao động. Nhờ có lao động
mà con người có thể vượt qua loài vật để tiến hóa và phát triển thành người.
Xét về giác độ tồn tại và phát triển thì con người và loài người luôn luôn bị chi phối bởi các
nhân tố XH và bởi các quy luật XH
Vì con người là một thực thể tự nhiên – xã hội, do đó con người bị tác động bởi 2 loại nhu
cầu (nhu cầu tự nhiên và nhu cầu xã hội) và ba hệ thống quy luật (quy luật sinh học, quy luật

xã hội, quy luật tinh thần).
Mỗi hệ thống nhu cầu và quy luật này đều có vị trí, vai trò và tác dụng của mình trong sự tồn
tại và phát triển của con người đồng thời chúng tham gia vào việc quy định bản chất của nó;
trong đó hệ thống nhu cầu và quy luật xã hội luôn giữ vị trí trung tâm và có vai trò quyết
định.
Mặt tự nhiên là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, mặt XH là đặc trưng bản chất để phân
biệt con người với loài vật. Quy luật tự nhiên đã nhân hóa XH để mang giá trị văn minh
Các nhu cầu của con người, dù là nhu cầu vật chất hay tinh thần, mang tính tự nhiên và xã
hội, đều được quy định bởi lịch sử, nhưng con người hoàn toàn có thể tự điều chỉnh, tự kiểm
tra các nhu cầu và hoạt động của mình.
Con người tồn tại trong thế giới không phải như các sinh vật khác, mà tồn tại với tư cách là
chủ thể của quá trình nhận thức và hành động cải tạo thế giới, cải tạo xã hội và cải tạo chính
bản thân con người.
Bản chất con người
Con người vượt lên loài vật ở cả 3 quan hệ: bản thân, quan hệ với tự nhiên và quan hệ với
XH. Suy đến cùng 3 quan hệ đó đều mang tính XH, trong đó quan hệ giữa người với người
là quan hệ bản chất bao trùm lên tất cả các quan hệ và mọi hoạt động trong chừng mực liên
quan đến con người. Chính vì vậy để nhấn mạnh bản chất XH của con người. C.Mác nêu lên
luận điểm: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của các cá nhân
riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là sự tổng hòa những quan hệ xã
hội
Luận điểm này một mặt khẳng định không có con người trừu tượng thoát ly mọi điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử XH mà con người luôn luôn là con người cụ thể xác định, sống trong
những ĐK lịch sử cụ thể nhất định. Và trong ĐK lịch sử cụ thể đó, bằng hoạt động thực tiễn
của mình con người đã tạo ra giá trị vật chất tinh thần để tồn tại và phát triển cả về thể lực và
trí tuệ.
Khi khẳng định bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội thì điều đó có nghĩa:
Tất cả các quan hệ XH đều góp phần vào việc hình thành bản chất con người, song có ý
nghĩa quyết định nhất là các quan hệ kinh tế, các quan hệ SX bởi các quan hệ này trực tiếp
hay gián tiếp chi phối các quan hệ XH còn lại

Không chỉ các mối quan hệ XH hiện tại mà các quan hệ XH của quá khứ cũng góp phần vào
bản chất con người đang sống bởi trong lịch sử của mình con người dù muốn hay không
cũng phải kế thừa các di sản của thế hệ đi trước.
Bản chất của con người không phải hình thành một lần là xong mà nó có sự thay đổi cũng
với sự thay đổi của các quan hệ XH.
Kết luận
Khi Mac khẳng định bản chất XH thì không có nghĩa là phủ định mặt tự nhiên trong đới sống
con người mà chỉ muốn nhấn mạnh sự khác biệt giữa con người với thế giới động vật, trước
hết là bản chất XH.
Mặt khác với ý nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính …chứ không phải là cái duy nhất, do đó
cần phải thấy được cái riêng biệt phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân về phong cách nhu
cầu và lợi ích trong cộng đồng XH
Khi nói về bản chất con người bao giờ cũng nói các bản chất ấy trong những hoàn cảnh lịch
sử cụ thể gắn với mỗi thời đại nhất định, do đó khi đề cập đến bản chất con người Mác
không chỉ đề ra bản chất tộc loại chung của con người để phân biệt với động vật mà quan
trọng hơn là ông còn vạch ra bản chất cụ thể xác định của con người để cùng với quá trình
cải tạo tự nhiên xh thì cũng cải tạo luôn bản thân mình để nâng con người lên vị trí đích thực
là người.
Vấn xây dựng con người Việt Nam hiện nay
Theo chủ nghĩa Mác- Lênin: con người là sản phẩm của lịch sử cũng là chủ thể sáng tạo lịch
sử.
Con người Việt Nam do điều kiện tự nhiên, địa lý, văn hoá đã hình thành nên con người Việt
Nam mộc mạc, chất phác có truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất để giữ nước và
phấn đấu không ngừng vì sự nghiệp dựng nước.
Con người VN trong lịch sử: phải chỉ ra được
Điều kiện hình thành con người VN:
Sự tác động của môi trường địa lý: Việt Nam là xứ nóng ẩm (lắm bảo nhiều mưa) có những
con sông lớn tạo nên đồng bằng trù phú; Người VN sống định cư, định canh trồng lúa nước
biết tôn trọng và hoà hợp với thiên nhiên ⇒ có cách tư duy tổng hợp (chú trọng những mối
quan hệ); Sống theo nguyên tắc trọng tình (trọng đức, trọng văn, trọng phụ nữ …) có truyền

thống đoàn kết.
Đời sống kinh tế: Nền kinh tế tiểu nông lúa nước chủ yếu sản xuất theo đơn vị gia đình đã
gắn mỗi CN VN với sinh hoạt cộng đồng làng xã (gia đình và gia tộc; xóm và làng, phường
và hội; thôn và xã).
Lịch sử giữ nước: Suốt chiều dài lịch sử, dân tộc VN phải chống chọi với nhiều kẻ thù đông
hơn và mạnh hơn cả về tiềm lực kinh tế lẫn quân sự đến xâm lược, đô hộ ⇒ truyền thống
đoàn kết chống giặc ngoại xâm, truyền thống đấu tranh giành độc lập tự do cho đất nước .
Môi trường văn hóa (ảnh hưởng VH Ấn Độ - Phật Giáo, Trung quốc – các quan điểm của
Nho gia đạo gia, VH Phương tây, VH Mỹ - đầu TK 20, VH tư tưởng Mác Lê Nin)
Mặt tích cực và hạn chế của con người VN
Tích cực: Lòng yêu nước ý chí tự cường dân tộc, lòng nhân ái khoan dung trọng nghĩa tình
đạo lý, cần cù trong lao động, tinh thần đoàn kết
Hạn chế:
Do truyền thống dân chủ làng xã
Cục bộ dòng họ, làng xã;
Bình quân chủ nghĩa;
Hay soi mói, tò mò, can thiệp vào cuộc sống riêng tư của người khác;
Dễ bị chi phối bởi dư luận cộng đồng, nhưng khi dư luận cộng đồng không còn thì dễ hành
động tự do, tuỳ tiện;
Ý thức chấp hành nội quy, kỷ luật, pháp luật kém (phép vua thua lệ làng);
Tính tự giác, tinh thần phê bình và tự phê bình thấp;
Hay đố kỵ, khó hợp tác…
Do tập quán sản xuất tiểu nông
Hạch toán kinh tế kém;
Nặng về lợi ích trước mắt hay bỏ qua lợi ích lâu dài;
Thiếu tư duy phân tích và tác phong công nghiệp (chưa biết làm ăn lớn, lâu bền); thiếu chuẩn
xác về thời gian, về kỷ thuật;
Thích cầu an, cầu may, bình quân;
Đề cao thái quá kinh nghiệm, xem thường lý luận, xem thường tuổi trẻ; coi trọng và thích
trao quyền lực cho người cao tuổi (sống lâu lên lão làng)…

Mặt trái của một số ưu điểm
Do thích sống giản dị, ghét cầu kỳ, xa hoa nên dễ hạ thấp nhu cầu;
Do giỏi chịu đựng gian khổ nên cũng dễ cam chịu, bằng lòng với cái hiện có;
Do thích tranh đua với người nên thiếu ý thức tiết kiệm…
Con người VN trong giai đoạn hiện nay:
Mặt tích cực và hạn chế
Tích cực:
Giá trị truyền thống: có tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, ý chí tự lập tự cường, truyền
thống đoàn kết vì đại nghĩa dân tộc, ….
Truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, nhạy cảm với cái mới, biết ứng phó linh hoạt, ứng
xử mềm mỏng, biết thích nghi và hội nhập để tồn tại và phát triển, …
Tinh thần thực tế, coi trọng kinh nghiệm, tôn trọng người già giàu kinh nghiệm và có tư duy
tổng hợp, …
Truyền thống hiếu học, trọng học, truyền thống tôn sư trọng đạo, ….
Hạn chế:
Thiếu óc phân tích, tinh thần phê bình và tự phê bình; thiếu ý thức pháp luật, chấp hành nội
quy, kỷ luật; thiếu ý thức tiết kiệm, chưa biết làm ăn lớn, làm ăn lâu bền, khó hợp tác, đố kỵ,
nặng tâm lý của người sản xuất nhỏ nông nghiệp, thiếu tư duy và tác phong công nghiệp.
Truyền thống dân chủ làng xã, những tư tưởng cục bộ, làng xã, hay can thiệp vào cuộc sống
riêng tư, các chuyện của tập thể, tùy tiện.
Hạn chế do sản xuất tiểu nông mang lại thể hiện ở chỗ khả năng hoạch toán kế toán kém,
nặng về lợi ích trước mắt, bỏ qua lợi ích lâu dài
Tâm lý cầu an, cầu may
Thích quân bình, ko thích sự phân hóa trong cs
Đề cao thái quá, coi thường tri thức, coi thường tuổi trẻ
Người VN cần cù chịu khó, song dễ thỏa mãn, tâm lý thụ động
Đánh giá của Viện nghiên cứu xã hội Mỹ đưa ra 10 đặc tính của người VN:
Cần cù lao động song dễ thỏa mãn nên tâm lý hưởng thụ còn nặng.
Thông minh sáng tạo song chỉ có tính đối phó, thiếu tư duy dài hạn, chủ động.
Khéo léo song không duy trì đến cùng.

Vừa thực tế vừa mơ mộng song không có YT nâng lên thành lý luận.
Ham học hỏi, có khả năng tiếp thu nhanh song ít khi học đến đầu cuối nên kiến thức không
hệ thống mất cơ bản.
Xởi lởi, chiều khách song không bền.
Tiết kiệm song nhiều khi hoang phí vì những mục đích vô bổ.
Có tinh thần đoàn kết tương thân tương ái song hầu như chỉ trong hoàn cảnh khó khăn. (trong ĐK
giàu có hơn, tốt hơn tính thần này ít được biểu hiện)
Yêu hòa bình, nhẫn nhịn song nhiều lại khi hiếu chiến, hiếu thắng vì những lý do tự ái lặt vặt.
Thích tụ tập nhưng thiếu tinh thần liên kết để tạo ra sức mạnh.
• Định hướng xây dựng con người VN: Xây dựng con người VN có những đức tính cơ bản
như:
Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và CNXH, có ý chí đưa đất
nước khỏi đói nghèo, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xh.
Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung
Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa tôn trọng kỷ cương
phép nước, quy ước của cộng đồng, có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái
Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kĩ thuật và sáng tạo năng suất cao vì lợi ích của
bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và
thể lực, …
• Để đạt được các tiêu chuẩn cơ bản cần phải làm:
Về kinh tế: thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển KT thị trường
định hướng XHCH.
Về chính trị: phải khẳng định con đường đi lên CNXH.
Về Xã hội: phải giải phóng con người khỏi quan hệ xh cũ, lỗi thời.
Về giáo dục đào tạo:
 Phải đổi mới căn bản toàn diện nền giáo dục quốc dân gắn kết chặt chẽ phát triển
nguồn nhân lực với phát triển và ứng dựng khoa học công nghệ.
 Phải coi giáo dục là quốc sách nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực bồi

dưỡng nhân tài.
 Phải coi trọng chất lượng giáo dục trên cả 2 nội dung: dạy chữ và rèn luyện nhân
cách.
Về văn hóa:
 Phải xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, được coi là động lực
vừa là mục tiêu cảu sự phát triển kinh tế XH.
 Hướng vào xây dựng văn hóa ứng xử, bài trừ các hủ tục, mê tín dị đoan.
 Tuyên truyền nâng cao ý thức người dân trong việc bảo vệ môi trường.

×